Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Các món ăn bài thuốc tham khảo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442.6 KB, 32 trang )

Cháo thuốc chữa các bệnh về gan
Để hỗ trợ chữa viêm gan, xơ cứng gan, có thể lấy táo tàu, lạc,
đường đỏ, mỗi thứ 50 g, gạo tẻ 30 g, nấu cháo ăn hằng
ngày. Mỗi liệu trình kéo dài 30 ngày.

Hạt sen có thể chữa
bệnh về gan.
Sau đây là một số bài cháo thuốc khác:
- Chữa bệnh về gan do tỳ hư, xuất hiện báng ở bụng, chân tay mình mẩy phù thũng: Ý dĩ nhân
(hạt bo bo), xích tiểu đậu, hạt sen (bỏ tâm và vỏ cứng ở ngoài), ngó sen, mỗi thứ lượng bằng
nhau, nấu cháo ăn vào buổi tối.
- Chữa viêm gan loại hoàng đản (da vàng mắt vàng): Bột bạch phục linh 20 g, xích tiểu đậu 50 g,
hạt bo bo 100 g. Ngâm xích tiểu đậu nửa ngày rồi cho vào nấu cháo cùng hạt bo bo, khi chín nhừ
thì cho thêm bột phục linh vào nấu tiếp, sau đó cho ít đường trắng để ăn trong ngày (chia mấy
lần tùy ý).
- Chữa xơ gan cổ trướng: Bột ngó sen 10-15 g, hạt bo bo 50-100 g, táo tàu 10 quả (bỏ vỏ và hạt).
Nấu hạt bo bo cho chín mềm, cho táo tàu vào đun sôi trở lại. Sau đó cho bột ngó sen (đã hòa
cho tan đều với nước sôi) vào đun sôi lại lần nữa là được. Chia làm 2 phần ăn trong ngày.
- Hỗ trợ chữa bệnh viêm gan hoàng đản truyền nhiễm cấp tính: Nhân trần 30-60 g, gạo tẻ 50-100
g, đường trắng vừa đủ. Rửa sạch nhân trần, nấu lấy nước, bỏ bã. Gạo tẻ vo sạch, nấu với nước
nhân trần thành cháo, cho đường vào khuấy đều, chia làm 2-3 lần ăn trong ngày. Mỗi liệu trình
dài 7-10 ngày.
- Hỗ trợ chữa bệnh viêm gan B: Quyết minh rang cháy 0,2 g, gạo tẻ, đường mạch nha lượng vừa
đủ. Nấu quyết minh với nửa tô cháo gạo tẻ, sau đó đường mạch nha vào, chia làm 2 phần, ăn
trong ngày.

Các món ăn bài thuốc dành cho phụ nữ
Để chữa bế kinh sau khi sinh, có thể dùng củ sen (thái mỏng) 250 g, đào nhân
10 g rửa sạch, thêm nước vừa đủ, đun nhỏ lửa cho đến khi củ sen chín, nêm
gia vị cho vừa ăn. Củ sen có tác dụng thanh nhiệt, mát máu, làm tan máu
bầm. Đào nhân có khả năng hoạt huyết, thông kinh, khử bầm, giảm đau.



Táo đỏ có công
dụng bổ tỳ,
dưỡng huyết.
Sau đây là một số món ăn - bài thuốc cổ truyền đơn giản mà bạn có thể tham khảo:


Bài 1: Táo đỏ 10 quả (bỏ hạt), củ sen 250 g (thái mỏng), xương lợn 500 g (chặt miếng nhỏ), lạc
100 g. Tất cả rửa sạch, cho vào nồi (tốt nhất là nồi đất), đổ ngập nước, đun to lửa cho sôi. Sau
đó đun nhỏ lửa khoảng 3 giờ (nhớ thêm nước cho đủ), thêm gia vị cho vừa ăn.
Công dụng: Chữa trị kinh nguyệt kéo dài, lượng kinh quá nhiều, kinh màu đỏ, nhạt và loãng.
Thuốc cũng có hiệu quả cao đối với người khi hành kinh kéo dài kèm chảy máu cam, nôn ra
máu, chảy máu chân răng, xuất huyết dưới da.
Bài 2: Dùng cho phụ nữ thời kỳ tiền mãn kinh.
Hà thủ ô (đã chế) 20 g, huỳnh kỳ 15 g, táo đỏ 10 quả, gà ác (thịt đen) 200 g. Huỳnh kỳ, hà thủ ô
rửa sạch, cho vào túi vải mỏng, buộc chặt miệng lại; táo đỏ rửa sạch, bỏ hạt; gà ác làm sạch,
chặt miếng nhỏ. Cho tất cả vào nồi đất, cho nước vừa đủ, đun to lửa cho mau sôi rồi giảm lửa
nhỏ, đun tiếp khoảng 2 giờ cho nhừ. Vớt túi thuốc ra, nêm gia vị cho vừa ăn.
Công dụng: Bổ khí huyết, tư bổ can thận, chữa khí huyết hư nhược, can thận suy kém, chóng
mặt, ù tai, đổ mồ hôi, tim hồi hộp, mất ngủ, sợ hãi, suy nhược.
Bài 3: Đương quy 15 g, huỳnh kỳ 35 g, gà ác 500 g. Gà ác làm sạch, bỏ bộ đồ lòng; đương quy,
huỳnh kỳ rửa sạch. Bỏ tất cả vào nồi đất, đổ nước xâm xấp, nấu lửa lớn cho sôi, sau đó giảm lửa
cho nhỏ, hầm nhừ, nêm gia vị vừa ăn.
Công dụng: Điều khí, bổ huyết, bổ thận, điều kinh.
Bài 4: Bạch tuộc (mực đầu tròn) 100 g, lạc 60 g, thịt gà 250 g, rượu nếp 100 g. Bạch tuộc làm
sạch, ngâm trong nước cho mềm; lạc rửa sạch; thịt gà rửa sạch, chặt miếng nhỏ. Cho tất cả vào
nồi đất, đổ nước vừa đủ, nấu lửa lớn cho mau sôi, sau đó để lửa riu riu cho mềm, nêm gia vị vừa
ăn. Lúc dùng, thêm một ít rượu nếp vào canh, ăn cả cái lẫn nước.
Công dụng: Thông sữa, dưỡng huyết.


Các món ăn bài thuốc từ não động vật
Để chữa chứng đau đầu kèm theo hoa mắt, chóng mặt, ù tai, có thể lấy não lợn 1 bộ, thiên ma
10-30 g (thái lát) hầm nhỏ lửa thành dạng canh rồi bỏ bã, uống vài lần trong ngày. Cũng có thể
lấy não dê 1 bộ, rửa sạch huyết rồi hầm trong 30 phút, thêm gia vị ăn trong ngày.
Theo y học cổ truyền, não động vật không chỉ là thực phẩm mà còn là vị thuốc chữa các bệnh lý
có liên quan đến não và hệ thống thần kinh. Từ việc dùng não lợn, trâu, bò, dê, gà... làm thuốc
dưới dạng các món ăn, trong y học đã hình thành một phương pháp chữa bệnh độc đáo gọi là
"dĩ não liệu bệnh pháp". Sau đây là một số bài thuốc từ não động vật:
Bài 1: Chữa phong huyễn não minh (Tây y gọi là thiểu năng tuần hoàn não, rối loạn tiền đình).
Triệu chứng: Hoa mắt, chóng mặt, kèm theo có những âm thanh bất thường trong đầu như tiếng
ve kêu, tiếng xay lúa.
Não lợn 1 bộ, dùng nước sôi để nguội rửa sạch huyết, đem hầm kỹ trong 30 phút rồi ăn trong
ngày, một liệu trình kéo dài 7 ngày.
Hoặc: Não lợn 100 g, hành 20 g, gừng tươi 10 g, rượu vang 10 g, dầu vừng 10 g, tỏi 20 g, xì dầu
15 g. Não lợn rửa sạch và loại bỏ gân máu, hành thái đoạn, gừng và tỏi giã nát. Đặt não lợn lên


một cái đĩa cùng gừng và hành, vẩy rượu vang lên trên rồi đem hấp cách thủy chừng 30 phút,
sau đó chế thêm dầu vừng, tỏi, xì dầu, trộn đều, ăn trong ngày.
Bài 2: Chữa hội chứng suy nhược thần kinh.
Não lợn 1 bộ, trứng gà 1-2 quả. Não lợn rửa sạch huyết, loại bỏ gân máu, đánh đều với trứng gà
rồi tráng chín ăn trong ngày.
Hoặc: Não lợn một bộ, nhục dung 12 g, thỏ ty tử 12 g, thục địa 12 g, kỷ tử 15 g. Các vị thuốc sắc
kỹ, bỏ bã, lấy nước rồi cho não lợn vào đun chín, chế thêm gia vị, ăn trong ngày.
Bài 3: Chữa di chứng chấn thương sọ não.
Não lợn 1 bộ, thiên ma 9 g (thái lát), kỷ tử 15 g. Não lợn rửa sạch huyết, loại bỏ gân máu, hấp
cách thủy cùng thiên ma và kỷ tử, chế thêm gia vị ăn trong ngày.
Hoặc: Não lợn 1 bộ, thiên ma 10 g, gạo tẻ 250 g, đem gạo và thiên ma nấu thành cháo rồi cho
não lợn vào đun chín, chế thêm gia vị, chia ăn vài lần trong ngày.
Bài 4: Chữa rối loạn thần kinh chức năng.

Não lợn 1 bộ, mộc nhĩ đen 15 g. Não lợn rửa sạch huyết, loại bỏ gân máu. Mộc nhĩ ngâm nước
lạnh 15 phút rồi rửa sạch, cho vào chảo xào trong 30 phút với 1 thìa dầu thực vật. Cho thêm một
thìa rượu vang, muối, gia vị vừa đủ và một chút nước đun sôi. Sau đó cho não lợn vào, chế thêm
một bát nước nhỏ rồi đun nhỏ lửa trong 40 phút nữa. Khi ăn, có thể cho thêm hạt tiêu và các gia
vị khác.
Bài 5: Chữa rối loạn tiền đình do tổn thương tai trong
Não lợn 1 bộ, rửa sạch huyết, loại bỏ gân máu; đông trùng hạ thảo 10 g rửa sạch, để ráo nước.
Hai thứ đặt lên đĩa, cho thêm một thìa rượu vang, 2 thìa nước lạnh và một chút muối ăn rồi hấp
cách thủy, ăn trong ngày.
Hoặc: Não lợn 1 bộ, tiểu mạch 30 g, đại táo 1 quả. Cho tiểu mạch vào 2 bát nước to, sắc kỹ bằng
tiểu mạch bằng lửa nhỏ trong nửa giờ rồi bỏ bã, lấy nước. Cho đại táo và não lợn (đã ngâm kỹ
bằng nước ấm) vào cùng với 2 thìa đường trắng, nửa thìa rượu vang, hầm kỹ trong 30-60 phút là
được. Chia ăn 2 lần trong ngày.
Bài 6: Chữa chứng chậm phát triển trí tuệ của trẻ em, làm tăng trí nhớ và khả năng hoạt động
của não bộ.
Não dê 1 bộ, kỷ tử 50 g. Não dê rửa sạch, hấp cách thủy cùng kỷ tử rồi chế thêm gia vị ăn trong
ngày.
Hoặc: Não lợn 1 bộ rửa sạch huyết, loại bỏ gân máu, hoài sơn 15 g, kỷ tử 15 g. Tất cả đem hấp
cách thủy rồi chế thêm gia vị, ăn trong ngày.
Lưu ý: Các loại não động vật có tác dụng tương tự như nhau, tùy theo điều kiện có thể linh hoạt
sử dụng.
ThS Hoàng Khánh Toàn


DƯỢC THIỆN CHO NGƯỜI BỊ DI
CHỨNG TAI BIẾN MẠCH MÁU
NÃO
Tác giả : Thạc sĩ HOÀNG KHÁNH TOÀN

Tai biến mạch máu não là một nhóm bệnh lý HAY gặp

và di chứng của nó thường hết sức nặng nề. Trong y học cổ truyền, di chứng
tai biến mạch máu não thuộc phạm vi các chứng như Thiên liệt, Thiên khô…
và được trị liệu bằng nhiều biện pháp mang tính tổng hợp dựa trên quan điểm
“chỉnh thể thi trị”, trong đó có việc sử dụng các món ăn - bài thuốc (dược
thiện) hết sức độc đáo. Bài viết này xin được giới thiệu một số ví dụ điển hình
để bạn đọc có thể tham khảo và vận dụng khi cần thiết.
VỚI THỂ KHÍ HƯ HUYẾT Ứ
Chứng trạng: Bị bệnh lâu ngày, liệt bại hoặc tê bì nửa người, cơ thể mỏi mệt, ăn kém, nhiều lúc
có cảm giác như thiếu không khí để thở, sắc mặt trắng nhợt, hay vã mồ hôi, chất lưỡi nhợt tối, có
những điểm ứ huyết, tĩnh mạch dưới lưỡi giãn to...
Món ăn bài thuốc
Bài 1: Thịt thỏ 250g, hoàng kỳ 60g, xuyên khung 10g, gừng tươi 4 lát. Cách chế: Thịt thỏ rửa
sạch, loại bỏ mỡ, thái miếng; Xuyên khung và hoàng kỳ rửa sạch. Tất cả cho vào nồi hầm chừng
2 giờ cho thật nhừ, chế đủ gia vị, chia ăn vài lần trong ngày, thường 2 ngày làm 1 lần. Công dụng:
Ích khí hoạt huyết, thông kinh lạc.
Bài 2: Đẳng sâm 15g, đương quy 15g, lươn 500g. Cách chế: Các vị thuốc cho vào túi vải buộc kín
miệng; Lươn làm sạch, cắt khúc. Tất cả cho vào nồi cùng với các gia vị như hành củ, gừng tươi...
rồi hầm lửa nhỏ chừng 1 giờ cho nhừ. Nêm đủ mắm, muối, chia ăn vài lần trong ngày, thường 2
ngày làm 1 lần, 15 lần là một liệu trình. Công dụng: Ích khí hoạt huyết, thông kinh lạc.
Bài 3: Đẳng sâm 15g, đào nhân 15g, trà mạn 15g. Cách dùng: Các vị sấy khô, tán vụn, trộn đều,
mỗi lần lấy 3g bột thuốc hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 20 phút thì dùng được, uống
thay trà trong ngày. Công dụng: bổ khí, hoạt huyết, hóa ứ, thông kinh mạch.
Bài 4: Tôm nõn 200g, hoàng kỳ 50g. Cách chế: Đem hoàng kỳ sắc kỹ lấy nước rồi cho tôm nõn
vào nấu thành canh, chế thêm gia vị, dùng làm canh ăn hàng ngày. Công dụng: Ích khí, thông
kinh, hoạt lạc.
Bài 5: Hoàng kỳ 100g, địa long khô (tẩm rượu) 30g, hồng hoa 20g, xích thược 20g, đương quy
50g, xuyên khung 10g, đào nhân (bỏ vỏ và đầu nhọn, sao qua) 15g, bột ngô 400g, bột mì 100g,
đường trắng lượng vừa đủ. Cách chế: Hoàng kỳ, hồng hoa, đương quy, xích thược và xuyên
khung đem sắc kỹ lấy nước; Địa long tán thành bột, trộn đều với đường trắng, bột ngô và bột mì
rồi cho nước vào nhào kỹ, nặn thành những chiếc bánh nhỏ, đặt đào nhân lên trên, bỏ vào lò

nướng chín là được, mỗi ngày ăn 2 lần, mỗi lần 2 cái. Công dụng: Ích khí hoạt huyết, thông lạc
khởi nuy.
VỚI THỂ CAN THẬN SUY HƯ
Chứng trạng: Liệt nửa người, gân mạch co quắp, duỗi khớp khó khăn, lưng đau gối mỏi, đầu


choáng mắt hoa, tai ù tai điếc, tinh thần trì trệ, quên nhiều, chất lưỡi đỏ, rêu mỏng, đại tiện không
thông thoáng…
Món ăn - bài thuốc
Bài 1: Hoàng kỳ 30g, đại táo 10 quả, đương quy 10g, kỷ tử 10g, thịt lợn nạc 100g. Cách chế: Thịt
lợn rửa sạch, thái miếng; Các vị thuốc rửa sạch, cho vào nồi hầm cùng với thịt lợn thật nhừ, bỏ bã
hoàng kỳ và đương quy, chế đủ gia vị, chia ăn vài lần trong ngày, có thể dùng liên tục trong 1
tháng. Công dụng: Tư bổ can thận, ích khí khởi nuy.
Bài 2: Đỗ trọng 30g, ngưu tất 15g, xương sống lợn 500g, đại táo 4 quả. Cách chế: Đại táo bỏ hạt,
đỗ trọng và ngưu tất rửa sạch, xương lợn chặt miếng, chần qua nước sôi cho hết huyết dịch, tất
cả cho vào nồi hầm kỹ chừng 2-3 giờ, chế đủ gia vị, dùng làm canh ăn hàng ngày. Công dụng: bổ
can thận, làm mạnh gân cốt.
Bài 3: Rùa 3 con (mỗi con nặng chừng 250g), đường phèn
lượng vừa đủ. Cách chế: Cắt tiết rùa cho vào bát, bỏ đường
phèn và một chút nước, quấy đều rồi cho lên bếp đun cách
thủy, ăn nóng, mỗi ngày 1 lần, 7 lần là một liệu trình. Công
dụng: Tư âm, dưỡng huyết, thông mạch.
Bài 4: Kỷ tử 30g, thận dê 1 quả, thịt dê 50g, gạo tẻ 50g. Cách
chế: Thận dê và thịt dê rửa sạch, thái miếng, cho vào nồi cùng
với kỷ tử và gạo tẻ ninh thành cháo, chế thêm gia vị, chia ăn vài
lần trong ngày. Công dụng: Bổ can thận, thông mạch.
Bài 5: Kỷ tử 30g, cúc hoa 10g. Cách chế: Hai thứ hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 15
phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Công dụng: Tư âm bổ thận, sơ phong thanh can,
giáng áp, dùng làm nước uống hàng ngày cho bệnh nhân bị di chứng trúng phong rất tốt.
VỚI THỂ TỲ HƯ ĐÀM TRỆ

Chứng trạng: Liệt mềm nửa người, hình thể béo trệ, mệt mỏi như mất sức, ăn kém, chậm tiêu,
sắc mặt vàng nhợt, nói khó, thường có hội chứng rối loạn lipid máu, miệng nhạt, chất lưỡi nhợt
bệu, có vết hằn răng…
Món ăn - bài thuốc
Bài 1: Ý dĩ 30g, bạch biển đậu 30g, hoài sơn 30g, củ cải trắng 60g, gạo tẻ 60g. Cách chế: Củ cải
rửa sạch, cắt miếng, đem nấu với ý dĩ, bạch biển đậu, hoài sơn và gạo tẻ thành cháo, chế đủ gia
vị, chia ăn vài lần trong ngày, 7 ngày là một liệu trình. Công dụng: kiện tỳ trừ thấp.
Bài 2: Nhân sâm 10g, rau hẹ 12g, trứng gà bỏ lòng đỏ 1 quả, gạo tẻ 50g. Cách chế: Nhân sâm
thái vụn, sắc kỹ lấy nước rồi cho gạo tẻ vào ninh thành cháo, khi chín bỏ lòng trắng trứng và rau
hẹ vào, chế thêm gia vị, ăn nóng. Công dụng: Ích khí hòa trung, trừ đàm thông dương.
Bài 3: Trám tươi 500g, uất kim 250g, bột minh phàn 100g, bạch cương tàm 100g, mật ong lượng
vừa đủ. Cách chế: trám đập nát, bạch cương tàm tán vụn. Đầu tiên, đem trám và uất kim sắc kỹ
với 1.000ml nước trong 1 giờ rồi lọc lấy nước thứ nhất, lại cho tiếp 500ml nước sắc cô lấy nước
thứ hai, hòa hai nước với nhau cô lửa nhỏ cho đến khi còn 500ml rồi cho bột cương tàm, bột
minh phàn và mật ong vào cô thành cao, để nguội, đựng trong lọ kín dùng dần, mỗi ngày uống 2


lần, mỗi lần 10ml. Công dụng: Trừ phong giải kính, hóa đàm khai kết.
Bài 4: Thiên ma 10g, óc lợn 1 bộ. Cách chế: thiên ma thái vụn cho vào bát sứ cùng với óc lợn rồi
đem hấp cách thủy cho chín, chế thêm gia vị, ăn nóng. Công dụng: trừ phong khai khiếu, tư
dưỡng thông mạch. Những người bị rối loạn lipid máu không nên dùng bài thuốc này.

DƯỢC THIỆN PHÒNG CHỐNG ĐÁI DẦM Ở TRẺ EM
Tác giả : Thạc sĩ HOÀNG KHÁNH TOÀN

Đái dầm là một chứng bệnh thường gặp ở trẻ, tuy không nguy hiểm nhưng nếu chữa
trị không triệt để bệnh có thể kéo dài khi trẻ lớn, tạo áp lực ngày càng tăng
về mặt tinh thần khiến trẻ dễ lâm vào trạng thái u uất, mặc cảm kém tự tin,
ảnh hưởng không nhỏ tới sức khỏe cả về thể chất lẫn tinh thần.
Y học cổ truyền xếp đái dầm vào phạm vi chứng Di niệu và tiến hành trị liệu bằng rất nhiều

phương pháp khác nhau, trong đó có việc lựa chọn, chế biến và sử dụng các món ăn - bài thuốc
(dược thiện) tùy theo từng thể bệnh cụ thể, vừa nhằm mục đích bổ dưỡng lại vừa có tác dụng
chữa bệnh một cách khá tự nhiên, lành tính và rất dễ được trẻ chấp nhận. Bài viết này xin được
giới thiệu một số ví dụ cụ thể.
VỚI THỂ THẬN KHÍ BẤT TÚC
Chứng trạng: Thể chất yếu ớt, dễ mệt mỏi, đái dầm thường xuyên, thậm chí nhiều lần trong một
đêm, nước tiểu trong, da nhợt, tay chân lạnh, lưng đau gối mỏi, trí lực kém, hay quên...
Món ăn - bài thuốc
Bài 1: Đậu đen 20g, thịt chó 250g, đường trắng vừa đủ. Cách chế: Thịt chó rửa sạch, thái miếng
hầm nhừ cùng với đậu đen, chế thêm đường và gia vị, chia ăn vài lần trong ngày, dùng cách
nhật 5-7 lần là một liệu trình.
Bài 2: Khiếm thực 50g, kim anh tử 20g, đường trắng vừa đủ. Cách chế: Kim anh tử sắc kỹ lấy
chừng 100ml dịch chiết rồi cho khiếm thực vào nấu thành cháo, chế thêm đường, chia ăn 2 lần
trong ngày.
Bài 3: Tang phiêu tiêu (tổ bọ ngựa) 10 cái, sơn thù 15g, ích trí nhân 15g, thỏ ty tử 15g, phúc bồn
tử 15g, đường đỏ 100g. Cách chế: Các vị thuốc sắc kỹ lấy 400ml dịch chiết rồi cho thêm đường
đỏ cô lại một chút là được, mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 10ml.
Bài 4: Ruột gà 3 bộ, ba kích 15g, gia vị vừa đủ. Cách chế: Ruột gà làm sạch, cắt đoạn; Ba kích
rửa sạch rồi đem nấu với ruột gà, khi chín chế thêm gia vị, dùng làm canh ăn hàng ngày.
Bài 5: Rau hẹ tươi 100g, trứng chim cút 12 quả, dầu thực vật và gia vị vừa đủ. Cách chế: Rau hẹ
rửa sạch, cắt ngắn, đập trứng chim cút vào, chế thêm gia vị, đánh đều rồi đem tráng chín, ăn
nóng.


VỚI THỂ TỲ PHẾ KHÍ HƯ
Chứng trạng: Đái dầm thường xuyên, sắc mặt trắng nhợt, dễ vã mồ
hôi, hay có cảm giác khó thở, ngại nói, ăn kém, chậm tiêu, đại tiện lỏng
hoặc nát, miệng nhạt, hay bị viêm nhiễm đường hô hấp trên, chất lưỡi
nhợt...
Món ăn bài thuốc

Bài 1: Bàng quang lợn 1 cái, hòe hoa 15g, đẳng sâm 15g. Cách chế:
Bàng quang lợn làm sạch, thái miếng; hòe hoa và đẳng sâm cho vào
túi vải buộc kín miệng; Hai thứ cho vào nồi hầm nhừ, bỏ bã thuốc, chế thêm gia vị, ăn cái uống
nước, dùng cách nhật, 7-8 lần là một liệu trình.
Bài 2: Gà mái lông vàng 1 con, hoàng kỳ 30g, thục địa 50g, gạo tẻ 100g. Cách chế: Gà làm thịt,
bỏ lông và ruột; Các vị thuốc cho vào túi vải buộc kín miệng rồi đem hầm cùng gà và gạo cho thật
nhừ, bỏ bã thuốc, chế đủ gia vị, chia ăn vài lần trong ngày, 7-8 lần là một liệu trình.
Bài 3: Cùi vải khô (lệ chi can) 10 cái, gạo nếp 50g, bàng quang lợn 1 cái. Cách chế: Bàng quang
làm sạch, nhét lệ chi và gạo nếp vào trong, khâu kín rồi đem hầm thật nhừ, chia ăn vài lần trong
ngày, 5-6 lần là một liệu trình.
Bài 4: Phúc bồn tử 50g, ích trí nhân 50g, bạch linh 50g, gạo tẻ vừa đủ. Cách chế: Phúc bồn tử,
ích trí nhân và bạch linh sấy khô, tán thành bột mịn; Gạo tẻ cho vào nồi nấu thành cháo, khi chín
cho chừng 3-6g bột thuốc vào đun thêm ít phút là được, ăn nóng, dùng liên tục trong 7 ngày là
một liệu trình.
Bài 5: Hoài sơn lượng tùy thích, rửa sạch, đem hấp chín rồi bóc vỏ ngoài, thái lát dày chừng
3cm, dùng dầu thực vật rán vàng, chấm đường trắng ăn điểm tâm hàng ngày.
VỚI THỂ CAN KINH UẤT NHIỆT
Chứng trạng: Đái dầm lượng nước tiểu ít, mùi khai nồng, có màu vàng, tính khí thất thường, hay
cáu giận, dễ mê mộng, môi đỏ, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, đại tiện táo, hay bị tiểu buốt tiểu rắt...
Món ăn bài thuốc
Bài 1: Bàng quang lợn 1 cái, ích trí nhân 15g. Cách chế: Bàng quang lợn làm sạch, cho ích trí
nhân vào trong, khâu kín lại rồi đem hầm cho thật nhừ, ăn nóng, dùng liên tục 5-6 ngày là một
liệu trình.
Bài 2: Ô mai 6g, kén tằm 20 con, hồng táo 10 quả, đường trắng 50g. Cách chế: Các vị thuốc đem
sắc kỹ lấy nước uống trong ngày, dùng liên tục 10 ngày là một liệu trình.
Bài 3: Bạch quả 10 quả, đậu phụ khô 2 bìa, gạo tẻ 50g, đường trắng vừa đủ. Cách chế: Bạch
quả rang chín, bóc vỏ ngoài; Đậu phụ ngâm mềm, thái chỉ; Gạo tẻ đãi sạch rồi ninh cùng bạch
quả và đậu phụ thành cháo, chế thêm đường trắng, chia ăn vài lần trong ngày.
Bài 4: Bồ dục lợn 1 quả, kỷ tử 15g, gia vị vừa đủ. Cách chế: Bồ dục bổ đôi, làm sạch, thái mỏng
rồi đem xào cùng với kỷ tử, chế thêm gia vị, ăn nóng, dùng liên tục 10 ngày là một liệu trình.



Ngoài ra, thực đơn hàng ngày cho trẻ nên chú ý ăn kiêng các chất kích thích, chất cay nóng.
Không nên quá hạn chế trẻ uống nước, trong ngày ít nhất 1 lần nên tập cho trẻ thói quen giữ
nước tiểu lâu hơn một chút, sao cho đạt cảm giác hơi căng tức bàng quang là được. Buổi tối,
trước khi đi ngủ nên xoa nóng vùng thắt lưng, bụng dưới và vùng xương cụt cho trẻ.

Dược thiện cho người viêm loét dạ dày, tá tràng
Những người bị viêm loét dạ dày, tá tràng thể hàn tà phạm vị có thể dùng gạo tẻ 100
g nấu thành cháo rồi hòa với sa nhân 5 g (tán bột), chia ăn vài lần trong
ngày. Nếu thiếu sa nhân, có thể thay bằng ngô thù du 10 g, gừng tươi 3 lát
hoặc hạt tiêu 3 g, gừng tươi 3 lát.
Hàn tà phạm vị là thể bệnh thường phát vào mùa lạnh hoặc khi ăn đồ sống, lạnh. Bệnh nhân đau
bụng thành cơn, sợ lạnh, thích ấm nóng (nếu chườm nóng vùng thượng vị hoặc uống nước nóng
thì đỡ đau); không khát, nếu có khát thì thích uống nước nóng; rêu lưỡi trắng, mạch khẩn. Người
mắc thể này cũng có thể dùng món ăn bài thuốc sau:
- Cá diếc tươi 250 g, gừng tươi 30 g, quất bì 10 g, hạt tiêu 3 g. Cá đánh vảy, bóc mang, bỏ nội
tạng và rửa sạch; gừng rửa sạch, thái phiến, quất bì thái chỉ. Dùng vải lụa gói gừng, quất bì và
hạt tiêu rồi nhét vào bụng cá, cho nước vừa đủ, hầm nhỏ lửa, ăn cá, uống nước khi đói bụng.
Viêm loét dạ dày, tá tràng thể can khí phạm vị
Vùng thượng vị đau chướng, lan ra hai bên mạng sườn, không thích xoa nắn, nếu ấn vào thì đau
tăng. Bệnh nhân buồn nôn, ợ hơi, ợ chua, đầy hơi, ăn khó tiêu, nếu ợ hơi hoặc trung tiện được
thì dễ chịu, đại tiện không thông khoái, tinh thần uất ức, rêu lưỡi trắng dày, mạch huyền.
- Mạch nha sống 30 g (rửa sạch), thanh bì 10 g (thái phiến), sắc kỹ cả hai trong 25 phút rồi lọc bỏ
bã, lấy nước, chia uống vài lần trong ngày khi còn ấm.
- Phật thủ 15 g rửa sạch, thái vụn, hãm với nước sôi trong bình kín rồi hòa thêm một chút đường
phèn, uống thay trà trong ngày. Cũng có thể dùng phật thủ 20 g thái vụn, sắc lấy nước rồi cho
100 g gạo tẻ nấu thành cháo, chế thêm một chút đường phèn, chia ăn vài lần trong ngày.
- Rễ cây quất vàng 30 g rửa sạch, thái đoạn, dạ dày lợn 150 g thái miếng, hầm cả hai thứ cho
chín rồi chế thêm gia vị, ăn dạ dày, uống nước hầm.

Viêm loét dạ dày, tá tràng thể tỳ vị hư hàn
Vùng thượng vị đau âm ỉ suốt ngày. Bệnh nhân thích chườm nóng và xoa nắn, có cảm giác lạnh
bụng, đầy hơi, ăn kém, chậm tiêu, có thể buồn nôn và nôn ra nước trong, gầy sút, mệt mỏi, da
niêm mạc nhợt, đại tiện lỏng nát, tay chân lạnh, lưỡi nhợt bệu, mạch trầm tế.
- Cá diếc to 2 con, sa nhân 6 g, trần bì 3 g, tiểu hồi hương 6 g, hạt tiêu, hành, gừng, tỏi, muối ăn
vừa đủ, dầu lạc 1.000 g. Cá đánh vảy, bỏ mang và nội tạng, rửa sạch; hạt tiêu giã nhỏ, trần bì
thái chỉ, gừng thái phiến, hành cắt đoạn, sa nhân đập dập... Tất cả trộn đều rồi cho vào bụng cá.
Đổ dầu vào chảo cho ngập cá rồi rán chín, sau đó lấy cá ra, dùng nồi khác phi hành tỏi, cho thêm
một chút nước rồi rim cá nhỏ lửa với gia vị cho ngấm kỹ để ăn.
- Hạt sen bỏ tâm 40 hạt, dạ dày lợn 1 cái, gia vị và dầu thực vật vừa đủ. Dạ dày làm sạch rồi cho
hạt sen vào trong khâu kín, đem hầm nhừ, sau đó thái chỉ, chế thêm gia vị, trộn lẫn hạt sen rồi
ăn.


Viêm loét dạ dày, tá tràng thể ẩm thực đình trệ
Thường do ăn uống thái quá, thức ăn đình trệ lâu ngày gây nên. Vùng thượng vị đầy chướng,
tức nặng khó chịu, ợ hôi, nuốt chua, nôn ra thức ăn chưa tiêu, nôn được thì bụng đỡ đau, đại
tiện không thông thoáng, rêu lưỡi dày, cáu bẩn.
- Thần khúc 10-15 g đập vụn, sắc kỹ, lấy nước nấu với 100 g gạo tẻ thành cháo, chia ăn vài lần
trong ngày.
- Mạch nha 10 g rửa sạch, sao vàng, sơn tra 6 g sao cháy. Cả hai sắc kỹ trong 30 phút, bỏ bã,
lấy nước, hòa thêm 10 g đường đỏ, chia uống vài lần trong ngày.
Hai bài thuốc dùng chung cho các thể
- Đại táo 25 g, bạch truật 30 g, kê nội kim 15 g (tán bột), bột mì 500 g. Sắc kỹ đại táo và bạch
truật trong 1 giờ. Sau đó loại bỏ hạt táo, tiếp tục sắc nhỏ lửa rồi nghiền thành dạng bột nhão. Cho
bột kê nội kim, bột mì và lượng nước vừa đủ, trộn đều và nặn thành những bánh nhỏ, nướng
chín, ăn dần.
- Hoài sơn 30 g, ý dĩ 30 g, hạt sen bỏ tâm 15 g, đại táo 10 quả, gạo tẻ 50-100 g. Tất cả cho vào
nồi nấu thành cháo, hòa thêm một chút đường trắng, chia ăn vài lần trong ngày khi bụng đói.
Dược thiện cho sản phụ thiếu sữa

Tác giả : Thạc sĩ HOÀNG KHÁNH TOÀN
Tuy chưa có những con số thống kê chính thức, nhưng trong vòng mươi năm gần đây, người ta
dễ dàng nhận thấy là: tình trạng sản phụ không có sữa hoặc ít sữa đã trở nên khá phổ biến. Mặc
dù hiện nay các chủng loại sữa nhân tạo dành cho trẻ em hết sức phong phú, nhưng không ai có
thể phủ định một điều: sữa mẹ vẫn là thứ thức ăn quý giá và tối cần thiết cho con trẻ trong những
năm tháng đầu đời. Bởi vậy, việc tìm ra và thực thi các biện pháp nhằm giúp cho người mẹ có và
đủ sữa cho con bú là hết sức cần thiết.
Trong Y học cổ truyền, tình trạng không có sữa hoặc ít sữa thuộc phạm vi các chứng Nhũ chấp
bất hành, Khuyết nhũ, Nhũ chấp bất túc... do nhiều nguyên nhân gây nên nhưng tựu trung không
ngoài hai yếu tố là huyết và khí. Theo quan niệm của cổ nhân, sữa được tạo ra từ huyết và do
khí vận hành, nếu huyết thiếu hoặc khí trệ thì sẽ phát sinh bệnh chứng Khuyết nhũ. Để giải quyết
tình trạng này, y học cổ truyền sử dụng nhiều biện pháp như châm cứu, bấm huyệt, dùng thuốc
theo biện chứng hoặc kinh nghiệm dân gian... trong đó có một phương thức phối hợp các thực
phẩm và vị thuốc chế biến thành những món ăn có tác dụng chữa bệnh hết sức độc đáo. Bài viết
này xin được giới thiệu một số công thức điển hình để độc giả có thể tham khảo và vận dụng khi
cần thiết.
Với thể bệnh khí huyết hư nhược
Chứng trạng
Sản phụ thiếu sữa hoặc hoàn toàn không có sữa, nếu có thì sữa trong và nhạt, bầu vú nhỏ và
mềm nhẽo, không có cảm giác căng tức, cơ thể mệt mỏi, sắc mặt nhợt nhạt, ăn kém, chậm tiêu,
hay có cảm giác khó thở, tiểu tiện trong dài, đại tiện nát hoặc lỏng, miệng nhạt, chất lưỡi nhợt...
Món ăn - bài thuốc


Bài 1: Móng giò lợn 2 cái, lạc 200g, gừng tươi và gia vị vừa đủ. Móng giò làm sạch, chặt miếng,
rồi đem hầm với lạc cho thật nhừ, chế thêm gia vị, ăn trong ngày.
Bài 2: Cá diếc 1 con (nặng chừng 100-150g), làm sạch, rán qua rồi hầm nhừ ăn hàng ngày, 7
ngày là một liệu trình. Hoặc đem hầm cùng với móng giò lợn 2 cái cho thật nhừ, chế thêm gia vị,
chia ăn 2 lần trong ngày.
Bài 3: Móng giò lợn 2 cái, lạc 200g, hoàng kỳ 100g, gia vị vừa đủ. Móng giò làm sạch, chặt

miếng; hoàng kỳ gói vào túi vải; hai thứ đem hầm với lạc cho thật nhừ rồi bỏ bã hoàng kỳ, chế đủ
gia vị, chia ăn 2 lần trong ngày.
Bài 4: Nhau thai 1 cái, thịt lợn 250g, gừng tươi 9g, gia vị vừa đủ. Nhau thai rửa sạch, thái miếng;
thịt lợn thái chỉ ướp gừng. Hai thứ cho vào nồi hầm lửa nhỏ cho thật nhừ rồi chế đủ gia vị, chia
ăn vài lần trong ngày.
Bài 5: Chân giò lợn 1 cái, làm sạch, chặt miếng rồi đem hầm nhừ với xuyên sơn giáp 15g và
thiên hoa phấn 15g, chế thêm gia vị, chia ăn vài lần trong ngày.
Với thể can uất khí trệ
Chứng trạng
Sữa không thông, bầu vú căng hoặc đau tức, ngực sườn đầy chướng, không muốn ăn, thậm chí
phát sốt, tinh thần căng thẳng bực bội khó chịu, rêu lưỡi vàng mỏng...
Món ăn - bài thuốc
Bài 1: Rau diếp 400g, rửa sạch, thái nhỏ, nấu canh ăn trong ngày, 5 ngày là một liệu trình.
Bài 2: Móng giò lợn 2 cái, mộc thông 5g, phật thủ 10g, lậu lô 15g, hành 2 củ. Móng giò làm sạch,
chặt miếng; các vị thuốc cho vào túi vải buộc kín. Tất cả cho vào nồi hầm nhừ rồi bỏ bã thuốc,
chế thêm gia vị, chia ăn 2 lần trong ngày.
Bài 3: Móng giò lợn 2 cái, củ niễng non 100g, gia vị vừa đủ. Móng giò làm sạch, chặt miếng rồi
đem hầm với củ niễng cho thật nhừ, chế thêm gia vị, chia ăn vài lần trong ngày.
Bài 4: Xương lợn 500g, thông thảo 6g, gừng tươi 10g, gia vị vừa đủ. Xương lợn rửa sạch, chặt
nhỏ, đem hầm với thông thảo cho thật kỹ rồi chế thêm gia vị, dùng làm canh ăn hàng ngày.
Bài 5: Rau hoàng kỳ khô 30g, thịt lợn nạc 250g. Hoàng kỳ rửa sạch, thái nhỏ, thịt lợn rửa sạch
thái chỉ. Hai thứ nấu thành canh ăn trong ngày.
Ngoài ra, thực đơn của sản phụ thiếu sữa nên trọng dụng các thực phẩm như chân giò lợn, thịt
dê, cá diếc, cá chép, vừng đen, lạc, hạt bí ngô, xích tiểu đậu, củ niễng, rau diếp, đậu phụ, sữa
đậu nành, mạch nha, nhau thai... và đặc biệt là móng giò lợn. Theo dinh dưỡng học cổ truyền,
móng giò lợn, còn gọi là trư đề, trư cước, trư tứ túc... vị ngọt mặn, tính bình, có công dụng thúc
sữa, bổ huyết, thường dùng làm thức ăn cho sản phụ ít hoặc không có sữa. Sách Tùy tức cư ẩm
thực phổ viết: “Trư đề điền thận tinh nhi kiện yêu cước, tư vị dịch dĩ hoạt bì phu, trường cơ nhục,
trợ huyết mạch năng sung nhũ chấp, giảo nhục ưu bổ” (móng giò lợn có thể làm tăng thận tinh,
làm mạnh lưng và chân, bồi bổ vị dịch mà làm da dẻ sáng nhuận, cơ bắp vững chắc, dưỡng

huyết mà làm tăng tiết sữa nhiều hơn so với thịt thường). Những thực phẩm cần kiêng kỵ là hạt
tiêu, nhục quế, ớt, tỏi, đinh hương, rượu, trà đặc, cà phê, thuốc lá, mướp đắng, dưa hấu, dưa
chuột, chuối tiêu, thị, ốc, cua...


Dược thiện chống viêm mũi dị ứng
Theo y học cổ truyền, chứng viêm mũi dị ứng chủ yếu do
phong tà gây nên khi chính khí (sức đề kháng của cơ
thể) bị suy nhược. Ngoài việc dùng thuốc và châm
cứu, có thể hỗ trợ cho quá trình trị liệu bằng cách sử
dụng các món ăn - bài thuốc.

Tỏi có thể cải thiện tình
trạng viêm mũi dị ứng.
Sau đây là một số món dược thiện chữa viêm mũi dị ứng:
Bài 1: Thịt bò 90 g, tỏi tươi 60 g, rau thơm tươi 15 g, gạo tẻ 60 g, gia vị vừa đủ. Thịt bò rửa sạch,
thái miếng, tỏi bóc vỏ, đập giập, rau thơm thái nhỏ. Gạo tẻ vo sạch, ninh thành cháo, khi chín cho
thịt bò và tỏi vào đun sôi một lát, thêm rau thơm và gia vị, ăn nóng trong ngày.
Công dụng: Khu phong, trừ hàn, làm giảm xuất tiết và thông lỗ mũi. Dùng cho người bị viêm mũi
dị ứng thuộc thể hàn thấp (chảy nước mũi trong, hắt hơi nhiều, ngạt mũi, thường xuất hiện hoặc
tăng lên khi gặp lạnh).
Trong món ăn này, tỏi giữ vị trí quan trọng nhất vì có vị cay ngọt, tính ấm, giúp khu phong, trừ
hàn rất mạnh (rau thơm cũng có công dụng tương tự nhưng yếu hơn). Kết quả nghiên cứu hiện
đại cũng cho thấy, tỏi có tác dụng chống viêm, kháng khuẩn và kháng virus khá mạnh, cải thiện
năng lực miễn dịch của cơ thể. Thịt bò và gạo tẻ bổ tỳ, ích vị, giúp cho cơ thể nâng cao sức đề
kháng và tăng cường khả năng chống lạnh.
Bài 2: Đầu cá 2 cái (chừng 150 g), tân di 12 g, tế tân 3 g, bạch chỉ 12 g, gừng tươi 15 g. Đầu cá
bỏ mang, làm sạch, tân di gói vào túi vải, tế tân và bạch chỉ rửa sạch, gừng tươi thái chỉ. Tất cả
cho vào nồi, đổ vừa nước, ninh kỹ trong 2 giờ rồi chế thêm gia vị; ăn đầu cá, uống nước canh
trong ngày.

Công dụng: Khu phong, tán hàn, làm thông mũi. Dùng cho những người bị viêm mũi dị ứng thuộc
thể phong hàn (đau đầu, đau cổ gáy, hắt hơi, sổ mũi và ngạt mũi nhiều, bệnh phát về mùa lạnh
và gặp lạnh thì các chứng trạng nặng lên).
Trong bài thuốc trên, tân di vị cay, tính ấm, có tác dụng trừ phong, tán hàn, giải quyết bệnh lý
vùng đầu mặt và làm thông các lỗ tự nhiên, đặc biệt là mũi. Tế tân và bạch chỉ cũng có tác dụng
tương tự. Đầu cá bổ trung, ích khí; gừng tươi trừ phong, tán hàn. Kết quả nghiên cứu hiện đại
cho thấy, tân di và tế tân đều có khả năng chống dị ứng khá mạnh.
Bài 3: Tây dương sâm 15 g, ếch 2 con (chừng 150 g), bách bộ 30 g, ma hoàng 3 g. Tây dương
sâm thái phiến, ếch làm sạch, bỏ nội tạng, bách bộ và ma hoàng rửa sạch. Tất cả cho vào nồi,
đổ vừa nước, hầm kỹ chừng 2 giờ rồi cho thêm gia vị, chia ăn vài lần trong ngày.
Công dụng: Dưỡng phế âm, thông mũi. Dùng cho người bị viêm mũi dị ứng thuộc thể âm hư (mũi
khô, ngạt, hắt hơi và chảy nước mũi nhiều, miệng khô, họng khát, người gầy, hay có cảm giác
sốt nóng về chiều, đại tiện táo, tiểu tiện sẻn đỏ).


Trong món ăn trên, tây dương sâm vị ngọt hơi đắng, tính mát, có công dụng dưỡng phế âm, tăng
cường thể chất. Kinh nghiệm lâm sàng cho thấy, việc dùng riêng tây dương sâm cho người có
thể tạng âm hư bị viêm mũi dị ứng do phong nhiệt cũng có hiệu quả. Theo y học hiện đại, vị
thuốc này giúp nâng cao năng lực thích ứng và khả năng miễn dịch. Bách bộ vị ngọt, tính hơi
lạnh, giúp thanh nhuận phế âm, an thần; ma hoàng có khả năng chống dị ứng. Ếch vị ngọt, tính
mát, có công dụng bổ tỳ, dưỡng phế, nâng cao thể chất.
Bài 4: Chim bồ câu 1 con (chừng 90 g), hoàng kỳ 60 g, tân di 9 g, bạch truật 9 g, đại táo 12 g,
gừng tươi và gia vị vừa đủ. Chim bồ câu làm thịt, bỏ ruột, chặt miếng; tân di gói trong túi vải; đại
táo bỏ hạt; các vị còn lại rửa sạch, thái phiến. Tất cả cho vào nồi hầm kỹ chừng 60 phút, chế
thêm gia vị, ăn nóng trong ngày.
Công dụng: Bổ khí, làm thông thoáng lỗ mũi. Dùng cho người bị viêm mũi dị ứng có thể chất hư
nhược khiến cho phong tà xâm nhập (tắc mũi, hắt hơi, chảy nước mũi nhiều, tinh thần mỏi mệt,
chán ăn, dễ đổ mồ hôi).
Trong bài thuốc trên, hoàng kỳ vị ngọt, tính ấm, có công dụng bổ trung, ích khí, tăng cường thể
chất. Nghiên cứu hiện đại cho thấy, hoàng kỳ giúp nâng cao năng lực miễn dịch của tế bào. Tân

di, gừng tươi phối hợp với hoàng kỳ có tác dụng chống dị ứng khá tốt. Bạch truật, đại táo và thịt
chim bồ câu có công dụng bổ tỳ, ích khí, nâng cao thể chất.

Dược thiện dành cho người bị ung thư phổi
Để hỗ trợ cho việc điều trị ung thư phổi, có thể lấy hạt sen 30 g, bách
hợp 30 g, phổi lợn 200 g (rửa sạch, thái miếng) hầm nhừ, sau đó cho
thêm hành, gừng (thái chỉ) và gia vị, chia ăn vài lần trong ngày.

Vịt trắng rất tốt cho bệnh
nhân ung thư phổi.
Hạt sen có công dụng dưỡng tâm, ích thận, kiện tỳ; bách hợp tư âm, nhuận phế, chỉ khái, an
thần, có khả năng ức chế sự phát triển của tế bào ung thư; phổi lợn bổ phế, nhuận phế, giải độc.
Cả ba vị phối hợp tạo nên công dụng tư âm, nhuận phế, chỉ khái, an thần, kháng ung của bài
thuốc.
Bài thuốc trên được dành cho những người ung thư phổi thể phế âm hư: người gầy, tức ngực,
ho khan, trong đờm có những sợi máu tươi, có cảm giác sốt về chiều, lòng bàn tay và bàn chân
nóng, môi khô, miệng khát, ra mồ hôi trộm, đại tiện táo, tiểu tiện sẻn đỏ. Sau đây là hai món ăn
bài thuốc khác dành cho bệnh nhân ung thư phổi thể phế âm hư:
- Nấm linh chi 15 g, mộc nhĩ đen 10 g, mộc nhĩ trắng 10 g, đường phèn 15 g. Nấm linh chi rửa
sạch, thái phiến; mộc nhĩ ngâm nước ấm rồi làm sạch, thái vụn. Tất cả cho vào bát cùng với
đường phèn và một lượng nước vừa đủ, hấp cách thủy trong 60 phút. Bỏ bã nấm, ăn mộc nhĩ và
uống nước.
Nấm linh chi có tác dụng tăng cường chức năng miễn dịch, ức chế sự phát triển của tế bào ung
thư. Mộc nhĩ bổ phế, hoạt huyết, hóa ứ, có tác dụng kháng ung ở một mức độ nhất định. Các vị
thuốc phối hợp tạo nên công năng bổ hư, kháng ung, tư âm, nhuận phế, chỉ khái của bài thuốc.


- Ba ba 1 con (bỏ đầu, chia thành 4 miếng), đông trùng hạ thảo 10 g, đại táo 10 quả (bỏ hột),
hành (cắt đoạn), gừng (thái phiến), tỏi (đập dập) và gia vị vừa đủ. Ba ba cho vào nồi luộc sôi rồi
vớt ra, cắt rời 4 chân, bóc bỏ mỡ ở chân, rửa sạch, cho vào bát cùng với đông trùng hạ thảo, đại

táo, gừng, hành, tỏi và gia vị rồi hấp cách thủy trong 2 giờ. Ăn trong ngày.
Đông trùng hạ thảo bổ hư, nhuận phế, có khả năng ức chế sự phát triển của tế bào ung thư. Ba
ba bổ phế, thận, lương huyết, dưỡng huyết, cũng có tác dụng kháng ung. Bài này có thể dùng
cho cả các bệnh nhân bị ung thư gan và dạ dày.
Ung thư phổi thể phế thận lưỡng hư
Triệu chứng: Tức ngực, khó thở, ho có đờm dính máu (sắc không tươi), dễ đổ mồ hôi, ngại nói,
môi tím, mặt nặng, chân phù, hồi hộp, đánh trống ngực, đại tiện lỏng lúc tảng sáng; nam giới
hoạt tinh, liệt dương; nữ giới kinh bế, kinh thiểu. Dùng một trong các món ăn bài thuốc sau:
- Vịt trắng 1 con, đông trùng hạ thảo 15 g, tỏi vỏ tím 20 g, gừng tươi 10 g, gia vị vừa đủ. Vịt làm
sạch, chặt miếng, ướp gừng và tỏi rồi đem hầm nhừ cùng đông trùng hạ thảo. Chế thêm gia vị,
chia ăn vài lần trong ngày, mỗi tuần ăn 2 lần.
Thịt vịt tư bổ ngũ tạng, huyết vịt có chứa chất kháng ung. Đông trùng hạ thảo ích thận, bổ phế, có
khả năng ức chế sự phát triển của tế bào ung thư. Các vị thuốc phối hợp tạo nên công dụng ích
phế, tăng tinh, phù chính, kháng ung của bài thuốc.
- Đông trùng hạ thảo 6 g, kỷ tử 15 g, bào ngư 60 g. Bào ngư rửa sạch, ngâm nước ấm trong 3
giờ, sau đó luộc chín. Sau đó cho vào bát sành cùng với đông trùng hạ thảo và kỷ tử, hấp chín,
ăn cái, uống nước.
Kỷ tử nhuận phế, tư âm, bổ thận, ích tinh. Bào ngư rất giàu chất dinh dưỡng và có khả năng ức
chế sự phát triển của tế bào ung thư.
- Nhân sâm 6 g, hồ đào nhục 20 g (không bỏ vỏ), gừng tươi 9 g, đường phèn vừa đủ. Đem 3 vị
thuốc sắc trong 30 phút rồi bỏ bã gừng, hòa với đường phèn, chia uống 2 lần trong ngày.
Nhân sâm đại bổ nguyên khí, có tác dụng cải thiện chức năng miễn dịch của cơ thể và chống
ung thư. Hồ đào bổ thận, cố tinh, ôn phế, chỉ khái, ích khí, dưỡng huyết, có khả năng ức chế sự
phát triển của tế bào ác tính.
Ung thư phổi thể phế tỳ khí hư
Triệu chứng: Ho nhiều, đờm trắng, dễ khạc, khó thở, ngại nói, sợ gió, sợ lạnh, sắc mặt nhợt
nhạt, ăn kém, bụng đầy, đại tiện lỏng, tiểu tiện trong, dài.
- Phổi lợn 100 g, ý dĩ 50 g, gạo tẻ 100 g, gia vị vừa đủ. Ý dĩ và gạo tẻ đãi sạch, cho vào nồi nấu
cháo, khi đã nhừ cho phổi lợn (đã cắt thành miếng) vào, đun thêm một lát là được. Chế gia vị,
chia ăn vài lần trong ngày.

Ý dĩ kiện lợi tỳ, lợi thấp, bổ phế, có tác dụng ức chế sự phát triển của tế bào ung thư. Phổi lợn
nhuận phế, bổ hư.
- Vịt trắng 1 con (chừng 1 kg), đại táo 60 g, sâm linh bạch truật tán 30 g (dạng viên tễ), gừng tươi
và gia vị vừa đủ. Vịt làm thịt, bỏ lòng rồi cho đại táo (đã bỏ hạt) và sâm linh bạch truật tán vào
trong bụng, hầm nhừ, chế thêm gia vị, chia ăn vài lần.


Sâm linh bạch truật tán có công năng bổ khí, kiện tỳ, trừ thấp, hòa vị. Thịt vịt bổ ngũ tạng, huyết
vị có chất chống ung thư. Các vị phối hợp tạo nên công dụng bồi bổ phế tỳ của bài thuốc, hỗ trợ
đắc lực cho các biện pháp điều trị khác.

Dược thiện dành cho người huyết áp thấp mạn tính
Trứng gà một quả, bột nhung hươu 0,3 g. Đập trứng vào bát,
bỏ bột nhung hươu vào, quấy đều và tráng chín, dùng
làm đồ ăn điểm tâm hằng ngày, 20 ngày là một liệu
trình. Bài này thích hợp với người huyết áp thấp mạn
thể thận dương hư suy.
Thể thận dương hư suy có các biểu hiện đầu choáng mắt hoa, tai ù
điếc, hay quên, lưng đau gối mỏi, sắc mặt nhợt nhạt, tinh thần mỏi mệt,
sợ lạnh, tay chân lạnh, tiểu tiện nhiều lần về đêm, ăn kém, đại tiện lỏng nát, chất lưỡi nhợt. Các
bài thuốc:
- Kỷ tử 10 g, thỏ ty tử 10 g, nhục thung dung 6 g, bồ dục bò một quả, bồ dục chó một quả, thịt bò
100g, thịt gà 50 g. Bồ dục bò và chó làm sạch, bổ đôi, ngâm nước lạnh trong 30 phút; thịt bò và
thịt gà thái miếng; các vị thuốc cho vào túi vải, buộc kín miệng. Tất cả cho vào nồi hầm lửa nhỏ
cho thật nhừ rồi bỏ bã thuốc, chế thêm hạt tiêu, gừng tươi thái chỉ và gia vị vừa đủ, chia ăn vài
lần trong ngày.
- Hoài sơn 50 g, nhục thung dung 20 g, thỏ ty tử 10 g, thịt dê 200 g, xương sống dê một đoạn,
gạo tẻ 100 g. Xương sống dê chặt vụn; thịt dê thái miếng; các vị thuốc cho vào túi vải, buộc kín
miệng; tất cả cho vào nồi ninh với gạo thành cháo rồi bỏ bã thuốc, chế thêm hạt tiêu, tiểu hồi và
gia vị vừa đủ, chia ăn vài lần trong ngày.

- Dâm dương hoắc 30 g, rượu trắng 500 ml. Đem ngâm dâm dương hoắc với rượu trong bình
kín, sau 7 ngày thì dùng được, mỗi ngày uống hai lần, mỗi lần chừng 15 ml.
Thể bệnh Tâm tỳ lưỡng hư
Chứng trạng: Mệt mỏi nhiều, hay có cảm giác khó thở, chân tay rã rời, đầu choáng mắt hoa, dễ
có cảm giác hồi hộp trống ngực, hay vã mồ hôi, ăn kém, chậm tiêu, sắc mặt nhợt nhạt, đại tiện
lỏng nát, miệng nhạt, chất lưỡi nhợt.
- Thịt bò 1.000 g, rượu vang 250 ml. Thịt bò rửa sạch, thái miếng, cho vào nồi hầm nhỏ lửa cho
thật nhừ, cứ một giờ chắt nước cốt một lần rồi lại cho thêm nước đun tiếp. Làm 4 lần như vậy lấy
4 nước hợp lại với nhau, chế thêm rượu vang rồi cô lửa nhỏ thành cao đặc, để nguội, đựng trong
lọ kín dùng dần, mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 3 thìa canh.
- Gà mái một con (nặng chừng 1 kg), nhân sâm 10 g, hoàng kỳ 30 g, ngũ vị tử 15 g. Gà làm thịt,
chặt miếng; các vị thuốc cho vào túi vải, buộc kín miệng; tất cả bỏ vào nồi hầm lửa nhỏ cho thật
nhừ, bỏ bã thuốc, chế thêm gia vị, dùng làm canh ăn.
Thể bệnh Trung khí bất túc
Chứng trạng: Mệt mỏi, thích nằm, ngại nói, ngại vận động, hay có cảm giác khó thở, chóng mặt
hoa mắt nhiều, chân tay buồn mỏi, chán ăn, miệng nhạt, dễ vã mồ hôi, đại tiện lỏng nát, chất lưỡi
nhợt.


- Nhân sâm 10 g, bạch linh 10 g, hoài sơn 10 g, đậu đỏ 30 g, bột gạo nếp 50 g, đường trắng
và mỡ lợn vừa đủ. Các vị thuốc sao thơm, tán bột, trộn đều với bột gạo nếp và đường
trắng, chế đủ nước, nhào kỹ rồi rán chín, dùng làm đồ điểm tâm hằng ngày.
- Dạ dày lợn một cái, hạt sen tươi 40 hạt. Dạ dày làm sạch, hạt sen bỏ tâm rồi cho vào trong dạ
dày lợn, dùng chỉ buộc kín miệng, đem hầm nhừ, khi chín vớt dạ dày ra, thái miếng, trộn đều với
hạt sen rồi chế thêm gừng tươi, hạt tiêu và gia vị vừa đủ, dùng làm thức ăn.
- Đẳng sâm 100 g, thịt bò 500 g. Thịt bò rửa sạch, thái miếng, ướp gừng tươi, hạt tiêu và một
chút rượu vang; đẳng sâm cho vào túi vải, buộc kín miệng rồi đem hầm với thịt bò cho thật nhừ,
chế thêm gia vị, dùng làm thức ăn hằng ngày.

Dược thiện dưỡng thai

Việc bồi bổ cho bà mẹ mang thai phải đáp ứng cả 2 điều kiện: thực dưỡng và dược
dưỡng. Đây là một vấn đề không đơn giản vì phải đạt hiệu quả cao nhất về
dược lý vừa tránh được những tác dụng không mong muốn.
Trong y học cổ truyền, lý luận và kinh nghiệm về dưỡng thai, an thai rất phong phú và độc đáo.
Người xưa đã khéo lựa chọn và phối hợp một số thực phẩm, dược phẩm để chế biến thành
những món ăn - bài thuốc (dược thiện) vừa thúc đẩy quá trình sinh trưởng của thai, lại nâng cao
được sức đề kháng, phòng chống bệnh tật của người mẹ. Những món dược thiện “dục thai bảo
sản” này mang đậm tính tự nhiên, dễ dùng, an toàn và được thai phụ rất dễ chấp nhận.
Bài 1: Thịt gà 250 g, cao gạc hươu 15 g, sâm Cao Ly 8 g. Chọn thịt gà mái tơ (nếu có thịt gà ác
thì tốt nhất) rửa sạch, lọc bỏ da và mỡ rồi chặt miếng; sâm Cao Ly thái phiến; cao gạc hươu cắt
vụn. Tất cả đem hầm cách thủy chừng 3-4 giờ là được, chế đủ gia vị, chia ăn vài lần.
Dùng thích hợp cho thai phụ hình thể gầy yếu, tinh thần mệt mỏi, lưng đau gối mỏi, động thai ra
huyết ít và loãng, thiếu máu, thai nhi chậm phát triển... Không dùng cho những trường hợp động
thai thể Huyết nhiệt, biểu hiện bằng các triệu chứng: tâm phiền bất an, lòng bàn tay và bàn chân
nóng, miệng khô họng khát, mặt đỏ môi hồng, âm đạo ra huyết màu đỏ tươi hoặc đỏ tía, có thể
có máu cục, đại tiện táo, tiểu tiện sẻn đỏ, chất lưỡi đỏ, ít rêu...
Bài 2: Trứng gà 2 quả, ngải cứu 20 g. Lá ngải cứu rửa sạch, trứng gà luộc chín bóc bỏ vỏ, hai
thứ cho vào nồi, chế đủ nước, đun to lửa cho sôi rồi dùng lửa nhỏ đun tiếp chừng 1-2 giờ là
được, cho thêm gia vị, ăn trong ngày, dùng liên tục 7-8 ngày.
Dùng thích hợp cho những thai phụ có các biểu hiện của chứng Hư hàn như sắc mặt nhợt nhạt,
sợ lạnh, chân tay lạnh, lưng đau gối mỏi, hay có cảm giác khó thở và hồi hộp trống ngực, miệng
nhạt, chán ăn, đại tiện lỏng loãng, tiểu tiện trong dài, chất lưỡi nhợt, dễ sẩy thai, âm đạo ra huyết
lượng ít sắc nhợt... Những trường hợp động thai thể Huyết nhiệt thì không nên dùng bài này.
Bài 3: Thịt dê 250 g, ba kích thiên 15 g, đỗ trọng 12 g, gừng tươi 5 lát. Thịt dê rửa sạch thái
miếng, các vị thuốc rửa sạch, tất cả cho vào nồi hầm nhừ trong 2-3 giờ là được, chế thêm gia vị,
chia ăn vài lần trong ngày.
Dùng thích hợp cho người tỳ và thận hư yếu, tinh huyết không đủ dẫn đến tình trạng thai nhi
chậm phát triển, thai phụ hình thể gầy yếu, ăn kém, mệt như mất sức, lưng đau gối mỏi, tay chân
lạnh, đại tiện lỏng nát, chất lưỡi nhợt... Những trường hợp động thai do Huyết nhiệt hoặc thai
phụ phát sốt do ngoại cảm thì không được dùng bài này.

Bài 4: Thịt bò 250 g, đẳng sâm 30 g, hoàng tinh 15 g, gừng tươi 4 lát. Chọn loại thịt bò tươi mềm


(nếu được thịt bê là tốt nhất) rửa sạch, thái miếng; Các vị thuốc rửa sạch. Tất cả cho vào nồi,
chế đủ nước, dùng lửa to đun sôi rồi tiếp tục hầm nhừ bằng lửa nhỏ chừng 2-3 giờ là được, chế
thêm gia vị, chia ăn vài lần trong ngày.
Dùng thích hợp cho thai phụ bị huyết hư biểu hiện bằng các triệu chứng như hay hoa mắt chóng
mặt, hồi hộp trống ngực, mệt mỏi, ngủ kém hay mê, sắc mặt nhợt nhạt, chất lưỡi nhợt, thai nhi
chậm phát triển... Những thai phụ đang bị sốt do ngoại cảm hoặc đi lỏng lỵ do thấp nhiệt thì
không được dùng bài này.
Bài 5: Cá chép 1 con nặng chừng 500 g, lạc 30 g, xích tiểu đậu 24 g, gừng tươi 6 lát. Cá chép
làm sạch, bỏ nội tạng, đem rán qua; lạc và xích tiểu đậu rửa sạch. Tất cả cho vào nồi, chế đủ
nước, dùng lửa nhỏ hầm kỹ chừng 2-3 giờ là được, thêm gia vị, ăn nóng.
Dùng thích hợp cho những thai phụ thể chất hư nhược, hay có cảm giác khó thở, ăn kém, đầu
choáng mắt hoa, hồi hộp trống ngực, tiểu tiện bất lợi, phù nhẹ chi dưới... Những trường hợp rối
loạn tiểu tiện, tiểu buốt, tiểu rắt, tiểu đục do thấp nhiệt không nên dùng bài này.
Bài 6: Cá diếc 2 con, lá tía tô 15 g, sa nhân 6 g, gừng tươi 6 lát. Lá tía tô, sa nhân và gừng tươi
rửa sạch, cá diếc mổ bụng, bỏ hết nội tạng, rửa sạch. Tất cả cho vào nồi, chế đủ nước, dùng lửa
nhỏ hầm thật kỹ chừng 2-3 giờ là được, chế thêm gia vị, chia ăn vài lần trong ngày.
Dùng thích hợp cho thai phụ tỳ hư khí trệ mà nôn và buồn nôn nhiều, ăn kém, chậm tiêu, ngực
bụng đầy chướng, mệt mỏi, đại tiện lỏng nát, tiểu tiện trong dài, chất lưỡi nhợt...
Bài 7: Thịt thỏ 250 g, củ cải đỏ 250 g, đẳng sâm 30 g, hồng táo 6 quả. Chọn loại thịt thỏ non
mềm, rửa sạch, thái miếng; củ cải đỏ gọt bỏ vỏ, rửa sạch, cắt đoạn; hồng táo bỏ hạt, đẳng sâm
rửa sạch. Tất cả cho vào nồi, chế đủ nước, dùng lửa to đun sôi rồi hầm thật nhừ bằng lửa nhỏ
chừng 2-3 giờ là được, chế thêm gia vị, chia ăn vài lần trong ngày.
Dùng thích hợp cho thai phụ thể chất hư nhược, chức năng tiêu hóa suy kém, sắc mặt nhợt nhạt,
tinh thần mỏi mệt, ăn kém, thai nhi chậm phát triển... Những trường hợp tỳ vị hư hàn hoặc bị cảm
sốt chưa khỏi thì không nên dùng bài này.
Bài 8: Thịt lợn nạc 100 g, sâm Cao Ly 10 g, a giao 12 g. Sâm Cao Ly rửa sạch, thái phiến; a giao
thái vụn; thịt lợn rửa sạch, thái miếng. Tất cả cho vào bát, chế đủ nước rồi đem hầm cách thủy

chừng 2-3 giờ là được, chế thêm gia vị, ăn nóng.
Dùng thích hợp cho thai phụ bị động thai thể Khí huyết lưỡng hư, biểu hiện bằng các triệu chứng
như hình thể gầy yếu, sắc mặt nhợt nhạt, ngại hoạt động, hay có cảm giác hồi hộp trống ngực,
âm đạo ra huyết lượng ít sắc nhợt, lưng đau gối mỏi... Những trường hợp đang sốt do cảm mạo
hoặc có chứng huyết nhiệt thì không nên dùng bài này.

Dược thiện phòng chống táo bón
Tác giả : Thạc sĩ HOÀNG KHÁNH TOÀN


Khi bị táo bón, chúng ta hay dùng các đồ ăn thức uống có tính “mát” và “nhuận”
như khoai lang, đu đủ, chuối tiêu, thanh long... Tuy nhiên theo y học cổ
truyền, táo bón có nhiều thể bệnh khác nhau và vì vậy việc trị liệu cũng
có nhiều điểm khác biệt. Muốn phòng chống táo bón một cách hữu hiệu,
cần tuân thủ triệt để nguyên tắc “biện chứng luận trị” của y học cổ
truyền, nghĩa là phải căn cứ vào chứng trạng cụ thể mà lựa chọn và sử
dụng các món ăn - bài thuốc (dược thiện) thật phù hợp. Bài viết này xin
được giới thiệu một số ví dụ điển hình để độc giả có thể tham khảo và vận
dụng khi cần thiết.
VỚI THỂ BỆNH THỰC NHIỆT
Chứng trạng
Đại tiện phân khô táo, toàn thân có cảm giác nóng bức, hay cáu giận, mặt đỏ, bụng trướng đau,
tiểu tiện sẻn đỏ, môi khô miệng khát, thích uống nước mát, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng khô, mạch
hoạt sác.
Món ăn bài thuốc
Bài 1: Củ cải trắng 100g, mật ong lượng vừa đủ. Củ cải rửa sạch, giã nát, ép lấy nước cốt rồi
hòa với mật ong uống trong ngày (nếu có máy ép thì càng tốt). Công dụng: thanh nhiệt thông
tiện.
Bài 2: Quyết minh tử 10g, cà dái dê tím 2 quả. Sắc quyết minh tử lấy nước; Cà dái dê tím rửa
sạch, thái miếng, đem rán qua với dầu thực vật rồi nấu với dịch chiết quyết minh tử cho thật chín,

chế thêm gia vị, ăn trong ngày. Công dụng: thanh nhiệt thông tiện.
Bài 3: Măng non tươi 100g, rau cần tây 100g. Măng rửa sạch, luộc qua, thái miếng; Rau cần rửa
sạch, cắt đoạn, chần qua nước sôi; Hai thứ đem xào với dầu thực vật và gia vị vừa đủ, dùng làm
rau ăn hàng ngày. Công dụng: thanh nhiệt thông tiện.
VỚI THỂ BỆNH KHÍ TRỆ
Chứng trạng
Đại tiện khó khăn, ợ hơi liên tục, ngực bụng đầy chướng, ấm ách khó chịu, ăn kém chậm tiêu, có
lúc đau bụng, miệng khô họng khát, chất lưỡi hồng, rêu trắng mỏng, mạch huyền.
Món ăn bài thuốc
Bài 1: Mộc hương 5g, binh lang 5g, gạo tẻ 100g, đường phèn vừa đủ. Sắc kỹ mộc hương và binh
lang, lấy nước bỏ bã rồi cho gạo tẻ vào ninh thành cháo, chế thêm đường phèn, chia ăn vài lần
trong ngày. Công dụng: thuận khí hành trệ, thông tiện.
Bài 2: Mộc hương 10g, giáng hương 5g, hải sâm 10g, đại tràng lợn 1 đoạn. Hải sâm rửa sạch
thái miếng, đại tràng lợn rửa sạch, thái nhỏ; Cho mộc hương và giáng hương vào túi vải, buộc
kín miệng; Tất cả cho vào nồi nấu nhừ, chế đủ gia vị, chia ăn vài lần trong ngày. Công dụng:
hành khí, dưỡng huyết, thông trệ.


Bài 3: Chỉ thực 10g, củ cải trắng và tôm nõn vừa đủ. Sắc kỹ chỉ thực lấy nước bỏ bã, củ cải trắng
thái miếng và tôm nõn cho vào dịch chiết chỉ thực nấu nhừ, chế thêm gia vị, dùng làm canh ăn
hàng ngày. Công dụng: thuận khí thông tiện.
VỚI THỂ BỆNH KHÍ HƯ
Chứng trạng
Đại tiện khó khăn dù phân không khô cứng, toàn trạng mệt mỏi, hay có cảm giác khó thở, dễ vã
mồ hôi, ăn kém chậm tiêu, sắc mặt trắng nhợt, đại tiện lỏng hoặc nát, miệng nhạt, chất lưỡi nhợt,
rêu lưỡi trắng mỏng, mạch hư nhược.
Món ăn bài thuốc
Bài 1: Hỏa ma nhân 10g, vừng 5g, bột hạt dẻ 50g, bột ngô 50g. Hỏa ma nhân và vừng sao thơm
tán bột, đem nấu với bột hạt dẻ và bột ngô thành dạng cháo loãng, chế thêm một chút đường đỏ,
dùng làm đồ điểm tâm.

Công dụng: bổ khí, nhuận tràng, thông tiện.
Bài2: Hoàng kỳ 300g, mộc hương 45g, mật ong lượng vừa đủ. Sắc kỹ hoàng kỳ và mộc hương 2
lần lấy nước cốt, cô thật đặc rồi cho thêm mật ong vào cô tiếp một lát là được, để nguội, đựng
trong lọ thủy tinh để dùng dần. Mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 thìa canh. Công dụng: bổ khí hành
khí, nhuận tràng thông tiện.
Bài 3: Hoàng kỳ 10g, tô tử 50g, hỏa ma nhân 50g, gạo tẻ 250g. Sắc kỹ hoàng kỳ, tô tử và hỏa ma
nhân lấy nước nấu với gạo tẻ thành cháo, chia ăn vài lần trong ngày. Công dụng: ích khí nhuận
tràng.
Bài 4: Nhân sâm 5-10g, vừng đen 15g, đường trắng lượng vừa đủ. Vừng đen sao thơm tán bột,
sắc kỹ nhân sâm lấy nước bỏ bã rồi cho vừng và đường trắng vào nấu thành dạng cháo loãng,
ăn trong ngày. Công dụng: ích khí nhuận tràng, tư dưỡng can thận.
Bài 5: Hạnh nhân 60g, vừng đen 500g, đường trắng 250g, mật ong 250g. Hạnh nhân giã nát,
vừng đen sao thơm tán bột, hai thứ cho vào bát, trộn với mật ong và đường trắng, đem hấp cách
thủy cho chín, mỗi ngày ăn 2 lần, mỗi lần 1 thìa canh. Công dụng: ích khí nhuận tràng.
VỚI THỂ BỆNH HUYẾT HƯ
Chứng trạng:
Đại tiện táo, sắc mặt nhợt nhạt, hay hoa mắt chóng mặt, trí nhớ giảm sút, dễ hồi hộp trống ngực,
chất lưỡi nhợt, mạch tế nhược, thường trong tình trạng thiếu máu.
Món ăn - bài thuốc
Bài 1: Chuối tiêu chín 500g, vừng đen 25g. Vừng đen rang thơm, giã
vụn, ăn chuối chấm vừng đen, chia làm 3 lần trong ngày. Công dụng:
dưỡng âm thanh nhiệt, nhuận tràng thông tiện.
Bài 2: Quả dâu chín (tang thầm) 500g, sinh địa 200g, mật ong lượng
vừa đủ. Sắc kỹ tang thầm và sinh địa 2 lần, lấy hai nước hợp lại, cô


nhỏ lửa cho thành dạng cao đặc, chế thêm mật ong, đun sôi một lát là được, để nguội, đựng
trong lọ kín dùng dần, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 thìa canh. Công dụng: dưỡng âm thanh
nhiệt, nhuận tràng thông tiện.
Bài 3: Tùng tử nhân 50g, hạch đào nhân 50g, mật ong 500ml. Tùng tử nhân và hạch đào nhân

bỏ vỏ, sao khô, tán bột rồi hòa với mật ong, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 2 thìa canh. Công
dụng: dưỡng âm nhuận tràng.
Bài 4: Tùng tử nhân 20g, gạo tẻ 60g. Đem tùng tử nhân tán vụn rồi ninh với gạo thành cháo, chia
ăn vài lần trong ngày. Công dụng: dưỡng âm, nhuận tràng.
VỚI THỂ BỆNH DƯƠNG HƯ
Chứng trạng
Đại tiện khó khăn, sắc mặt nhợt nhạt, chân tay lạnh, sợ lạnh thích ấm, hay đau bụng và lưng do
lạnh, lưng đau gối mỏi, tai ù tai điếc, có thể có liệt dương di tinh, tiểu tiện trong dài, miệng nhạt,
chất lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng ướt, mạch trầm trì.
Món ăn - bài thuốc
Bài 1: Nhục thung dung 30g, thận dê 1 cặp. Thận dê làm sạch, thái mỏng; Sắc nhục thung dung
lấy nước bỏ bã rồi cho thận dê vào, đun sôi một lát là được, chế đủ hành, gừng tươi thái chỉ và
gia vị vừa đủ, ăn nóng. Công dụng: ôn dương thông tiện.
Bài 2: Tỏa dương 15g, đường đỏ lượng vừa đủ. Sắc kỹ tỏa dương lấy nước bỏ bã, chế thêm
đường đỏ, chia uống 2 lần trong ngày. Công dụng: ôn dương nhuận tràng, thông tiện.
Bài 3: Tỏa dương 5g, nhục thung dung 5g, thịt dê 50g, bột mì 200g. Sắc kỹ tỏa dương và nhục
thung dung, lấy nước bỏ bã rồi nhào với bột mì thật nhuyễn, cán mỏng, cắt thành sợi, nấu với thịt
dê, chế đủ gia vị, dùng làm đồ điểm tâm hàng ngày. Công dụng: ôn dương thông tiện.
Bài 4: Hạnh nhân 15g, đương quy 15g, phổi lợn 250g. Phổi lợn rửa sạch, thái miếng, chần qua
nước sôi rồi đem nấu với hạnh nhân và đương quy cho chín, chế đủ gia vị, ăn nóng. Công dụng:
ôn thông khai bí.

LƯƠN: THỨC ĂN VÀ VỊ THUỐC
Tác giả : BS. NGUYỄN VĂN THÔNG (Tổng hợp từ Internet)

Lươn là món ăn đặc sản của người việt nam. ở nam bộ có
nhiều phương thức chế biến từ đơn giản đến
cầu kỳ như lươn xào lăn, lươn xé phay, lẩu
lươn... tại miền bắc, món ăn nổi tiếng nhất có lẽ là miến lươn.
Trên thế giới, lươn cũng được xếp vào hạng “sơn hào hải vị” dành riêng cho thượng

khách, cho các vị nguyên thủ quốc gia… nhưng lươn còn là vị thuốc quý trong
y học cổ truyền.
ĐẶC ĐIỂM SINH THÁI CỦA LƯƠN
Lươn thuộc họ Anguillidae. Lươn đồng hay lươn nước ngọt có tên khoa học là Fluta alba; lươn


biển hay cá chình tên khoa học là Anguilla anguilla (Việt Nam, châu Âu) và Anguilla Rostrata (Bắc
Mỹ).
Lươn đồng
Rất phổ biến tại Việt Nam, nhất là ở vùng đồng bằng sông Cửu long. Lươn sống ở mương, lạch,
nơi đồng lầy, ruộng lúa. Trước nay lươn được đánh bắt trong thiên nhiên nhưng không đủ để
cung cấp cho thị trường tiêu thụ, hiện nay lươn đã được nuôi với quy mô lớn.
Lươn đồng thường được xếp vào loài cá, hình dạng như rắn, thân tròn, đường kính từ 2-3cm,
thân dài từ 30-60cm, da trơn không có vẩy, thường sống dưới bùn. Lươn thuộc loài sinh sản
lưỡng tính: trong tuyến sinh dục có cả tinh nang lẫn noãn sào. Ở Việt Nam, lươn nhỏ hơn 20cm
thường là lươn cái; dài khoảng 35-45cm thuộc loại lưỡng tính và dài hơn 55cm là lươn đực. Lươn
sinh sản rất nhanh và rất mạnh, thường đẻ trứng vào khoảng tháng 5-6. Lươn đực có nhiệm vụ
làm hang tại bờ ruộng, bờ mương để cho lươn cái đến sinh đẻ. Trước khi lươn cái đẻ trứng, lươn
đực phun bọt đầy ổ. Lươn cái đẻ trứng trên đám bọt này. Mỗi lần lươn cái có thể đẻ từ 100-600
trứng và trứng nở sau 7 ngày ở nhiệt độ khoảng 300C. Lươn tăng trưởng khá nhanh, sau khi
trứng nở chừng 10 ngày, lươn có thể dài đến 2cm. Sau một năm, lươn đã trưởng thành, dài
khoảng 25cm, nặng chừng 40-60g. Lươn tại miền Tây Nam bộ có thể nặng đến 1,5kg.
Lươn biển hay cá chình
Thuộc họ Anguillidae, là loài cá có thân như rắn nhưng có vi ở
lưng, ngực và phần dưới. Lươn biển dài khoảng 1,5m, thường
có màu nâu sậm hoặc màu xanh trên lưng, còn phần dưới bụng
lại có màu vàng nhạt. Lươn biển thường sống ở vùng nước lợ
ven biển. Có khoảng 15 loại lươn biển, trong đó có 2 loại quý
nhất là Anguilla Rostrata (lươn Bắc Mỹ) và Anguilla anguilla
(lươn châu Âu).

Lươn trưởng thành sau 8-10 năm, lúc đó tuyến sinh dục đã phát
triển đầy đủ. Lươn sẽ di chuyển đến vùng biển có độ sâu
khoảng 2.000m để đẻ trứng. Mỗi con lươn cái có thể đẻ khoảng
10 triệu trứng. Trứng nở ra ấu trùng rồi ấu trùng sẽ nổi lên mặt
nước để ăn các phiêu sinh vật để trở thành lươn biển. Có lẽ chỉ
có lươn cái sẽ bơi ngược về lại đất liền, sống gần cửa biển và
mất thêm 2-3 năm để trở về vùng sông hồ. Lươn cái sống từ
10-15 năm trong vùng nước ngọt.
THÀNH PHẦN DINH DƯỠNG VÀ DƯỢC TÍNH
Lươn đồng và lươn biển đều thuộc loài cá với thành phần dinh dưỡng rất cao. Trong 100g thịt
lươn chứa:
* Chất đạm: 12,7g.
* Chất béo tổng cộng: 25,6g trong đó cholesterol: 0,05g.
* Năng lượng: 285 calo.
* Vitamin: Vitamin A và betacaroten: 2000 IU, Vitamin B1: 0,15mg, Niacin: 2,2 mg, Riboflavin:


0,31mg, Biotin: 5mcg, Vitamin B6: 0,28mg.
* Khoáng chất: Sắt: 0,7mg, Natri: 78mg, Kali: 247mg, Calci: 18mg, Magie: 18mg, Photpho:
160mg.
LƯƠN TRONG Y HỌC CỔ TRUYỀN
Theo Đông y, lươn hay thiện ngư có tác dụng bồi bổ khí huyết, trừ được phong thấp. Theo y
dược Trung Hoa, lươn có thể chữa được bệnh suy dinh dưỡng, kiết lỵ, đau nhức xương sống,
phong thấp, trĩ nội, bệnh huyết trắng của phụ nữ. Phụ nữ có thai không nên dùng lươn. Với đặc
tính bổ dưỡng và sinh khí huyết, máu lươn (thiện ngư huyết) có khả năng tăng cường “dương
khí”, giúp máu huyết lưu thông, trị được chứng khô miệng, đau nhức trong tai và tăng cường khả
năng tình dục.
Theo dinh dưỡng của y học Trung Quốc hiện đại, lươn cũng được chia làm 2 loại:
- Lươn có vi hay lươn biển (Anguilla Japonica) sống tại các con sông Dương Tử Giang, Minh
Giang, đảo Hải Nam: có vị ngọt, tính bình, tác dụng vào các kinh mạch thuộc can và thận, có khả

năng bổ dương, chữa được các chứng phong thấp.
- Lươn không vi hay lươn nước ngọt (Monopterus Albus): vị ngọt, tính ấm, tác dụng vào kinh
mạch thuộc tỳ và thận, có khả năng tăng cường khí huyết, bổ gan, bổ xương và trị được phong
thấp.
MỘT VÀI ỨNG DỤNG TRONG ĐIỀU TRỊ
Để chữa tiêu chảy với phân có đàm nhớt và máu: nướng một con lươn nước ngọt sau khi mổ bỏ
ruột gan và tạng phủ. Sau đó rang với 10g đường vàng, tán thành bột. Uống bột với nước ấm
ngày 3-4 lần, mỗi lần 1-2 muỗng cà phê.
Để chữa bệnh trĩ: ăn thịt lươn (lươn biển hay lươn nước ngọt) để giúp cầm máu và trị búi trĩ. Khi
nấu lươn nên dùng nồi đất vì lươn kỵ kim khí và nồi đất làm bớt mùi tanh của lươn. Mổ lươn theo
cách cổ truyền là không dùng dao mà dùng cật tre vót mỏng để tránh sự tương khắc giữa máu
lươn với kim loại.
Để trị chứng suy nhược do lạm dụng tình dục: đun lươn (lươn biển) với rượu chát đỏ đến khi cạn
(1 con dùng 250ml rượu). Sau đó nướng lươn đã nấu chín (cả da lẫn xương), xong tán thành bột.
Uống mỗi ngày từ 7-10g với rượu tùy theo tình trạng suy nhược.
Để chữa trị phong thấp: nên dùng lươn um (hầm) chung với sả và rau ngổ.
Cũng có thể nấu cháo lươn với đỗ trọng, lá dâu tằm và ngũ gia bì.
Để chữa trị chứng bất lực:lươn được hầm chung với hà thủ ô, hạt sen, mộc nhĩ (nấm mèo) hay
nấm linh chi. Có thể thêm lá lốt.

Món ăn bài thuốc cho người béo phì


Củ cải 250 g, muối và bột ngọt mỗi thứ một ít, rượu trắng vừa đủ.
Củ cải gọt vỏ, rửa sạch, xắt sợi, thêm một ít muối, sau khi
trộn đều và vắt bỏ nước thì thêm các gia vị, dùng làm món
ăn phụ. Món này có tác dụng kiện tỳ, lợi niệu, giúp giảm
béo phì.

Món nấm đông cô

tiềm.
Theo Đông y, béo phì có nhiều loại:
Thể tỳ hư thấp trở: Mập béo, kèm theo vóc dáng lù đù, cảm giác mỏi mệt, sức yếu, tiểu tiện
lượng ít, ăn uống không ngon, vùng bụng có cảm giác trướng đầy, rêu lưỡi mỏng, chất lưỡi đỏ
nhạt. Thường gặp ở người béo phì có mỡ trong máu.
Thể vị nhiệt thấp trở: Người béo, kèm chóng mặt, căng đầu, tứ chi nặng nề, lười cử động, miệng
khát, thích uống nước, rêu lưỡi vàng mỏng, chất lưỡi đỏ. Thường gặp ở người béo phì có mỡ
trong máu cao; cao huyết áp.
Thể can uất khí trệ: Béo phì, ngực sườn đầy tức, nữ giới kinh nguyệt không đều, thậm chí bế
kinh, mất ngủ mộng nhiều, rêu lưỡi trắng hay mỏng, chất lưỡi đỏ sạm. Thường gặp nhiều ở nữ
giới tuổi trung niên.
Thể âm hư nội nhiệt: Béo phì, kèm hoa mắt, chóng mặt, đau đầu, căng đầu, lưng gối ê mỏi, sốt
nhẹ, rêu lưỡi mỏng, lưỡi thon đỏ. Thường gặp ở người béo phì có bệnh tiểu đường.
Thể tỳ thận lưỡng hư (tỳ thận dương hư): Béo ú, kèm mỏi mệt sức yếu, lưng gối ê mỏi, nam giới
liệt dương, nữ giới lãnh cảm, rêu lưỡi trắng, chất lưỡi đỏ nhạt. Thường gặp nhiều ở nam giới.
Một số món ăn bài thuốc
Cháo bí đao: Bí đao tươi 100 g, gạo tẻ 100 g. Bí đao bỏ vỏ, hạt, rửa sạch, xắt lát nhỏ. Gạo sau
khi vo sạch, cùng bí đao cho vào nồi, nấu cháo loãng, dùng vào sáng và chiều (cháo không nêm
muối). Món cháo có tác dụng lợi niệu, tiêu thũng, thanh nhiệt giải khát, xúc tiến giảm béo phì.
Canh vịt non: Vịt non 1 con, thảo quả 1 quả, đậu đỏ 250 g, muối và hành lượng vừa đủ. Vịt sau
khi giết mổ, bỏ lông và nội tạng, rửa sạch. Đậu đỏ vo sạch, thảo quả bỏ cuống rửa sạch, cho tất
cả vào bụng vịt khâu lại, nấu chín mềm, nêm muối, bột ngọt, hành mỗi thứ một ít. Dùng canh, ăn
thịt lúc bụng đói, có thể dùng làm món ăn phụ. Món canh có tác dụng kiện tỳ khai vị, lợi niệu tiêu
thũng, giúp giảm béo phì.
Canh cá chép: Tất phát 5 g, xuyên tiêu 15 g, cá chép sống 1 con, gừng tươi, rau thơm, rượu,
hành, bột ngọt, giấm mỗi thứ lượng vừa đủ. Cá chép bỏ vảy và nội tạng, rửa sạch xắt lát, hành,
gừng rửa sạch, băm hoặc xắt đoạn. Tất phát, cá chép, hành, gừng cho vào nồi, thêm nước, hầm
với lửa nhỏ trong 40 phút. Thêm rau thơm, rượu, bột ngọt và giấm. Canh có tác dụng lợi niệu,
tiêu thũng, giúp giảm béo phì.
Đông cô tiềm: Nấm hương (đông cô) 50 g, canh gà 20 ml, rượu 10 ml, hành, gừng tươi mỗi thứ

một ít; muối, đường cát lượng vừa đủ. Nấm hương rửa sạch, ngâm mềm; canh gà đổ vào một
nồi lớn, thêm nấm hương, rượu và muối; dùng giấy bạc dán kín miệng nồi, tiềm 1-1,5 giờ, lột bỏ


giấy bạc, ăn ngay. Món tiềm có tác dụng giảm cholesterol, giảm huyết áp, chống ung thư và giảm
béo phì.
Xôi ba màu: Đậu đỏ, bo bo, nếp, hạt bí đao, dưa leo mỗi thứ lượng vừa đủ. Dùng nước vo sạch
đậu đỏ và bo bo, cho vào nồi hấp chưng 20 phút, sau đó cho nếp đã vo sạch và hạt bí đao, thêm
nước đồ chín, rắc dưa leo hạt lựu lên và dùng. Có tác dụng tạo cảm giác no nhưng không dư
thừa năng lượng.

Món ăn bài thuốc cho người bị táo bón mạn tính
Binh lang (hạt cau thái lát, phơi khô) 10-15 g, sắc đặc lấy nước, dùng nước đó
nấu cháo với gạo tẻ (30-60), ăn khi bụng đói, mỗi ngày 1-2 lần. Món ăn này
thích hợp cho những người khó đại tiện, bụng dưới chướng đầy.

Người bị táo bón
nên ăn nhiều
rau quả.
Theo y học cổ truyền, nguyên nhân chủ yếu gây táo bón mạn tính là ăn uống không đúng cách,
tinh thần không thoải mái, dẫn đến khí uất, nhiệt thịnh, thương tân dịch, gây táo kết đại tràng.
Lâu ngày, bệnh có thể làm tổn thương khí huyết, gây khí hư, huyết hư.
Chế độ ăn thích hợp có vai trò quan trọng trong điều trị táo bón. Nên ăn nhiều rau củ quả, nhất là
những loại có tính chất nhuận tràng (như táo, lê, đu đủ, rau mồng tơi, rau cải, cải bắp, khoai
lang...), uống nhiều nước, sữa đậu nành, nước hoa quả. Hạn chế rượu và các đồ cay, nóng như
ớt, hạt tiêu, thịt chó, thịt dê...
- Quyết minh tử (hạt muồng muồng) 10-15 g, mật ong 20-30 g. Đem hạt quyết minh tử sao vàng
thơm, cho vào cối giã vụn, thêm 300-400 ml nước, sắc trong khoảng 10 phút. Bắc ra, cho mật
ong vào trộn đều. Ngày uống 2 lần sáng, chiều. Cũng có thể làm nhiều uống thay trà. Cả hai vị
này đều tốt cho những bệnh nhân táo bón, người nóng, bứt rứt, khó ngủ.

- Hắc chi ma (hạt vừng đen) 60 g, hoàng kỳ 20 g, mật ong lượng vừa đủ. Vừng đen giã nhuyễn
thành hồ nhão, nhào với mật ong. Hoàng kỳ sắc đặc, bỏ bã, lấy nước trộn với hỗn hợp trên để
uống. Thuốc có tác dụng nhuận tràng nhanh.
- Tang thầm (quả dâu chín) 30 g, hắc chi ma 60 g, vừng trắng 10 g, đường cát 30 g, bột gạo tẻ
300 g, bột gạo nếp 700 g. Vừng đen sao thơm. Tang thầm, vừng trắng rửa sạch, cho vào nồi
nước vừa đủ, dùng lửa to đun sôi rồi vặn nhỏ lửa đun trong 20 phút, bỏ bã, lấy nước. Bột gạo
nếp, bột gạo tẻ, đường cát cho vào nồi trộn với nước thuốc vừa sắc, thêm nước, nặn thành
bánh. Mặt ngoài bánh rắc vừng đen đã sao thơm. Đem hấp cách thủy, ăn buổi sáng.
- Hoàng kỳ 10 g, thịt lợn nạc 250 g, măng tươi 50 g, cà rốt 100 g, hành tươi 100 g, mộc nhĩ 30 g,
bắp cải 250 g. Ngâm hoàng kỳ trong nước khoảng 30 phút, sau đó đem sắc đặc, chắt lấy nước.
Thịt nạc, măng tươi, cà rốt, hành tươi thái lát mỏng; mộc nhĩ ngâm cho nở, xắt thành miếng nhỏ;
bắp cải rửa sạch, thái vụn. Xào thịt chín tái rồi đổ ra, cho củ cải vào xào một lúc, sau đó cho
măng vào xào, thêm hành tươi. Đổ thịt cùng nước sắc hoàng kỳ, cải bắp, mộc nhĩ, thêm một ít
nước, bột mì đun cho sánh lại, nêm gia vị, ăn với cơm.


Món ăn này chứa nhiều thực phẩm tươi, giàu dinh dưỡng, có tác dụng bổ khí, cường thận,
dưỡng vị, nhuận tràng, dùng tốt cho người cao tuổi đại tiện khó do ít vận động, nhu động ruột
kém.
ThS Phạm Đức Dương

Món ăn bài thuốc cho người mắc bệnh đường tiết niệu
Đuôi cá chép to 1 chiếc, đậu đỏ 60 g, nấu canh suông (không
cho muối), uống dần trong ngày. Món ăn này có tác
dụng tiêu phù, dùng cho người bị viêm thận cấp hoặc
mạn tính có phù nặng, nước tiểu màu hồng.

Trứng gà tươi
có thể
tốt với

người
mắc
bệnh
thận.
Sau đây là một số món ăn khác:
- Cá chép nướng đất sét: Cá chép đen 1 con làm sạch, dùng đất sét dẻo bọc kín, đặt vào lò
nướng (nung) đến khi có khói trắng thì lấy ra. Đợi cho nguội, phá bỏ đất sét, lấy cá ra tán thành
bột. Ngày dùng 3 lần, mỗi lần 2 thìa canh, chiêu bằng nước ấm, không ăn muối.
Thuốc có tác dụng tiêu phù, dùng cho bệnh nhân viêm thận cấp có phù do phong hàn ảnh hưởng
đến phế, hoặc người viêm thận mạn có phù nặng do tỳ thận dương hư.
- Cá chép nấu với bí đao: Cá chép 500 g, bí đao 200 g, nấu thành món canh, trước khi ăn cho
hành tăm 10 g và 1 chút muối, ăn trong ngày, dùng cho người viêm thận mạn có phù rõ.
- Cá trê nấu với bí đao: Cá trê 1 con, bí đao 500 g. Làm sạch cá, nấu canh suông với bí đao xắt
miếng, ăn hàng ngày. Dùng cho người viêm thận mạn có phù rõ.
- Hồ tiêu trứng gà: Lấy một quả trứng gà tươi, đục lỗ nhỏ ở 1 đầu rồi cho 7 hạt tiêu sọ vào. Lấy
bột gạo bịt lỗ rồi bọc trứng bằng giấy ướt, hấp cách thủy. Khi trứng chín, bóc vỏ, ăn cả trứng và
hồ tiêu. Người lớn ngày ăn 2 quả, trẻ em ngày ăn 1 quả. Sau 10 ngày, nghỉ 3 ngày rồi ăn tiếp đợt
thứ hai.
Món ăn này thích hợp với người viêm thận mạn có tinh huyết hư suy, do tỳ thận đều hư (với các
triệu chứng: nước tiểu có albumin, người mệt mỏi, uể oải, lưng mỏi gối yếu, mạch đập yếu).


- Gà con nấu với hoàng kỳ: Gà con làm sạch, hầm với 120 g hoàng kỳ cho chín nhừ; ăn gà, uống
nước hầm. Dùng cho người viêm thận mạn suy kiệt, sức chống đỡ giảm sút nhiều.
- Bầu dục lợn xào với đậu đũa: Bầu dục 1 đôi (bóc hết màng, rửa sạch, thái lát) xào với đậu đũa
(rửa sạch, thái lát) để ăn. Dùng cho người viêm thận mạn có cơ thể suy yếu.
- Nước luộc bí đao: Bí đao 500 g bỏ vỏ và ruột, xắt thành miếng, luộc kỹ lấy 3 bát nước canh,
chia uống làm 3 lần trong ngày. Dùng cho người viêm thận cấp do phong nhiệt tác động vào phế.
- Vừng đen sao lên, tán nhỏ, thêm đường để uống (có thể dùng chè vừng đen). Dùng cho người
viêm thận mạn lâu năm, thể hư hàn.

- Cần tây 500 g ép lấy nước cốt. Mỗi ngày uống một thìa canh hòa với nước sôi để ấm. Dùng
cho người viêm thận mạn có tăng huyết áp.
GS Hoàng Bảo Châu,

Một số món ăn - bài thuốc từ củ cải
Để chữa hen, có thể lấy củ cải trắng sao giòn,
tán nhỏ, ngào với đường mía rồi làm
thành viên bằng hạt ngô, cho vào lọ đậy
kín. Mỗi lần lên cơn hen, uống 40-50
viên với nước ấm.
Củ cải khôg chỉ
là món ăn ngon
mà còn là vị
thuốc quý.
Theo Đông y, củ cải tươi sống có vị cay, tính mát, khí đi lên; củ cải đã nấu chín vị ngọt, tính bình,
khí đi xuống. Loại rau này có thể chữa được nhiều bệnh về hô hấp (ho, đau tức ngực, mất tiếng,
ho ra máu), tiêu hóa (đau vùng thượng vị, ợ chua, nôn, khó tiêu, táo bón, trĩ), tiết niệu (tiểu rắt,
tiểu buốt, tiểu đục, có sỏi) và các bệnh tiểu đường, huyết áp cao...
Ngoài ra, củ cải còn có công dụng hoạt huyết, chỉ huyết (chữa nôn ra máu, chảy máu cam, tiêu,
tiểu ra máu...), trừ sỏi mật và giải một số tình trạng ngộ độc như: hơi khói than, rượu, cà, hàn
the...
Sau đây là một số món ăn - bài thuốc theo Đông y và kinh nghiệm dân gian.
- Lao phổi, ho, đau tức ngực, ho ra máu: Dùng 2-3 củ cải giã lấy nước, thêm ít muối để uống.
Cũng có thể lấy củ cải, sinh địa, ngó sen, lê mỗi thứ 1 kg, mạch môn 500 g, gừng 500 g. Tất cả
để tươi, nấu sôi trong 30 phút rồi vắt lấy nước, nấu lại lần hai, lấy 2 nước nhập lại, cô thành cao
lỏng. Cho thêm các vị a giao, đường phèn, mật ong mỗi thứ 500 g, nấu thành cao đặc, đổ vào lọ.
Ngày uống hai lần sáng và chiều, mỗi lần 2 thìa canh. Dùng với nước ấm hoặc ngậm nuốt.
- Viêm họng, khí quản cấp tính: Củ cải 500-1.000 g, quả trám 250 g, sắc uống.



×