Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Phương pháp nêu vấn đề trong quá trình giảng dạy môn Giao dục công dân ở bậc Trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.95 KB, 22 trang )









SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG
QUÁ TRÌNH GIẢNG DẠY MÔN GDCD
Ở BẬC THPT




PHẦN MỞ ĐẦU
I. Bối cảnh của đề tài
Môn giáo dục công dân (GDCD) là một môn khoa học xã hội. Mục tiêu
của môn học là trao dồi, bồi dưỡng những tri thức cần thiết để cho học sinh trở
thành người công dân có ích cho đất nước. Cùng với các bộ môn khoa học khác
nó đào tạo những người công dân mới vừa có tri thức khoa học, có đạo đức, có
năng lực hoạt động thực tiễn, có ý thức trách nhiệm đối vớ
i cộng đồng và đối với
bản thân. Trong đó môn GDCD có vai trò quan trọng trong việc trang bị cho học
sinh hệ thống tri thức khoa học cơ bản, phổ thông, thiết thực về đạo đức, pháp
luật, đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước. Qua đó
hình thành và phát triển ở học sinh thế giới quan khoa học, nhân sinh quan tiến bộ
và từng bước hình thành cho học sinh thói quen, kỹ năng vận dụ
ng tri thức đã học


vào cuộc sống. Chúng ta sẽ không đạt đựợc những mục tiêu đó nếu như người
dạy vận dụng không tốt các phương pháp trong giảng dạy môn GDCD. Nhất là áp
dụng các phương pháp để học sinh liên hệ, vận dụng kiến thức đã học vào thực
tiễn, trong đó có “phương pháp nêu vấn đề trong giảng dạy môn GDCD”
Với những mục tiêu, yêu cầu của môn GDCD như đ
ã nêu thì việc áp dụng
các phương pháp dạy học của giáo viên ở trường THPT trong thời gian qua chưa
đạt được hiệu quả giáo dục của chương trình đã đặt ra. Vì một trong những trọng
tâm của đổi mới chương trình, sách giáo khoa là tập trung vào đổi mới phương
pháp dạy – học, thực hiện dạy - học dựa vào hoạt động tích cực, chủ động của
học sinh dưới sự tổ chức, h
ướng dẫn của giáo viên nhằm phát triển tư duy độc
lập, sáng tạo, góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu tự học, tạo niềm tin
và hứng thú cho học sinh trong học tập. Thì việc vận dụng “phương pháp nêu vấn
đề trong dạy – học môn GDCD” là cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
II. Lí do chọn đề tài
Để góp phần đào tạo những con người mới phát triển toàn diện nhằm đáp
ứng yêu cầu c
ủa địa phương, của đất nước trong tình hình mới.
Để nâng cao chất lượng dạy - học cho phù hợp với mục tiêu của giáo dục
hiện đại, một yêu cầu được đặt ra cho đội ngũ giáo viên là phải đổi mới phương
pháp dạy học, chuyển từ lấy giáo viên làm trung tâm sang hướng lấy học sinh làm
trung tâm. Môn GDCD ở trường THPT cũng phải đáp ứng yêu cầu đó. Đổi mới



phương pháp dạy học đối với môn GDCD thực chất là giải quyết vấn đề: làm thế
nào để phát huy tính tích cực, chủ động tìm hiểu kiến thức của học sinh? Hình
thành và phát triển kỹ năng học tập bộ môn cho học sinh, giáo viên cần đặt cho
học sinh trước những tình huống có vấn đề một cách thực tế, sinh động nhằm

kích thích sự tìm tòi, sáng tạo của học sinh trong học tập.
Đ
ó là cách dạy học nêu vấn đề, nó có thể đáp ứng được phần nào yêu cầu
của nền giáo dục hiện đại. Người thầy giữ vai trò là người hướng dẫn, học sinh
chủ động, tự giác trong học tập. Với một bài soạn được thiết kế theo nhiều tình
huống khác nhau xoay quanh một vài đơn vị kiến thức, giáo viên sẽ điều khiển
toàn bộ quá trình học tập, lôi cuốn h
ọc sinh tham gia tích cực vào việc tự tìm hiểu
và chiếm lĩnh kiến thức, đồng thời cũng tự đánh giá về những kết quả tiếp thu
nhận được của bản thân. Đây là phương pháp được vận dụng nhiều không chỉ
riêng bộ môn GDCD mà còn trong các môn khoa học khác nữa.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận đổi mới phương pháp dạy - học và kinh
nghiệm của bản thân trong thực tế giảng d
ạy, tôi xin ghi nhận lại những việc đã
và đang làm của bản thân đạt được những kết quả nhất định trong việc áp dụng
“phương pháp nêu vấn đề trong quá trình giảng dạy môn GDCD ở bậc THPT”.
III. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài “phương pháp nêu vấn đề trong dạy- học môn GDCD- bậc THPT”
của tôi chỉ giới hạn trong phạm vi các bài học công dân với pháp luật của khối
lớp 12 và việc v
ận dụng phương pháp nêu vấn đề trong quá trình giảng dạy môn
GDCD với một số lớp 12 của trường THPT Chu Văn An, huyện Phú Tân, tỉnh
An Giang.
IV. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu
- Việc sử dụng “phương pháp nêu vấn đề trong giảng dạy môn GDCD ở
trường THPT” là vấn đề không mới, nhưng vẫn còn nhiều giáo viên dạy môn
GDCD vẫn chưa khai thác triệt để thế mạnh củ
a phương pháp này. Trong phạm
vi bài viết này tôi xin nêu tóm tắt, cơ bản nhất về lí luận của phương pháp nêu
vấn đề và tập trung nêu ra các ví dụ cụ thể trong một số phần trong các bài

GDCD lớp 12 bằng những “tình huống có vấn đề” giáo viên nêu ra vấn đề để cho
học sinh giải quyết sát với nội dung bài học, gần gũi với thực tiễn cuộc sống mà
các em đã ít nhiều được nghe, nhìn thấy hoặc đ
ã từng làm. Giáo viên cũng cần



gợi ý cho học sinh phát hiện và biết cách tự đặt ra được các vấn đề bức xúc của
cuộc sống hằng ngày để cùng bàn bạc giải quyết một cách có hiệu quả.
- Khi áp dụng “phương pháp nêu vấn đề trong quá trình giảng môn
GDCD bậc THPT” tôi nhận thấy học sinh đã có nhận thức đúng về vị trí, vai trò
của môn GDCD trong nhà trường. Cụ thể là các em đã chấp hành tốt nội qui của
trường và các qui đị
nh của pháp luật, đồng thời nhận thức đúng về ý nghĩa và tầm
quan trọng của pháp luật trong đời sống của mỗi con người, biết tuyên truyền,
vận động mọi người cùng thực hiện tốt các qui định của pháp luật trong đời sống
hằng ngày.
PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận
Giảng dạy môn GDCD ở trường THPT đòi hỏi mỗi người giáo viên
phải giúp cho học sinh lĩnh hội chính xác, đầy đủ hệ thống tri thức khoa học cơ
bản, phổ thông, thiết thực về đạo đức, pháp luật, đường lối chủ trương của Đảng,
pháp luật của nhà nước. Qua
đó hình thành và phát triển ở
học sinh thế giới quan khoa
học, nhân sinh quan tiế
n bộ
và từng bước hình thành cho
học sinh thói quen, kỹ năng
vận dụng tri thức đã học vào

thực tiễn. Luật giáo dục nước
cộng ḥòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005 được Quốc Hội thông qua
ngày 14 tháng 6 năm 2005 (ở điều 5, khoản 2) đã ghi nhận: “Phương pháp giáo
dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học;
bồi dưỡ
ng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học
tập và ý chí vươn lên”
Bản chất của dạy - học là quá trình giảng dạy của giáo viên và học tập của
học sinh. Sự tác động qua lại của quá trình trên làm cho các nhà khoa học sư
phạm nghiên cứu và xây dựng thành các phương pháp dạy học. Trong đó phương
pháp “nêu vấn đề” trong giảng dạy là một thành tựu của lí luận dạy họ
c. Đó là
bước tiến của khoa học sư phạm. Các phương pháp dạy cũ chủ yếu làm cho học
Một buổi sinh hoạt chuyên đề của HS trường THPT Chu Văn An.



sinh dễ hiểu, dễ nhớ, thuộc lòng bài học. Giáo viên dùng mọi cách để tác động
vào học sinh sao cho trong một thời gian xác định học sinh tiếp thu một khối
lượng tri thức nhất định. Với phương pháp giảng dạy như vậy, thì học sinh sẽ tiếp
thu tri thức một cách thụ động, ít sáng tạo.
“Phương pháp nêu vấn đề” trong giảng dạy sẽ kích thích nhu cầu tiếp nhận
tri thức của học sinh, t
ừng bước hình thành và phát triển tư duy độc lập, sáng tạo,
biết tự đặt ra và giải quyết những vấn đề của cuộc sống. “Phương pháp nêu vấn
đề trong giảng dạy môn GDCD” ngoài việc cung cấp tri thức bộ môn cho học
sinh, nó còn xây dựng và phát triển thói quen vận dụng tri thức đã có để giải
quyết những vấn đề, tình huống trong cuộc sống và nắm được bản chất của sự
vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
II. Thực trạng của đề tài

1. Thuận lợi
- “Phương pháp nêu vấn đề” là một phương pháp được áp dụng khá phổ
biến trong môn GDCD và các môn học khác trong nhà trường phổ thông, nên
giáo viên và học sinh áp dụng cũng rất dễ dàng, phương pháp này dễ kết hợp với
các phương pháp khác trong quá trình giảng dạy của giáo viên và học tập của học
sinh.
- Ban giám hiệu nhà trường quan tâm nhiều đến giáo d
ục toàn diện cho học
sinh, nhất là giáo dục về đạo đức, nhân cách và các kỹ năng sống.
- Nhận thức được việc đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập là một
trong những vấn đề cấp thiết hiện nay ở nước ta, Đảng và Nhà nước cũng như bộ
giáo dục- đào tạo đã đưa ra nhiều nghị quyết, chỉ thị nhằm thúc đẩy việ
c đổi mới
phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học, bậc học. “Đổi mới phương pháp dạy
và học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người học, coi trọng
thực hành, thực nghiệm, ngoại khóa, làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt,
học chay.” Riêng môn GDCD thì bộ giáo dục – đào tạo đã tổ chức nhiều hội ngh

về đổi mới phương pháp dạy - học, đặc biệt là hội nghị ở Đà Lạt- tỉnh Lâm Đồng
vào tháng 4 năm 2009, do thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển chủ trì để bàn về “Đổi
mới kiểm tra đánh giá, thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy - học môn GDCD”. Từ
đó đến nay có nhiều đợt tập huấn về môn GDCD để nâng cao chất lượng dạy –
học .



- Gần đây Bộ giáo dục - đào tạo ban hành thông tư 58 của hướng dẫn đánh
giá, nhận xét và tham gia xếp loại hạnh kiểm của giáo viên dạy môn GDCD đã
làm cho phụ huynh học sinh, cán bộ quản lí giáo dục các cấp và học sinh quan
tâm nhiều hơn đến môn GDCD.

2. Khó khăn
- Từ lúc môn GDCD chưa có sách giáo khoa (mà chỉ là tài liệu giáo dục công
dân) thì đã có những nhận thức sai lệch về vị trí, vai trò của môn GDCD trong
nhà trường phổ thông. Hiện nay,
đã có sách giáo khoa, được xác định là bộ môn
khoa học thuộc khoa học xã hội, có vai trò quan trọng trong hình thành nhân cách
cho học sinh…nhưng vẫn còn những nhận thức sai lệch về vị trí, vai trò của môn
GDCD và có thể nêu tóm tắt ở mấy vấn đề sau đây:
 Một là: Xem GDCD là môn chính trị thuần tuý, chủ yếu là tuyên truyền về
đường lối của Đảng Cộng Sản Việt Nam, pháp luật của nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Vi
ệt Nam .
 Hai là: Xem GDCD là môn học phụ (thứ yếu – không quan trọng).
 Ba là: Do xem là môn phụ, nên trong tổ chức thi cử môn GDCD không
được tham gia vào các kỳ thi quan trọng như: thi tốt nghiệp trung học phổ thông
(THPT), thi học sinh giỏi cấp THPT trong phạm vi toàn quốc, thi tuyển sinh đại
học sư phạm cho những thí sinh đăng ký học ngành giáo dục chính trị (sau này
làm giáo viên dạy GDCD) mà không thi môn GDCD, chỉ thi khối C: Văn, Sử,
Địa.
- Trước đây giáo viên thường sử dụng các phương pháp giả
ng dạy chủ yếu
là: giảng giải, diễn giảng, vấn đáp, đàm thoại mục đích là làm cho học sinh dễ
hiểu, dễ nhớ, thuộc lòng bài học. Với phương pháp giảng dạy như vậy, thì học
sinh sẽ tiếp thu tri thức một cách thụ động, ít sáng tạo. Nhiều học sinh đã phát
biểu như thế này: “thầy, cô giáo giảng môn GDCD rất hay nhưng không vận
dụng được kiế
n để giải quyết tốt những vấn đề của cuộc sống đặt ra”, không hứng
thú cho học sinh.
- Với những mục tiêu, yêu cầu của môn GDCD như đã nêu thì việc áp dụng
các phương pháp dạy học của giáo viên ở trường THPT trong thời gian qua chưa

đạt được hiệu quả giáo dục của chương trình đã đặt ra.
* Xuất phát từ những thực tế nêu trên là một giáo viên trung học, dạy môn
GDCD. Tôi luôn suy nghĩ
phải làm sao để sử dụng một cách có hiệu quả các



phương pháp giảng dạy của mình để cho mỗi giờ giảng phải đạt kết quả như mục
tiêu môn học đề ra và xuất phát từ đặc trưng của bộ môn GDCD. Nên sử dụng
“phương pháp nêu vấn đề trong dạy- học môn GDCD” là phù hợp với mục tiêu,
yêu cầu của bộ môn trong tình hình hiện nay.
III. Các biện pháp tiến hành để giải quyết vấn đề
1. Kinh nghiệm áp dụng
Đối với môn GDCD, trong giả
ng dạy giáo viên phải dùng lời nói để giải
thích nhiều, nên việc vận dụng “phương pháp nêu vấn đề trong việc dạy môn
GDCD” ở nhà trường THPT có ý nghĩa rất quan trọng đối với người dạy và
người học. Giáo viên phải từng bước hình thành ở học sinh thói quen tuân theo,
biết cách vận dụng các quy luật khách quan, biết sử dụng các tri thức đã có được
vào nhận thức và hoạt động thực tiễn trong công việc hằ
ng ngày.
“Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD” ở trường THPT
xuất phát từ chính bộ môn. Là môn học trang bị cho học sinh những tri thức cơ
bản, thiết thực về thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, phương
pháp tư duy khoa học, với những kiến thức trừu tượng, khái quát cao. Để đáp ứng
được yêu cầu, nhiệm vụ của môn học thì phải có phương pháp truyền thụ và lĩnh
hộ
i có hiệu quả. Đó là “phương pháp dạy – học nêu vấn đề”. Học sinh sẽ nắm
vững, hiểu sâu và rộng những kiến thức mà giáo viên truyền đạt.
Tuy “phương pháp nêu vấn đề trong giảng dạy GDCD” có tác dụng to lớn

trong việc truyền đạt và lĩnh hội tri thức, nhưng nó cũng không thể xem là một
phương pháp vạn năng, được áp dụng cho mọi bài học, mọi đơn vị kiến thức c
ủa
môn GDCD trong trường THPT. Tùy theo từng bài giảng, từng nội dung bài học
và đối tượng học sinh mà giáo viên lựa chọn và áp dụng phương pháp dạy phù
hợp mới có hiệu quả.
2. Các giải pháp thực hiện
Giảng dạy
môn GDCD ở
trường THPT là
một trong những
hoạt động giáo dục
và giáo dưỡng của
hhh
hh



giáo viên, thông qua việc truyền đạt kiến thức để tác động đến học sinh nhằm
hình thành nhân cách cho các em. “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn
GDCD”, có vai trò góp phần thực hiện thành công mục tiêu đổi mới phương pháp
dạy - học môn GDCD. Sử dụng các phương pháp dạy - học môn GDCD là phải
chú ý phát huy tính độc lập, sáng tạo của học sinh để các em có thể xử lí tốt với
mọi tình huống và tự giải quyết các vấn đề
của cuộc sống đặt ra. Giáo viên không
chỉ có nhiệm vụ truyền thụ những kết luận có sẵn mà nêu ra những tình huống có
vấn đề để học sinh giải quyết.
2.1. Quan niệm về phương pháp nêu vấn đề:
Đặt ra và giải quyết vấn đề là những thành tố tất yếu của dạy học nêu vấn
đề. Với tư cách là kết quả, giải quyết vấn

đề sẽ hình thành ở học sinh sự hiểu biết
bản chất của hiện tượng hay sự kiện nào đó. Đương nhiên, việc đặt ra và giải
quyết vấn đề học sinh chỉ có thể đạt được kết quả dưới sự hướng dẫn của giáo
viên và cùng với giáo viên thực hiện. Do đó, giảng dạy nêu vấn đề là sự giải thích
một hiện tượng hay một sự
kiện nào đó thông qua việc đặt ra và giải quyết vấn đề
do học sinh thực hiện cùng với giáo viên và dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Như vậy, hạt nhân của giảng dạy nêu vấn đề là việc hình thành vấn đề, ở đây vai
trò của giáo viên rất quan trọng. Giáo viên có thể dùng hệ thống câu hỏi phù hợp
với nội dung kiến thức của bài học và đối tượng học sinh để
đưa các em vào tình
huống có vấn đề, hoặc dưới sự hướng dẫn của giáo viên học sinh có thể tự đưa
mình vào tình huống có vấn đề. Kết quả của việc giảng dạy nêu vấn đề không chỉ
là tổng số các đơn vị tri thức mà học sinh thu nhận được mà còn hình thành ở học
sinh ý nghĩa bên trong của các hiện tượng, sự kiện tức là hiểu bản chất của sự vậ
t,
hiện tượng, sự kiện. Trong khi giải quyết vấn đề, tùy theo mức độ câu hỏi và trình
độ của học sinh mà giáo viên có thể gợi ý hoặc không gợi ý để học sinh giải
quyết vấn đề. Nhưng quan trọng nhất là sau khi học sinh giải quyết vấn đề xong,
giáo viên phải nhận xét, đánh giá, hệ thống hóa tri thức cần thu nhận.
2.2. Tình huống có vấn đề: là sự mâu thuẫn giữa nhữ
ng tri thức đã biết
với những tri thức chưa biết, mâu thuẫn này chỉ có thể giải quyết được nhờ vào
sự tích cực trong suy nghĩ và sự sáng tạo của học sinh trong học tập. Việc xác
định được các tình huống có vấn đề trong bài dạy giữ vai trò quyết định sự thành
công của giáo viên khi thực hiện “phương pháp dạy - học nêu vấn đề”. Trên cơ sở
Mô hình học tập theo nhóm




mục đích- yêu cầu của từng bài học giáo viên sẽ xác định những kiến thức nào là
trọng tâm mà thầy và trò cùng giải quyết.
Ví dụ 1: Bài 1: “pháp luật và cuộc sống” (lớp 12). Giáo viên có thể nêu vấn
đề thế này: pháp luật có phải là những điều cấm đoán làm hạn chế tự do của con
người không?
Vấn đề được đặt ra là: thoáng qua thì pháp luật là những điều cấm đoán làm
hạn ch
ế, mất tự do của con người, nhưng vấn đề đặt ra cho học sinh giải quyết
“pháp luật có phải là những điều cấm đoán làm hạn chế tự do của con người
không?”
Hướng giải quyết vấn đề: giáo viên tiếp tục nêu vấn đề “trong xã hội hiện
nay nếu như không có luật giao thông đường bộ thì sẽ thế nào? Vì sao như thế?
hoặc giáo viên có thể nêu vấn đề khác nh
ư: trong gia đình cha mẹ không quy định
gì về thời gian học hành, vui chơi, giải trí, nhưng sau đó bất ngờ kiểm tra đột
xuất và phạt nặng vì vi phạm những qui định “tùy hứng”, “chủ quan, áp đặt” của
cha mẹ hoặc ở trường không có nội qui, qui định thì việc học tập, vui chơi của
các em có thuận lợi không? Vì sao như vậy?
Sau đó giáo viên kết luận hoặc hướng dẫn học sinh kết lu
ận vấn đề: pháp
luật không phải là những điều cấm đoán, làm hạn chế tự do của con người mà nó
còn tạo điều kiện thuận lợi đề mỗi con người đều được tự do trong lao động, học
tập, vui chơi- giải trí, nghiên cứu khoa học, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
công dân
Ví dụ 2 : Bài 2: “Thực hiện pháp luật” (lớp 12). Giáo viên có thể nêu vấn
đề
để củng cố cả bài học: hãy nêu một tình huống pháp luật và chỉ ra đủ các hình
thức thực hiện pháp luật trong tình huống đó?
Vấn đề đặt ra là: học sinh phải vận dụng kiến thức môn Ngữ Văn và kiến
thức pháp luật của môn GDCD để xây dựng một tình huống và chỉ ra bốn hình

thức thực hiện pháp luật trong tình huống đó.
Hướng giải quyết vấn
đề: giáo viên lưu ý cho học sinh phải hiểu được nội
dung của bốn hình thức thực hiện pháp để từ đó đưa vào tình huống cho phù hợp.
Từ sử dụng pháp luật, thi hành pháp luật, tuân thủ pháp luật đến áp dụng pháp
luật một cách hợp lôgic, sát thực tiễn cuộc sống.
Sau đó giáo viên kết luận hoặc hướng dẫn học sinh kết luận vấn đề: bằng
cách lấy một tình hu
ống của học sinh làm tốt để chia sẻ cho cả lớp tham khảo,



học tập. Hoặc giáo viên nêu ra một tình huống pháp luật gợi ý thế này: “Ông
Trần Văn T vừa trúng được hai vé số đặc biệt. Do có kinh nghiệm trong lĩnh vực
xây dựng nên Ông quyết định thành lập công ty TNHH xây dựng “ Văn T” và
được cơ quan có thẩm quyền công nhận; Công ty “ Văn T” thực hiện việc mở sổ
kế toán đúng quy định của pháp luật và đóng thuế đúng số, đủ kì; do chủ quan
nên Ông Trần Vă
n T không kiểm tra việc thuê lao động, để cho người chưa thành
niên làm những công việc nặng nhọc trên công trường và bị thanh tra xây dựng
xử phạt về hành vi nhận người chưa thành niên làm những công việc nặng nhọc
trái với luật lao động đã qui định”.

* Bốn hình thức thực hiện pháp luật trong tình huống trên có thể nêu
ra thế như thế này:
+ Hình thức thực hiện pháp luật
: là Ông Trần Văn T thành lập công ty
TNHH xây dựng “ Văn T” và được cơ quan có thẩm quyền công nhận- quyền của
Ông T.
+ Hình thức thi hành pháp luật

: là Công ty “ Văn T” thực hiện việc mở sổ
kế toán đúng quy định của pháp luật về thuế và đóng thuế đúng số, đủ kì- nghĩa
vụ buộc mà Ông T phải làm khi tham gia kinh doanh.
+ Hình thức tuân thủ pháp luật
: là Ông Trần Văn T sử dụng người chưa
thành niên làm những công việc nặng nhọc trái với luật lao động đã qui định.
Trong khi pháp luật về lao động cấm sử dụng người chưa thành niên làm những
công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm- Ông T đã làm điều mà pháp luật cấm
không được làm.
+ Hình thức áp dụng pháp luật
: là Ông Trần Văn T, giám đốc công ty
TNHH xây dựng “ Văn T” bị cơ quan thanh tra xây dựng xử phạt về hành vi sử
dụng người lao động chưa đủ tuổi theo qui định của luật lao động để làm công
việc nặng nhọc- thanh tra xây dựng là cơ quan có thẩm quuyền căn cứ vào qui
định của pháp luật để xử lí vi phạm.
2.3. Xây dựng hệ thống câu hỏi tình huống có vấn đề. Hệ thống câu
hỏi bao gồm câu hỏi tái hiện, so sánh, phân tích, khái quát hóa, tìm tòi phát
hiện để dẫn dắt học sinh giải quyết vấn đề do giáo viên đặt ra.



Ví dụ : Bài 2: “Thực hiện pháp luật” (lớp 12)- phần “Bản chất xã hội của
pháp luật” Giáo viên có thể nêu các câu hỏi có vấn đề sau và yêu cầu học sinh
giải quyết:
- Theo em, hai nhà nước có cùng một chế độ chính trị - xã hội thì pháp
luật có giống nhau hoàn toàn hay không? Vì sao?
- Ở một quốc gia, cùng một giai cấp thống trị thì ở những giai đoạn khác
nhau pháp luật có khác nhau hay không? Vì sao?
Vấn đề đặt ra là: ở hai nhà nước nhưng có cùng mộ
t chế độ chính trị- xã

hội pháp luật có giống nhau không? Vì sao? Và ở trong một đất nước, cùng một
giai cấp thống trị thì ở những giai đoạn khác nhau pháp luật có khác nhau hay
không? Vì sao?
Hướng giải quyết vấn đề: học sinh nắm được lý luận về nhà nước và pháp
luật đã học từ phần 2 lớp 11, những kiến thức của lớp 12, liên hệ thực tế nước ta
và các vốn số
ng của các em sẵn có để giải quyết hai câu hỏi nêu trên, để từ đó đi
vào nội dung “bản chất xã hội của pháp luật”
Sau đó giáo viên kết luận hoặc hướng dẫn học sinh kết luận vấn đề:
+ Những nhà nước có chế độ chính trị- xã hội giống nhau nhưng pháp luật
do các nhà nước đó ban hành không hoàn toàn giống nhau, vì các nhà nước đó
tồn tại trong những xã hội khác nhau, có những điề
u kiện lịch sử, kinh tế, phong
tục tập quán và lối sống khác nhau. (Nêu ví dụ cụ thể để chứng minh).
+ Ở cùng một quốc gia, cùng một giai cấp thống trị thì ở những giai đoạn
phát triển khác nhau pháp luật luôn có sự thay đổi. Vì thực tiễn đời sống xã hội
luôn không ngừng thay đổi, làm cho các quan hệ xã hội cũng thay đổi theo. Do
đó, pháp luật phải thay đổi theo cho phù hợp xu thế phát triển của xã hội và
những biến đổi trong đời sống. Giáo viên có thể nêu hoặc yêu cầu học sinh nêu
các ví dụ để chứng minh cho sự thay đổi của thực tiễn đời sống xã hội làm cho
pháp luật thay đổi theo.
2.4. Học sinh nêu ra
những cách giải quyết tình
huống có vấn đê. Giáo viên
ghi lên bảng và cho học sinh
chứng minh hay bác bỏ các



cách giải quyết của học sinh. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh sẽ đối

chiếu cách giải quyết của học sinh với kết quả cuối cùng để kết luận nội dung bản
chất xã hội của pháp luật như ví dụ trên và hướng dẫn học sinh ghi bài.
2.5. Trong “dạy - học nêu vấn đề môn GDCD - bậc THPT” có thể
phân thành bốn mức độ sau đây:
Mức độ th
ứ nhất: giáo viên đặt vấn đề, nêu cách giải quyết vấn đề. Học
sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề theo hướng dẫn của giáo viên. giáo viên
đánh giá kết quả làm việc của học sinh.
Ví dụ: ở bài 1, lớp 12, phần 1. b- (các đặc trưng của pháp luật/ tính quyền
lực bắt buột chung), giáo viên nêu vấn đề như thế này: nếu không đảm bảo tính
quy phạm phổ biến của pháp luật thì đi
ều gì sẽ xảy ra? Nhà nước sẽ làm gì đối
với những người xử sự không đúng với những qui định của pháp luật?
Sau khi nêu vấn đề, giáo viên hướng dẫn cho học sinh cách giải quyết vấn
đề, thông qua thực tế cuộc sống. Bằng những ví dụ cụ thể hãy nêu ra những việc
xảy ra nếu tính quy phạm phổ biến của pháp luật không được thực hiện? Nhà
nước làm gì khi có ai đ
ó vi phạm pháp luật?
Học sinh trả lời theo hướng dẫn của giáo viên, giáo viên ghi nhận những ý
kiến của các em trên bảng, cuối cùng giáo viên đánh giá kết quả của học sinh và
kết luận như sau:
+ Nếu không đảm bảo được tính quy phạm phổ biến của pháp luật sẽ không
đảm bảo được sự công bằng, bình đẳng trong quá trình thực hiện pháp luật trong
xã hội.
+ Những người xử sự không đúng v
ới những qui định của pháp luật sẽ bị cơ
quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cần thiết, kể cả cưỡng chế,
để buộc họ phải tuân theo hoặc khắc phục hậu quả do việc làm trái pháp luật của
họ đã gây ra.
Mức độ thứ hai

: giáo viên nêu vấn đề, gợi ý để học sinh tìm ra cách giải
quyết vấn đề. Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề với sự giúp đỡ của giáo
viên khi cần giáo viên và học sinh cùng đánh giá.
Ví dụ 1: ở bài 4, lớp 12, phần 3. bình đẳng trong kinh doanh, giáo viên nêu
vấn đề: chính sách và luật bình đẳng giới nước ta qui định “ưu tiên hỗ trợ doanh
nghiệp do phụ nữ làm chủ”, theo em có mâu thuẫn với qui định nam, nữ bình
đẳng trong kinh doanh hay không? Vì sao?



Giáo viên gợi ý để học sinh hiểu đựợc chính sách, luật luật đẳng giới và thực
tế trong gia đình và ngoài xã hội để các em giải quyết vấn đề, giáo viên kịp thời
hỗ trợ để các em đi đúng hướng và tự đánh giá, khi cần thì giáo viên có thể cùng
học sinh đánh giá kết quả.
Học sinh và giáo viên đánh giá theo các nội dung sau đây: chính sách bình
đẳng giới nước ta quy định “ưu tiên hỗ trợ doanh nghiệp do phụ nữ làm ch
ủ”,
không mâu thuẫn với quy định bình đẳng nam, nữ trong kinh doanh. Bởi vì,
người phụ nữ có những đặc điểm về cơ thể, sinh lí và các chức năng làm mẹ, làm
vợ trong gia đình đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc tham gia hoạt động kinh
doanh của phụ nữ. Nên chính sách nhà nước qui định như thế để đảm bảo bình
đẳng giữa nam và nữ trong kinh doanh.
Ví dụ 2: ở bài 2, lớp 12, phần 2. vi phạ
m pháp luật và trách nhiệm pháp lí,
giáo viên nêu vấn đề để kiểm tra kiến thức cũ hoặc củng cố bài: hãy nêu một tình
huống pháp luật và chỉ ra các dấu hiệu cơ bản của vi phạm pháp luật trong tình
huống đó.
Vấn đề đặt ra là: học sinh phải vận dụng kiến thức liên môn để xây dựng
một tình huống và chỉ ra ba dấu hiệu cơ bản của vi phạm pháp luật trong tình
huống

đó.
Hướng giải quyết vấn đề: giáo viên lưu ý học sinh phải hiểu thế nào là hành
vi trái pháp luật, thế nào là người có năng lực trách nhiệm pháp lí và người vi
phạm pháp luật phải có lỗi là thế nào, từ đó xây dựng một tình huống sát thực tế
cuộc sống nhưng có đủ ba dấu hiệu của vi phạm pháp luật trong đó.
Sau đó giáo viên kết luận hoặc hướng dẫn học sinh kết lu
ận vấn đề: bằng
cách lấy một tình huống của học sinh làm tốt, yêu cầu học sinh đó chia sẻ cho cả
lớp hoặc giáo viên nêu ra một tình huống pháp luật gợi ý thế này: “Phạm phan
Thanh, 21 tuổi là thợ hồ ở quê. Một hôm, sau khi dự tiện mừng nhà mới, anh
chạy xe gắn máy về nhà cùng một người bạn tên là Lâm, giữa đường Thanh gặp
một người bạn cũ và kêu người bạn đ
ó lên xe để trở về. Lâm nói: Anh ấy không
có nón bảo hiểm và nếu trở thêm một người nữa là quá số người qui định sẽ bị
phạt, nhưng Thanh không nghe và nói: lúc này trưa rồi chắc không còn cảnh sát
nữa đâu và cứ chạy tiếp. Sau một đoạn đường thì bị cánh sát giao thông dừng xe,
lập biên bản xử phạt vi phạm hành chánh”



* Ba dấu hiệu cơ bản của vi phạm pháp luật trong tình huống trên có thể nêu
ra như sau:
+ hành vi trái pháp luật
: là Phạm Phan Thanh, 21 tuổi lái xe khi đã uống
rượu, chở ba, chở người không đội nón bảo hiểm. Đã vi phạm qui định luật giao
thông đường bộ;
+ Do người có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện
: là Phạm Phan
Thanh, 21 tuổi, bình thường (làm thợ xây dựng) là người có đủ năng lực trách
nhiệm pháp lí theo qui định của pháp luật;

+ Người vi phạm pháp luật phải có lỗi
: Phạm Phan Thanh biết lái xe khi đã
uống rượu, chở ba, chở người không đội nón bảo hiểm là vi phạm luật giao thông
đường bộ, nhưng vẫn cứ vi phạm. (Thanh không nghe và nói: “lúc này trưa rồi
chắc không còn cảnh sát nữa đâu” và cứ chạy tiếp)
Sau đó, giáo viên yêu cầu học sinh hiểu thế nào là hành vi trái pháp luật,
người có năng lực trách nhiệm pháp lí và thế nào là có lỗi, để củng cố bài thông
qua ba dấu hiệu vi phạm pháp lu
ật trong tình huống.
Mức độ thứ ba
: giáo viên cung cấp thông tin có vấn đề. Học sinh phát
hiện và xác định vấn đề nảy sinh , tự đề xuất các giả thuyết và lựa chon giải pháp
. học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề. Giáo viên và học sinh cùng đánh giá.
Ví dụ 1: ở bài 6, lớp 12, phần 1.b- quyền được pháp luật bảo hộ về tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân, giáo viên nêu vấn đề: tính
mạng, sức khỏe có vai trò như th
ế nào đối với đời sống con người? Nếu tính
mạng của con người bị đe dọa thì dẫn đến những hậu quả gì?
Học sinh suy nghĩ, phát hiện vấn đề, tự tìm giải pháp để giải quyết vấn đề
theo những thông tin mà giáo viên nêu và đi đến tự kết kuận.
Cuối cùng giáo viên và học sinh cùng đánh giá kết quả như sau:
+ Tính mạng, sức khỏe có vai trò hết sức quan trọng trong
đời sống con
người, nó là tiền đề cho tất cả các hoạt động của con người. Nếu tính mạng, sức
khỏe của con người bị đe dọa thì mọi người trong xã hội sẽ không an tâm lao
động, học tập và vui chơi giải trí và sẽ dẫn đến xã hội mất ổn định, thiếu lành
mạnh, không phát triển được.
+ Trong xã hội chúng ta tính mạng và sức khỏe của con người được đảm
b
ảo an toàn, không ai được xâm phạm đén tính mạng, sức khỏe của người khác.




+ Giáo viên có thể dẫn chứng các quy định của pháp luật nước ta về tính
mạng, sức khỏe để tăng thêm tính thuyết phục của phần kết luận.
Ví dụ 2: ở bài 8, lớp 12, phần 1. quyền quyền học tập sáng tạo và phát triển
của công dân, giáo viên nêu vấn đề: em có nhận xét gì về quyền quyền học tập
của công dân ở nước ta hiện nay?
Học sinh suy nghĩ, phát hiện vấn đề, t
ự tìm giải pháp để giải quyết vấn đề
theo những thông tin mà giáo viên nêu và đi đến tự kết kuận.
Cuối cùng giáo
viên và học sinh cùng
đánh giá kết quả như
sau:
+ Mọi công dân
nước ta đều có quyền
học tập không hạn chế,
từ bậc tiểu học, trung
học, đại học và sau đại
học;
+ Mọi công dân nước ta đều có quyền học bất cứ ngành nghề nào nếu phù
hợp với năng khiếu, sở trường và điều kiện của gia đình của mình;
+ Mọi công dân nước ta đều có quyền học thường xuyên, học suốt đời.
Với các loại hình đào tạo khác nhau
trong hệ thống giáo dục và đào tạo của Việt Nam.
+ Mọi công dân đều được nhà nước và xã hội đối xử công bằng về cơ hội
học tập, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, giớ
i tính, thành phần, điạ vị xã
hội nhà nước và xã hội có chính sách khuyến học, khuyến tài.

Mức độ thứ tư
: học sinh tự lực phát hiện vấn đề nảy sinh trong hoàn cảnh
của mình hoặc cộng đồng, lựa chọn vấn đề giải quyết. Học sinh giải quyết vấn
đề, tự đánh giá chất lượng, hiệu quả, có ý kiến bổ sung của giáo viên khi kết thúc.
Ví dụ 1: ở bài 7, lớp 12, phần 1.b- nội dung quyền bầu cử và ứng vào các cơ
quan đại biểu của nhân dân, học sinh có thể nêu v
ấn đề thế này: tại sao pháp luật
lại hạn chế quyền bầu cử, ứng của người bị tước quyền bầu cử, người đang chấp
hành hình phạt tù, Người đang bị tạm giam, người mất năng lực hành vi dân
sự, ?
Học sinh THPT Chu Văn An với lớp học làm người có ích.



Giáo viên yêu cầu học sinh trong lớp giải quyết vấn đề mà bạn mình vừa
nêu, giáo viên chỉ định một vài học sinh phát biểu ý kiến, kể cả học sinh nêu vấn
đề này để xem cánh giải quyết của em như thế nào. Sau đó giáo viên yêu cầu một
học sinh phát biểu tốt nhất kết luận vấn đề, cho cả lớp góp ý bổ sung nếu có.
Sau cùng giáo viên nhận xét, nhấn mạnh vấn đề theo hướng sau đây: hạ
n
chế không cho những đối tượng nêu trên bầu cử và ứng cử nhằm đảm bảo tính
hiệu quả, chất lượng của mỗi phiếu bầu cũng như người ra ứng cử. Phải đảm bảo
cho việc bầu cử và ứng cử đạt được mục đích đề ra là chọn được những người có
tài, có đức thay mặt cho cử tri, cho nhân dân để quyết định những v
ấn đề trọng
đại và quản lí tốt những công việc của địa phương, của đất nước một cách hiệu
quả.
Ví dụ 2: ở bài 9, lớp 12, phần 2.d- nội dung nội dung cơ bản của pháp luật
về bảo vệ môi trường, học sinh có thể nêu vấn đề thế này: hiện nay tình trạng đổ
rác xuống sông rạch ở vùng nông thôn là tương đối phổ biến. Vậy thực tr

ạng này
nguyên nhân là do đâu? Trách nhiệm thuộc về ai và cần phải làm gì để chấm dứt?
Giáo viên yêu cầu học sinh trong lớp giải quyết vấn đề vừa nêu, chỉ định
một vài học sinh phát biểu ý kiến để giải quyết vấn đề, kể cả học sinh nêu vấn đề
này xem cánh giải quyết của em thế nào. Sau đó giáo viên yêu cầu một học sinh
phát biểu tốt nhất kết luận vấn
đề, cho cả lớp góp ý bổ sung nếu có.
Sau cùng giáo viên nhận xét, nhấn mạnh vấn đề theo hướng sau đây:
+ Xác định lại thực trạng đó có phải là phổ biến ở vùng nông thôn hiện nay
không? Yêu cầu học sinh cả lớp xác định.
+ Nếu đúng thì tìm nguyên nhân: do ý thức về bảo vệ môi trường của người
dân ở vùng nông thôn chưa tốt; do công tác tuyên truyền, giáo dục của nhà nước
chưa làm hoặc làm chưa tốt; do ch
ưa tổ chức các xe thu gom rác ở những nơi
đó và yêu cầu học sinh xác định lại xem nguyên nhân nào là cơ bản và phổ biến
để xác định trách nhiệm thuộc về ai và tìm cách khắc phục, tiến đến chấm dứt
tình trạng đổ rác xuống sông rạch ở vùng nông thôn.
Như vậy, ở mức độ thứ tư này là mức độ cao nhất là học sinh tự nêu vấn đề
và cách giải quyết, tự đánh giá ch
ất lượng, hiệu quả, giáo viên có ý kiến khi kết
thúc. Mức độ này sẽ giúp cho học sinh chủ động, tích cực trong tiếp thu lĩnh hội
tri thức của môn GDCD và các kiến thức xã hội khác được dễ dàng hơn, thuận lợi
hơn.



Trên đây là những giải pháp mà bản thân tôi đã áp dụng “phương pháp nêu
vấn đề trong dạy – học môn GDCD” lớp 12 ở trường THPT Chu Văn An đạt hiệu
quả trong thời gian vừa qua.
3. Hiệu quả của SKKN

Thực tế cho thấy việc áp dụng kinh nghiệm “phương pháp nêu vấn đề” trong
giảng dạy môn GDCD ở trường trung học phổ thông đã giúp cho tiết dạy sinh
động và hiệu quả hơn. Giáo viên làm việc trên lớp nh
ẹ hơn trước.
Một tiết học thời gian rất ít so với nội dung kiến thức của bài học, nhưng
sau khi áp dụng đề tài này vào thực tiễn giảng dạy của mình thì mâu thuẫn giữa
thời gian và nội dung được giải quyết. Vì vậy, đây là một trong những phương
pháp rất phù hợp với việc dạy – học GDCD trong trường phổ thông hiện nay, nó
kích thích được tính tò mò, muốn tìm hiểu, có thể xem là một bi
ện pháp góp phần
phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập.
Góp phần nâng cao ý thức tuân theo pháp luật cho học sinh trong nhà
trường và ngoài xã hội, đồng thời các em còn vận động, tuyên truyền cho người
thân, bạn bè cùng thực hiện những qui định của pháp luật .
Từ đây cũng nhận thấy được rằng thái độ, cách nhìn nhận của học sinh về
bộ môn GDCD đã được thay đổi dần, các em không cảm thấy quá nặ
ng nề, quá
khô khan mỗi khi vào tiết học GDCD. Mà ngược lại các em cảm thấy hứng thú
khi được tự mình khám phá những kiến thức có liên quan đến cuộc sống hằng
ngày, hình huống gần gũi đối với học sinh được giải quyết dễ dàng.
Nhờ việc áp dụng “phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD”
giúp học sinh hiểu bài, tiếp thu kiến thức nhanh và vận dụng kiến thức tốt hơn.
K
ết quả qua các năm học được thể hiện qua các số liệu thống kê sau :
 NĂM HỌC 2009 – 2010 :

Khối
lớp
Tổng số
học sinh

Trung bình khá Giỏi
11 345 106 ~ 30,7 % 142 ~ 41,2 % 96 ~ 30,7 %
12 158 117 ~ 74 % 36 ~ 22,7 % 4 ~ 2,5 %
Sang năm học 2010 – 2011 áp dụng « phương pháp nêu vấn đề trong dạy –
học môn GDCD bậc THPT » thì kết quả được nâng lên về khả năng tư duy, vận



dụng kiến thức của học sinh để giải quyết những vấn đề cụ thể mà cuộc sống đặt
ra khá tốt và kết quả điểm số như sau :
 NĂM HỌC 2010 – 2011:

Khối
lớp
Tổng số
học sinh
Trung bình khá Giỏi
11 127 4 ~ 3,1 % 58 ~ 45,7 % 65 ~ 51,2 %
12 194 34 ~ 17,5 % 97 ~ 50,0 % 63 ~ 32,5 %
Với kết quả vừa nêu, chứng tỏ việc vận dụng « phương pháp nêu vấn đề
trong dạy – học môn GDCD bậc THPT » bản thân tôi áp dụng mang lại kết quả
khả quan trong việc giáo dục học sinh theo phương châm « học đi đôi với hành »,
gắn lý luận với thực tế cuộc sống. Năm 2011-2012 tuy loại giỏi có giảm, nhưng
tăng loại khá và tính tích cực, chủ động của học sinh trong gi
ờ học tốt hơn, các
em ham thích học giờ GDCD hơn kết quả như sau :
 NĂM HỌC 2011 – 2012:

Khối
lớp

Tổng số
học sinh
Trung bình khá Giỏi
11 210 47 ~ 22.38 % 98 ~ 44.7 % 74 ~ 33.8 %
12 140 02 ~ 1.4 % 109 ~ 77.9 % 29 ~ 20.7 %
Vận dụng « phương pháp nêu vấn đề trong dạy – học môn GDCD bậc
THPT » mang lại hiệu quả trong việc giáo dục học sinh sẽ góp phần đổi mới
phương pháp dạy học môn GDCD, gúp học sinh gắn lý luận với thực tiễn được
thuận lợi và hiệu quả hơn.




PHẦN KẾT LUẬN
I. Những bài học kinh nghiệm
Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào bài dạy GDCD, tôi rút ra
được những kinh nghiệm quý báu trong việc dạy – học với việc vận dụng phương
pháp “phương pháp nêu vấn đề”, trong dạy- học môn GDCD- bậc THPT:
- Một là, “phương pháp nêu vấn đề” yêu cầu giáo viên đầu tư nhiều công sức
và thời gian vào việc soạn giáo án, phải đặt ra được tình huống có vấn đề, dự kiến
các hướng giải quy
ết vấn đề của học sinh và các phương án để điều chỉnh học
sinh vào những phương án giải quyết vấn đề đúng. với mỗi tiết dạy, giáo viên cần
nêu rõ yêu cầu mục tiêu của bài học, từ đó biết được đâu là kiến thức trọng tâm
mà học sinh cần khắc sâu để đưa ra được phương pháp dạy học phù hợp với nội
dung bài học, không nên áp dụ
ng chỉ một phương pháp mà cần có kết hợp nhiều
phương pháp trong cùng một bài học để tạo hứng thú cho học sinh.
- Hai là, tiết học ngắn thôi nhưng lượng kiến thức thì tương đối nhiều. vì vậy,
khi áp dụng “phương pháp dạy học nêu vấn đề”, giáo viên cần suy nghĩ để đưa ra

những vấn đề vừa sức với học sinh, tránh việc đưa các các vấn đề quá cao, khó
giả
i quyết phải tốn nhiều thời gian nhưng không đem lại hiệu quả hoặc nêu ra
những vấn đề quá dễ không kích thích tư duy của học sinh và làm cho các em
nhàm chán trong giờ học.
- Ba là, giáo viên cần có những gợi mở, định hướng giúp học sinh giải quyết
được vấn đề, cần hướng dẫn các em đi đúng hướng, tìm hiểu đúng kiến thức yêu
cầu, tránh để các em đi lệch với yêu c
ầu vấn đề đặt ra.
- Bốn là, sau khi học sinh giải quyết vấn đề, giáo viên cần có một kết luận cụ
thể, chính xác, đầy đủ về vấn đề mình nêu ra cho học sinh giải quyết hoặc khẳng
định kết luận của học sinh là đúng để cả lớp biết mà học tập, làm theo.
Công việc giảng dạy là hoạt động rất quan trọng trong nhà trường. Do đó
ngườ
i giáo viên phải luôn luôn tìm tòi các phương pháp dạy học để khơi dậy tính
tích cực, chủ động của học sinh trong quá trình tiếp thu kiến thức ở trên lớp và
vận dụng những kiến thức vào thực tế cuộc sống hiện tại và mai sau
Muốn vậy người giáo viên phải không ngừng học hỏi nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ của mình. Trong thực tế tôi luôn luôn sưu tầm các ví dụ



trong cuộc sống để minh hoạ cho bài giảng hoặc lấy các tư liệu trên báo, đài,
mạng Internet để làm tăng tính hấp dẫn cho bài giảng.
II. Ý nghĩa của SKKN
1.Đối với giáo viên:

- “phương pháp nêu vấn đề” trong dạy - học môn GDCD không yêu cầu
phải sử dụng các phương tiện hiện đại, rất phù hợp cho điều kiện dạy thường
ngày của giáo viên trên tất cả các phòng học.

- Thông qua áp dụng sáng kiến này vào dạy GDCD thì người giáo viên phải
biết rèn luyện, trao dồi thêm kiến thức chính trị - xã hội. Luôn chủ động tìm hiểu
và nắm bắt những thông tin mới có liên quan để nêu ra được các vấn đề hay phù
hợp với các nội dung của mỗi bài dạy.
- Với việc vận dụng phương dạy học “nêu vấn đề trong dạy - học môn
GDCD”, giáo viên làm cho học sinh suy nghĩ, tham gia vào tình huống, chủ động
tìm cách giải quyết vấn đề và thông qua đó, giúp cho giáo viên thu được những
thông tin phản hồi của học sinh từ đó giáo viên điều chỉnh trong nêu vấn đề vừa
sức, định hướng suy nghĩ, giải quyết vấ
n đề của học sinh được đúng hơn.
- Đề tài được xây dựng trên cơ sở rút ra từ kinh nghiệm áp dụng lý luận “dạy
học nêu vấn đề” vào thực tế giảng dạy và dựa vào đó mà quá trình vận dụng ngày
càng đạt hiệu quả. Từ lý luận được kiểm nghiệm qua thực tế và từ thực tế để nâng
cao lý luận dạy học.
2. Đối với học sinh

- “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD” phát huy được tính
tích cực, tự giác học tập của học sinh, giúp hình thành tính độc lập và sáng tạo
trong tư duy, khắc phục được tình trạng thụ động trong việc tiếp nhận tri thức của
học sinh.
- “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD” giúp cho học sinh
chuẩn bị được một năng lực thích ứng với đời sống xă hội, đó là phát hi
ện kịp
thời và giải quyết hợp lí các vấn đề mới nảy sinh.
- “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD” còn giúp học sinh
vững tin vào chân lí của các kiến thức do chính mình rút ra và kiểm nghiệm, rèn
luyện tác phong mạnh dạn, tự tin, tính độc lập trong học tập và sinh họat tập thể,
tạo niềm vui trong sự khám phá tri thức.




- Dạy học “nêu vấn đề vào dạy - học môn GDCD” sẽ giúp các em có một tư
duy lôgíc trong khi lý giải một vấn đề thực tiễn và hiểu các khái niệm, qui luật,
phạm trù của môn học một cách chính xác, đày đủ hơn.
III. Khả năng ứng dụng và khiển khai
- Với những giải pháp vừa nêu, có thể áp dụng đối với giáo viên dạy môn
GDCD bậc THPT nói riêng và giáo viên dạy các môn GDCD ở cấp trung học nói
chung. đề tài này còn được áp dụng r
ộng rãi cho các môn khoa học xã hội khác.
Mà cụ thể và thiết thực nhất là môn GDCD các khối lớp 10, 11 và 12.
- Triển khai trong tổ chuyên môn, sinh hoạt chuyên đề hội đồng bộ môn
trong các cụm địa bàn.
IV. Những kiến nghị đề xuất
1. Đối với giáo viên
Thứ nhất: giáo viên cần nghiên cứu kỹ nội dung bài học để xây dựng các
tình huống có vấn đề, dự kiến cách giải quyết vấn đề củ
a học sinh, định hướng
cách giải quyết vấn đề của học sinh theo trọng tâm của vấn đề.
Thứ hai: vì kiến thức GDCD tương đối dài, cho nên giáo viên cần xác định
được kiến thức trọng tâm phải giảng dạy cho học sinh để phân bổ thời gian thật
hợp lý cho một tiết dạy và quan trọng là giáo viên phải mở đầu bài dạy bằng
những tình huống gây được hứng thú cho học sinh.
2. Đối với sở và bộ giáo dục- đào tạo
Thứ nhất: Bộ Giáo Dục- Đào Tạo phải nghiên cứu lại chương trình giảm
tải. Vì có những nội dung cơ bản, cần thiết nhưng lại cắt bỏ hoặc đọc thêm gây
khó khăn trong giảng dạy và góp phần hình thành nhân cách hoàn chỉnh cho học
sinh.
Thứ hai: Bộ Giáo Dục- Đào Tạo phải nghiên cứu lại thông t
ư 58, phần
nhận xét về thái độ, hành vi của học sinh đối với môn GDCD và giáo viên GDCD

cùng giáo viên chủ nhiệm đánh giá xếp loại hạnh kiểm của học sinh, tôi thấy rằng
khó cho giáo viên dạy môn GDCD. Vì mỗi tuần chỉ có một tiết (45 phút)/ lớp,
mỗi giáo viên dạy đủ giờ qui định là 17 tiết/ tuần, trung bình mỗi lớp hiện nay 40
học sinh/ lớp. Như vậy, trung bình mỗi giáo viên GDCD dạy khoảng 500 đến 700
học sinh thì làm sao mà biết hế
t học sinh mình dạy để nhận xét chính xác về thái
độ, hành vi của các em ?



Thứ ba: Bộ Giáo Dục- Đào Tạo và Sở giáo dục và đào tạo cũng cần trang
bị cho các trường một số đồ dùng dạy học môn GDCD để tăng tính hấp dẫn cho
bài giảng, gây hứng thú cho học sinh trong các gời học.
Có được như vậy, tôi tin rằng bài giảng môn GDCD sẽ không khô khan, trái
lại hấp dẫn và sinh động hơn nhiều. Việc áp dụng “phương pháp nêu vấn đề trong
dạy – học môn GDCD” đ
ã làm cho giờ dạy của tôi có hiệu quả hơn. Trong phạm
vi nhất định của bài viết này, tôi nghĩ rằng mình không thể tránh khỏi những
thiếu sót. Rất mong các đồng nghiệp góp ý chân thành để cho đề tài của tôi ngày
càng hoàn thiện hơn, góp phần cho việc dạy - học môn GDCD ngày càng hiệu
quả hơn, đúng như vị trí nhiệm vụ của môn học đã đặt ra. Để góp phần giáo dục
toàn diện cho học sinh, nhằm phụ
c vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại.
Phú Tân, ngày 25 tháng 12 năm 2013.
Người viết


Ngô Thành Y.

×