Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

tiểu luận cao học môn chính trị học nâng cao văn hóa từ chức ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.06 KB, 12 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong một xã hội văn minh, trình độ dân trí cao và Nhà nước pháp
quyền đã được thiết lập trong cuộc sống thì việc từ chức trở thành một nét
đẹp của văn hóa ứng xử của những con người biết tự trọng, biết đặt lợi ích
của nhân dân, của đât nước lên trên những ham muốn không chính đáng.
Vì vậy, Văn hóa từ chức tuy còn mới mẻ nhưng là nhân tố mới trong
cuộc sống hôm nay và đang là vấn đề dư luận quan tâm.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu về văn hóa từ chức ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: văn hóa từ chức ở Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: vấn đề từ chức ở Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được thực hiện thông qua nghiên cứu về văn hóa từ chức ở
Việt Nam, phương pháp nghiên cứu: tu thập tài liệu, tổng hợp và phân tích
tài liệu.

1


NỘI DUNG
I. Một số khái niệm.
I.1. Văn hóa là gì?
Văn hóa là một lĩnh vực tồn tại và phát triển gắn liền với đời sống của
nhân loại, là đặc trưng riêng của con người, ấy vậy mà mãi đến TK XVIII,
cuối TK XIX, các nhà khoa học trên thế giới mới nghiên cứu sâu về lĩnh
vực này.
Định nghĩa văn hóa đầu tiên được chấp nhận rộng rãi là do nhà nhân
chủng học E.B Tylor đưa ra : " văn hóa là một tổng thể phức tạp bao gồm
các kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp lệ, phong tục và toàn


bộ những kĩ năng, thói quen mà con người đạt được với tư cách là thành
viên của xã hội". Có một định nghĩa khác dễ hiểu và tiếp cận gần hơn đến
bản chất của văn hóa, ngày nay nhiều người tán thành với định nghĩa này
của ông Frederico Mayor tổng giám đốc UNESCO: '' văn hóa bao gồm tất
cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm
tinh vi, hiện đại nhất cho đến tín gưỡng, phong tục tập quán lối sống và lao
động.
Các nhà xã hội học chia văn hóa ra làm hai dạng: văn hóa cá nhân và văn
hóa cộng đồng. Văn hóa cá nhân là toàn bộ những vốn tri thức, kinh
nghiệm tích lũy vào mỗi cá nhân biểu hiện ở quan niệm và hành xử của cá
nhân ấy trong đời sỗng thực tiễn. Văn hóa cộng đồng là văn hóa của một
nhóm xã hội, nó không phải là số cộng đơn giản của văn hóa cá nhân.
Văn hóa là phương tiện để con người điều chỉnh cuộc sống của mình
theo định hướng vươn tới những giá trị chân, thiện, mĩ. Được xem là cái
nền tảng vừa là mục tiêu vừa là động lực cho sự phát triển của con người
và xã hội ngày càng thăng bằng và bền vững hơn, văn hóa có tác động tích
cực đối với sự phát triển của mỗi cá nhân cũng như toàn bộ cộng đồng. Nội

2


lực của một dân tộc là mọi nguồn lực tập hợp từ vốn văn hóa truyền thống
đã tích lũy trong lịc sử của chính dân tộc đó.
Như vậy thực chất văn hóa là hệ thống các giá trị được sản sinh ra trong
xã hội nhất định, được đặc trưng bởi hình thái kinh tế xã hội nhất định, bao
gồm các giá trị vất chất và tinh thần.
I.2 Từ chức là gì?
Từ chức được hiểu xin thôi không làm chức vụ hiện đang giữ. Như vậy,
từ chức chỉ có thể xảy ra ở những người có chức, có quyền. Từ chức một
cách tự nguyện, tự giác là thái độ trung thực với chính mình, biết xấu hổ

khi làm điều trái với đạo lý, đi ngược lại nguyện vọng của cơ quan, tổ chức
và cộng đồng, là biểu hiện của sự cao thượng, dũng cảm, tự trọng.
I.3 Văn hóa từ chức là gì?
Văn hóa từ chức là một dạng văn hóa cá nhân của những người có chức,
có quyền. Họ được cơ quan, tổ chức và xã hội tôn trọng khi ở họ có nhân
cách đạo đức, biết lãnh đạo bằng tấm gương. Nếu không có nhân cách và
gương mẫu thì không thể thuyết phục được mọi người,

3


II. Văn hóa từ chức
II.1 Từ chức là ứng xử văn hóa
Người nào mà tự nhận thấy tín nhiệm của mình không còn, xin từ
chức thì đó là việc làm mang tính đột phá. Đó là một ứng xử văn hóa, phải
được trân trọng.
Những người lãnh đạo luôn tự biết, tự thấy trách nhiệm của mình trên
hết là vì cái chung. Khi nhận thấy việc nắm giữ vị trí đó không có lợi cho
cái chung nữa, chỉ có lợi cho bản thân mình thôi, thì tốt nhất nên ra đi. Thói
quen ứng xử ấy, ở các nước đã được nâng lên thành tầm văn hoá.
Từ trước đến nay ở nước ta, cũng đã có một số người ở những cương vị
khác nhau từ chức, khi thấy bản thân không còn tín nhiệm, không còn xứng
đáng giữ cương vị đó nữa.
Ngay cả ở vị trí cao, cũng đã có trường hợp xin từ chức. Còn việc được
chấp nhận hay không thì đó là chuyện khác.
Tuy nhiên, từ chức chưa trở thành thói quen, như ở các nước gọi là văn
hoá từ chức. Một vị bộ trưởng giao thông ở Ấn Độ từ chức trước sự cố sập
cầu, hay ở Nhật Bản các vị đứng đầu Chính phủ là thủ tướng cũng thường
từ chức khi có sự việc xảy ra mà thấy mình không gánh vác, đảm đương
được nữa.

Đấy là cách người ta lựa chọn khi thấy không còn năng lực, tín
nhiệm, hoặc có thể bị cơ quan có thẩm quyền phế truất. Việc đó đã trở
thành một thói quen
ứng xử bình thường.
Người mà tự nhận thấy tín nhiệm của mình không còn, xin từ chức
thì đó là việc làm dũng cảm, mang tính đột phá. Đó là một ứng xử rất văn
hoá, phải được trân trọng. Những người xin từ chức dù được chấp nhận hay
không cũng nên và phải được xã hội tôn trọng, ghi nhận.
Chúng ta phải nhận thức cho đúng, việc từ chức không phải vết hằn,
gắn lên người ta như một án tích. Nó chỉ là sự đánh giá trách nhiệm của
4


người đó, trong một thời gian cụ thể. Khi làm tốt, có thể tiếp tục trở lại
chức vụ đó, hoặc vị trí cao hơn.
II.2 Từ chức và văn hóa chính trị
Từ chức gắn với văn hóa chính trị. Trên thế giới, một nhà lãnh đạo, một
chính khách khi thấy mình không còn được tin tưởng và được tín nhiệm
nữa thì đều sẵn sàng xin từ chức.
Đó không phải là sự chối bỏ trách nhiệm, mà là phản ứng tự nhiên của
lòng tự trọng, nền tảng cơ bản nhất của văn hóa chính trị.
Bộ trưởng ở các nước thường chỉ phải chịu trách nhiệm chính trị ( tức là
trách nhiệm về các chính sách do họ đề ra, chứ không phải về việc thi hành
chính sách cụ thể). Tuy nhiên, do chế tài của trách nhiệm chính trị là sự bất
tín nhiệm, nên họ phải rất giữ gìn. Bởi tín nhiệm có khi bị mất chỉ vì
chuyện chơi golf hoặc chuyện ham vui vẻ.
Ở ta, chưa có sự phân biệt tương đối rạch ròi giữa trách nhiệm trong việc
đề ra chính sách và trách nhiệm trong việc thực thi chính sách, giữa trách
nhiệm chính trị và trách nhiệm pháp lý. Bộ trưởng là người phải chịu trách
nhiệm trong toàn bộ lĩnh vực mình phụ trách. Đây là một thách thức rất lớn

cho các vị bộ trưởng. Do phạm vi trách nhiệm rất lớn, khả năng họ bị mất
tín nhiệm cũng rất dễ xảy ra. Cái khó hơn là chuyện từ chức khi tín nhiệm
không còn.
II.3 Văn hóa từ chức ở Việt Nam đã có nhưng chưa phổ biến.
Vì lịch sử của chế độ ta, Đảng ta trong quá trình hình thành và phát
triển, đi liền với công tác cán bộ. Trong công tác cán bộ có 3 loại người. Có
cán bộ làm rất tốt, có cán bộ làm không tốt nhưng mà họ đã cố gắng hết
mình, còn có cán bộ làm rất kém, hư hỏng, tham nhũng, gây thất thoát lớn,
nhân dân oán trách. Đảng ta nhận thức rõ điều đó, không phải chỉ trong
chiến tranh mà cả hòa bình, xây dựng đất nước.
5


Như Tổng Bí thư Trường Chinh, khi có sai lầm trong cải cách ruộng
đất, chính ông đã xin từ chức. Nhưng ông tiếp tục cống hiến cho dân cho
nước, ông phấn đấu tốt được Đảng, Nhà nước đánh giá cao và ông đã trở
lại vị trí Tổng Bí thư của Đảng. Ông Kim Ngọc, Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú
thời chống Mỹ. Ông đã để lại tấm gương sáng trong nhân dân, táo bạo, dám
nghĩ, dám đổi mới làm, dám chịu trách nhiệm. Lúc đó, ông bị kỷ luật
nhưng sau này chân lý sáng rõ thuộc về ông. Đây là điển hình của loại cán
bộ tài năng và tâm huyết. Ngược lại, có loại cán bộ yếu kém, hư hỏng, điển
hình như lãnh đạo vụ Vinashin, Vinaline,... Họ đã gây thất thoát hàng
nghìn tỉ, gây nên những tác hại vô cùng lớn cho, cho đất nước, cho nhân
dân. Vậy ai chịu trách nhiệm?
Công tác cán bộ quan trọng như vậy, nên trong Văn kiện của Đảng
cũng đã nêu: Công tác cán bộ có ra có vào, có lên có xuống, coi đó là việc
bình thường trong Đảng”. Song, thực hiện thì rất khó khăn, lên thì dễ
xuống thì vô cùng khó.
Cho nên văn hóa từ chức là văn hóa rất hay. Lịch sử đã thực nghiệm
trường hợp ông Lê Huy Ngọ, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT, xin từ chức sau vụ

Lã Thị Kim Oanh (năm 2004). Hành động từ chức của ông Ngọ được Quốc
hội và nhân dân hoan nghênh. Trong Đảng, trong nhà nước ta, thực hiện
văn hóa từ chức là rất hay, nhân dân rất đồng tình. Văn hóa từ chức ở Việt
Nam vẫn chưa phổ biến chỉ có một vài trường hợp, nhưng đang trong quá
trình hình thành. Vừa qua, Chính phủ chỉ đạo Bộ Nội vụ nghiên cứu xây
dựng Đề án tiếp tục cải cách chế độ công vụ, công chức, trong đó có việc
nghiên cứu xây dựng các quy định về từ chức của cán bộ, công chức và coi
từ chức - thuộc khía cạnh văn hóa của chế độ công vụ - là một nội dung
nằm trong chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn
2011 - 2020.

6


II.3 Nguyên nhân văn hóa từ chức ở Việt Nam chưa phát triển
Ở các nước phát triển, việc từ chức khá dễ dàng, vì văn hoá từ chức
đã trở thành một phần của đời sống công. Văn hoá này lại được nuôi dưỡng
trong môi trường xã hội thuận lợi. Không làm quan thì người ta có thể làm
rất nhiều việc khác. Cựu Tổng thống Mỹ B.Clinton khi còn đương chức
lương bình quân chỉ khoảng 200.000 USD/năm. Nhưng khi thôi chức, ông
có thể kiếm tới 300.000 USD/giờ bằng cách làm diễn giả. Đó là văn hoá từ
chức tại các nước phát triển, còn ở nước ta thì sao. Ở Việt Nam có hay
không văn hóa từ chức, và vì sao chuyện từ chức ở nước ta lại khó đến như
vậy ? Có một số nguyên nhân giải thích cho hiện tượng này.
Một là, ảnh hưởng của cơ chế tập trung, bao cấp. Mô hình quản lý
tập trung, quan liêu bao cấp tồn tại một thời gian khá dài trên đất nước ta.
Từ mắm muối, vải vóc, thịt cá... cho đến nhà cửa đều được phân phối. Chế
độ phân phối này lại “phân hạng” từ thấp đến cao. Chức vụ càng cao thì
được phân phối-hưởng quyền lợi càng nhiều. Cuộc đời của quan chức vì
thế gắn chặt vào chức tước, vào cái “ghế”. Cả cuộc đời họ như chỉ có một

“cửa” để phấn đấu. Mất “ghế” là mất tất cả. Từ chức là thảm họa đối với
bản thân và gia đình, dù ngày nay nền kinh tế thị trường đã mở ra rất nhiều
“cửa” để con người phấn đấu. Ai có tài năng và đạo đức đều được xã hội
đền đáp xứng đáng. Tâm lý e ngại từ chức, mất “ghế” vẫn còn tồn tại.
Hai là, một quan chức được bổ nhiệm vào chức vụ nào đó luôn được
xem là Đảng giao trách nhiệm. Nếu ai đó từ chức thì có nghĩa là từ chối
hay không hoàn thành nhiệm của Đảng giao, vì thế sẽ bị đánh giá rất thấp
về đạo đức và năng lực. Dư luận xã hội chúng ta cũng còn chưa đủ khách
quan và rất xét nét với vấn đề từ chức. Nghe nói ai đó từ chức là nghĩ ngay
tới chuyện tiêu cực này nọ mà không cần biết đến động cơ thực sự. Từ
chức là đòi hỏi của lương tâm, nhưng lương tâm thì không phải lúc nào
cũng có thể được lý giải.

7


Ba là, không ít quan chức ở ta chỉ có kiến thức chung chung mà
không có chuyên môn sâu. Cả cuộc đời có khi chỉ biết mỗi chuyện làm
quan. Từ chức rồi làm gì, lấy gì để sống? Đó cũng là nguyên nhân khiến
nhiều người rất khó tự nguyện xin từ chức.
II.4 Để có văn hóa từ chức cần
Phải có hệ thống pháp luật quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của
từng vị trí, nhất là đối với các chức danh lãnh đạo, quản lý. Xây dựng các
quy định về từ chức của cán bộ, công chức phải dựa trên nền tảng cải cách,
xây dựng được quy chế công chức thật chuẩn về tiêu chuẩn của từng chức
vụ, từng vị trí công tác.
Đẩy mạnh tuyên truyền trong xã hội về văn hóa từ chức; nên khuyến
khích sự tự nguyện từ chức và đánh giá cao những người có đủ dũng khí,
lòng tự trọng, biết liêm sỉ tự nguyện từ chức, đồng thời định hướng dư luận
xã hội cũng không nên nặng nề đối với những người tự nguyện từ chức.

Bản thân cán bộ lãnh đạo, quản lý cần phải tự nhận thức rằng chức vụ
không chỉ đi liền với quyền lợi, mà cao hơn phải thấy chức vụ đi liền với
trách nhiệm, với tinh thần, thái độ cống hiến, hy sinh.
Việc từ chức tự nguyện của người có chức, có quyền sẽ tạo cơ hội cơ cấu
lại, kiện toàn đội ngũ cán bộ của cơ quan, tổ chức nghĩa là tạo ra sự hợp lý
tốt hơn trong xã hội. Điều đó giúp những người thực sự có nhân cách, tài
giỏi, có trình độ, năng lực thực tiễn có thể phát huy cao nhất năng lực của
mình nếu ở đúng vị trí, đồng thời cũng giúp cho cơ quan, tổ chức và xã hội
tránh được những thiệt hại không đáng có.
Văn hóa có mặt trong tất cả những hoạt động sống của con người và là
tất yếu của cuộc sống, thế nên, văn hóa từ chức cũng biểu hiện sự tất yếu
của cuộc sống. Thiết nghĩ, từ chức sớm trở thành cách ứng xử bình thường
trong đời sống lãnh đạo, quản lý ở nước ta, đồng thời, văn hóa từ chức
cũng từ đó mà hình thành và phát triển.
8


II.5 Lấy phiếu tín nhiệm đặt nền móng cho văn hóa từ chức”
Kết quả lấy phiếu tín nhiệm là một chỉ số khách quan để cán bộ tự
tìm giải pháp tốt nhất cho mình, trong danh dự, văn hóa là tuyên bố từ
chức. Việc này khơi mào cho văn hóa từ chức thực sự.
Mục đích xây dựng đề án bỏ phiếu tín nhiệm là nhằm cụ thể hóa quy
định của Hiến pháp, luật tổ chức QH, luật giám sát QH về việc QH bỏ
phiếu tín nhiệm với các chức danh do QH bầu hoặc phê chuẩn. Ngoài ra,
Nghị quyết TƯ 4 cũng đề ra yêu cầu hàng năm lấy phiếu tín nhiệm đối với
những người giữ các chức danh mà QH bầu hoặc phê chuẩn.
Nội dung đề án vì vậy phải xử lý được cả 2 yêu cầu này. Nếu thu hẹp
đối tượng lấy phiếu tín nhiệm thì sẽ không “ôm” được hết các nhiệm vụ.
Tuy nhiên, nếu mở rộng tất cả các đối tượng theo tinh thần nghị quyết TƯ
4 thì dễ dẫn đến nguy cơ việc lấy phiếu tín nhiệm trở thành hình thức.

Để xử lý vấn đề này, dự thảo Nghị quyết đã đưa ra hướng phân loại
gồm 2 nhóm. Thứ nhất là nhóm những cán bộ có địa vị pháp lý, chức trách
rõ ràng. Những quyết sát của họ có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế
xã hội (gồm 49 người). Nhóm này do Quốc hội lấy phiếu... Nhóm thứ 2 là
cấp phó hoặc ủy viên các ủy ban, do các ủy ban lấy phiếu.
Cách làm như vậy đáp ứng được cả 2 yêu cầu mà vẫn đảm bảo tập
trung vào nhóm 49 người. Việc đánh giá sẽ đi vào thực chất hơn.
Kết quả lấy phiếu là căn cứ để lãnh đạo đo lường uy tín của mình.
Mỗi người nếu uy tín thấp sẽ phải tự nâng cao phẩm chất, đạo đức, cung
cách điều hành để đáp ứng đòi hỏi của dân.
Mục tiêu của việc lấy phiếu chủ yếu là để thăm dò uy tín. Việc
này được làm thường xuyên và không nặng nề. Tuy nhiên, để đưa ai đó ra
bỏ phiếu tín nhiệm thì phải căn cứ vào kết quả thăm dò hàng năm đó. Quy
trình bỏ phiếu này tác động nhiều đến nhóm 49 người hơn là nhóm dưới.
Mục đích việc lấy phiếu tín nhiệm có ý nghĩa như sự cảnh báo cho
các cán bộ giữ vị trí lãnh đạo biết được uy tín của mình đến đâu. Đó là cơ
9


sở để người đó phải đặt vấn đề tự xem lại mình, cân nhắc nên từ chức hay
không.
Có lẽ việc lấy phiếu tín nhiệm hàng năm này sẽ đặt nền móng cho văn
hóa từ chức để có cơ sở thực hiện. Trước đây chúng ta cũng đã đặt vấn đề
từ chức nhưng chưa có căn cứ nên chính người cần từ chức cũng còn thấy
lơ mơ, có những ảo tưởng cho rằng tình hình không đến mức như thế.
Kết quả lấy phiếu tín nhiệm chính là một chỉ số khách quan để
người đó phải đặt vấn đề giải pháp tốt nhất cho mình, trong danh dự, văn
hóa - đấy là tuyên bố từ chức. Việc này khơi mào cho văn hóa từ chức thực
sự trong nhóm người có chức có quyền


10


KẾT LUẬN
Việc từ chức khi tự thấy mình không đủ năng lực đảm nhiệm vị trí công
tác là một sự trung thực, dũng cảm rất đáng cho mọi người suy nghĩ. Mong
rằng nó trở thành chuyện bình thường và cần thiết diễn ra ở các cấp chính
quyền. Việc từ chức trong một khía cạnh nào đó cũng nói lên một điều là
đương sự thấy được trách nhiệm cá nhân trước những bê bối, sai phạm,
thậm chí là không thành công của một chủ trương, chính sách.
Từ chức phải được xem là chuyện cần thiết, bình thường trong hoạt động
công vụ.

11


MỤC LỤC
II.5 Lấy phiếu tín nhiệm đặt nền móng cho văn hóa từ chức”..............9

12



×