Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

skkn phương pháp giảng dạy môn giáo dục công dân theo hướng gắn với thực tiễn cuộc sống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.42 KB, 32 trang )

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Phương pháp giảng dạy môn giáo dục công dân theo
hướng gắn với thực tiễn cuộc sống .
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Chuyên môn .
3. Tác giả:
Họ và tên: Nguyễn Thị Quỳnh

Nữ

Ngày tháng/năm sinh: 30/12/1983.
Trình độ chuyên môn: Sư phạm Địa - GDCD.
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên
Điện thoại: 0975661962.
4.Chủ đầu tư sáng kiến:
Trường THCS Tân Phong, Ninh Giang, Hải Dương.
Địa chỉ : Tân Phong, Ninh Giang, Hải Dương.
Số đt: 03203.769217
5. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
-Lớp thực nghiệm.
-Cần có phương tiện hỗ trợ giảng dạy như máy tính, máy chiếu.
6. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu từ: Năm học 2010-2011.

HỌ TÊN TÁC GIẢ (KÝ TÊN)

NGUYỄN THỊ QUỲNH

XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN


TÓM TẮT SÁNG KIẾN


Xuất phát từ yêu cầu chung của ngành giáo dục là giáo dục, đào tạo
công dân thành những người lao động hoà nhập được với cuộc sống nói chung
với các hoạt động lao động sáng tạo nói riêng của đất nước. Vì vậy trong quá
trình giáo dục nói chung và dạy – học môn Giáo dục công dân (GDCD) nói
riêng cần gắn liền với thực tiễn cuộc sống. Xác định được tính cấp thiết của vấn
đề tôi đã không ngừng nghiên cứu nhằm đổi mới phương pháp giảng dạy môn
GDCD. Từ những nghiên cứu thực tế tôi đã viết và áp dụng sáng kiến: Phương
pháp giảng dạy môn GDCD theo hướng gắn với thực tiễn cuộc sống.
Sáng kiến này được tôi viết và áp dụng trong điều kiện ngành giáo dục
đang có nhiều đổi mới. Thay thế cho việc nặng nề về lí thuyết, hàn lâm, giáo
dục đã phát triển theo hướng gắn với thực tiễn, lấy người học làm trung tâm.
Đây là điều kiện hết sức thuận lợi để tôi thực hiện sáng kiến. Sáng kiến đã được
áp dụng từ năm học 2010-2011 với đối tượng là học sinh các khối lớp 6, 7, 8, 9.
Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến này chính là sự đổi mới toàn diện,
triệt để trong phương pháp nghiên cứu và áp dụng thực tế. Đưa ra các giải
pháp, biện pháp để thực hiện sáng kiến một cách hiệu quả nhất với cả người
dạy và người học. Giáo án minh họa cho việc áp dụng các giải pháp đưa ra đã
được thực hiện trong hội thi giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh và đã được đánh giá rất
tốt. Bài dạy đã chứng minh tính hiệu quả cao của việc giảng dạy môn GDCD
gắn với thực tiễn cuộc sống - nội dung chính mà sáng kiến này hướng đến.
Sáng kiến đã được bản thân tôi và các đồng nghiệp cùng dạy môn GDCD
tại trường áp dụng trong năm năm học. Mức độ áp dụng sáng kiến được nâng
cao dần sau mỗi năm học. Dần dần đạt đến sự hoàn chỉnh nhất trong từng bài
dạy. Tính khả thi của sáng kiến là rất cao do việc khai thác thông tin, tài liệu,
sách tham khảo tương đối thuận lợi (đặc biệt với sự hỗ trợ của mạng Google).
Trong những năm học tiếp theo sáng kiến này còn có thể áp dụng một cách rãi
và hiệu quả hơn nữa.
Khi đưa sáng kiến vào áp dụng tôi nhận thấy hiệu quả giảng dạy nâng lên
rõ rệt. Tình trạng học sinh không nắm được bài không còn tồn tại. Học sinh
2



hứng thú tích cực học tập, giờ học trở lên sôi nổi, hiệu quả. Từ việc hiểu dẫn
đến những thay đổi hẳn trong hành vi ứng xử của các em. Ý thức của học sinh
và khả năng thích ứng với cuộc sống, kĩ năng ứng biến của các em tốt hơn lên
rất nhiều.
Kết quả của việc áp dụng sáng kiến còn được minh chứng rõ nét hơn ở
kết quả khảo sát học sinh qua mỗi năm học. Tỉ lệ học sinh khá giỏi tăng lên
đồng nghĩa với điều đó là tỉ lệ học sinh trung bình - yếu giảm hẳn. Kết quả này
là sự khích lệ rất lớn với cả giáo viên và học sinh.
Để mở rộng việc áp dụng sáng kiến và cũng là nâng cao hiệu quả giảng
dạy môn GDCD, tôi đã đưa ra một số đề xuất, kiến nghị với các cấp lãnh đạo
cũng như bản thân các đồng chí là giáo viên trực tiếp giảng dạy như:
- Tuyên truyền làm thay đổi nhận thức của những nhà giáo dục, giáo viên,
phụ huynh học sinh và học sinh về vị trí, vai trò của bộ môn GDCD
- Tổ chức các đợt hội thảo trao đổi kinh nghiệm, bồi dưỡng thường xuyên
về phương pháp dạy – học bộ môn ở cấp huyện, cấp tỉnh.
- Sớm đưa môn GDCD vào nội dung thi tốt nghiệp ở các trường phổ
thông.
- Các nhà trường cần xây dựng tủ sách pháp luật.
- Tăng cường các trang thiết bị dạy - học.

3


MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến.
Môn Giáo dục công dân (GDCD) là môn học có vai trò quan trọng trong
việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân cho học
sinh. Luật giáo dục đã quy định: “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học

sinh phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mĩ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình
thành nhân cách con người Việt Nam XHCN, xây dựng tư cách và trách nhiệm
công dân, chuẩn bị cho học sinh học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham
gia xây dựng và vệ tổ quốc”. Môn học cung cấp cho học sinh một hệ thống
chuẩn mực ở mức độ phù hợp với lứa tuổi, giúp học sinh biết sống hoà nhập
với cuộc sống hiện tại với tư cách là một công dân tích cực và năng động; góp
phần quan trọng để hình thành những phẩm chất cần thiết của nhân cách con
người Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và
tăng cường khả năng hội nhập trong xu thế phát triển và tiến bộ của thời đại.
Xuất phát từ thực tế, đòi hỏi sự nghiệp giáo dục nói chung và môn
GDCD nói riêng cần có những điều chỉnh và thay đổi về nội dung chương
trình, phương pháp dạy - học để đáp ứng kịp thời. Chúng ta cần hình thành ở
học sinh những thói quen, những hành vi phù hợp với chuẩn mực đạo đức, quy
định của pháp luật. Nhằm góp phần hình thành cho các em một nhân cách hoàn
thiện của một người công dân trong thời kỳ mới. Từ đó trong giảng dạy tôi luôn
chủ động xây dựng các phương pháp và đa dạng hoá các hoạt động dạy học, và
đặc biệt là luôn gắn với thực tiễn cuộc sống.
Cũng chính từ việc nắm được yêu cầu của thực tế và vai trò của bộ môn
GDCD, tôi đã mạnh dạn viết và áp dụng sáng kiến: Phương pháp giảng dạy
môn GDCD theo hướng gắn với thực tiễn cuộc sống.
2. Cơ sở lí luận của vấn đề.
2.1. Cấu trúc chương trình môn GDCD.
Cấu trúc chương trình môn GDCD ở THCS có 2 phần chính :
- Phần đạo đức: bao gồm những chuẩn mực đạo thể hiện yêu cầu cơ
bản về đạo đức đối với người công dân.
4


- Phần pháp luật: bao gồm quyền và nghĩa vụ của công dân trong các
lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội, phù hợp với phạm vi hoạt động và yêu

cầu đối với lứa tuổi của học sinh trường THCS.
Cấu trúc nội dung từng bài gồm 3 phần:
+Phần 1: Đặt vấn đề (là các tình huống, câu chuyện, thông tin, sự kiện
phong phú mang tính thực tiễn cao ) có liên quan đến nôị dung bài học.
+Phần 2 : Nội dung bài học ( được thể hiện một cách ngắn gọn, xúc tích
giúp học sinh dễ học, dễ nhớ).
+ Phần 3 : Bài tập (với sự đa dạng của các dạng bài tập từ nhận biết,
thông hiểu, tình huống)… giúp học sinh luyện tập và củng cố nắm chắc bài học
từ nhiều phương diện.
Với cấu trúc này giáo viên hoàn toàn có thể tổ chức cho học sinh học tập
với các phương pháp giảng dạy theo hướng gắn với thực tiễn cuộc sống.
2.2. Một số yêu cầu cần có trong tiết dạy GDCD theo hướng gắn với
thực tiễn cuộc sống.
2.2.1. Quá trình dạy học cần tạo ra được sự tác động qua lại giữa vốn
kinh nghiệm sống đã có của bản thân học sinh với các yêu cầu, chuẩn mực đạo
đức và pháp luật đặt ra.
Học sinh THCS đã có vốn kinh nghiệm sống tương đối phong phú, trong
đó có những kinh nghiệm ứng xử được tích luỹ qua môn đạo đức ở bậc tiểu
học. Đó chính là cơ sở giúp các em lĩnh hội tốt các chuẩn mực đạo đức và pháp
luật ở THCS. Vì vậy trong quá trình dạy- học môn GDCD, giáo viên cần dẫn
dắt và khai thác cho được những kinh nghiệm sống đã có của học sinh.
2.2.2. Giờ dạy phải có tính vấn đề cao về nội dung để thu hút sự chú ý,
tạo tính tích cực học tập của học sinh.
Môn GDCD ở THCS, vấn đề bào trùm là mâu thuẫn giữa trình độ nhận
thức, kinh nghiệm ứng xử hàng ngày của học sinh và các chuẩn mực đạo đức,
pháp luật được đặt ra trong mỗi bài học. Vấn đề trong mỗi bài học phải cao hơn
trình độ đã có của học sinh, đủ sức giữ vai trò thu hút trí tuệ, tình cảm của học
sinh mà dẫn dắt hoạt động của các em. Trong vấn đề, những tri thức, kỹ năng,
mẫu hành vi ứng xử, những tình huống đạo đức, pháp luật có tác dụng kích
5



thích học sinh suy nghĩ, phán đoán, lựa chọn cho được phương án xử lý. Thông
qua đó, học sinh sử dụng vốn kinh nghiệm sống của mình để giải quyết các vấn
đề và trong quá trình tìm tòi sẽ dẫn đến sự thay đổi kinh nghiệm khi các em tự
giác chấp nhận những bằng chứng và lập luận hợp lý, xác thực.
2.2.3. Trong giờ dạy môn GDCD cần đưa ra các tình huống thực tế .
Các tình huống này đang diễn ra hàng ngày ở lớp, ở trường, trong gia
đình hoặc ngoài xã hội liên quan đến nội dung bài học mà học sinh dễ bắt gặp
nhất để học sinh đưa ra ý kiến, lập trường cuả mình về một chuẩn mực, một
vấn đề đạo đức hay pháp luật nào đó. Tổ chức chia nhóm cho học sinh thảo
luận trong tiết dạy về một tình huống, một vấn đề học sinh có những ý kiến
khác nhau, thậm chí trái ngược nhau, tạo ra sự lập luận, lý giải tranh cãi, thể
hiện rõ thái độ, chính kiến của mỗi em. Trong quá trình làm như vậy đã tạo cho
học sinh cơ hội giao lưu, trao đổi, cọ xát giữa các cá nhân với cá nhân, nhóm
này với nhóm khác. Nhờ vậy mà học sinh chiếm lĩnh được các giá trị đạo đức,
pháp luật, lối sống văn hoá một cách bền vững phù hợp với thực tế cuộc sống
hiện nay.
2.2.4. Trong giờ dạy- học cần chú ý tạo được không khí cho tiết học.
Tiết học phải thật dân chủ, cởi mở, hấp dẫn, giàu cảm xúc, giàu tính nhân
văn để kích thích, khơi dạy hứng thú, sự nhiệt tình sẵn có ở mỗi học sinh THCS
cho mỗi tiết học. Với cách làm này, không khí lớp học luôn sôi nổi, thoải mái,
học sinh cảm thấy tự tin, tích cực chủ động tranh luận để lĩnh hội các chuẩn
mực đạo đức, pháp luật phù hợp với chuẩn mực mà xã hội đặt ra. Thực hiện
theo phương pháp này học sinh thấy bản thân mình cũng góp phần vào việc
khẳng định các giá trị đạo đức, pháp luật; góp phần tạo cho các em niềm tin
trong việc tự xác định hành vi ứng xử trong và ngoài nhà trường
3. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
Trên thực tế, trước khi bắt tay vào nghiên cứu viết sáng kiến này tôi
nhận thấy việc dạy và học môn Giáo dục công dân chưa được chú trọng. Giáo

viên giảng dạy hầu hết chỉ căn cứ vào các thông tin đã có trong sách giáo khoa.
Trong khi đó thông tin đại chúng đã rất phát triển, việc khai thác thực tiễn vào
giảng dạy rất thuận lợi. Phương pháp giảng dạy chủ yếu là thuyết trình hoặc
6


khá hơn chút là vấn đáp. Phương pháp và hoạt động dạy học còn hết sức đơn
điệu chưa đưa được yêu cầu đổi mới giảng dạy vào môn GDCD.
Bộ môn GDCD chưa được coi trọng trong nhà trường, nhiều trường chưa
có giáo viên được đào tạo GDCD giảng dạy mà do giáo viên Văn, Lịch sử hoặc
Toán đảm nhiệm. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng bộ môn chứ chưa
nói đến đổi mới phương pháp.
Về phía học sinh cũng chưa biết coi trọng bộ môn. Các em hết sức thụ
động trong giờ học, chỉ chú ý học thuộc vẹt phần nội dung bài học. Học sinh
không biết vận dụng những nội dung đã học vào cuộc sống. Đặc biệt là phần
kiến thức Pháp luật, các em nắm một cách mơ hồ. Điều đó làm mất đi giá trị to
lớn của bộ môn GDCD.
Theo một số khảo sát nhanh tại trường về một số mặt
- Có khoảng 70% học sinh không chú trọng học môn GDCD.
- 80% các em không biết vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn.
- Khảo sát 100 học sinh (cho làm một đề kiểm tra theo hướng đổi mới):
chỉ có 5% học sinh đạt điểm 8 trở lên.
Trước thực trạng dạy và học môn GDCD như đã nêu trên tôi đã
cố gắng nghiên cứu nhằm đưa ra giải pháp khắc phục. Đó chính là việc nghiên
cứu và đưa vào áp dụng sáng kiến : Phương pháp giảng dạy môn GDCD theo
hướng gắn với thực tiễn cuộc sống.
4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện.
4.1- Nghiên cứu và cải tiến nội dung bài học.
Trong quá trình chuẩn bị bài học, ở khâu soạn giảng giáo viên cần bổ
sung các thông tin tư liệu thực tế có liên quan, những sự kiện đạo đức pháp luật

hàng ngày, tình hình thực hiện pháp luật ở địa phương, cộng đồng; bổ sung các
thông tin, số liệu mang tính cập nhật, mới mẻ như các điều luật sửa đổi, những
quy định cụ thể của luật, các pháp lệnh, thông tư hay tình hình thực tế học sinh,
tập thể học sinh nhà trường về việc thực hiện các kỷ luật về đạo đức, pháp luật
hàng ngày như thế nào... Việc làm đó làm cho nội dung bài học không khô
khan, xa rời thực tiễn, xa lạ đối với học sinh mà nó biến thành những nội dung
7


thiết thực, sống động, gắn với cuộc sống hàng ngày trong nhà trường, trong gia
đình và ngoài xã hội. Đây là việc làm thiết thực và có ý nghĩa quan trọng đối
với mỗi bài giảng.
Ngoài ra tuỳ thuộc vào từng bài học, nhằm tạo sự phù hợp cho tiến trình
bài giảng với các phương pháp đặc trưng, giáo viên có thể thay đổi thứ tự các
phần để tránh sự dập khuôn máy móc. Ví dụ ở mỗi bài đều có 3 phần là đặt vấn
đề, nội dung bài học và bài tập , giáo viên có thể thay đổi thứ tự đó bằng cách
đưa bài tập ở phần bài tập lên phần đặt vấn đề như một bài tập tình huống có
vấn đề để phục vụ việc khai thác nội dung bài học.
4.2. Đổi mới các hình thức tổ chức dạy học.
Muốn làm tốt việc giáo dục học sinh thông qua môn GDCD gắn với thực
tiễn cuộc sống, chúng ta phải đặc biệt chú trọng đến khâu tạo ra nhiều hình
thức tổ chức dạy học cho giờ học môn này. Xuất phát từ cơ sở lý luận: “Đổi
mới phương pháp gắn liền với đổi mới hình thức tổ chức dạy học”, trong dạy
học phải tăng cường tính tương tác, tính chất đối thoại, tính chất hoà nhập của
các quan hệ. Học sinh ở lứa tuổi này có thể tham gia nhiều nhóm xã hội, như
nhóm học tập trên lớp, học trong giờ ngoại khoá, học ở nhóm, tổ, nhóm Đội,
nhóm tại địa bàn nơi ở; có nhóm chính thức do nhà trường hay Đoàn thanh niên
tổ chức, nhưng cũng có nhóm không chính thức. Vì vậy trong quá trình dạy
học giáo viên cần vận dụng linh hoạt các loại nhóm này để đảm bảo tính tối ưu
và hiệu quả giáo dục. A.K Macarenco đã từng nói: “Một tập thể trẻ em được

đặt vào những điều kiện sư phạm lành mạnh có thể phát triển lên tầm cao hoàn
toàn không thể đoán trước được”.Trong các hình thức này, hình thức cao nhất
là sự tự giáo dục. Lúc này, chủ thể giáo dục đã chiếm lĩnh được, làm chủ được
những mục tiêu, phương pháp, phương tiện mà xã hội, nhà trường, tập thể,
nhóm đã giáo dục mình và chuyển những điều đã chiếm lĩnh được thành của
mình để hoàn thiện nhân cách và lĩnh hội những cái mới.
4.3. Sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy - học
Cấu trúc chương trình môn GDCD có 8 chủ đề đạo đức và 5 chủ đề pháp
luật. Ở mỗi chủ đề đạo đức hay pháp luật người giáo viên cần vận dụng linh
hoạt các phương pháp cho phù hợp với từng chủ đề.
8


4.3.1 Các chủ đề pháp luật :
- Trước hết, khi nêu ra các quy định của pháp luật, cần chỉ rõ điều đó
xuất phát từ thực tế nào, và nó là thế nào trong thực tế, nhất là thực tế địa
phương.
Ví dụ: công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nhưng tại sao
pháp luật lại quy định những trường hợp bắt giữ, giam người: Điều này có cơ
sở thực tế như thế nào ? Cho HS xem một lệnh bắt giữ làm ví dụ. Khi dậy về
tôn trọng tài sản nhà nước và lợi ích công cộng, cần chỉ rõ ở chỗ nào (thôn,
xóm, địa phương nào…) có những hành vi tốt, xấu như thế nào. Ngoài ra
chúng ta có thể sử dụng bài tập điều tra thực tế địa phương, đây là một dạng
rất tích cực, có tác dụng nhiều mặt (vừa gắn với thực tế, vừa là thực hành) .
Có rất nhiều cơ hội cho học sinh làm bài tập dạng này: Điều tra về nạn
tảo hôn, về tự do tín ngưỡng và tôn giáo, về tai nạn vũ khí, cháy, nổ và các chất
độc hại, về tệ nạn xã hội, về quyền trẻ em, về các di tích lịch sử, di sản văn
hoá…
Mỗi lần có thể cho nhiều bài tập khác nhau, sử dụng cho từng nhóm học
sinh ở các điểm dân cư khác nhau. Học sinh trong cùng một điểm dân cư có thể

cùng làm một bài, có thể mỗi em một bài khác nhau. Mỗi bài chỉ nên có một
hai yêu cầu, không nên bao gồm quá nhiều yêu cầu trong một phiếu. Bên cạnh
đó, chúng ta có thể cho học sinh thực hiện “Phiếu phỏng vấn”, đây cũng là một
dạng của điều tra thực tế .
Ví dụ: Cho học sinh phỏng vấn các nhân viên quản lí đường giao thông
về tầm quan trọng, về các vi phạm về bảo vệ đường giao thông; phỏng vấn các
đại biểu HĐND (được bầu ra như thế nào, những công việc của đại biểu, việc
liên hệ giữa đại biểu và cử tri…).
Trong quá trình liên hệ thực tế, giáo viên thường gặp phải tình thế khó
khăn . Nếu chỉ nêu ra những thực tế tích cực thì bài học sẽ xuôi chiều, mà nêu
những thực tế tiêu cực thì ngại bị đánh giá là nói xấu chính quyền, nhất là đối
với cán bộ địa phương. Song đã liên hệ thực tế thì phải chân thực, đúng như nó
có, không xuyên tạc, không cường điệu, tức là tôn trọng thực tế khách quan.
Chỉ như vậy bài giảng mới có sức thuyết phục người học. Vì vậy việc liên hệ
9


vào thực tế phụ thuộc vào thế giới quan khoa học của giáo viên trong khi đánh
giá thực tế.
Khi nêu ra thực tế yếu kém và tiêu cực, nếu giáo viên có thái độ thiện
chí, có ý thức trách nhiệm, phân tích rõ nguyên nhân chủ quan và khách quan
và chỉ ra phương pháp khắc phục thì chẳng những không gây ra điều gì bất lợi
mà còn có sức thuyết phục học sinh, thúc đẩy động cơ hành động tích cực của
họ, thúc đẩy họ tìm đến các chuẩn mực pháp luật. Bài giảng chỉ có thể bị đánh
giá không tốt khi người giảng tỏ ra thiếu trách nhiệm, ba hoa, tự cao tự đại, sử
dụng những thông tin xuyên tạc hoặc những tin đồn không có căn cứ.
Giáo dục pháp luật có kết quả khi học sinh được lôi cuốn vào các hoạt
động tự quản trong xã hội, học sinh trực tiếp tham gia vào cải thiện bộ mặt của
đời sống pháp luật ở địa phương. Trong giờ dạy pháp luật trên lớp cần hướng
dẫn học sinh từng mặt cụ thể vào từng hoạt động đó . Sau đó có thể hướng dẫn

học sinh thực hành thông qua một số tình huống mà giáo viên đã chuẩn bị, vì
thực tế không thể sau mỗi tiết giáo viên lại đưa học sinh đi thực hành mà là một
khâu khác – các hoạt động ngoài giờ lên lớp, ngoài trường. Để hướng dẫn học
sinh thực hành, mỗi bài giáo viên cần chỉ rõ cho học sinh : nội dung thực hành
(làm gì), thực hành vào lúc nào , ở đâu, và kinh nghiệm khi thực hành. Như vậy
là yêu cầu phải hướng dẫn một cách rất cụ thể, sát với điều kiện cụ thể của học
sinh và địa phương.
4.3.2. Các chủ đề đạo đức:
Trong quá trình vận dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học
cần tập trung vào những hoạt động và những vấn đề gần gũi với cuộc sống thực
và liên quan trực tiếp đến học sinh có liên quan đến các chuẩn mực đạo đức,
những tình huống đạo đức.
Ví dụ: Dạy bài “Trung thực” ngay từ khâu vào bài giáo viên có thể đưa
học sinh nhập cuộc vào vấn đề của bài học thông qua một số tình huống :
- Hiện nay ở trường ta trong các giờ kiểm tra cá biệt vẫn còn một số học
sinh giở vở, giở sách ra chép bài, làm hộ bài cho bạn….

10


- Học sinh viết giấy xin phép nghỉ học với lý do là ốm, nhưng thực tế là
nghỉ học để đi chơi điện tử…
- Bao che thiếu sót, khuyết điểm cho bạn giúp đỡ mình
- Nói dối bố mẹ là đi học thêm để đi chơi…
Nhờ đó, các em thấy rõ nội dung và hoạt động dạy học đạo đức là gần
gũi, thiết thực đối với bản thân, chứ không phải cái gì xa lạ đối với mình. Vì
thế, các em có thể vận dụng được những điều đã học vào cuộc sống hàng ngày
của mình (trung thực, dũng cảm, lễ độ…)
Trong quá trình giáo dục, học sinh vừa là đối tượng của dạy (cũng như
của giáo dục), nhưng đồng thời các em lại là chủ thể nhận thức (cũng như chủ

thể tự giáo dục). Do đó quá trình vận dụng phương pháp và hình thức tổ chức
dạy học, chúng ta cần nhấn mạnh những gì mà học sinh cần học hơn là những
cái mà chúng ta cần dạy. Bên cạnh đó cần phát triển ở các em năng lực tự phê ;
biết tiếp thu những giá trị đạo đức tốt đẹp; biết đưa ra và bảo vệ ý kiến của
mình về một vấn đề đạo đức nào đó. Đối với các chuẩn mực đạo đức đòi hỏi
phải tích cực làm hơn là nghe, đọc, nói về các phẩm chất; nói khác đi, cần yêu
cầu và tạo điều kiện cho học sinh vận dụng những điều đã học về phẩm chất,
bổn phận đạo đức để điều chỉnh hành vi và thói quen của bản thân. Vì vậy, đòi
hỏi học sinh tránh được một cách có ý thức tình trạng “đạo đức suông”, “đạo
đức giả” ; nói về phẩm chất, bổn phận đạo đức thì rất hay, nhưng trên thực tế,
không có những hành vi đạo đức tích cực. Từ đó định hướng và tạo cơ hội cho
các em biết được những tri thức về phẩm chất và bổn phận đạo đức thành hành
vi và thói quen trong cuộc sống hàng ngày.
4.4. Một số phương pháp cụ thể.
4.4.1. Phương pháp sắm vai.
Đây là phương pháp trong đó, học sinh “sắm vai” các nhân vật theo yêu
cầu của tình huống đạo đức, pháp luật nào đó và cũng “biểu diễn” nhằm giải
quyết tình huống này trên cơ sở trí tưởng tượng và ý nghĩ sáng tạo của các em.
Phương pháp này được tôi sử dụng phổ biến trong các tiết dạy như sau:

11


- Chọn một chủ đề: Ví dụ : “Giữ gìn và bảo vệ di sản văn hoá”, “ Pháp
luật và kỷ luật…”. Ở đây có điều chú ý là chủ đề được lựa chọn có liên quan
đến những tình huống đạo đức, pháp luật nhất định. Với chủ đề đã chọn, có thể
xây dựng thành kịch bản hoặc cũng có thể không xây dựng thành kịch bản
nhằm phát huy tính sáng tạo của học sinh đến cao độ.
TH1: Khi đang cùng mọi người tham quan di tích Côn Sơn, An và Tùng
đã có hành vi bẻ cành thông, vứt rác bừa bãi, viết vẽ, kí tên lên tường đá của

khu di tích.
TH2: Bình là một học sinh cá biệt của lớp. Thường ngày, Bình vẫn đến
lớp muộn, rồi không có khăn quàng, phù hiệu, không sơ vin …. Hằng - trưởng
tổ đã nhiều lần nhắc nhở Bình, nhưng không những không thay đổi mà Bình
còn có nhứng lời nói khiếm nhã đối với Hằng.
- Lựa chọn các vai cho phù hợp.
- Hướng dẫn học sinh chuẩn bị vai (chú ý nêu rõ những yêu cầu cần đạt)
- Bắt đầu “biểu diễn” (hoặc theo kịch bản cho trước, hoặc không theo
kịch bản định sẵn)
Khi dạy bài “Khoan dung” GV có thể cho HS đóng vai tình huống khi
mối bất hoà xuất hiện và cách ứng xử thể hiện lòng khoan dung. Để dễ thực
hiện, GV gợi ý ví dụ: Lan giận Hạnh vì cho rằng Hạnh đã nói xấu mình. Nếu
em là Hạnh, em sẽ ứng xử như thế nào ? (HS thảo luận xây dựng tình huống,
kịch bản, phân vai và thể hiện)
- Cuối cùng giáo viên hướng dẫn học sinh thảo luận, đánh giá, nhận xét
và rút kinh nghiệm.
4.4.2. Phương pháp thảo luận nhóm.
- Giáo viên giới thiệu chủ đề cuộc thảo luận hoặc trình bày tình huống
vấn đề mà cuộc thảo luận sẽ nhằm vào.
Ví dụ: Chủ đề đọc và thảo luận truyện : “Tết ở làng trẻ em SOS Hà Nội”
(GDCD 6)
- Nêu các câu hỏi về chủ để :
+ Tết ở Làng trẻ em SOS diễn ra như thế nào ?
12


+ Em có nhận xét gì về cuộc sống của trẻ em thể hiện trong truyện
trên ?
- Chia lớp thành những nhóm nhỏ (từ 5- 6 em)
- Các nhóm tiến hành thảo luận và ghi tóm tắt kết quả thảo luận ra giấy

- Đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm trước lớp.
- Các nhóm trao đổi ý kiến , bổ sung
- GV tóm tắt các ý đúng và kết luận.
4.4.3 Phương pháp giải quyết vấn đề .
- Phát hiện vấn đề : Đây là bước đầu tiên hết sức quan trọng . Trong
bước này, cần xác định được các chi tiết:
+ Những điều gì có liên quan đến vấn đề ?
+ Vấn đề xảy ra trong điều kiện nào ?
+ Vấn đề xảy ra khi nào ?
+ Vấn đề xảy ra ở đâu ? (trong trường, ngoài trường, ở gia đình hay
ngoài cộng đồng)
+ Nội dung và tính chất của vấn đề: Thể hiện ở mức độ của vấn đề (phức
tạp, trầm trọng hay đơn giản), ở mối quan hệ giữa các thành viên trong vấn đề.
- Đặt HS vào hoàn cảnh phải giải quyết vấn đề
- Giúp HS tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến vấn đề, trong đó phải phân tích
được các mặt trái của vấn đề, xác định được ai là người phải chịu trách nhiệm.
- Thảo luận nêu lên những cách giải quyết vấn đề. Cần đề ra được các
phương án khác nhau để giải quyết vấn đề.
- Phân tích ưu, nhược điểm của các giải pháp.
- Quyết định chọn những giải pháp đúng đắn và lập kế hoạch thực hiện.
VD: Vấn đề đặt ra là:
- Tại sao trong thanh thiếu niên hiện nay có một số nghiệm hút ma túy ?
- Giả sử trong lớp, có bạn nghiện mà tuý thì em sẽ làm gì ? Lớp ta sẽ
làm gì ?
4.4.4. Phương pháp tổ chức trò chơi.
Phương pháp này có rất nhiểu ưu điểm, như:
13


- Tăng cường khả năng chú ý của học sinh.

- Nâng cao hứng thú cho người học, góp phần giải trừ mệt mỏi, căng
thẳng trong giờ học.
- Tăng khả năng giao tiếp giữa các HS và giữa GV với HS.
Ví dụ: Trò chơi về an toàn giao thông:
Trò chơi này có thể tổ chức khi dạy bài “Thực hiện trật tự an toàn giao
thông”. Có thể chơi theo nhóm hoặc cả lớp, tuỳ điều kiện của lớp học.
Cách chơi:
- Mỗi nhóm cử 1 HS đóng vai cảnh sát giao thông.
- HS trong nhóm lần lượt đóng vai người đi đường (đi bộ, đi xe đạp, điều
khiển xe cơ giới…)
- Khi cảnh sát giao thông đưa mỗi biển báo ra thì người đi đường tiến
lên, đứng yên hay lùi lại (theo quy ước và ý nghĩa biển báo giao thông)
Khi dạy bài có nội dung pháp luật có thể tổ chức cho HS chơi trò chơi
“Đến trung tâm tư vấn pháp luật”
Cách chơi :
- Mỗi nhóm cử một HS tham gia đóng vai các “Luật sư” của trung tâm
tư vấn pháp luật.
- Mỗi HS trong lớp chuẩn bị câu hỏi có liên quan đến nội dung bài học
để hỏi các “luật sư”.
- Khi các “công dân” nêu ra các câu hỏi, các “luật sư” có thể trao đổi
tìm đáp án và cử đại diện trả lời.
4.4.5. Phương pháp đề án.
Để có được một đề án tốt, HS cần :
- Xác định mục tiêu trong đầu
- Nói lên cách đạt mục tiêu đó như thế nào ?
- Xác định xem cần phải kết hợp với những ai.
- Xác định các bước trong việc thực hiện đề án.
- Thời gian thực hiện đề án
- Triển khai thực hiện đề án
14



- Đánh giá đề án
+ Các em đã đạt đựơc những gì ?
+ Các em đã học được điều gì ?
+ Những người tham gia khác đã học được điều gì ?
VD: có thể cho HS tham gia thiết kế và thực hiện các đề án sau:
Khi dạy bài “Đoàn kết, tương trợ”, GV cho HS xây dựng đề án hoạt
động nhằm giúp nhau trong học tập và cuộc sống như: tổ chức trồng rau, nuôi
gà, thu phế liệu… để bán lấy tiền giúp các bạn nhà nghèo trong lớp.
Dạy bài “Biết ơn” cho HS thực hiện đề án tu sửa, làm đẹp nghĩa trang
liệt sĩ quê nhà; đề án giúp các gia đình thương binh liệt sĩ, gia đình có công
với cách mạng.
Dạy bài “Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên” cho HS thực
hiện đề án làm sạch trường lớp, đường làng, ngõ xóm…
Ví dụ: GV hướng dẫn học sinh xây dựng kế hoạch.
- Tên hoạt động : Thu phế liệu bán lấy tiền đề giúp đỡ các bạn nghèo
- Nội dung: Tiến hành thu gom các loại phế liệu: giấy vụn, sắt vụn, chai
lọ..
- Biện pháp thực hiện: Tiến hành tuyên truyền, phổ biến sâu rộng về ý
nghĩa của hoạt động tới tất cả các bạn đội viên trong toàn liên đội, giao chỉ tiêu
cho từng đội viên, cho từng chi đội…. thường xuyên đôn đốc các chi đội thực
hiện một cách tích cực; phối kết hợp với các tổ chức đoàn thể trong và ngoài
nhà trường như : Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên….
- Thời gian thực hiện hoạt động: tiến hành trong tháng 9-10 học kỳ I năm
học
- Địa điểm tiến hành: Thu gom tại phòng Đoàn - Đội của nhà trường
- Người phụ trách: Bạn liên đội trưởng – chỉ đạo chung, kết hợp với các
chi đội trưởng của các chi đội
- Người tham gia: Toàn thể đoàn viên, đội viên của nhà trường.

4.4.6. Phương pháp nêu gương.

15


“Một trăm bài diễn thuyết hay không bằng một tấm gương sống”. Trong
qúa trìng giáo dục nói chung và dạy học môn GDCD nói riêng không thể chỉ
dựa vào lời nói và tư tưởng. Những tấm gương về hành động và hành vi đạo
đức, pháp luật của những người khác trong xã hội có ý nghia to lớn. Vì vậy nêu
gương tích cực là một phương pháp giáo dục có hiệu quả cao.
Ý nghĩa của phương pháp nêu gương tích cực đối với việc giáo dục là ở
chỗ học sinh có khuynh hướng bắt chước và làm theo những hành vi và hành
động mà các em cho là có ý nghĩa và có tác dụng củng cố giá trị của bản thân.
Thực tế trong xã hội hiện nay bên cạnh những biểu hiện tiêu cực đương bị xã
hội lên án, đã và đang xuất hiện nhiều tấm gương tích cực của con người Việt
Nam năng động, sáng tạo, vươn lên chiến thắng nghèo khổ, bệnh tật, dốt nát,
chiến thắng nguy cơ tụt hậu...
Khi sử dụng phương pháp nêu gương trong dạy- học cần lựa chọn các
tấm gương qua đó học sinh có thể nhận thức một cách toàn diện lý tưởng đạo
đức mới, lý tưởng kết hợp với tính tư tưởng và chính trị cao, chiều sâu của tình
cảm đạo đức và sự trong sáng của hành vi . Vì vậy ta cần sử dụng không chỉ
những tấm gương của những học sinh xuất sắc, những người sản xuất tiên tiến,
những chiến sĩ bảo vệ tổ quốc, và các nhân vật trong các tác phẩm văn học mà
cần nhấn mạnh rằng trong hoà bình và thời kỳ “mở cửa” hiện nay, khi tình
trạng đạo đức đang bị xáo động thì những tấm gương “đời thường” rất cần
được coi trọng.
VD: Tấm gương về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh có một sức
mạnh to lớn trong việc giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh. Chúng ta có
thể tổ chức một số hoạt động như nghiên cứu các tác phẩm của người, tổ chức
các buổi nói chuyện, thảo luận… để có thể khai thác đầy đủ những nét phẩm

chất tốt đẹp của Người.
Những tấm gương về những người nông dân rất đỗi bình thường nhưng
họ đã có những việc làm phi thường thể hiện tính “Năng động, sáng tạo”
- Anh nông dân Nguyễn Đức Tâm (Tỉnh Lâm Đồng) đã chế tạo thành
công máy gặt lúa cầm tay, mặc dù anh không học qua một trường kỹ thuật nào.
16


- Bác Nguyễn Cẩm Lũy không qua một lớp đào tạo nào mà bác có thể di
chuyển cả một ngôi nhà, cây đa. Bác được mệnh danh là “Thần đèn”
- Anh Nguyễn Ngọc Ký mặc dù bẩm sinh với đôi tay tật nguyền không
làm việc được, nhưng với ý chí và nghị lực phi thường anh đã dùng chân cầm
bút tập viết để học. Và sau này anh Nguyễn Ngọc Ký của chúng ta đã trở thành
một thầy giáo ưu tú.
- Rồi bạn Hoàn ở trường chúng ta, hoàn cảnh gia đình rất khó khăn bố
mất sớm, mẹ đi lấy chồng bạn phải ở với bà nội . Hàng ngày ngoài việc đi học,
bạn còn phải làm rất nhiều việc để phụ giúp bà của mình . Vậy mà suốt 8 năm
liền bạn luôn đạt danh hiệu là học sinh giỏi của trường…
Chúng ta biết rằng sẽ không có một phương pháp dạy học nào là tối ưu.
Vì vậy trong quá trình dạy- học, tôi luôn kết hợp đa dạng các phương pháp dạy
học vừa cổ truyền, vừa hiện đại. Và mục đích cuối cùng là học sinh hiểu bài cả
về mặt lý thuyết cũng như khả năng vận dụng thực hành.
Trên đây tôi vừa trình bày những quan điểm chung cùng một số hình
thức và phương pháp tổ chức dạy- học môn GDCD luôn gắn liền với cuộc sống
thực tế của học sinh mà bước đầu tôi đã đạt đựơc một số kết quả nhất định
trong công tác giảng dạy của mình.
5. Kết quả đạt được:
Sau một thời gian áp dụng tôi nhận thấy hiệu quả mà sang kiến mang lại
tương đối cao đối với cả học sinh và giáo viên. Chi phí cho việc áp dung sáng
kiến không lớn chủ yếu là đầu tư về thời gian nghiên cứu đổi mới phương pháp

giảng dạy của mỗi tiết. Hiệu quả lớn nhất là giúp học sinh có thêm nhiều kiến
thức xã hội, các em không chỉ hiểu mà còn biết vận dụng vào thực tiễn cuộc
sống. Đó là điều kiện giúp các em hoà nhập vào cuộc sống thực tế một cách tốt
nhất. Không chỉ có vậy các em còn có thể mang hiểu biết của mình giúp các
thành viên trong gia đình và những người xung quanh có hiểu biết đúng về các
chuẩn mực đạo đức và pháp luật.

17


6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng.
Giáo viên trực tiếp giảng dạy phải là những người yêu nghề, có sự tâm
huyết với nghề. Từ đó đầu tư thời gian, công sức nghiên cứu để đổi mới trong
từng tiết dạy.
Ban giám hiệu nhà trường quan tâm đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị
và thường xuyên tạo điều kiện để giáo viên và học sinh có thời gian nghiên cứu
và học tập bộ môn.
Sở giáo dục và phòng giáo dục tổ chức dạy thực nghiệm trên nhiều
trường.

18


KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận.
Khi đã sáng kiến vào áp dụng tôi nhận thấy hiệu quả giảng dạy nâng lên
rõ rệt. Học sinh hứng thú tích cực học tập, các em có những thay đổi hẳn trong
hành vi ứng xử của bản thân.
Mỗi năm học tôi đều kiểm tra 70 học sinh bất kì trong khối. Sau đây
là kết quả :


2010-2011
2011-2012
2012-2013
2013-2014

Số
lượng
70
70
70
70

Giỏi
SL
10
15
19
22

%
14,3
21,4
27,1
31,4

Khá
SL
23
30

35
38

%
32,9
42,9
50,0
54,3

Trung bình
SL
%
37
52,8
25
35,7
16
22,9
10
14,3

Như vậy với kết quả kiểm tra trên tôi thấy mức độ hiểu bài của học
sinh tương đối tốt. Tình trạng học sinh không nắm được bài không còn tồn
tại. Học sinh hứng thú tích cực học tập, giờ học trở lên sôi nổi, hiệu quả
Cần chú ý đến phương pháp giảng dạy trong từng bài học, tạo ra những
tình huống gắn với thực tiễn cuộc sống đê đưa vào bài dạy. Tổ chức khéo léo
các hoạt động như sắm vai hay các cuộc thi nhỏ như: hát, vẽ tranh…liên quan
đến các vấn đề nóng trong thực tiễn.
Đối với học sinh cần giúp các em biết quan sát cuộc sống xung quanh
mình, quan sát các cách ứng xử của mọi người để rút ra cách ứng xử đúng cho

bản thân. Có ý thức hơn nữa trong học tập các bộ môn đặc biệt là môn GDCD.
Sau một thời gian áp dụng các giải pháp tôi nhận thấy học sinh không
chỉ thay đổi theo hướng tích cực về kết quả học tập mà còn tăng khả năng
thích ứng với cuộc sống và kĩ năng ứng biến trong xử lý các tình huống thực
tiễn. Đối với giáo viên cũng có sự thay đổi lớn về tình yêu nghề, hiệu quả giảng
dạy tăng lên rõ rệt.

19


2. Khuyến nghị
Để mở rộng phạm vi áp dụng sáng kiến và cũng là nâng cao hiệu quả
việc dạy- học môn GDCD góp phần giáo dục nhân cách, hoàn thiện tư cách và
trách nhiệm người công dân mới, tôi có một số đề xuất và khuyến nghị sau:
- Tuyên truyền làm thay đổi nhận thức của những nhà giáo dục, giáo
viên, phụ huynh học sinh và học sinh về vị trí , vai trò của bộ môn GDCD.
- Tổ chức các đợt hội thảo trao đổi kinh nghiêm về phương pháp dạy –
học bộ môn ở cấp trường, cấp khu
- Có những hình thức, biện pháp khuyến khích giáo viên tích cực đổi mới
phương pháp giảng dạy bộ môn
- Sớm đưa môn GDCD vào nội dung thi tốt nghiệp ở các trường phổ
thông
- Tổ chức bồi dưỡng thường xuyên về chuyên môn, nghiệp vụ cho đội
ngũ giáo viên giảng dạy bộ môn này.
- Chúng ta cần tăng cường cơ sở vật chất cho môn học, cụ thể là:
+ Các nhà trường cần xây dựng tủ sách pháp luật, bao gồm:
Những sách lý luận về đạo đức, về nhà nước và pháp luật
Hiến pháp và các sách nói về Hiến pháp
Các bộ luật và luật, các nghị định (của chính phủ)
Một số tạp chí và báo

Sách nghiệp vụ giảng dạy đạo đức và pháp luật….
+ Tăng cường các trang thiết bị dạy - học :
Tranh ảnh, hiện vật, các mô hình, các sơ đổ, biểu đồ….
Các phương tiễn kỹ thuật : đèn chiếu, máy chiếu……

PHỤ LỤC
20


1. Giáo án minh hoạ :
Giáo dục công dân 8: Tiết 22: Bài 15.
PHÒNG NGỪA TAI NẠN VŨ KHÍ,
CHÁY, NỔ VÀ CÁC CHẤT ĐỘC HẠI
I.Mục tiêu:
1. Kiến thức :
- Nhận dạng được các loại vũ khí thông thường, chất nổ, độc hại và tính chất
nguy hiểm, tác hại của các loại đó với con người và xã hội.
- Nêu được một số quy định của pháp luật về phòng ngừa tai nạn vũ khí, cháy,
nổ và các chất độc hại.
2. Kĩ năng :
- Biết phòng, chống tai nạn vũ khí, cháy, nổ và các chất độc hại trong cuộc
sống hàng ngày .
3. Thái độ:
- Thường xuyên cảnh giác, đề phòng tai nạn vũ khí, cháy, nổ và các chất độc
hại ở mọi lúc, mọi nơi.
- Có ý thức nhắc nhở mọi người đề phòng tai nạn vũ khí, cháy, nổ và các chất
độc hại.
4. Phát triển năng lực:
- Năng lực hợp tác, sáng tạo, sử dụng ngôn ngữ, giải quyết vấn đề, năng lực
giải quyết vấn đề các nhân và hợp tác giải quyết vấn đề xã hội.

II. Phương tiện dạy học:
- Các tài liệu : Bộ luật Hình sự, luật Phòng cháy và chữa cháy, các thông tin, sự
kiện.
- Máy tính, máy chiếu.
III. Tiến trình hoạt động trên lớp:
1.Ổn định lớp.
2.Kiểm tra bài cũ:
Câu hỏi : Hãy nêu tính nguy hiểm của HIV/AIDS với con người và xã hội ?
- HIV/AIDS là đại dịch của thế giới và Việt Nam.
- Là căn bệnh vô cùng nguy hiểm đối với sức khỏe, tính mạng của con người
và tương lai nòi giống của dân tộc.
- Ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế- xã hội đất nước
=> Gv nhận xét, đánh giá.
- GV: Cô có một số hình ảnh sau, các em hãy nhìn lên màn hình.
H: Quan sát những hình ảnh trên em có suy nghĩ gì?
-HS: Các tai nạn do bom, cháy, nổ và ngộ độc thực phẩm .
GV: Trong cuộc sống hàng ngày, ngoài hiểm họa HIV/AIDS chúng ta còn phải
đối diện với một mối nguy hiểm hết sức ghê gớm đó chính là tai nạn do vũ khí,
cháy, nổ và các chất độc hại. Vậy thực tế các tai nạn này đang diễn ra như thế
nào, cần phòng ngừa chúng ra sao. Cô và các bạn sẽ cùng tìm hiểu trong bài
học hôm nay.
3.Bài mới:
21


Hoạt động của thầy và trò
Kiến thức cơ bản cần đạt
Hoạt động 1
I. Đặt vấn đề
* Nhận biết các loại vũ khí, chất cháy,

chất nổ và chất độc hại.
H: Em hãy kể tên các loại vũ khí, chất
cháy, chất nổ và các chất độc hại mà
em biết?
- Phát vấn HS.
- GV chuẩn kiến thức:

khí Các loại súng, đạn, lựu
thông
đạn, bom, mìn, lưỡi
thường
lê...
Chất cháy Xăng, dầu hỏa
Chất nổ
thuốc nổ, thuốc pháo,
ga...
Chất độc chất phóng xạ, chất
hại
độc da cam, thuốc bảo
vệ thực vật, thuốc bảo
vệ thực vật, thủy
ngân...
(Trình chiếu một số hình ảnh minh
họa)
-Gv giới thiệu với HS các thông tin
trong sách giáo khoa. Giải thích do các
thông tin này là số liệu từ rất lâu rồi. Vì
vậy cô đã đưa vào bài những số liệu
mới để các em cùng tìm hiểu.(Trình
chiếu)

Thông tin 1. Tai nạn bom mìn
-Ảnh vựa phế liệu của anh Nguyễn Văn Quang ở Quảng Trị thu gom phế liệu
bom, mìn...
-Ảnh vụ tai nạn bom bi ở Bố Trạch - Quảng Bình (22/5/2014) làm chết hai em
nhỏ là Phạm Sỹ Hùng và Phạm Hữu Khương.
- Thống kê tai nạn do nổ bom mìn ở Quảng Trị:
Tại Quảng Trị từ 1975 - 2011 có 7086 nạn nhân tai nạn do bom mìn, trong
số 2640 người chết có 31% nạn nhân là trẻ em.
(Theo báo Bảo Vệ Pháp Luật)

Thông tin 2.
Tai nạn do cháy
Theo thống kê trong 10 năm trở lại đây, cả nước đã xảy ra 22.876 vụ cháy.
Hậu quả làm chết 688 người, bị thương 1.848 người. Thiệt hại về tài sản ước
tính trị giá 4.187 tỷ đồng và 42.332 ha rừng có giá trị kinh tế lớn. Đáng lưu ý là
tiềm ẩn nguy cơ xảy ra cháy, nổ, mất an toàn tại các cơ sở kinh doanh xăng
dầu, khí dầu mỏ hoá lỏng trong khu vực nội thành, nội thị.
(Theo cục phòng cháy, chữa cháy Việt Nam)
Thông tin 3. Tai nạn ngộ độc thực phẩm
22


-Chiếu một video về ngộ độc thực phẩm.
-Tình hình ngộ độc thực phẩm ở nước ta từ năm 2010 đến tháng 6/2014
Thời gian
Tổng số vụ ngộ
Số nạn nhân bị
Số người chết
độc
ngộ độc

Từ tháng 1/2010
730
23.526
151
đến tháng 6/2014.
(Theo cục an toàn thực phẩm – Bộ y tế)

Hoạt động nhóm
-Nội dung: Tìm hiểu về thực trạng và
hậu quả của các tai nạn do bom mìn,
chất cháy, chất nổ và các chất độc hại.
- Nhóm 1: Dựa vào thông tin 1: Tìm
hiểu tai nạn do bom mìn.
- Nhóm 2: Dựa vào thông tin 2: Tìm
hiểu tai nạn do cháy.
- Nhóm 3: Dựa vào thông tin 3: Tìm
hiểu về ngộ độc thực phẩm.
+ Thời gian 3 phút.
+ Các nhóm cử đại diện trình bày.
- GV chuẩn kiến thức:
Loại tai nạn
Tai nạn do
bom mìn.

Thực trạng
- Vẫn thường trực đe dọa
cuộc sống người dân, đặc
biệt là với trẻ em.
- Số vụ cháy còn nhiều:
22.876. Nguy cơ xảy ra ở

mọi nơi nhất là ở các cơ sở
kinh doanh xăng dầu.

Hậu quả
- Gây thiệt hại lớn về con
người: 7086 nạn nhân, trong
đó 2640 người chết.
Tai nạn do
- Thiệt hại lớn về người và tài
cháy.
sản. Số người chết: 688, số
người bị thương: 1848. Tổn
thất 4.187 tỉ đồng và 42.332
ha rừng.
Tai nạn do ngộ - Số vụ ngộ độc lên đến 730 - Ảnh hưởng đến sức khỏe và
độc thực phẩm. vụ và số nạn nhân hàng năm tính mạng con người: Số nạn
vẫn rất lớn.
nhân là 23.526, số người chết
151 người.
H: Qua việc nghiên cứu các thông tin
trên em có nhận xét chung gì về tình
hình tai nạn do vũ khí...và hậu quả của
nó ?
- Các tai nạn do vũ khí, cháy, nổ và
-HS: Các tai nạn trên diễn ra hàng ngày
các chất độc hại diễn ra hàng ngày,
và gây hậu quả vô cùng lớn về người và gây hậu quả nặng nề.
của.
- GV nhận xét, dẫn dắt => Đây cũng
chính là nội dung thứ nhất trong phần

Nội dung bài học.
Hoạt động 2
II.Nội dung bài học
23


1. Con người vẫn phải đối mặt với
thảm họa do vũ khí, cháy, nổ và
các chất độc hại. Gây tổn thất lớn
H: Em hãy kể một số ví dụ về tai nạn vầ người và tài sản.
do vũ khí, cháy, nổ và các chất độc hại
xảy ra quanh em?
- Phát vấn học sinh.
- GV nêu thêm: Nổ xưởng sản xuất pháo
hoa của Bộ Quốc Phòng, cháy công ti
TNHH Sakata INX ở Bình Dương,
Tháng 12/2013 ở Hạ Long – Quảng Ninh
đã xảy ra các vụ ngộ độc rượu nếp 29 –
Hà Nội lô sản xuất ngày 12/10/2013 làm
6 người tử vong...
+ Chiếu video về cháy trung tâm
thương mại Hải Dương.
-Phát vấn HS về:
+Thời gian cháy ? (1h sáng ngày
15/9/2013)
+Nguyên nhân cháy ? (Do thiếu trách
nhiệm của nhân viên bảo vệ và ban quản
lí trung tâm thương mại).
+Hậu quả ?( Từ 400 – 500 tỉ đồng, nhiều
hộ dân trắng tay, hiện đã phá đi hoàn

toàn và chưa biết đến bao giờ mới được
xây dựng lại để người dân tiếp tục công
việc)
H: Trong lớp chúng ta có nhà bạn nào
kinh doanh trong Trung tâm thương
mại Hải Dương không ?
-Phát vấn HS.
(Nếu có thì GV hỏi thăm về thực tế tổn
thất do vụ cháy trên gây ra, động viên
các em).
-GV nhấn mạnh: Do hậu quả quá nặng
nề mà các hộ kinh doanh phải gánh chịu
nên hiện nay con em của các gia đình
này đi học đều được miễn giảm học phí.
H: Vậy trước những hậu quả ghê gớm
mà các tai nạn do vũ khí, cháy, nổ và
các chất độc hại gây ra, chúng ta cần
phải làm gì?
-Chú ý phòng ngừa.
-GV: Vậy nhà nước đã có những quy
24


định nhằm phòng ngừa các tai nạn trên
như thế nào. Cô và các em cùng tìm hiểu
sang mục 2.
2.Các quy đinh về phòng ngừa tai
nạn vũ khí, cháy, nổ và các chất
Dựa vào hiểu biết của bản thân và việc độc hại.
tìm hiểu nội dung bài học, em hãy:

H: Cho biết Nhà nước có những quy
định gì nhằm phòng ngừa các tai nạn
nêu trên?
-Phát vấn HS.
-GV nhận xét, chiếu các quy định .
-Cấm tàng trữ, vận chuyển, buôn
bán, sử dụng trái phép.
-Chỉ những cơ quan, tổ chức, cá
nhân được Nhà nước giao nhiệm vụ
mới được giữ, chuyên chở và sử
dụng.
- GV: Để đảm bảo cho những quy định -Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có
trên được thực hiện nghiêm chỉnh, Nhà trách nhiệm...phải được huấn luyện
nước cụ thể hóa các quy định này trong về chuyên môn, có đủ phương tiện
các văn bản pháp luật như:
và luôn tuân thủ các quy định về an
+Luật hình sự: Điều 232, 233, 234, 235, toàn.
236, 237, 238, 239, 240 .
+Luật phòng cháy chữa cháy.
-HS đọc .
H: Theo em trên cả nước việc thực
hiện các quy định này đã tốt chưa ?
-Nhiều nơi thực hiện tốt .
-GV: Trong thực tế, hầu hết các địa
phương trên cả nước ta đang nỗ lực thực
hiện tốt các quy định trên. Một địa
phương đi đầu trong việc thực hiện là
Quảng Trị.
Trong cuộc kháng chiến chống đế
quốc Mĩ, Quảng Trị được mệnh danh là

túi bom của cả nước. Ngày nay chiến
tranh đã lùi xa nhưng người dân Quảng
Trị vẫn phải đối mặt với những mối nguy
hiểm do bom mìn gây ra. Vì vậy mà
Quảng Trị đã có nhiều biện pháp nhằm
phòng ngừa tai nạn do bom mìn gây ra:
-Đưa vào giảng dạy.
-Tuyên truyền qua các hội thi.
-Đặt biển cảnh báo.
-Đẩy mạnh công tác rà phá bom mìn.
Bên cạnh những mặt đã đạt được,
25


×