Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

sáng kiến kinh nghiệm BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ 24 36 THÁNG THÔNG QUA GIỜ kể CHUYỆN và các TRÒ CHƠI dân GIAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (948.71 KB, 24 trang )

PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN ĐƠNG TRIỀU
TRƯỜNG MẦM NON KIM SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
CHIẾN SĨ THI ĐUA CẤP CƠ SỞ
Đề tài
BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ 24-36 THÁNG THƠNG
QUA GIỜ KỂ CHUYỆN VÀ CÁC TRỊ CHƠI DÂN GIAN

Họ và tên:
Chức vụ:
Đơn vị công tác: Trường Mầm non Kim Sơn

Đông Triều,tháng 3 năm 2016

1


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ 24 – 36
THÁNG TUỔI THÔNG QUA GIỜ KỂ CHUYỆN
VÀ CÁC TRÒ CHƠI DÂN GIAN
I .Phần mở đầu
1.Lý do chọn đề tài:
Trong q trình phát triển tồn diện nhân cách con người nói chung và trẻ mầm
non nói riêng thì ngơn ngữ có một vai trị rất quan trọng đặc biệt khơng thể thiếu
được.
Trong q trình phát triển tồn diện nhân cách, ngơn ngữ có vai trị là một
phương tiện hình thành và phát triển nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh.
Ngơn ngữ giúp trẻ tìm hiểu, khám phá và nhận thức về môi trường xung quanh,
thơng qua cử chỉ và lời nói của người lớn trẻ làm quen với các sự vật, hiện tượng có


trong mơi trường xung quanh, trẻ hiểu những đặc điểm, tính chất, công dụng của
các sự vật cùng với từ tương ứng với nó. Nhờ có ngơn ngữ trẻ nhận biết ngày càng
nhiều các sự vật, hiện tượng mà trẻ được tiếp xúc trong cuộc sống hàng ngày.
Ngồi ra ngơn ngữ cịn là phương tiện phát triển tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ. Ngôn
ngữ là phương tiện để giao tiếp quan trọng nhất đặc biệt là đối với trẻ nhỏ, đó là
phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh hình thành
những cảm xúc tích cực. Ngơn ngữ là cơng cụ giúp trẻ hồ nhập với cộng đồng và
trở thành một thành viên của cộng đồng. Nhờ có những lời chỉ dẫn của người lớn
mà trẻ dần dần hiểu được những quy định chung của cộng đồng mà mọi thành viên
trong cộng đồng phải thực hiện, mặt khác trẻ cũng có thể dùng ngơn ngữ để bày tỏ
những nhu cầu, mong muốn của mình với các thành viên trong cộng đồng. Điều đó
giúp trẻ hịa nhập với mọi người và sử dụng nó cịn rất hạn chế. Đối với trẻ mầm
non nói chung và trẻ từ 24 tháng tuổi đến 36 tháng tuổi nói riêng, chúng ta cần phải
giúp trẻ phát triển mở rộng các từ loại trong các từ, biết sử dụng nhiều loại câu,
bằng cách thường xuyên trò chuyện với trẻ về những sự vật, sự việc trẻ nhìn thấy
trong sinh hoạt hàng ngày, nói cho trẻ biết các từ biểu thị về các đặc điểm, tính
chất, cơng dụng Đặc biệt nhờ có ngơn ngữ, thông qua các câu chuyện trẻ dể dàng
tiếp nhận những chuẩn mực đạo đức của xã hội và hoà nhập vào xã hội tốt hơn. Trẻ
từ 2 đến 3 tuổi có số lượng từ tăng nhanh, đặc biệt là ở trẻ 22 tháng tuổi và 30
tháng tuổi vốn từ của trẻ phần lớn là những danh từ và động từ, các loại khác như
tính từ, đại từ, trạng từ xuất hiện rất ít và được tăng dần theo độ tuổi của trẻ. Trẻ ở
lứa tuổi này không chỉ hiểu nghĩa các từ biểu thị các sự vật, hành động cụ thể mà
2


có thể hiểu nghĩa các từ biểu thị tính chất màu sắc, thời gian và các mối quan hệ.
Tuy nhiên mức độ hiểu nghĩa của các từ này ở trẻ từ 2 đến 3 tuổi cịn rất hạn chế và
có nét đặc trưng riêng, trẻ sử dụng các từ biểu thị thời gian chưa chính xác trẻ nhận
thức về cơng cụ ngữ pháp của chúng. Cho trẻ xem tranh, kể cho trẻ nghe các câu
chuyện đơn giản qua tranh. Đặt các câu hỏi cho trẻ giúp trẻ biết kể chuyện theo

tranh bằng ngôn ngữ của trẻ
Giai đoạn lứa tuổi mầm non trẻ phát triển mạnh về thể chất, trí tuệ, tinh thần, trẻ
ham hiểu biết, thích tìm tịi, khám phá xung quanh. Dưới sự hướng dẫn của cô giáo
trẻ sẽ lĩnh hội kiến thức được chính xác, đầy đủ hơn. Chính vì vậy mà hình thức tổ
chức các hoạt động cho trẻ càng phong phú hấp dẫn, càng gây hứng thú đối với trẻ,
trẻ càng dễ tiếp thu, trẻ dễ nhớ lâu quên, lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng.
Trẻ mẫu giáo có nhu cầu lớn về mặt nhận thức, trẻ khao khát khám phá, tìm tịi,
tìm hiểu thế giới xung quanh mình trong đó ngơn ngữ là cơng cụ giao tiếp quan
trọng nhất của con người. Trong giao tiếp trẻ sử dụng ngơn ngữ của mình để trình
bày ý nghĩ biểu cảm của mình với mọi người.
Đặc biệt hiện nay phát triển ngôn ngữ cho trẻ em là một trong những nhiệm vụ
quan trọng trong công tác chăm sóc giáo dục và ni dạy trẻ của các trường mầm
non. Chính vì vậy vai trị của người giáo viên hướng dẫn trẻ như thế nào để ngôn
ngữ của trẻ phát triển tốt ?
Ta thấy trẻ nhỏ thường phát âm khơng chính xác ( chẳng hạn như : lá – ná , cá rô
– cá gô , …. ) . Việc trẻ phát âm không đúng của trẻ chủ yếu là do cơ quan phát âm
của trẻ chưa linh hoạt, chưa nhạy cảm và chưa chính xác, trẻ chưa biết cách điều
chỉnh hơi thở ngơn ngữ và giọng nói cho phù hợp với nội dung nói
Vì vậy, để trẻ phát âm đúng cần phải được luyện tập thường xuyên, mọi lúc mọi
nơi, và thời gian lâu dài. Trong quá trình cơng tác chăm sóc ni dạy trẻ, sau một
thời gian cho trẻ làm quen với các bài đồng dao, em thấy việc cho trẻ đọc các bài
đồng dao kết hợp với các trị chơi đơn giản có tác dụng rất tốt cho việc phát triển
ngôn ngữ ở trẻ . Bởi vì nó có tính chất thi đua, bắt chước để kích thích trẻ luyện tập
tốt .
2. Mục đích nghiên cứu:
Đề xuất một số biện pháp nhằm “phát triển ngôn ngữ cho trẻ thơng qua giờ kể
chuyện, các trị chơi dân gian” và góp phần làm phong phú vốn từ, vốn ngôn ngữ
của trẻ nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
3. Thời gian, địa điểm
3



Do thời gian không cho phép tôi chỉ nghiên cứu về “Một số biện pháp phát triển
ngôn ngữ cho trẻ thơng qua giờ kể chuyện, các trị chơi dân gian tại trường mầm
non Kim Sơn”
Thời gian: Xây dựng đề cương ngày 20 tháng 10 năm 2013.
Viết đề tài 1/ 1 / 2014 – 01 /4 – 2014
Hoàn thành đề tài 10 / 4 / 2014
Địa điểm: Trường mầm non Kim Sơn – Đông Triều – Quảng Ninh.
Đối tượng nghiên cứu: Trẻ 24 – 36 tháng tuổi.
4. Đóng góp mới về mặt thực tiễn
Đề tài này thể hiện sự quan tâm thiết thực đến với trẻ em, tôn trọng quyền của trẻ
được sống và phát triển, quyền được học tập tiếp thu nền giáo dục tiến bộ, được
hưởng nền văn hóa của dân tộc mình. Trên cơ sở tiếp thu và vận dụng những thành
tựu liên ngành, thì đề tài này góp phần làm sáng tỏ, đúng đắn các vấn đề lý luận và
học tập, vui chơi của trẻ em với phương châm “ Trẻ học mà chơi, chơi mà học”
trong trường mầm non làm phong phú hơn về cách hiểu và cách nhìn trẻ em hiện
nay trong giáo dục mầm non.
Điều tra được thực trạng phát triển ngôn ngữ của trẻ 24 – 36 ở trường mầm non
Kim Sơn.
Thiết kế một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thông
qua các câu truyện, các trò chơi dân gian.

II/ Phần nội dung:
1. Chương 1: Tổng quan
4


Đối với việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở độ tuổi 24 – 36 tháng là vô cùng quan
trọng. Cơng tác chăm sóc, giáo dục trẻ là cả q trình bền bỉ, lâu dài từ đó tạo cơ

hội cho trẻ được tham gia vào các hoạt động một cách nhẹ nhàng mà hiệu quả, để
từ đó trẻ vừa được học, vừa được chơi. Trẻ em ở độ tuổi này các cháu đang học ăn,
học nói, học người lớn. Chính vì vậy người lớn chính là tấm gương để trẻ học tập
nhằm nâng cao và làm giàu thêm vốn ngôn ngữ của trẻ.
1.1 Cơ sở lý luận của đề tài
Giáo dục mầm non là giai đoạn đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, là bộ
phận quan trọng trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ thành những con người có ích,
thành những con người mới. Một trong ba mục tiêu của cải cách giáo dục của nước ta là:
Làm tốt việc chăm sóc giáo dục thế hệ trẻ ngay từ thời thơ ấu nhằm tạo ra cơ sở
quan trọng của con người Việt Nam mới, người lao động làm chủ tập thể, phát triển
toàn diện nhân cách. Giáo dục mầm non đã góp phần thực hiện mục tiêu trên. Ngày
nay chúng ta không chỉ đào tạo những con người có trí thức có khoa học có tình
u thiên nhiên, yêu Tổ quốc, yêu lao động mà còn tạo nên những con người biết
yêu nghệ thuật, yêu cái đẹp, giầu mơ ước và sáng tạo. Những phẩm chất ấy con
người phải được hình thành từ lứa tuổi mầm non, lứa tuổi hứa hẹn bao điều tốt đẹp
trong tương lai.
Giai đoạn lứa tuổi mầm non trẻ phát triển mạnh về thể chất, trí tuệ, tinh thần, trẻ
ham hiểu biết, thích tìm tịi, khám phá xung quanh. Dưới sự hướng dẫn của cơ giáo
trẻ sẽ lĩnh hội kiến thức được chính xác, đầy đủ hơn. Chính vì vậy mà hình thức tổ
chức các hoạt động cho trẻ càng phong phú hấp dẫn, càng gây hứng thú đối với trẻ,
trẻ càng dễ tiếp thu, trẻ dễ nhớ lâu quên, lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng.
Trẻ mẫu giáo có nhu cầu lớn về mặt nhận thức, trẻ khao khát khám phá, tìm tịi,
tìm hiểu thế giới xung quanh mình trong đó ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan
trọng nhất của con người. Trong giao tiếp trẻ sử dụng ngôn ngữ của mình để trình
bày ý nghĩ biểu cảm của mình với mọi người.
Truyện và các trò chơi dân gian là một loại hình văn học, thơng qua cơ sở ngơn
ngữ có nhịp điệu, nghĩa là ngơn ngữ thơ được xây dựng trên cơ sở hòa hợp thanh
điệu của các từ, bố trí tiết tấu trong mỗi câu, sự tổ chức cân đối các ý, lời bằng cách
láy tiếng, láy câu, gieo vần, tạo thành những hệ thống lôgic.
Tác phẩm văn học bằng những ngôn ngữ riêng tác động trực tiếp vào tâm hồn của

mỗi con người, khơi dậy tình cảm cao đẹp, sự bao dung, nhân ái, nó đưa con người
xích lại gần nhau hơn, cảm thơng, chia sẻ cùng nhau niềm vui cũng như nỗi buồn.
5


Truyện và các trò chơi dân gian là một loại hình văn học bắt nguồn từ cuộc sống
lao động và nó gắn bó mật thiết với đời sống của con người.
Truyện và các trị chơi dân gian có vai trị quan trọng. Nó góp phần hình thành và
phát triển nhân cách của trẻ. Thơ, truyện là phương tiện hữu hiệu giáo dục thẩm mĩ,
giáo dục đạo đức, thúc đẩy sự phát triển của trí tuệ và giúp phát triển ngơn ngữ cho
trẻ.
Các câu truyện dành cho trẻ, đặc biệt là các câu truyện dân gian góp phần to lớn
trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Tiếp xúc với tác phẩm trẻ được học bao nhiêu từ ngữ mới mà trong cuộc sống
bình thường trẻ ít hoặc khơng hề biết sử dụng ( chẳng hạn như từ tượng hình, tượng
thanh, từ láy)
Trong q trình truyền thụ tác phẩm, cơ giáo cịn giúp trẻ được luyện phát âm
đúng như khơng nói ê a, khơng nói lắp, khơng nói ngọng, trẻ nói rõ ràng, thong
thả.... Các cháu được luyện tập kỹ năng diễn đạt mạch lạc.
Với trẻ mẫu giáo, bước đầu chúng ta cho các cháu đến với các tác phẩm văn học,
vì vậy cô giáo cần biết cách truyền đạt như thế nào để cho có kết quả tốt và giúp trẻ
biểu đạt tốt điều mà trẻ nghĩ.
1.2 Cơ sở thực tiễn
Trong những năm gần đây bậc học mầm non đang tiến hành đổi mới, chương
trình giáo dục trẻ mầm non trong đó đặc biệt coi trọng việc tổ chức các hoạt động
phù hợp sự phát triển của từng cá nhân trẻ, khuyến khích trẻ hoạt động một cách
chủ động tích cực, hồn nhiên vui tươi, đồng thời tạo điều kiện cho giáo viên phát
huy khả năng sáng tạo trong việc lựa chọn và tổ chức các hoạt động chăm sóc,
giáo dục trẻ một cách linh hoạt, thực hiện phương châm “Học mà chơi - Chơi mà
học” Đáp ứng mục tiêu phát triển của trẻ một cách toàn diện về mọi mặt

Trong q trình phát triển tồn diện nhân cách con người nói chung và trẻ mầm
non nói riêng thì ngơn ngữ có một vai trị rất quan trọng đặc biệt khơng thể thiếu được.
Trong q trình phát triển tồn diện nhân cách, ngơn ngữ có vai trị là một phương
tiện hình thành và phát triển nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh. Ngơn
ngữ giúp trẻ tìm hiểu, khám phá và nhận thức về môi trường xung quanh, thông
qua cử chỉ và lời nói của người lớn trẻ làm quen với các sự vật, hiện tượng có trong
mơi trường xung quanh, trẻ hiểu những đặc điểm, tính chất, cơng dụng của các sự
vật cùng với từ tương ứng với nó. Nhờ có ngơn ngữ trẻ nhận biết ngày càng nhiều
các sự vật, hiện tượng mà trẻ được tiếp xúc trong cuộc sống hàng ngày.
6


Ngồi ra ngơn ngữ cịn là phương tiện phát triển tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ.
Ngơn ngữ là phương tiện để giao tiếp quan trọng nhất đặc biệt là đối với trẻ nhỏ,
đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh hình
thành những cảm xúc tích cực. Ngơn ngữ là cơng cụ giúp trẻ hoà nhập với cộng
đồng và trở thành một thành viên của cộng đồng. Nhờ có những lời chỉ dẫn của
người lớn mà trẻ dần dần hiểu được những quy định chung của cộng đồng mà mọi
thành viên trong cộng đồng phải thực hiện, mặt khác trẻ cũng có thể dùng ngôn
ngữ để bày tỏ những nhu cầu mong muốn của mình với các thành viên trong cộng
đồng điều đó giúp trẻ hồ nhập với mọi người.
Đặc biệt nhờ có ngơn ngữ, thông qua các câu chuyện trẻ dể dàng tiếp nhận
những chuẩn mực đạo đức của xã hội và hoà nhập vào xã hội tốt hơn. Trẻ từ 2 đến
3 tuổi có số lượng từ tăng nhanh, đặc biệt là ở trẻ từ 22 tháng tuổi và 30 tháng tuổi
vốn từ của trẻ phần lớn là những danh từ và động từ, các loại khác như tính từ, đại
từ, trạng từ xuất hiện rất ít và được tăng dần theo độ tuổi của trẻ. Trẻ ở lứa tuổi này
không chỉ hiểu nghĩa các từ biểu thị các sự vật, hành động cụ thể mà có thể hiểu
nghĩa các từ biểu thị tính chất màu sắc, thời gian và các mối quan hệ. Tuy nhiên
mức độ hiểu nghĩa của các từ này ở trẻ từ 2 đến 3 tuổi còn rất hạn chế và có nét
đặc trưng riêng, trẻ sử dụng các từ biểu thị thời gian chưa chính xác trẻ nhận thức

về cơng cụ ngữ pháp và sử dụng nó cịn rất hạn chế. Đối với trẻ mầm non nói
chung và trẻ từ 24 tháng tuổi đến 36 tháng tuổi nói riêng, chúng ta cần phải giúp
trẻ phát triển mở rộng các từ loại trong các từ, biết sử dụng nhiều loại câu, bằng
cách thường xuyên trò chuyện với trẻ về những sự vật, sự việc trẻ nhìn thấy trong
sinh hoạt hàng ngày, nói cho trẻ biết các từ biểu thị về các đặc điểm, tính chất,
cơng dụng của chúng. Cho trẻ xem tranh, kể cho trẻ nghe các câu chuyện đơn giản
qua tranh. Đặt các câu hỏi cho trẻ giúp trẻ biết kể chuyện theo tranh bằng ngôn
ngữ của trẻ. Chính vì vậy nên tơi xin trình bày một số kinh nghiệm “Phát triển
ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi thơng qua giờ kể truyện, các trị chơi dân
gian ở trường mầm non Kim Sơn”.
1.2.1 Đặc điểm tâm – sinh lý của trẻ 24 - 36 tháng tuổi liên quan đến sự phát
triển ngôn ngữ của trẻ.
* Đặc điểm sinh lý:
Lứa tuổi mầm non là thời kì phát triển và hoàn thiện về tất cả các cơ quan trong
cơ trẻ. Đây chính là tiền đề cho việc phát triển ngôn ngữ của trẻ.

7


Cơ quan thính giác của trẻ cũng được củng cố và hồn thiện, kinh nghiệm nghe
đọc thơ của trẻ tích lũy được nhiều hơn, tạo tiền đề giúp trẻ cảm thụ thơ một cách
sâu sắc hơn.
* Đặc điểm tâm lý:
Ngôn ngữ của trẻ 24 - 36 tháng tuổi này được xác định rõ ràng, nó giúp trẻ điều
khiển hành vi của mình được tốt hơn, thực hiện các hành động một cách chủ tâm
hơn, nhờ đó mà các q trình tâm lý mang tính chủ động rõ rệt.
Tính chủ động của trẻ phát triển, ghi nhớ của trẻ ngày càng có tính chủ định, sự
chú ý đã tập trung hơn, bền vững hơn, trẻ biết điều khiển chú ý của mình, tự giác
hướng chú ý của mình vào đố tượng nhất định.
Tư duy trực quan sơ đồ và những yếu tố của tư duy lôgic dần thay thế tư duy trực

quan hành động. Đây là điều kiện thuận lợi nhất giúp trẻ cảm thụ tốt những hình
tượng nghệ thuật đặc biệt là nghệ thuật trong thơ.
1.2.2 Các phương pháp cơ bản sử dụng cho trẻ trong giờ kể truyện, các trò chơi
dân gian
Để tiến hành cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học ta sử dụng các phương pháp
sau:
1.2.2.1 Phương pháp đàm thoại:
+ Đàm thoại giới thiệu tác phẩm
+ Đàm thoại để hiểu tác phẩm
+ Đàm thoại để củng cố tác phẩm
1.2.2.2 Phương pháp đọc, kể diễn cảm các tác phẩm văn học
1.2.2.3 Phương pháp trực quan
1.2.2.4 Phương pháp đóng kịch.
2. Chương 2: Nội dung vấn đề nghiên cứu
2.1 Thực trạng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tuổi ở trường
mầm non Kim Sơn.
* Thực trạng chung:
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua các môn học, các hoạt động trong
trường mầm non là một vệc làm vô cùng quan trọng. Trong những năm qua đội ngũ
giáo viên mầm non đã từng bước khẳng định về chun mơn nghiệp vụ của mình,
đã đầu tư vào bài dạy, các hoạt động một cách tích cực. Song đối với việc thực hiện
chương trình nhà trẻ vẫn cịn nhiều lúng túng nhất là độ tuổi 24 đến 36 tháng giáo
viên vẫn còn xem nhẹ việc tạo cơ hội cho trẻ được hoạt động, giao tiếp để phát
triển ngôn ngữ. Có đầu tư vào bài dạy, nhưng phương pháp và biện pháp để cho trẻ
8


được tham gia vào các hoạt động ngôn ngữ là rất ít. Khi tổ chức giờ kể chuyện cho
trẻ mơn học mà cơ có thể khai thác nhiều biện pháp giúp trẻ phát triển ngôn ngữ,
giáo viên chưa biết linh hoạt tạo cơ hội cho trẻ hệ thống câu hỏi đàm thoại, giáo

viên đưa ra hầu như toàn câu hỏi đóng, trẻ khơng thể tư duy và ít sử dụng hệ thống
câu đầy đủ chủ ngữ và vị ngữ, từ đó dẫn đến việc trẻ hay nói cộc lốc, thiếu lễ phép
nếu giáo viên không kịp thời uốn nắn cho trẻ.
Trong q trình dạy trẻ, bản thân tơi thấy rất lo lắng đến vấn đề này, nếu như không
kịp thời nghiêm túc thực hiện đúng chương trình quy định sẽ dẫn đến hậu quả rất
lớn đối với trẻ, bởi trẻ từ 2 đến 3 tuổi ở gia đình đang ở thời kì cần cung cấp nhiều
vốn từ giúp cho ngơn ngữ của trẻ phát triển tốt hơn.
Từ thực tế trên nên tôi mạnh dạn đưa ra “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ
cho trẻ từ 24 đến 36 tháng tuổi thơng qua các câu chuyện, các trị chơi dân gian”
* Đánh giá thực trạng
- Vì chưa hiểu hết được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ cho
nên trong q trình chăm sóc giáo dục hầu như giáo viên chưa chú ý đến việc thay
đổi nội dung và cách thức trị chuyện, tạo các tình huống cho trẻ thể hiện những
tình cảm và yêu cầu của mình bằng các âm các từ. Khi nói chuyện với trẻ cơ hay
nói nhanh và khơng chú ý tới việc sửa sai lỗi về từ, âm, câu cho trẻ.
- Giáo viên chưa chú ý luyện câu, từ cho trẻ, nhiều trẻ nói thiếu, nói lặp cơ khơng
kịp thời điều chỉnh và sửa sai.
- Q trình tổ chức giờ học cơ chưa chú ý đến hệ thống câu hỏi để giúp trẻ được
tư duy và phát triển ngôn ngữ.
- Đối với trẻ thì hệ thống ngơn ngữ khơng được mở rộng do cơ đưa hệ thống câu
hỏi đóng, trẻ hay nói câu thiếu các thành phần.
- Khả năng lĩnh hội thông tin của trẻ rất hạn chế nếu cô truyền đạt một câu dài hoặc
một sự việc có nội dung truyền tải nhiều.

Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm học 2013 - 2014 tại trường mầm non
Kim Sơn như sau:
Xếp loại

Khá


Trung bình
9

Yếu


Số
Số
%
%
Số lượng %
lượng
lượng
19
8
53,3
3
20
8
53,3
Qua kết quả đó tơi miệt mài nghiên cứu tài liệu, các phương tiện thông tin đại
chúng đồng nghiệp và đưa một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ từ 24 đến
36 tháng tuổi thông qua giờ kể chuyện, chơi trò chơi dân gian.
2.2 Các giải pháp thực hiện
- Nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến sự phát triển ngôn ngữ cho trẻ từ 24
đến 36 tháng tuổi.
- Quan tâm đến tâm lý nhận thức đối với trẻ lứa tuổi từ 24 đến 36 tháng tuổi để
tìm ra phương pháp kể chuyện phù hợp đồng thời phát triển ngôn ngữ của trẻ.
- Nâng cao nhận thức và trình độ của bản thân thơng qua việc học tập BDTX và
học hỏi đồng nghiệp.

- Đầu tư tốt bài soạn, đồ dùng phục vụ giờ dạy.
- Chú ý đến trẻ cá biệt, chậm phát triển.
- Đầu tư khai thác những nội dung tích hợp phù hợp.
- Sưu tầm các trị chơi, các hoạt động, thơng qua đó phát triển ngôn ngữ cho trẻ
24 đến 36 tháng tuổi.
- Cho trẻ tham gia xem tranh ảnh, đồ dùng trực quan có liên quan đến nội dung
câu chuyện ở mọi lúc mọi nơi.
- Thường xuyên trò chuyện, đàm thoại, kể chuyện, đọc chuyện và yêu cầu trẻ kể
lại chuyện.
2.2.1 Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ từ 24 đến 36 tháng tuổi thơng qua giờ kể
truyện, các trị chơi dân gian
2.2.1.1 Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua giờ kể truyện
Với trẻ 24 đến 36 tháng tuổi rất thích nghe kể truyện, chơi trị chơi và rất hứng thú
với hoạt động này. Chính vì vậy mà tơi muốn thơng qua giờ kể truyện, chơi trị chơi
để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Cụ thể các biện pháp thực hiện như sau:
* Biện pháp 1:
Nghiên cứu kĩ yêu cầu của giờ kể truyện, chơi trò chơi kể cả về kiến thức, kĩ
năng và giáo dục đạo đức. Từ đó đưa ra phương pháp, hệ thống câu hỏi, đồ dùng
trực quan phục vụ giờ dạy đạt hiệu quả tốt nhất.
Ví dụ: Mục đích yêu cầu của giờ kể truyện “Cây táo”
* Về kiến thức:
Tổng số trẻ

10


- Trẻ biết tên câu chuyện, biết tên nhân vật và hành động của các nhân vật
trong chuyện.
- Đọc được các từ: “ông”, “bé”, “gà trống”, “mặt trời”, “bươm bướm”, “sưởi
nắng”, “bật ra”.

- Biết lắng nghe và trả lời các câu hỏi của cô.
* Về kĩ năng:
- Trẻ nhận biết và phân biệt được quả to, quả nhỏ.
- Nhận biết và phân được ba màu: đỏ, vàng, xanh và đọc chính xác các từ:
“màu đỏ”, “màu vàng”, “màu xanh”.
* Về giáo dục.
- Trẻ biết “Ăn quả nhớ phải nhớ ơn người trồng cây”
- Biết lợi ích của việc ăn quả: Cung cấp vitamin và khống chất.
- Biết giữ gìn vệ sinh rửa quả, rửa tay trước khi ăn, Biết bỏ vỏ, hạt vào thùng
rác,
- Biết chăm sóc bảo vệ cây (Tưới nước, bắt sâu không vin lá, bẻ cành).
* Biện pháp 2: Chuẩn bị giáo án
- Giáo án cho giờ kể truyện phải soạn một cách chu đáo, đầy đủ các bước,
đảm bảo nội dung với hệ thống câu hỏi mở, phù hợp với nhận thức của trẻ và nội
dung tích hợp phù hợp, các bước chuyển tiếp linh hoạt, xuyên xuốt từ đầu đến cuối
giáo án.
- Giáo án phải trình bày sạch sẽ, khoa học.
Ví dụ:
I. Mục đích u cầu.
* Kiến thức.
* Kĩ năng.
* Giáo dục.
II. Chuẩn bị.
III. Trình tự tiến hành.
• Hoạt động 1.
• Hoạt động 2.
• Hoạt động 3
• ..................

11



Hệ thống câu hỏi phải phù hợp với độ tuổi, với nhận thức của từng trẻ, kích
thích trẻ nhận biết, phân biệt sự vật hiện tượng tình huống mà trẻ đang trực tiếp tri
giác.
* Biện pháp 3: Chuẩn bị đồ dùng.
Để giờ kể chuyện đạt hiệu quả cao thì đồ dùng phục vụ giờ dạy phải đảm
bảo:
- Đồ dùng phải đẹp, màu sắc phù hợp đảm bảo tính an tồn (Khơng có cạnh
sắc nhọn) và vệ sinh cho trẻ (Khơng có bụi bẩn).
- Nếu là tranh vẽ phải đẹp, phù hợp với câu chuyện, phía dưới có chữ to giúp
cho việc phát triển từ của trẻ được thuận lợi.
- Đồ vật thật có liên quan đến câu truyện
- Có thể có các hình ảnh trên máy trình chiếu, các hình ảnh trên mạng, các
hình ảnh động.

Cơ và trẻ trong giờ kể chuyện
Ví dụ: trong câu chuyện “Cây táo”.
Chuẩn bị:
Quả táo xanh, quả táo vàng, phải to, tròn, đẹp, màu sắc rõ nét, với nhiều kích
thước khác nhau.
Cành táo phải nhiều lá, nhiều quả, được cắm vào một chậu đẹp.
Tranh vẽ phải đẹp và sinh động, kích thước phù hợp khơng được to hoặc nhỏ quá.
Sa bàn: Thấp có cây táo, ông, bé, gà trống, bươm bướm, mặt trời. Các nhân
vật này có gắn que để điều khiển được.
12


- Cho trẻ xem trên máy trình chiếu, hình ảnh đẹp, có thể cử động được và có
tiếng cho trẻ nghe


Tranh chuẩn bị cho giờ kể truyện
* Biện pháp 4: Nội dung tích hợp.
Sau khi xác định được mục đích u cầu của giờ kể chuyện. Tơi suy nghĩ để
tích hợp các môn học khác vào giờ kể chuyện sao cho hợp lý, logíc phù hợp với giờ học.
Ví dụ: Trong câu chuyện cây táo tơi có thể tích hợp thêm các mơn:
- Nhận biết tập nói: cơ hỏi trẻ: câu chuyện cô kể cho các con nghe nhắc đến quả
gì?
+ Qủa táo có màu gì?
+ Ăn táo có vị ngọt hay chua nhỉ?
- Hát và vận động: cô cho trẻ hát và vận động cùng cơ bài hát nói về các loại
quả đẻ dẫn dắt trẻ vào nội dung câu chuyện.
- Dinh dưỡng và vệ sinh chăm sóc: cơ giáo dục trẻ trước khi ăn táo phải rửa táo
thật sạch, vỏ và hạt bỏ vào thùng rác. Ăn táo rất là ngon và có nhiều vi ta min
giúp da dẻ các con hồng hào.
* Biện pháp 5. Mọi lúc, mọi nơi.
Cô cho trẻ xem tranh liên quan đến câu chuyện, bài thơ
Ví dụ: Tranh cây táo trong chuyện cây táo:
Tơi có thể cho trẻ tiếp xúc với vật thật trong sinh hoạt hàng ngày.
Ví dụ: Cho trẻ quan sát và tiếp xúc với cây táo, quả táo.
13


Nói chuyện âu yếm, trị chuyện đàm thoại nhẹ nhàng cùng với trẻ.
+ Cô hỏi trẻ: ở vườn nhà các con có trồng táo khơng?
+ Qủa táo trong như thế nào?
+ Vỏ nó có màu gì?
+ Ai là người trồng cây táo đó?
+ Khi ăn táo các con phải làm gì?
* Biện pháp 6: Tiến trình hoạt động.

Để có một giờ dạy tốt trước hết phải rèn luyện cho trẻ nề nếp trong học tập
đó là cơ sở ban đầu hỗ trợ cho giờ dạy đạt kết quả cao. Trong lớp học tôi chia ra
từng tổ, trong mỗi tổ đều có các cháu có khả năng tiếp thu bài khác nhau: Giỏi có,
khá có, trung bình và yếu cũng có. Đối với những cháu khuyết tật như khiếm thị,
khiếm thính tôi sắp xếp cho trẻ ngồi ở gần cô, thuận lợi cho việc nghe, nhìn của trẻ
Để phát triển ngơn ngữ cho trẻ 24 đến 36 tháng tuổi trong giờ kể truyện đạt
kết quả cao tôi đã tiến hành như sau:
* Hoạt động 1. Gây hứng thú cho trẻ.
Bằng các thủ thuật: Câu đố, thơ, bài hát, bài vận động có nội dung thích hợp tơi
nhẹ nhàng gây hứng thú cho trẻ tập trung vào giờ kể chuyện.
Ví dụ: Trong giờ kể chuyện “Cây táo” tôi cho trẻ vận động bài “Cây cao – cây
thấp”
Động tác 1. Cây cao ( Trẻ kiễng chân, hai tay giơ cao)
Động tác 2. Hái hoa (Trẻ guộn tay đưa xuống dưới)
Động tác 3. Cây thấp (Trẻ ngồi xuống, tay buông xuôi)
Trẻ vận động xong, tơi cho trẻ xếp hàng ngồi xuống theo hình chữ U.
* Hoạt động 2. Nội dung chính.
Trong giờ kể truyện, tôi luôn luôn chú ý cho trẻ đọc và phát triển từ, chú ý sửa sai
cho trẻ khi trẻ đọc chưa đúng, khi đó theo tơi thì có thể thực hiện như sau:
+ Cô kể và đọc cho trẻ nghe toàn bộ câu chuyện, lần 1 bằng cử chỉ, điệu bộ.
+ Sau đó cơ kể, đọc cho trẻ nghe câu chuyện, lần 2 bằng tranh minh hoạ.
Ví dụ: Cơ vừa kể cho các con nghe câu chuyện “Cây táo” câu chuyện sẽ hay
hơn khi có tranh minh hoạ. Trong tranh có từ “Cây táo” các con đọc từ “Cây táo”
(Cả lớp đọc hai lần, sau đó hai trẻ đọc lại).
+ Cô kể cho trẻ nghe lần hai bằng tranh minh hoạ, vừa kể cô vừa chỉ vào nhân vật.
Cô sử dụng hệ thống câu hỏi mở để trẻ tư duy và trẻ lời được câu hỏi của cơ.
Ví dụ: Trong chuyện cây táo
- Cô vừa kể cho các con nghe chuyện gì nhỉ? (Trẻ trả lời “Chuyện Cây táo ạ)
14



- Trong truyện có những nhân vật nào?( Ơng, bé, gà trống, bươm bướm và Mặt
trời)
- Ai trồng cây táo? (ông). Cô cho trẻ đọc từ “ông”.
- Ai tưới nước cho cây táo? (Em bé). Cô cho trẻ đọc từ “Em bé”.
- Con gì đến động viên cây mà nó gáy “ị ó o”? (Con gà trống). Cơ cho trẻ đọc từ
“con gà trống”.
- Cả con gì đến động viên cây nữa?(con bươm bướm).Cô cho trẻ đọc từ “bươm bướm”.
+ Sau đó tơi giảng nội dung câu chuyện, giải thích các từ khó và cho trẻ đọc
các từ khó.
Ví dụ: Trong truyện cây táo có từ “sưởi nắng”, “bật ra”, cô cho trẻ đọc các từ này.
+ Cuối cùng tôi kể cho trẻ cho trẻ nghe câu chuyện lần 3 bằng sa bàn.
* Hoạt động 3. Kết thúc giờ học.
Bằng nhiều cách khác nhau tôi cho trẻ kết thúc giờ học một cách nhẹ nhàng
thoải mái.
Ví dụ: Kết thúc giờ học tôi cho trẻ tôi cho trẻ cùng hát bài “Đố quả” và cho
trẻ thăm vườn cây ăn quả.
Trong các giờ kể chuyện tôi cho trẻ tự kể lại câu chuyện mà trẻ đã được học.
2.2.1.2 Phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua các trò chơi dân gian
Hiện nay các trò chơi dân gian đang dần quay trở lại và ngày càng được trẻ em
thích thú vì chúng rất gũi với tâm sinh lý trẻ nhỏ. Chính vì vậy cho trẻ làm
quen với
các bài đồng dao, em thấy việc cho trẻ đọc các bài đồng dao kết hợp với các trị
chơi đơn giản có tác dụng rất tốt cho việc phát triển ngơn ngữ ở trẻ. Bởi vì nó có
tính chất thi đua, bắt chước để kích thích trẻ luyện tập tốt.
Sau đây, là một số bài đồng dao được viết lời mới và một số trò chơi kèm
theo mỗi bài đồng dao .
*Trò chơi 1:
CHI CHI CHÀNH CHÀNH
Chi chi chành chành

Chim oanh học nói
Khỉ già múa rối
Chó sói đuổi bị
Rùa nhảy khỏi hồ
Bắt cị ăn thịt
Sáo nằm gốc mít
15


Khóc mẹ hu hu !
Cách chơi:
Một trẻ xoè tay ra , các bạn giơ một ngón tay trỏ ra đặt vào lịng bàn tay đó
, tất cả cùng đọc bài “chi chi chành chành” . Đến chữ “hu hu”, “ập” trẻ nắm tay lại
thật nhanh , cịn các bạn thì rút tay thật nhanh , ai rút khơng kịp thì phai xoè tay cho
người khác chơi .
*Trò chơi 2:
BỊT MẮT BẮT DÊ
Một bầy trẻ nhỏ
Bịt mắt bắt dê
Dê vấp bờ hè
Ngã kềnh bốn vó
Mọi người cười rộ
Cố đuổi vịng quanh
Dê chạy thật nhanh
Túm ngay một chú .
Cách chơi:
Mời 2 trẻ lên chơi “ oẳn tù tì” , người thua sẽ bị bịt mắt đi tìm dê , người thắng
làm dê .
Các bạn đứng bên ngoài cổ vũ , người bị bịt mắt sẽ đi theo tiếng trống lắc
của người làm dê để bắt bạn . Cả hai không được chạy ra khỏi vịng trịn . Có thể

cùng một lúc cho nhiều trẻ làm dê con và 1 trẻ bị bịt mắt .
CẶP KÈ
*Trò chơi 3:
Cặp kè
An muối mè
Ngồi xuống đất
Ăn rau muống
Đứng lên
Cách chơi
Các cháu vừa đi vừa đọc bài đồng dao , và thực hiện theo lời bài đồng dao .
Có thể phân từng nhóm cho trẻ chơi , đây là một trò chơi rất thu hút trẻ .
*Trò chơi 4:
DUNG DĂNG DUNG DẺ
Dung dăng dung dẻ
Dắt trẻ đi chơi
16


Đến hỏi ơng trời
Xin vài cái bánh
Gặp xe thì tránh
Đội mũ trên đầu
Đi chậm đi mau
Lâu lâu lại ngồi !
Cách chơi
Các cháu cùng nắm tay , vừa đi vừa đung đưa theo nhịp bài đồng dao . Đến câu “
lâu lâu lại ngồi” thì tất cả cùng ngồi xổm một lát , rồi lại đứng dậy vừa đi vừa đọc
tiếp bài đồng dao .
*Trò chơi 5:
NU NA NU NỐNG

Nu na nu nống
Một hồ nước trong
Sao không rửa chân
Cho trắng cho xinh
Đi thi chân đẹp
Chân ai sạch sẽ
Gót đỏ hồng hào
Được vào đánh trống
Tùng tùng tùng tùng !
Cách chơi
Tất cả trẻ ngồi vịng trịn , đưa 2 chân ra phía trước vừa đọc bài đồng dao
vừa nhịp chân theo lời bài đồng dao . đến chữ ‘ tùng tùng …” thì trẻ giả bộ lấy 2
tay làm dùi đánh vào chân .
*Trò chơi 6:
RỒNG RẮN
Rồng rắn đi chơi
Vừa hát vừa cười
Đến thăm thầy thuốc
Đếm chân mà bước
Thong thả mà đi
Tay chống chân quỳ
17


Hỏi cho thật lớn :
Thầy thuốc có nhà khơng ?
Cách chơi
Một trẻ làm chủ nhà , tất cả trẻ còn lại nắm lấy đi nhau đi thành vịng trịn đến
nhà thầy thuốc . Đến câu : “ thầy thuốc có nhà khơng ?” thì chủ nhà trả lời theo ý
của mình “có” hoặc “ khơng” , nếu “khơng” thì đi tiếp , nếu “có” thì hỏi chủ nhà

muốn lấy khúc nào “đuôi”, “giữa” hay “cuối”, tất cả trẻ phải bảo vệ bạn ở nơi mà
thầy thuốc muốn bắt . Trẻ nào bị bắt được thì lên làm thầy thuốc và chơi tiếp .
*Trị chơi 6:
TẬP TẦM VƠNG
Tập tầm vơng
Tay đàng đơng
Tay đàng tây
Tay nào mây
Tay nào gió
Tập tầm vó !
Tay nào có
Tay nào khơng
Tay nào phồng
Tay nào đẹp ?
Cách chơi
Trẻ vừa đọc bài đồng dao vừa đưa tay theo nhịp bài đồng dao . Trị chơi này cũng
có tác dụng rèn cơ tay cho trẻ . GV có thể sử dụng nhiều hình thức khác nhau như :
thay đổi bằng chân , làm nhiều kiểu tay , ….
*Trò chơi 6:
THẢ ĐỈA
Thả đải ba ba
Làm ngỗng , làm gà
Làm voi , làm gấu
Làm anh cá sấu
Làm chị ễnh ương
Làm bác linh dương
Cùng chạy bốn phương .
Cách chơi
18



Một trẻ đi giữa vòng tròn làm đỉa , các bạn khác nắm tay thành vòng tròn . Tất cả
cùng đọc bài đồng dao , tới câu “ cùng chạy bốn phương” trẻ chỉ vao bạn nào thì
bạn đó chạy đuổi bắt bạn . Cứ thế tiếp tục thay đổi trẻ khác được chơi .
2.3 Kết quả nghiên cứu
- Áp dụng những kinh nghiệm giảng dạy như trên đối với môn kể chuyện. Qua
các giờ học tôi thấy các cháu rất hứng thú, rất thích nghe kể chuyện. Thơng qua đó
mà việc phát triển ngơn ngữ đạt hiệu quả cao.
- Trong khi nghe kể chuyện, kể lại chuyện và trả lời các câu hỏi của cô. Vốn từ
của trẻ được tăng lên rất nhiều đồng thời trẻ biết sử dụng các loại câu phong phú và
đa dạng.
Sau một năm áp dụng phương pháp mới này kết quả giảng dạy của tôi đã được
nâng lên rõ rệt, cụ thể như sau:
Khá
Trung bình
Yếu
Xếp loại
Số
Số
%
%
Số lượng %
Tổng số trẻ
lượng
lượng
19
15
73,2
3
20

1
6,8
Đặc biệt nổi bật lên có 30% số trẻ trong số các trẻ đạt loại khá có khả năng ngơn
ngữ rất tốt, hiểu được lời nói của mọi người, biết trả lời các câu hỏi, biết kể lại các
câu truyện đã được nghe. Biết chơi các trò chơi một cách mạnh dạn, biết trao đổi
với bạn trong khi chơi một cách mạch lạc. Vốn từ phong phú và dần dần hoàn thiện
theo độ tuổi.
2.4 Bài học kinh nghiệm:
*/Bài học chung:
Để học sinh phát triển ngôn ngữ một cách tốt nhất người giáo viên có năng
lực trình độ chun mơn vững vàng, phải u nghề, u trẻ, phải tận tụy, tỉ mỉ, phải
coi trẻ như con đẻ của mình, coi việc phát triển ngơn ngữ cho trẻ ở độ tuổi này là
nhiệm vụ hàng đầu, là việc làm thường xun, xun suốt q trình chăm sóc, giáo
dục trẻ. Cô giáo phải là tấm gương để trẻ học tập và noi theo.
Ngay từ đầu năm học giáo viên phải xây dựng kế hoạch cụ thể cho từng hoạt
động, từng tiết dạy, lồng ghép các hoạt động để trẻ phát triển tốt nhất ngơn ngữ của
mình.
Thường xun tổ chức các hoạt động tham quan, khám phá môi trường xung
quanh trẻ, cho trẻ tiếp xúc với các câu chuyện, bài thơ trên các phương tiện truyền

19


thơng, các tranh ảnh, mơ hình để trẻ cảm nhận tác phẩm một cách nhẹ nhàng, tự trẻ
có thể đọc theo cô, kể theo cô các câu chuyện mà trẻ đã được nghe
*/ Bài học riêng:
Để phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách tốt nhất là một giáo viên, một tổ
trưởng chuyên môn bản thân tôi đã xây dựng kế hoạch các hoạt động được lồng
ghép với các tiết dạy một cách nhẹ nhàng, linh hoạt, đồng thời tôi luôn chú trọng
tới việc khai thác và phát triển ngôn ngữ cho trẻ.

Tham khảo các câu chuyện hay, các bài thơ nhẹ nhàng gần gũi với trẻ, cho trẻ
làm quen với các tác phẩm truyện, thơ một cách từ từ, dần dần, khơng gị ép, áp đặt
trẻ.
Bên cạnh đó tơi luôn học hỏi các tiết dạy hay, các tiết dạy mẫu để áp dụng vào
trẻ của lớp mình. Bản thân tôi cũng không ngừng học tập, tự bồi dưỡng về chun
mơn, vận dụng nhiều phương pháp và hình thức thay đổi linh hoạt để lôi cuốn, hấp
dẫn trẻ.
*/ Bài học thành công:
Như chúng ta đã biết muốn ngôn ngữ của trẻ được phát triển một cách tốt
nhất thì giáo viên phải là người dẫn dắt trẻ bởi giáo viên là người trực tiếp truyền
thụ kiến thức đến với trẻ, nắm bắt được hay không phụ thuộc vào giáo viên, nếu
phương pháp truyền thụ của giáo viên đến với trẻ là vô cùng quan trọng. Là một
giáo viên đã công tác nhiều năm, qua q trình chăm sóc, giáo dục các cháu tôi đã
rút ra được bài học thành công cho mình.
Việc phát triển ngơn ngữ cho trẻ, đặc biệt là trẻ ở độ tuổi nhà trẻ là vô cùng quan
trọng, phải được lồng ghép trong tất cả các hoạt động đặc biệt là trong giờ đọc thơ,
kể truyện.
III.Phần kết luận, kiến nghị
1. Kết luận
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 -36 tháng tuổi thông qua bộ môn làm quen
văn học thể loại truyện kể là sự tổng hợp toàn bộ nội dung rèn luyện ngơn ngữ .
Nói mạch lạc chứng tỏ ngôn ngữ của trẻ đạt yêu cầu cao về mặt biểu hiện âm
thanh, từ diễn đạt, câu đúng ngữ pháp cũng như sự mạnh dạn tin tưởng trong giao
tiếp. Đề tài nghiên cứu này sẽ làm cơ sở vững chắc cho việc học tập của trẻ
những năm tiếp theo.
Qua quá trình nghiên cứu và áp dụng đề tài trong q trình giảng dạy tơi đã rút ra
một số kết luận sau:
20



Trẻ độ tuổi 24 -36 tháng khi nghe kể chuyện rất mau qn, khơng ghi nhớ lâu, nên
tơi phải tìm hiểu và đưa ra một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ.Để trẻ ghi
nhớ lâu hơn về câu chuyện và hiểu nội dung câu chuyện.
Để phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong giờ kể chuyện giáo viên cần đầu tư về thời
gian nghiên cứu để lựa chọ nội dung truyện kể hay, chuẩn bị được nhiều đồ dùng
trực quan đẹp, hấp dẫn trẻ. Cô càn xác định được giọng kể phù hợp để gây hứng
thú cho trẻ nhiều, dạy trẻ kể đi kể lại nhiều lần giúp trẻ thực sự in dấu trong lòng
trẻ để đảm bảo cho trẻ được phát triển ngơn ngữ một cách tồn diện hơn.
2. Kiến nghị
* Đối với cấp trường:
Đề nghị Ban giám hiệu nhà trường tham mưu với các cấp, các ngành, lãnh đạo
địa phương mua sắm trang thiết bị, đồ chơi ngoài trời cho trẻ. Xây dụng trường
chuẩn quốc gia để các cháu có điều kiện học tập và vui chơi tốt hơn. Xây dựng
khn viên có vườn hoa cây cảnh, vườn cây ăn qủa và vườn cây của bé để giúp trẻ
hoạt động đạt được kết quả tốt hơn.
* Đối với Phòng giáo dục
+ Đề nghị với các cấp, các ngành và Nhà nước quan tâm hơn nữa đến vật chất
và tinh thần của cấp học mầm non nói chung và giáo viên mầm non nói riêng để
chúng tơi những giáo viên mầm non thực sự yên tâm công tác và cống hiến nhiều
hơn nữa cho sự nghiệp giáo dục của nước ta, xứng đáng với phương châm: “Giáo
dục là quốc sách hàng đầu”.
Trên đây chỉ là một trong những kinh nghiệm của bản thân và rất mong được
sự giúp đỡ, ý kiến đóng góp của các đồng chí trong ban giám hiệu nhà trường, các
đồng chí lãnh đạo phịng giáo dục và đào tạo Huyện Đông Triều, đặc biệt là các
đồng chí phụ trách chun mơn ngành học mầm non, hội đồng xét duyệt thi đua bổ
sung thêm những ý kiến để đề tài của tơi được hồn thiện hơn và rút kinh nghiệm
cho những lần sau và quá trình giảng dạy của bản thân sau này.
Đơng triều, ngày 19 tháng 4 năm 2014
Người viết


Phạm Thị Thắm
21


VI.Tài liệu tham khảo – phụ lục
1. Tài liệu tham khảo
1. Cuốn “ Tuyển chọn truyện, thơ, câu đố mẫu giáo” của tác giả Đặng Thu Quỳnh.
2. Cuốn “ Văn học trẻ em” của tác giả Lã Bắc Lý.
3.Cuốn “Giáo dục trẻ mẫu giáo qua truyện và thơ” của tác giả Nguyễn Thùy
4.Cuốn “ Đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục mầm non” của NXBĐHSP
Hà Nội
5.Cuốn “ Chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ mẫu giáo” của Vụ giáo dục mầm
non.
6.Cuốn “ Hướng dẫn đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục trẻ mẫu giáo
5 – 6 tuổi của Vụ giáo dục mầm non.
7.Cuốn “ Giáo trình văn học dân gian” của tác giả Phạm Thu Yên( chủ biên)

22


2. Phụ lục
SỐ TT
I
1
2
3
4
II
1
1.1

1.2
1.2.1

NỘI DUNG
TRANG
Phần mở đầu
1- 3
Lý do chọn đề tài
1
Mục đích nghiên cứu
2-3
Thời gian, địa điểm
3
Đóng góp mới về mặt thực tiễn
3
Phần nội dung
3 - 20
Chương 1: Tổng quan
4
Cơ sở lý luận của đề tài
4-5
Cơ sở thực tiễn của đề tài
5-7
Đặc điểm tâm – sinh lý của trẻ 24 - 36 tháng tuổi liên
6-7
quan đến sự phát triển ngôn ngữ của trẻ.

1.2.2

Các phương pháp cơ bản sử dụng cho trẻ trong giờ kể

truyện, các trò chơi dân gian

2

Chương 2: Nội dung vấn đề nghiên cứu
23

7

7 - 20


2.1
2.2
2.2.1

Thực trạng
7-9
Các giải pháp
9 - 20
Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ từ 24 đến 36 tháng tuổi 9 - 20
thơng qua giờ kể truyện, các trị chơi dân gian

2.2.1.1

Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua giờ kể truyện

9 - 14

Phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua các trò chơi dân gian


14 - 18

2.2.1.2
2.3

Kết quả nghiên cứu

2.4
III
IV

Rút ra bài học kinh nghiệm
Phần kết luận – kiến nghị
Tài liệu tham khảo – phụ lục

18 - 19
19 - 20
20 - 21
21 - 23

24



×