SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM TRONG
GIẢNG DẠY MÔN GDCD Ở TRƯỜNG THPT
MỞ ĐẦU
Môn Giáo dục công dân (GDCD) giữ vai trò quan trọng và trực tiếp trong việc giáo
dục học sinh ý thức và hình thành phát triển nhân cách con người toàn diện. Tuy nhiên
thực trạng hiện nay đa số học sinh ngại học môn GDCD vì coi đây là môn phụ, không
phục vụ cho việc thi tốt nghiệp và Đại học, Cao đẳng. Từ quan niệm đó nên các em chỉ
học một cách đối phó, qua loa, xem nhẹ bộ môn đang diễn ra phổ biến và trở thành thực
trạng chung.
Thảo luận nhóm (TLN) là một trong những phương pháp (PP) dạy học tích cực
được sử dụng thường xuyên trong quá trình đổi mới PP dạy học hiện nay. Để khắc
phục lối truyền thụ tri thức một chiều, lối học thụ động, máy móc, cần phải sử dụng
phối hợp nhiều PP, PP dạy học truyền thống và PP dạy học hiện đại, trong đó có
PPTLN. Tuy nhiên, có nhiều luồng ý kiến trái chiều về việc vận dụng PP này trong
quá trình dạy học. Ở đây tôi tập trung phân tích thực trạng của việc vận dụng
PPTLN trong dạy học môn GDCD ở trường trung học phổ thông (THPT), từ đó đề
xuất một số giải pháp vận dụng PP này nhằm nâng cao hiệu quả của việc dạy học
môn GDCD.
NỘI DUNG ĐỀ TÀI
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
Thảo luận nhóm là gì? Theo tác giả Phan Trọng Ngọ:“Thảo luận nhóm là phương pháp
trong đó nhóm lớn (lớp học) được chia thành những nhóm nhỏ để tất cả các thành viên
trong lớp đều được làm việc và thảo luận về một chủ đề cụ thể và đưa ra ý kiến chung
của nhóm mình về vấn đề đó [4, tr.223]. PP này có mầm mống từ những năm 70 của thế
- 1 -
kỷ 20, ở trường đại học sư phạm của một số nước tiên tiến, bắt đầu từ môn học “Năng
động tập thể” một môn học dạy cho sinh viên kỹ năng làm việc tập thể. Dần dần, môn
học này chuyên rèn luyện kỹ năng làm việc theo nhóm, từ đó hình thành nên PPTLN
trong dạy học ở tất cả các cấp học. Ở Việt Nam, PP này được áp dụng rộng rãi trong dạy
học từ những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI.
II. NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ KHI SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP THẢO
LUẬN NHÓM
1. Ưu điểm
TLN là một PP dạy học có nhiều ưu điểm. PP đàm thoại, nêu vấn đề có tác động tích
cực tới sự động não của từng cá nhân riêng lẻ nhưng lại không có sự phối hợp giữa các
thành viên trong tập thể. Trái lại, PPTLN lại phát huy được ưu điểm và khắc phục nhược
điểm của các PP trên:
1. TLN tạo cơ hội tối đa cho mọi thành viên trong nhóm được bộc lộ sự hiểu biết
của mình, giúp học sinh (HS) phát triển khả năng tư duy và diễn đạt (điều này đặc biệt có
ích với HS nhút nhát);
2. Tạo cơ hội cho mọi thành viên trong nhóm học hỏi lẫn nhau, tập lắng nghe ý kiến
của người khác một cách kiên nhẫn, lịch sự, tập đánh giá ý kiến người khác một cách độc
lập;
3. Giảm bớt tính chủ quan, phiến diện, tăng tính khách quan khoa học trong kiến
thức của HS;
4. Hình thành thói quen tương tác trong học tập, tăng năng lực hợp tác và không khí
hiểu biết, đoàn kết, tin cậy lẫn nhau;
5. Kích thích thi đua giữa các thành viên trong nhóm;
6. Cải thiện mối quan hệ thầy- trò, trò- trò, giáo viên có thông tin phản hồi từ HS để
điều chỉnh việc dạy của thầy, việc học của trò đồng thời tăng cường mối giao cảm thầy
trò, khiến cho giờ học trở nên sinh động, hấp dẫn hơn
- 2 -
Tuy nhiên, khi tìm hiểu thực trạng dạy học môn GDCD ở trường THPT, tôi nhận
thấy, bên cạnh những ưu điểm, PPTLN cũng bộc lộ những hạn chế nhất định cần được
khắc phục.
2. Hạn chế
2.1 Về phía giáo viên
Khi vận dụng PPTLN, GV còn lúng túng ở một số thao tác sau:
Thứ nhất, thao tác lựa chọn vấn đề thảo luận(TL): Việc lựa chọn vấn đề TL chưa hấp
dẫn nên chưa khơi dậy tính tích cực của HS. Có những vấn đề TL quá khó hoặc quá dễ so
với trình độ của HS. Ví dụ: Những biểu hiện của sự biến đổi về lượng dẫn tới sự biến đổi
về chất trong cách mạng XHCN ở Việt Nam? (quá khó so với trình độ HS lớp 10). Hoặc:
Tiền tệ có mấy chức năng? Đó là những chức năng gì? (Quá dễ vì câu trả lời đã có đầy đủ
trong sách giáo khoa). Lại có trường hợp lựa chọn chủ đề phù hợp trình độ đối tượng
nhưng nội dung vấn đề lại quá khô khan, không phù hợp với đặc điểm tâm lý của HS.
Việc lựa chọn vấn đề TL là khâu then chốt quyết định sự thành bại của PP này. Vấn đề
không hay, không phù hợp với trình độ HS sẽ không huy động, thu hút được HS tập trung
TL, nếu có thì cũng chỉ mang tính chất đối phó.
Thứ hai, thao tác chia nhóm: GV chưa xác định được số lượng nhóm trong một lớp,
số lượng HS trong một nhóm. Cho nên, có trường hợp chia nhóm quá lớn hoặc quá nhỏ,
không phù hợp với vấn đề cần TL và đặc điểm của lớp học. Việc chia nhóm còn đơn
điệu, chủ yếu chia theo bàn (2 bàn/nhóm)
Thứ ba, thao tác chọn nhóm trưởng: Nhóm trưởng không do nhóm tự bầu hoặc
luân chuyển giữa các thành viên trong nhóm mà do GV chọn một HS khá trong nhóm
chuyên trách. Điều này khiến cho các HS khác trong nhóm mất đi cơ hội thể hiện mình
cũng như cơ hội rèn luyện năng lực quản lý, năng lực trình bày vấn đề trước nhóm và tập
thể lớp.
- 3 -
Thứ tư, thao tác giao nhiệm vụ: GV giao nhiệm vụ chưa rõ ràng, cụ thể. Do đó, HS
không hiểu rõ nhiệm vụ của nhóm là cần phải làm gì, trong thời gian bao lâu, cách thức
thực hiện như thế nào.
Thứ năm, thao tác quan sát, hỗ trợ HS khi TL: Thông thường, các lớp đều có số
lượng HS khá đông (trên 50 em). Một số GV khi giao nhiệm vụ xong thường ngồi tai chỗ
nên không quan sát, bao quát hết được HS trong lớp làm gì trong thời gian TL, dẫn tới
tình trạng có HS làm việc riêng, nói chuyện trong thời gian này. GV cũng không nắm bắt
được những khó khăn, lúng túng của HS trong quá trình TL để có sự gợi ý, hỗ trợ kịp
thời.
Thứ sáu, thao tác tổng kết. Sau khi viết phương án trả lời ra bảng hoặc ra giấy,
nhóm trưởng thay mặt nhóm đọc kết quả thảo luận trước lớp hoặc viết lên bảng. GV gọi
HS khác nhận xét, bổ sung. GV kết luận. Thao tác này được lặp đi lặp lại khá đơn điệu,
nhàm chán.
2.2. Về phía HS
Thứ nhất HS hầu như không được giao nhiệm vụ về nhà chuẩn bị trước cho TLN nên
có phần bị động trong quá trình TL trên lớp. Mặt khác, nếu được giao nhiệm vụ trước thì
HS cũng không chuẩn bị, hoặc chuẩn bị mang tính đối phó.
Thứ hai Trong thời gian TL, chỉ có số ít HS làm việc thật sự (nhóm trưởng và HS
khá, giỏi trong nhóm), còn lại các em thường ngồi chơi, nói chuyện, làm việc riêng. Hiện
tượng độc diễn cá nhân bên cạnh “người chầu rìa”, người ngoài cuộc” diễn ra khá phổ
biến, kể cả khi có người dự giờ trong lớp. HS không ý thức được sự cần thiết phải hợp tác
để chiếm lĩnh tri thức nên nhiều khi các em biến hoạt động TLN thành cơ hội để tán gẫu,
lãng phí thời gian.
Thứ ba Câu trả lời của HS thường lặp lại những vấn đề trong SGK, thiếu sức sáng
tạo.
- 4 -
Thứ tư Với những chủ đề có nội dung phong phú, hấp dẫn (Ví dụ: TLN về hiện
tượng quan hệ tình dục ở tuổi vị thành niên), HS dễ đi chệch hướng, tản mạn do theo đuổi
ý tưởng riêng.
Thứ năm TLN thường gây ồn ào, ảnh hưởng tới lớp khác.
Vì những hạn chế trên mà PPTLN thường được vận dụng mang tính hình thức, đối phó,
chủ yếu trong các giờ hội giảng. Nguyên nhân việc GV ngại áp dụng PP này là:
1.Thói quen sử dụng các PP dạy học truyền thống
2. TLN là PP khó, tốn nhiều thời gian trong khi lượng kiến thức phải truyền đạt đồ
sộ, quỹ thời gian dành cho môn GDCD lại quá ít (1tiết/tuần)
3. GDCD là môn phụ trong khi để TLN thành công phải tốn nhiều công sức chuẩn bị
4. Không gian lớp học chật, bàn ghế cố định, HS đông nên việc di chuyển khi chia
nhóm gặp nhiều khó khăn
5.Từ quan niệm coi GDCD là môn phụ, HS không chú trọng học môn này nên không
hào hứng tham gia TLN
Quá trình dạy học môn GDCD là quá trình học sinh được cuốn hút vào các hoạt
động do giáo viên thiết kế, tổ chức và chỉ đạo, để thông qua đó, học sinh có thể tự khám
phá và chiếm lĩnh tri thức. Trong quá trình dạy học, giáo viên phải huy động, khai thác
tối đa năng lực tư duy cho học sinh, tạo cơ hội và động viên, khuyến khích học sinh bày
tỏ quan điểm, ý kiến của mình về vấn đề đang học. Để làm được điều đó, ngoài các
phương pháp như : Đàm thoại, vấn đáp, nêu vấn đề….thì phương pháp thảo luận nhóm là
một phương pháp tối ưu nhất. Tuy nhiên, không phải bất kì bài nào cũng có thể sử dụng
phương pháp thảo luận nhóm và chỉ rập khuôn theo một cách, bởi lẽ đã có những giáo
viên khi sử dụng phương pháp này đã vô tình biến lớp học của mình thành “một giờ giải
lao hợp pháp”. Chọn phương pháp cho một tiết học là không khó nhưng làm sao để sử
- 5 -
dụng phương pháp đó một cách có hiệu quả thì là cả một vấn đề cần bàn luận, nghiên
cứu.Trong quá trình giảng dạy, tôi đã tích lũy được một số kinh nghiệm trong việc sử
dụng phương pháp thảo luận nhóm khi giảng dạy một số bài trong chương trình GDCD.
Tôi xin mạnh dạn trình bày ở đây với hi vọng cung cấp cho các bạn đồng nghiệp một số
kinh nghiệm nhỏ trong quá trình giảng dạy.
III. MỘT SỐ KINH NGHIỆM KHI SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN
NHÓM
1. Các bước thực hiện.
- Giáo viên nêu chủ đề thảo luận, chia nhóm, giao câu hỏi, yêu cầu thảo luận cho mỗi
nhóm, quy định thời gian thảo luận và phân công vị trí ngồi thảo luận cho các nhóm.
- Các nhóm tiến hành thảo luận.
- Đại diện từng nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm. Các nhóm khác lắng nghe,
chất vấn, trao đổi, bổ sung ý kiến.
- Giáo viên tổng kết các ý kiến và đưa nội dung cần đạt được.
2. Yêu cầu cần đạt được:
- Có nhiều cách chia nhóm: chia nhóm có thể dựa vào tính chất câu hỏi, dựa vào số lượng
học sinh, cách bố trí lớp học, theo bàn, theo tổ
- Quy mô nhóm có thể lớn hoặc nhỏ, tùy theo vấn đề thảo luận. Tuy nhiên, nhóm từ 6-8
học sinh là tốt nhất bởi như vậy vừa đủ nhỏ để đảm bảo tất cả học sinh có thể tham gia ý
kiến. Số học sinh như vậy vừa đủ lớn để đảm bảo rằng học sinh không thiếu ý tưởng và
không có gì để nói.
- Nội dung thảo luận của các nhóm có thể giống hoặc khác nhau.
- Giáo viên cần quy định rõ thời gian thảo luận và trình bày kết quả thảo luận cho các
nhóm.
- Mỗi nhóm cần chọn một trưởng nhóm, một thư ký ghi nội dung trả lời. Trưởng nhóm
phân công nhiệm vụ cho từng thành viên, điều hành việc thảo luận, mời các thành viên
phát biểu, chuyển sang câu hỏi khác khi thích hợp, đảm bảo rằng mỗi người đều có cơ
- 6 -
hội để đóng góp ý kiến. Học sinh luân phiên nhau đại diện cho nhóm trình bày kết quả
thảo luận.
- Kết quả thảo luận có thể được trình bày dưới nhiều hình thức: Bằng lời, viết lên phiếu
học tập bằng giấy hoặc bản trong do một người thay mặt nhóm trình bày
- Trong quá trình học sinh thảo luận theo nhóm, giáo viên phải đi kiểm tra tinh thần làm
việc, lắng nghe ý kiến của học sinh, gợi ý cho các em nếu cần thiết. Khi các nhóm trình
bày xong, giáo viên tóm tắt, tổng hợp, liên kết nội dung của từng nhóm để nêu bật lên
được nội dung của bài học.
Để phát huy ưu điểm, khắc phục những hạn chế, những điểm khó của PPTLN ở
môn GDCD, GV nên chú ý những vấn đề sau:
1. Lựa chọn chủ đề thảo luận:
Chủ đề thảo luận phải là những nội dung cơ bản, trọng tâm, đồng thời là những tình
huống có vấn đề, hấp dẫn, buộc HS phải động não. Ví dụ: “Hãy TL để chỉ ra yếu tố siêu
hình trong truyện ngụ ngôn “Thầy bói xem voi”? Cần phải nhìn sự vật như thế nào để
không siêu hình như năm thầy bói trong truyện này?” (GDCD 10); “Hãy TL để giải
thích
vì sao cả thế giới chọn vàng làm vật ngang giá chung nhất mà lại không chọn các kim
loại khác?” (GDCD lớp 11). Vấn đề cần TL ở môn GDCD thường tập trung vào hai khía
cạnh: 1. Những khái niệm hạt nhân; 2. Những tình huống có vấn đề trong thực tiễn.
Để đảm bảo chất lượng của quá trình TL cũng như chất lượng của giờ lên lớp, GV nên
hướng dẫn HS đọc trước bài học và những vấn đề cần lưu ý. Điều đó giúp HS chủ động
hơn trong TL.
2. Chia nhóm và chọn nhóm trưởng:
GV nên áp dụng linh hoạt các hình thức chia nhóm:
- 7 -
+ Chia nhóm ngẫu nhiên: HS đếm 1,2,3,4,5 rồi vòng trở lại. HS đếm số nào thì vào
nhóm ấy. GV cũng có thể chia theo bàn, theo tổ. Hình thức chia nhóm này được áp dụng
khi nhiệm vụ TL của các nhóm giống nhau hoặc nếu nhiệm vụ khác nhau thì cũng ít có
sự chênh lệch về độ khó. Đây là hình thức chia nhóm phổ biến nhất.
+ Chia nhóm cùng trình độ: GV dựa vào trình độ HS để chia thành nhóm giỏi, khá, trung
bình, yếu. GV nêu yêu cầu TL khác nhau tuỳ thuộc vào trình độ của nhóm.
+ Chia nhóm gồm đủ các trình độ: Cách chia này thường được sử dụng khi nội dung TL
cần có sự hỗ trợ lẫn nhau.
+ Chia nhóm theo sở trường: cách chia này thường được tiến hành trong các buổi học tập
ngoại khoá, mỗi nhóm sẽ gồm các HS có cùng chung sở thích, hứng thú.
Ngoài ra, có thể chia nhóm theo kiểu nhóm nhỏ thông thường, nhóm rì rầm, nhóm kim tự
tháp, nhóm đồng tâm
3. Giao nhiệm vụ cho nhóm:
GV nêu nhiệm vụ rõ ràng, ngắn gọn, xác định thời gian, hướng dẫn cách thức TL. Thông
thường, thời gian TL trung bình là 5 phút.
4. Làm việc theo nhóm:
Sau khi chia nhóm, mỗi nhóm sẽ bốc thăm để chọn nhóm trưởng, thư ký hoặc tự bầu ra
nhóm trưởng. GV có thể chỉ định nhóm trưởng, thư ký luân phiên để khắc phục tình trạng
có HS chuyên trách nhiệm vụ này. Trong khi HS TL, GV đi tới các nhóm, quan sát, gợi
ý, giúp đỡ HS TL nếu thấy cần thiết và nhắc nhở HS không nói chuyện, chơi, làm việc
riêng. Sau khi TL, đại diện các nhóm lên trình bày. HS quan sát, bổ sung.
5. Tổng kết:
- 8 -
GV với vai trò trọng tài chốt lại những nội dung cơ bản, khen thưởng những nhóm TL
tốt, động viên, khuyến khích để tạo hứng thú cho HS.
Lưu ý: Không có một phương pháp vạn năng cho mọi nội dung dạy học. Bởi vậy, GV
không nên lạm dụng PPTLN mà cần phối hợp linh hoạt với các PP khác để giờ học sinh
động hơn.
6. Ví dụ về một hoạt động TLN trong bài “Khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện
tượng”(GDCD 10)
* TLN để so sánh phủ định biện chứng và phủ định siêu hình
Bước 1. GV giao nhiệm vụ cho HS từ tiết học tuần trước: Về nhà đọc trước bài “Khuynh
hướng phát triển của sự vật, hiện tượng”, chú ý hai vấn đề: 1. So sánh khái niệm phủ
định biện chứng và phủ định siêu hình; 2. Khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện
tượng (đi lên, đi xuống, theo đường tròn, hình sin hay đường xoáy ốc).
Bước 2. Chia nhóm: GV chia lớp thành 2 nhóm lớn theo hai dãy bàn. Mỗi bàn lại thành 1
nhóm nhỏ. GV cử nhóm trưởng của 2 nhóm lớn.
Bước 3. Giao nhiệm vụ, xác định thời gian, hướng dẫn cách thức TL:GV dùng máy chiếu
để trình chiếu hai hình ảnh: Hình ảnh 1 là quả trứng bị đập vỡ, cho vào chảo rán; hình
ảnh 2 là quả trứng được gà mẹ ấp nở thành con gà con. Các nhóm quan sát cả 2 hình ảnh,
sau đó nhóm 1 quan sát kỹ hình ảnh 1 và trả lời các câu hỏi: Nguyên nhân dẫn tới quả
trứng bị phủ định là gì? Kết quả của sự phủ định này là gì? Thế nào là phủ định siêu
hình? Nhóm 2 quan sát kỹ hình ảnh 2 và trả lời câu hỏi: Nguyên nhân dẫn tới quả trứng
bị phủ định là gì? Kết quả của sự phủ định này là gì? Thế nào là phủ định biện chứng?
Thời gian TL 7 phút.
Bước 4. Tiến hành TL.Các nhóm nhỏ TL theo từng bàn. Thư ký của nhóm lớn ghi ý kiến
TL của các nhóm nhỏ. Nhóm trưởng và thư ký nhóm lớn tổng hợp, chọn lọc ý kiến. GV
đi tới các dãy bàn, quan sát, trợ giúp. Nhóm trưởng lên trình bày trước lớp. GV bật lại
- 9 -
máy chiếu hình ảnh cần TL của nhóm. Cả lớp theo dõi, quan sát, các thành viên trong
từng nhóm bổ sung ý kiến cho nhóm mình. Nhóm khác bổ sung ý kiến.
GV nêu tiếp vấn đề để cả lớp TL: Phân biệt sự giống và khác nhau giữa phủ định biện
chứng và phủ định siêu hình?
Bước 5. Tổng kết.GV chốt lại:
- Phủ định siêu hình là sự phủ định diễn ra do sự can thiệp, sự tác động từ bên ngoài,
cản trở hoặc xoá bỏ sự tồn tại, phát triển tự nhiên của sự vật.
- Phủ định biện chứng là sự phủ định diễn ra do sự phát triển của bản thân sự vật, hiện
tượng, có kế thừa những yếu tố tích cực của sự vật và hiện tượng cũ.
- Giống nhau: Đều là phủ định (làm mất đi cái cũ).
- Khác nhau:
Phủ định siêu hình Phủ định biện chứng
Nguyên nhân phủ định ở bên ngoài sự vật
Nguyên nhân phủ định nằm trong bản thân
sự vật
Không kế thừa hoặc kế thừa nguyên xi cái
cũ
Kế thừa có cải biến những yếu tố tích cực
của cái cũ
GV nhận xét tinh thần, thái độ, đánh giá kết quả TL của các nhóm. biểu dương những HS
và nhóm TL tích cực, hiệu quả.
KẾT LUẬN
Trong dạy học truyền thống chúng ta thường nặng về phương pháp thuyết trình.
Hiện nay tuy không nên phủ nhận phương pháp thuyết trình, cũng không thể thay thế
hoàn toàn thuyết trình trong dạy học GDCD, song để phát huy vai trò tích cực của học
sinh, chúng ta cần phải tăng cường các phương pháp dạy học tích cực trong đó có phương
- 10 -
pháp thảo luận nhóm. Phương pháp thảo luận nhóm là phương pháp chia lớp học thành
từng nhóm nhỏ, được giao cùng nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau. Trong nhóm
nhỏ các thành viên đều phải làm việc tích cực và giúp đỡ lẫn nhau cùng giải quyết vấn đề
nêu ra trong không khí thi đua với các nhóm khác. Phương pháp thảo luận nhóm giúp học
sinh chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm của bản thân và cùng nhau xây dựng nhận thức mới.
Bằng cách trình bày những điều suy nghĩ, mỗi học sinh có thể nhận rõ trình độ hiểu biết
của mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần phải học hỏi thêm gì của bạn. Như vậy, bài học
trở thành quá trình học sinh học hỏi lẫn nhau chứ không phải quá trình tiếp nhận tri thức
một cách thụ động từ giáo viên. Phương pháp hoạt động nhóm không chỉ phát huy tính
tích cực học tập của học sinh mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với việc rèn luyện năng
lực hợp tác giữa các thành viên để cùng học tập và lao động trong tương lai.
Tuy nhiên, khi sử dụng phương pháp thảo luận nhóm, yêu cầu giáo viên - học sinh
phải có sự chuẩn bị chu đáo. Đồng thời là cách thức tổ chức khoa học, thì tính hiệu quả
mới cao, mới gây được sự hứng thú học tập của học sinh.
Xuất phát từ thực tiễn, trong khuôn khổ của SKKN tôi xin mạnh dạn nêu ra một
vài kinh nghiệm của bản thân đã thực hiện khi giảng dạy môn GDCD. Do hạn chế về thời
gian, năng lực bản thân và điều kiện thực hiện nên bản SKKN khó tránh khỏi những hạn
chế, rất mong được sự đóng góp ý kiến xây dựng của các bạn đồng nghiệp để bản SKKN
được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Xác nhận của BGH
Hưng Hà, ngày 15 tháng 5 năm 2012
Người viết sáng kiến
Nguyễn Thế Hệ
- 11 -