Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

LUẬN án TIẾN SĨ - đổi mới các tổ CHỨC CHÍNH TRỊ xã hội TRONG QUÁ TRÌNH CHUYỂN SANG nền KINH tế THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.25 KB, 116 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Lịch sử loài người từ khi phân chia thành giai cấp đã mang lại cho chúng ta nhiều bằng
chứng cho thấy việc hình thành được một thiết chế dân chủ sẽ có tác động to lớn như thế
nào đến diện mạo chung của xã hội, đến sự tăng trưởng kinh tế và giải phóng năng lực
sáng tạo của con người. Song lịch sử cũng chứng minh rằng, hiệu quả tác động của dân
chủ đến sự phát triển mọi mặt đời sống xã hội lại phụ thuộc một cách quyết định vào sự
hoàn thiện của hệ thống chính trị với tư cách là cơ chế thực hiện quyền lực chính trị trong
xã hội tương ứng.
Nhận rõ mối quan hệ giữa dân chủ và hệ thống chính trị nói chung, giữa quá trình hình
thành nền dân chủ XHCN với việc hoàn thiện hệ thống chính trị của thời kỳ quá độ lên
CNXH nói riêng, các văn kiện được Đại hội VI và Đại hội VII của Đảng ta thông qua đã
xem việc đổi mới hệ thống chính trị bằng cách dân chủ hoá toàn diện hệ thống đó nhằm
từng bước hình thành nền dân chủ XHCN là nhiệm vụ cấp bách của quá trình đổi mới.
Hệ thống chính trị trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta - như Cương lĩnh được
Đại hội VII thông qua và Hiến pháp 1992 khẳng định dưới hình thức pháp lý của quan
điểm đó - bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể khác của nhân dân.
Sau gần chục năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước - trong đó có hệ
thống chính trị, “Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đã coi trọng các hình thức
tập hợp đa dạng nhằm mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, động viên nhân dân thực hiện
nhiệm vụ chính trị, đẩy mạnh các hoạt động xã hội, chăm lo và bảo vệ lợi ích thiết thực


của nhân dân. Sự tham gia của Mặt trận và các đoàn thể trong công tác xây dựng luật
pháp, chính sách, xây dựng chính quyền các cấp, thực hiện các chính sách kinh tế - xã
hội... ngày càng được tăng cường” (4 - 9, tr. 13 - 14).
Trong khi đánh giá cao thành tựu của việc đổi mới các tổ chức chính trị - xã hội của
nhân dân như vậy, Đảng ta cũng thấy rằng, Mặt trận và các đoàn thể còn lúng túng trong
nội dung và phương thức hoạt động; tình trạng quan liêu, dân chủ hình thức trong các tổ
chức đó còn nặng nề đã làm hạn chế đáng kể việc phát huy tiềm năng sáng tạo của các


thành viên Mặt trận và các đoàn thể trong quá trình đổi mới. Do vậy, tiếp tục đổi mới tổ
chức và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội vẫn là một đòi hỏi bức thiết ở nước ta
hiện nay.
Vấn đề đó càng trở nên cấp bách hơn, khi chúng ta nhất quán thực hiện chính sách phát
triển kinh tế nhiều thành phần, xây dựng đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng XHCN. Quá trình ấy tất yếu dẫn đến sự phân hoá sâu sắc về cơ chế
xã hội, về tâm lý, tư tưởng, tình cảm trong nhân dân. Vì vậy vấn đề đặt ra là bằng cách
nào phát huy được dân chủ rộng rãi, đúng hướng để quy tụ được sức mạnh của các nhóm
người, các tầng lớp, các giai cấp và cả cộng đồng dân tộc để thực hiện thành công sự
nghiệp đổi mới làm cho nhân dân thực sự trở thành chủ thể sáng tạo lịch sử một cách tích
cực và chủ động. Bởi vậy, mức độ thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng văn minh” tuỳ thuộc một cách quyết định vào việc giải pháp đúng đắn câu hỏi
nêu trên.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu nội dung và giải pháp đổi mới các tổ chức chính trị
- xã hội trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước


theo định hướng xã hội chủ nghĩa trở thành nhiệm vụ chín muồi và cấp thiết cả về lý luận
và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Đổi mới là sự nghiệp mới mẻ, chưa có tiền lệ, mẫu hình. Để thực hiện thắng lợi sự
nghiệp đó, chúng ta phải tìm tòi, sáng tạo lý luận. Đổi mới hệ thống chính trị nói chung
và đổi mới các tổ chức chính trị - xã hội nói riêng đang là vấn đề cấp bách nên được
nhiều nhà lý luận, nhà chính trị - thực tiễn quan tâm nghiên cứu nhằm từng bước hình
thành và hoàn thiện quan điểm đối với công cuộc đổi mới ở nước ta (1).
Trong các công trình khoa học của mình, những tác giả đã đề cập tới một loạt vấn đề
liên quan tới lý luận chung về đổi mới, dân chủ và dân chủ XHCN, những nhân tố chế
định sự hình thành và phát triển nền dân chủ XHCN, cơ chế tổng quát “ Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, đổi mới vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của
Nhà nước cũng như tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội. Thông qua

đó, các tác giả đã nêu ra nhiều kiến nghị có giá trị nhằm đẩy mạnh quá trình đổi mới ở
nước ta.
Tuy vậy, đến nay không phải mọi vấn đề lý luận về đổi mới hệ thống chính trị nói
chung, đổi mới các tổ chức chính trị - xã hội nói riêng đã được giải quyết. Công cuộc đổi
mới càng được triển khai về chiều rộng và chiều sâu càng đặt ra
(1) Xem: Chính trị và hệ thống chính trị trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
Chương trình khoa học công nghệ KX. 05; Hoàng Văn Hảo: Dân chủ hoá các tổ chức
chính trị - xã hội - một phương hướng cơ bản để tăng cường quyền lực của nhân dân ở
nước ta hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 1 - 1993; Phạm Ngọc Quang: vấn đề
quyền lực và cơ chế thực hiện quyền lực trong kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, Tạp chí


Nghiên cứu lý luận, số 1 - 1993: Phạm Ngọc Quang: Hồ Chí Minh với những nguồn lực
trí tuệ của Đảng, Tạp chí thông tin lý luận, số 4 - 1993; Đặng Quang Uẩn: Nhân dịp kỷ
niệm cách mạng Tháng Mười nghĩ về mối quan hệ giữa Đảng và giai cấp trong thời kỳ
thoái trào của chủ nghĩa xã hội, Tạp chí thông tin lý luận, số 11 - 1993; Đào Duy Cận Khoa Minh - Đỗ Nguyên Phương - Đậu Thế Biểu - Nguyễn Thế Phấn: Những vấn đề lý
luận của CNXH ở Việt Nam, tập III - chính sách xã hội và hệ thống chính trị; Đỗ Nguyên
Phương - Trần Ngọc Đường: Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp
quyền...
nhiều vấn đề mới đòi hỏi giới lý luận phải nghiên cứu. Đổi mới các tổ chức chính trị xã hội của nhân dân trong mối quan hệ với quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN là một trong những vấn đề như vậy.
Chính vì vậy, người viết chọn đề tài này làm đối tượng trình bày trong luận án của
mình với hy vọng góp phần khắc phục điểm trống đó về lý luận.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án.
Chọn đề tài này, người làm luận án nhằm nghiên cứu một cách tương đối hệ thống các
vấn đề có liên quan tới quá trình đổi mới các tổ chức chính trị - xã hội trong mối tương
quan với quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng XHCN; xác định nội dung cơ bản của đổi mới các tổ chức ấy; kiến nghị các
giải pháp thích hợp để đổi mới tổ chức, nội dung, phương pháp hoạt động nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội trong quá trình chuyển sang kinh tế thị

trường ở nước ta hiện nay.
Để đạt được mục đích đó, nhiệm vụ của luận án là:


- Làm rõ khái niệm và cơ sở phân loại các tổ chức chính trị - xã hội .
- Phân tích những tác động của nền kinh tế thị trường đến quá trình đa dạng hoá cơ cấu
xã hội, đến quá trình đa dạng hoá các tổ chức chính trị - xã hội. Từ đó, làm sáng tỏ thực
trạng các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta, những vấn đề đang đặt ra cần giải quyết.
- Phân tích, luận giải nội dung đổi mới tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội trong giai đoạn chuyển sang kinh tế thị trường hiện nay.
- Phân tích mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trong tình hình hiện nay, mối quan hệ
giữa quá trình đổi mới các tổ chức chính trị - xã hội và vấn đề nhất nguyên chính trị trên
nền tảng kinh tế thị trường; khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối
với các tổ chức chính trị - xã hội .
4. Cái mới về khoa học của luận án.
Bằng việc nghiên cứu tương đối toàn diện vấn đề đổi mới các tổ chức chính trị - xã hội
trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta, luận án đã mang lại
một số điểm mới về mặt khoa học sau đây:
Một là, phân tích một cách có hệ thống để đi đến xác định khái niệm “Tổ chức chính trị
- xã hội”.
Hai là, xác định những nhân tố chế định sự hình thành và hoạt động của các tổ chức
chính trị - xã hội.
Ba là, phân tích những tác động của nền kinh tế - thị trường đối với các tổ chức
chính trị - xã hội. Từ đó tìm ra phương hướng nhằm đổi mới các tổ chức chính trị xã hội trong phần có liên quan tới quá trình chuyển sang kinh tế thị trường.


Bốn là, phân tích và luận chứng về sự đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã hội trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Luận án được thực hiện trên cơ sở những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng ta về dân chủ, đổi mới hệ thống chính

trị, về các tổ chức chính trị - xã hội. Trên cơ sở đó, người viết đi sâu vào nghiên cứu thực
tiễn đối với các tổ chức chính trị - xã hội để phân tích, khái quát rút ra những vấn đề cần
thiết phục vụ mục đích và yêu cầu của luận án.
Người viết cố gắng vận dụng nguyên tắc phương pháp luận của triết học, phương pháp
lịch sử...để tìm ra cách tiếp cận và giải quyết những vấn đề được đặt ra. Các phương pháp
lôgic - lịch sử; so sánh - phân tích - tổng hợp; phương pháp hệ thống cũng được đặc biệt
chú ý. Từ lý luận soi sáng thực tiễn và ngược lại, từ thực tiễn rút ra những vấn đề lý luận
thiết thực, không giáo điều xơ cứng.
Liên quan tới chủ đề của luận án, những luận điểm về mối quan hệ giữa cơ cấu kinh tế
và cơ cấu xã hội, giữa kinh tế và chính trị được người làm luận án đặc biệt quan tâm như
là những nền tảng phương pháp luận chủ yếu, trực tiếp nhất của toàn bộ quá trình thực
hiện đề tài.
Trong quá trình viết luận án, người viết cũng kế thừa thành quả nghiên cứu của giới lý
luận xung quanh vấn đề này; có tham khảo các quan điểm của giới lý luận nước ngoài
( kể cả giới lý luận không cộng sản).
6. Ý nghĩa của luận án.


Với kết quả mà luận án đạt được, người viết hy vọng góp phần vào nhận thức đúng vị
trí, vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, đề xuất ý kiến để đổi mới tổ chức và hoạt
động của chúng thích hợp với quá trình chuyển sang kinh tế thị trường đang được tiến
hành ở nước ta.
Luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy và
định hướng quá trình đổi mới các tổ chức chính trị - xã hội.
7. Kết cấu của luận án.
Luận án gồm lời mở đầu, hai chương với 4 tiết, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo.
Chương I
TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA: KHÁI NIỆM, THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ ĐANG

ĐẶT RA.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, tuỳ theo nhiệm vụ chính trị cụ thể của
từng thời kỳ cũng như yêu cầu cụ thể của các nhân tố khác nhau trong cơ cấu xã hội
đương thời, Đảng ta đã có nhiều hình thức linh hoạt trong việc hình thành các tổ chức
chính trị - xã hội nhằm thu hút tối đa lực lượng của toàn dân tộc vào việc thực hiện mục
tiêu chính trị tương ứng. Nhờ đó, chúng ta đã làm cách mạng Tháng Tám thành công,
kháng chiến chống Pháp thắng lợi, đập tan cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ,
làm sụp đổ chế độ nguỵ quyền tay sai. Tổ quốc ta đã giành được hoà bình, độc lập, thống
nhất và đang từng bước quá độ lên CNXH.


Trong quá trình viết nên những trang sử vàng chói lọi đó, các tổ chức chính trị - xã hội
có những cống hiến vô cùng to lớn. Song, khi cách mạng chuyển giai đoạn, vấn đề xây
dựng CNXH đã nằm trong chương trình nghị sự hàng ngày của cả dân tộc, các tổ chức
chính trị - xã hội đó ngày càng tỏ ra bất cập. Từ chỗ là đòn xeo, là động lực của sự phát
triển xã hội, một số tổ chức đó trở thành lực cản hay ít ra cũng không hoàn thành tốt chức
năng động lực của mình - trên con đường đạt tới mục tiêu XHCN. Bởi vậy, việc đổi mới
chúng đã trở thành mệnh lệnh của cuộc sống.
Song, đổi mới các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân không thể là kết quả hoạt
động tự phát, nó chỉ có thể là kết quả hoạt động tự giác trên cơ sở nhận thức khoa học về
những vấn đề có tính quy luật trong sự hình thành và phát triển của các tổ chức đó. Bởi
vậy, việc làm sáng tỏ về mặt lý luận cơ bản một số vấn đề liên quan tới khái niệm “tổ
chức chính trị - xã hội” là công việc cần thiết.
I. Khái niệm tổ chức chính trị - xã hội.
1. Tổ chức chính trị - xã hội với tư cách là một phạm trù của khoa học chính trị.
Để hình thành khái niệm khoa học về “tổ chức chính trị - xã hội”, trước hết cần làm rõ
khái niệm “nhân dân”.
Từ việc tổng kết toàn bộ lịch sử phát triển của xã hội loài người cho đến giữa thế kỷ
XIX, C.Mác đã rút ra kết luận: “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội
là một quá trình lịch sử tự nhiên” (1 - 1, tr. 20).Tính lịch sử tự nhiên trong quá trình phát

triển xã hội có nghĩa: một là, sự phát triển của xã hội là sự thống nhất giữa liên tục và
gián đoạn, sự chuyển hoá từ hình thái kinh tế - xã hội này sang một hình thái kinh tế - xã
hội khác là những cột mốc đánh dấu sự gián đoạn đó; hai là, sự phát triển xã hội nói


chung, sự chuyển hoá từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác
nói riêng là do các quy luật khách quan chi phối.
Phát hiện đó của Mác là một trong những cơ sở để hình thành quan điểm duy vật về
lịch sử. Được soi sáng bởi quan điểm khoa học nêu trên, các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã
hội khoa học đã nhìn thấy ở quần chúng nhân dân như là động lực cơ bản thúc đẩy sự
phát triển của lịch sử. Theo các ông, mọi sự kiện lớn lao trong đời sống xã hội, mọi biến
đổi cách mạng xảy ra trong lịch sử sẽ không thể thành công, nếu không có sự tham gia
tích cực của quần chúng.
Quan điểm vừa nêu của chủ nghĩa Mác - Lênin đã đánh dấu bước ngoặt trong sự phát
triển của nhận thức lý luận về vai trò của quần chúng đối với sự phát triển xã hội.
Thật vậy, trong quan điểm của những học giả thuộc giai cấp bóc lột, quần chúng chỉ là
một lực lượng tiêu cực, là bày cừu ngoan ngoãn, là phương tiện và vĩ nhân cần đến để
thực hiện ý đồ chính trị của mình. Các - Lây - Lơ - nhà triết học, nhà sử học Anh thế kỷ
trước cho rằng: Lịch sử thế giới, lịch sử sự nghiệp của con người ta trong thế giới này
thực chất là lịch sử, sự nghiệp của các vĩ nhân... Tất cả những cái gì đã được hoàn thành
ở trên đời này đều là kết quả vật chất bên ngoài, là sự diễn biến trong thực tiễn và là hiện
thân của những tư tưởng bên trong của các vĩ nhân được phái xuống cuộc đời, lịch sử của
họ là lịch sử thế giới (48). Các - Lây - Lơ đã bộc lộ quan điểm duy tâm chủ quan của
mình khi xem xét nguồn gốc, động lực phát triển của xã hội.
Trước đó, các nhà khai sáng Pháp cũng cho rằng, hoạt động tự giác của những nhân vật
kiệt xuất là động lực chủ yếu của mọi biến cố lịch sử. Đối với họ, quần chúng chỉ là
những con rối trong tay các vĩ nhân. Ngay đến Hê - Ghen, một nhà triết học biện chứng
xuất sắc đã được Mác và ăng ghen đánh giá rất cao, cũng rơi vào thuyết định mệnh khi



xem xét sự phát triển thế giới. Theo Hê - ghen, cái quyết định sự phát triển của thế giới
nói chung, của xã hội nói riêng là “tinh thần thế giới”, là “ý niệm tuyệt đối”.
Trong thời đại ngày nay, quan điểm phủ nhận vai trò của quần chúng nhân dân trong
lịch sử được che đậy dưới bộ áo mới. Đó là thuyết kỹ trị. Theo thuyết này, những nhà
khoa học và những nhà quản trị tài ba mới là lực lượng điều khiển nhà nước và sự vận
động của xã hội nói chung.
Như vậy, tất cả những nhà triết học duy tâm xưa và nay đều không hiểu được vai trò
của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Tuy ở mỗi thời đại, lý luận của họ có mang
những hình thức khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một: Tuyệt đối hoá vai trò của các vĩ
nhân hay của một nhóm người như là chủ thể chân chính duy nhất của các quá trình lịch
sử.
Phê phán triệt để những quan điểm sai lầm trên đây, trong khi không phủ nhận vai trò
to lớn của các vĩ nhân, chủ nghĩa Mác - Lênin dứt khoát khẳng định rằng, chính nhân dân
bằng lao động sáng tạo của mình đã tạo ra - một cách trực tiếp hay gián tiếp - toàn bộ giá
trị vật chất và tinh thần của nhân loại; lịch sử của xã hội loài người và lịch sử sáng tạo
của bản thân quần chúng.
Vậy “quần chúng” là gì?
Chủ nghĩa duy vật lịch sử xem quần chúng nhân dân là những cộng đồng xã hội, bao
gồm những tầng lớp trong các giai đoạn lịch sử, mà xét theo địa vị khách quan của mình,
họ có khả năng tham gia giải quyết những nhiệm vụ phát triển toàn bộ xã hội.


Bằng việc làm sáng tỏ nội dung xã hội của khái niệm “quần chúng nhân dân”, chủ
nghĩa Mác - Lênin đã đi tới khẳng định sự thay đổi tính chất và cơ cấu tạo thành khái
niệm đó trong các giai đoạn lịch sử khác nhau.
Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, những từ “dân cư”, “nhân dân”, “quần chúng
nhân dân” không có sự phân biệt.Trong các hình thái đối kháng giai cấp, quần chúng
nhân dân không bao gồm những nhóm người, những giai cấp đang tiến hành đường
lối chống lại nhân dân. Theo nghĩa đó, Lê nin nêu ra định nghĩa sau đây:
“Khái niệm quần chúng nhân dân có thể thay đổi tuỳ theo tính chất của đấu tranh...

Khái niệm quần chúng sẽ thay đổi theo các nghĩa người ta hiểu quần chúng là đa số và hơn
nữa chẳng những chỉ là đa số công nhân, mà là đa số tất cả những người bị bóc lột; người
cách mạng không thể hiểu khác thế được; bất kỳ một nghĩa nào khác của chữ đó cũng trở
thành không thể hiểu được” (2 - 2, tr. 617).
Cùng với việc xoá bỏ giai cấp bóc lột khi có các điều kiện cần thiết đã chín muồi, trong
chủ nghĩa xã hội ở nấc thang phát triển cao của nó, khái niệm “quần chúng nhân dân” sẽ
bao gồm tất cả các nhóm xã hội khác nhau trong xã hội.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, bộ phận cốt lõi của quần chúng nhân dân ở mọi
giai đoạn phát triển lịch sử bao giờ cũng là những người lao động - nhân tố quan trọng
nhất của lực lượng sản xuất. Bởi vậy, Lê nin nhấn mạnh rằng, khi sử dụng danh từ “quần
chúng nhân dân”, Mác không làm lu mờ sự khác nhau giữa các giai cấp bằng danh từ
này, mà ông luôn luôn làm nổi bật lực lượng có khả năng tiến hành cách mạng đến cùng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin phân biệt rạch ròi nhân dân cách mạng - những người nhất trí
về tư tưởng và tổ chức, có khả năng tiến hành cuộc đấu tranh giải quyết những nhiệm vụ


chín muồi vì sự tiến bộ xã hội với những quần chúng - mà xét về vị trí của mình - họ có
quan tâm đến những cải cách xã hội nhưng không tham gia vào cuộc đấu tranh chính trị
tích cực.
Do tính lịch sử của nó, có thể cùng là một giai cấp hay tập đoàn xã hội, trong giai đoạn
này họ thuộc vào “nhân dân”, nhưng sang giai đoạn khác họ lại đứng đối lập với nhân
dân; và ngược lại. Chẳng hạn, vào thế kỷ XVII - XVIII giai cấp tư sản là giai cấp cách
mạng. Nó nêu cao ngọn cờ chống phong kiến để giải phóng sức sản xuất góp phần thúc
đẩy phát triển xã hội. Khi đó, họ không chỉ là một bộ phận cấu thành “nhân dân” mà còn
là lực lượng tiên tiến, lãnh đạo nhân dân. Sau khi giành được chính quyền và củng cố vị
trí thống trị của mình, giai cấp tư sản trở thành lực lượng chủ yếu bóc lột những người
lao động. Nó trở thành kẻ thù của nhân dân.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, “nhân dân” là những ai?
Chúng ta chủ trương phát triển một nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng XHCN. Những ai là chủ thể của nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta

hiện nay cũng chính là các chủ thể của những hình thức sở hữu khác nhau. Do vậy cần có
khái niệm đúng về nhân dân. Nhân dân là cộng đồng người Việt Nam “tán thành công
cuộc đổi mới, vì độc lập dân tộc, phấn đấu thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, tiến lên dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Lấy đại nghĩa dân tộc làm điểm tương đồng,
đồng thời chấp nhận những điểm khác nhau mà không trái với lợi ích chung, cùng nhau
xoá bỏ mặc cảm, hận thù, hướng về tương lai” (4 - 9, tr. 60).
Việc nắm vững khái niệm “nhân dân” với những nội dung nêu trên là tiền đề cần thiết
để hiểu sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò quyết định của quần
chúng nhân dân trong lịch sử.


Chúng ta sẽ thấy rõ hơn tính khoa học của quan điểm đó, khi làm sáng tỏ mối quan hệ
giữa hoạt động của quần chúng nhân dân với sự tác động của quy luật xã hội. Những quy
luật này chỉ nảy sinh và tác động thông qua hoạt động của con người. Hơn nữa, tính xác
suất thống kê như là một trong những đặc trưng vốn có của mọi quy luật xã hội. Cho
nên, các quy luật xã hội chỉ được thực hiện và thực hiện thông qua hoạt động của số
đông, của quảng đại quần chúng nhân dân. Đặc trưng khách quan đó của quy luật xã hội
quy định vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong việc hiện thực hoá các quy
luật xã hội thành sự biến đổi thực tế đời sống của con người.
Vai trò quyết định của quần chúng nhân dân đối với sự phát triển của lịch sử được biểu
hiện ở chỗ:
Một là, sự vận động của lịch sử là kết quả hoạt động của con người đang theo đuổi những
nhu cầu, những mục đích nhất định. Mức độ thu hút quần chúng vào hoạt động nhằm thực
hiện nhu cầu, mục tiêu nào đó tuỳ thuộc một cách quyết định vào mức độ của tính phổ biến
trong nhu cầu, mục tiêu đã được đặt ra. Nhu cầu, mục tiêu biến đổi xã hội càng mang tính
phổ quát, càng mang tính nhân dân bao nhiêu, số lượng quần chúng tham gia vào hoạt động
để đạt nhu cầu, mục tiêu đó càng đông đảo bấy nhiêu. Như vậy, vai trò quyết định của quần
chúng nhân dân đối với sự phát triển của lịch sử biểu hiện trước hết ở vai trò quyết định của
ý chí nhân dân trên cơ sở phù hợp của nó với tính tất yếu khách quan của xã hội.
Hai là, tự bản thân tư tưởng dù có mang tính phổ biến, mang tính quần chúng cũng không

thay đổi được hiện thực. Muốn thay đổi được hiện thực xã hội, tư tưởng đó phải biến thành
xung lực kích thích hoạt động tích cực của quần chúng. Hoạt động thực tiễn nói chung, hoạt
động thực tiễn cách mạng nói riêng bao giờ cũng mang tính quần chúng đông đảo. Cách
mạng là ngày hội của quần chúng. Nếu không như vậy, không có bất kỳ một sự biến đổi cách


mạng căn bản nào đối với tiến trình lịch sử của dân tộc cũng như thời đại lại có thể được thực
hiện.
Ba là, lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử thay thế của các phương thức
sản xuất, trong đó người lao động bao giờ cũng là nhân tố cơ bản, quan trọng nhất, cách
mạng nhất của lực lượng sản xuất. Sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất
quyết định sự thay thế của các quan hệ sản xuất và của thiết chế xã hội dựa trên quan hệ
sản xuất đó. Nói cách khác, quần chúng nhân dân là nhân tố quan trọng nhất trong việc
sáng tạo ra các giá trị vật chất và là động lực của sự thay đổi xã hội.
Bốn là, chính trong hoạt động của mình, một mặt, bản thân quần chúng nhân dân là
người sáng tạo ra những giá trị tinh thần với tư cách là những kinh nghiệm được tích luỹ
từ hoạt động thực tiễn, với tư cách là sự phản ánh những nhu cầu, khát vọng vươn tới cái
chân, cái thiện, cái mĩ của bản thân mình; mặt khác, hoạt động của quần chúng nhân dân
sẽ cung cấp những cứ liệu, đặt ra những đòi hỏi kích thích hoạt động sáng tạo của đội ngũ
trí thức trong xã hội. Với nghĩa đó, quần chúng nhân dân bằng tất cả những hoạt động đa
dạng của họ là người trực tiếp và gián tiếp sáng tạo ra những giá trị tinh thần nhân loại.
Những điều nêu trên càng đúng, khi nói về những giai đoạn phát triển có tính cách
mạng trong lịch sử loài người. Lịch sử đã mang lại nhiều cứ liệu xác đáng để chứng minh
rằng, không một giai cấp nào có thể tiến hành một cuộc cách mạng ít nhiều triệt để đi tới
thắng lợi hoàn toàn mà lại không có sự tham gia đông đảo cuả quần chúng. Cách mạng tư
sản Pháp 1789, cách mạng Tháng Mười Nga 1917, cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam
1945... đã cho ta thấy điều đó.


Trong khi khẳng định vai trò của quần chúng nhân dân với tư cách là lực lượng sáng

tạo ra lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lênin cũng không phủ nhận vai trò to lớn của những vĩ
nhân trong tiến trình đó.
“Vĩ nhân” mà ta nói ở đây là những con người vĩ đại về khả năng trí tuệ, về khả năng
nắm bắt quy luật khách quan, khả năng thu hút quần chúng để tổ chức thực tiễn nhằm
biến đổi hiện thực xã hội theo chiều hướng tiến bộ.
Hoạt động của số đông, của quần chúng muốn có hiệu quả, tất yếu phải có tổ chức,
phải có lãnh đạo. Điều này càng trở nên bức thiết, khi nói tới hoạt động của quần
chúng nhằm thực hiện những biến đổi có tính cách mạng đối với xã hội. Lênin đã
từng chỉ ra rằng, công cuộc cải biến cách mạng càng sâu sắc bao nhiêu, càng triệt để
bao nhiêu, số lượng quần chúng được thu hút vào cũng rộng rãi bấy nhiêu.
Để làm cho triệu người như một, tất cả mọi người đều hành động theo một phương
hướng duy nhất, việc hình thành các tổ chức, thu hút quần chúng vào các tổ chức có vị trí
đặc biệt quan trọng.
“Tổ chức” là một khái niệm đa nghĩa và nhiều tầng. Trong khuôn khổ của luận án này,
“tổ chức” trước hết được xem xét với tư cách là một thực thể xã hội.
Tiếp cận với “tổ chức” từ giác độ như vậy, có thể hiểu “tổ chức” - đó là những cấu tạo
mang tính tập thể. Nó bao gồm một lượng nhất định các cá nhân liên kết lại trên cơ sở
những nhu cầu, mục đích chung của các thành viên. Tổ chức - đó là một kiểu liên kết xã
hội được lập ra nhằm đạt những mục đích mà riêng từng cá nhân không thể đạt được. Vì
vậy, tổ chức, việc hình thành tổ chức là con đường chủ yếu để hiện thực hoá ý chí tập thể.
Những yêu cầu hoạt động chung trên cơ sở đoàn kết những người có cùng lợi ích lại với
nhau là một động lực dẫn tới việc tạo ra những tổ chức khác nhau. Kinh nghiệm thường


ngày cho thấy, một thiểu số được tổ chức có cơ hội thành công hơn là một số đông không
dược tổ chức. Một tổ chức cho phép phối hợp hành động của nhiều cá nhân sẽ làm cho
việc đạt mục đích trở nên dễ dàng hơn. Vì vậy, tổ chức là một công cụ cơ bản để phối
hợp ý chí và hành động tạo ra sức mạnh được luỹ thừa so với sức mạnh của các cá nhân.
Diễn đạt sức mạnh to lớn do tổ chức mang lại trong quá trình cách mạng hoá hiện thực,
Lênin nói rằng, hãy cho tôi một tổ chức những người cách mạng, tôi sẽ làm đảo lộn nước

Nga.
Như vậy, tổ chức - đó là một cơ cấu tập thể dựa trên những nhu cầu và mục đích
chung nào đó, có sự phân công hoạt động bên trong ít nhiều rõ rệt và được hướng tới
mục đích nhất định mà để đạt được mục đích ấy, nó phải phối hợp hoạt động của nhiều
người.
Tổ chức do con người lập ra, con người là nhân tố chủ yếu cấu thành tổ chức. Là sản
phẩm của con người, tổ chức, do đó, không thể không phụ thuộc vào con người, vào
những đức tính và năng lực hoạt động của con người. Song, đến lượt nó, khi bám rễ chặt
trong cuộc sống, thì chính tổ chức quyết định lại con người. Tổ chức, trong sự hoạt động
của nó, làm nảy nở ở con người những đặc tính nhất định, nó đào luyện con người. Khả
năng và hiệu lực hoạt động của con người phụ thuộc vào tổ chức. Tổ chức tạo ra chất
lượng mới. Các Mác viết: “Hệt như sức chiến đấu của một đơn vị kỵ binh hoặc sức đề
kháng của một tiểu đoàn bộ binh đều khác về bản chất với tổng số những sức mạnh cá
nhân của từng người kỵ binh hay của từng người chiến sĩ riêng lẻ, tổng số những sức cơ
giới của từng công nhân riêng lẻ cũng khác với sức cơ giới được tạo ra khi họ làm việc
kết hợp và đồng thời với nhau trong cùng một công tác không thể phân chia... Vấn đề là


không những phải tăng sức sản xuất cá nhân lên, mà còn phải dùng phương pháp luận
hiệp tác để tạo một sức sản xuất mới, chỉ hoạt động như một tập thể” (1 - 2, tr. 22, 23).
Sức mạnh con người là ở tổ chức. Chỉ có trong tổ chức và thông qua tổ chức, thông qua
quan hệ với những người khác và với sự vật, con người mới hiểu được mình là gì và
mình có thể làm được những gì.
Con người từ khi thoát thai từ động vật sống trong các bộ lạc, bộ tộc mà ta gọi là chế
độ cộng sản nguyên thuỷ đã có những sở thích khác nhau, một số người thích đi hái quả,
một số người thích đi săn bắn...Như vậy ta có thể kết luận rằng, ngay trong chế độ cộng
sản nguyên thuỷ, tổ chức xã hội sơ khai đã hình thành. Khi xã hội phân chia thành giai
cấp, quần chúng nhân dân lao động chịu đầy cảnh áp bức, bất công.
Lịch sử xã hội loài người chỉ ra rằng, trong buổi đầu của các chế độ xã hội trước
CNXH, các giai cấp thống trị đều tranh thủ nhân dân và chúng cũng đáp ứng phần nào

những nhu cầu của nhân dân. Nhưng sau đó chúng không thể và không muốn thoả mãn
những lợi ích chính đáng của đa số nhân dân. Quần chúng nhân dân tự tập hợp lập ra các
tổ chức của mình để đấu tranh chống lại giai cấp thống trị, bóc lột. Và tất nhiên theo tiến
trình lịch sử, tính chất xã hội của các tổ chức đó ngày càng tăng. Hơn nữa, các tổ chức đó
đấu tranh không chỉ đòi những quyền lợi trước mắt, mà còn muốn lật đổ chế độ cũ, xây
dựng chế độ xã hội mới với những thiết chế chính trị tương ứng. Điều đó nói lên tính chất
chính trị của các tổ chức đó.
Trong các xã hội có giai cấp, bên cạnh những tổ chức theo đuổi những mục tiêu chính
trị rõ rệt, cũng có các tổ chức phi chính trị.
Khái niệm “tổ chức chính trị - xã hội” mới xuất hiện trong những năm gần đây. Trong
các từ điển chưa nêu ra định nghĩa “tổ chức chính trị - xã hội”. Việc đưa ra khái niệm này


nhằm nhấn mạnh hai tính chất: tính chất chính trị và tính chất xã hội của các tổ chức quần
chúng và để phân biệt với các tổ chức quần chúng không mang tính chất chính trị.
Để có quan niệm chuẩn xác về khái niệm “tổ chức chính trị - xã hội”, trước hết phải
hiểu chính trị là gì?
Liên quan đến đề tài luận án, khi tiếp cận với phạm trù “chính trị”, cần quán triệt bốn
nguyên tắc phương pháp luận nền tảng: Một là, “chính trị là biểu hiện tập trung của kinh
tế” (2 - 7, tr. 349); hai là, “chính trị là quan hệ giữa các giai cấp” (2 - 8, tr. 87 - 88); ba là,
chính trị là sự tham gia của nhân dân vào những công việc của nhà nước; bốn là, chính trị
là mối quan hệ giữa các quốc gia.
Vận dụng bốn nguyên tắc trên vào việc hiểu tính chất chính trị của một tổ chức dưới
chế độ XHCN, ta thấy, biểu hiện rõ nhất tính chính trị của các tổ chức do Đảng, Nhà
nước và nhân dân lao động nước ta lập ra là đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân
thông qua đội tiên phong chính trị của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm thực hiện
mục tiêu XHCN như là định hướng chỉ đạo của sự phát triển xã hội ở nước ta. Điều đó
quy định định hướng hoạt động, định hướng tổ chức của các tổ chức. Dù có tập hợp rộng
rãi đến đâu, dù phải thoả mãn nhu cầu và lợi ích đa dạng đến như thế nào của các tầng
lớp nhân dân lao động, mọi hoạt động của các tổ chức phải phù hợp với lợi ích cơ bản và

lâu dài của dân tộc: tiến lên CNXH.
Tính chính trị trong các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân còn có nghĩa, nó ra đời
nhằm tập hợp, thu hút các bộ phận khác nhau trong cơ cấu xã hội tham gia vào công việc
Nhà nước; tham gia vào việc xây dựng, bảo vệ Nhà nước của nhân dân và vì nhân dân.
Các tổ chức ấy kiên quyết đấu tranh chống lại mọi hành vi làm suy yếu các cơ quan
quyền lực của nhân dân.


Là những loại hình tổ chức mang tính chất kép, ngoài tính chính trị như đã nêu trên,
các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân còn mang tính quần chúng, tính xã hội rộng
rãi của nó.
Biểu hiện rõ nhất của tính quần chúng là ở chỗ, các tổ chức đó là tổ chức tự nguyện
của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động trong các thành phần kinh tế. Vì vậy, mọi
nội dung hoạt động của các tổ chức phải thực sự xuất phát từ nhu cầu, từ lợi ích của đông
đảo nhân dân. Mọi phương thức hoạt động phải thu hút được đông đảo nhân dân tham
gia. Nói cách khác, các tổ chức chính trị - xã hội phải từ nhân dân, vì nhân dân và do
nhân dân.
Từ những điều trình bày trên đây, chúng ta có thể hiểu “tổ chức chính trị - xã hội”
trong thời kỳ quá độ ở nước ta tổ chức hợp pháp, của những cộng động người trong cơ
cấu xã hội dựa trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, liên hiệp, thống nhất hoạt động. Nó
lấy hoạt động chính trị - xã hội làm phương thức chủ yếu để tập hợp, giáo dục, tổ chức
hành động của các thành viên và nhằm gây ảnh hưởng đối với quyền lực chính trị để bảo
vệ lợi ích chính đáng của các thành viên trong tổ chức phù hợp với việc thực hiện hoá
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh”.
Như bất kỳ một định nghĩa nào khác, định nghĩa vừa nêu về tổ chức chính trị - xã hội
của nhân dân trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay cũng chỉ có thể khái
quát được những nội dung bản chất nhất. Nó chỉ rõ nguồn gốc hình thành, nguyên tắc tổ
chức và hoạt động, mục tiêu chính trị - xã hội cơ bản của các tổ chức đó. Tuy còn rất
nghèo nàn so với hiện thực được phản ánh, nhưng việc nắm vững ba nội dung cơ bản đó
đủ cho phép chúng ta phân biệt một tổ chức chính trị - xã hội với những tổ chức xã hội

thuần tuý.


Trong quan niệm của chúng tôi, chỉ có những tổ chức thoả mãn nội dung cơ bản của
định nghĩa này mới là tổ chức chính trị - xã hội và là thành viên của hệ thống chính trị
trong thời kỳ quá độ hiện nay ở nước ta.
2. Những nhân tố chế định sự hình thành và hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội .
Các tổ chức chính trị - xã hội do con người lập ra. Nhưng, sự ra đời, tồn tại và phát triển
của chúng hoàn toàn không phải ngẫu nhiên, tự phát, không phải là sản phẩm duy ý chí của
cá nhân nào. Ở đây, chúng tôi xin đề cập đến những nhân tố chính chế định sự hình thành
và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội .
a. Sự hình thành và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội trước hết được quy
định bởi cơ cấu kinh tế và cơ cấu thành phần kinh tế.
Các tổ chức chính trị - xã hội là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng. Kiến trúc
thượng tầng của xã hội do toàn bộ những quan hệ sản xuất - tức cơ sở hạ tầng - của xã hội
quy định. Cơ sở kinh tế nào sẽ có kiến trúc thượng tầng ấy. Do vậy, khi nghiên cứu các tổ
chức chính trị - xã hội đòi hỏi phải nghiên cứu trong tính quy định và chế ước của kinh tế.
C.Mác đã từng nhấn mạnh: “Cơ sở kinh tế thay đổi thì tất cả kiến trúc thượng tầng đồ sộ
cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng” (1-3, tr. 439). Lợi ích và quyền lực chính trị của một
giai cấp, một tầng lớp, một nhóm xã hội, thậm chí của một cá nhân, xét đến cùng đều bị chi
phối từ vị trí của nó trong nền kinh tế - sản xuất xã hội, trước hết trong chế độ sở hữu và
phân phối lợi ích vật chất. Hoạt động chính trị và các tổ chức, thiết chế nhằm thực hiện
quyền lực chính trị hướng trước hết vào việc duy trì, bảo vệ lợi ích, quyền lực kinh tế. Do
đó, cái tất yếu kinh tế trở thành lôgíc khách quan của mọi vận động chính trị. Theo Lênin
“Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế”, “là mối quan hệ giữa các giai cấp”...Do vây,


việc xác định đúng trạng thái hiện tồn của nền kinh tế, của cơ cấu thành phần kinh tế, của
cơ cấu kinh tế quốc dân, sự chín muồi của các nhân tố và tương ứng với nó, là sự chín muồi
của cơ cấu xã hội - giai cấp thực hiện là cơ sở để nghiên cứu các tổ chức chính trị - xã hội

của nhân dân.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH tất yếu còn tồn tại nhiều thành phần. V.I.Lênin đã chỉ
rõ: “Trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của
CNTB và CNXH” (2 - 8, tr. 248).Các thành phần kinh tế này vốn thuộc về nhiều hình
thái xã hội khác nhau, dựa trên nhiều quan hệ sản xuất với chế độ sở hữu khác nhau.
Bản thân sự tồn tại của các thành phần kinh tế cũng mang tính quá độ. Tính chất quá độ
của một thành phần kinh tế biểu hiện ở cả quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý, quan hệ phân
phối và cả ở sự tồn tại đan xen, liên kết của nó với các thành phần kinh tế khác trên các
lĩnh vực.
Kinh tế hàng hoá nhỏ, cá thể được Nhà nước thừa nhận, hướng dẫn, giúp đỡ, được liên kết
với các xí nghiệp quốc doanh và tập thể, được hướng vào con đường hợp tác bằng những
hình thức đa dạng và bước đi thích hợp từ thấp đến cao với những quy mô và trình độ phù
hợp với từng ngành nghề, từng vùng kinh tế cụ thể.
Kinh tế tư bản tư nhân mặc dù vẫn dựa trên sự bóc lột giá trị thặng dư, nhưng không còn
hoàn toàn giống như dưới chế độ TBCN. Trong điều kiện đi lên CNXH, đây là “một thứ chủ
nghĩa tư bản được giai cấp công nhân tự giác cho phép tồn tại và hạn chế” (2-9, tr. 343, 344).
Chủ nghĩa tư bản này, theo Lênin, không những không đáng sợ mà còn “đáng mong đợi”. Nó
chịu sự kiểm kê và kiểm soát của Nhà nước vô sản, thực hiện sự liên kết, liên doanh với các
thành phần kinh tế khác. Cùng với tư bản tư nhân, tư bản nhà nước là một hình thức kinh tế
quá độ có ý nghĩa trọng yếu trong việc chuyển nền kinh tế tiểu nông lên CNXH...


Bên cạnh những thành phần kinh tế tương đối thuần khiết đó, trong quá trình đổi mới
kinh tế hiện nay ngày càng ra đời nhiều thành phần hỗn hợp hơn. Đó là những cơ sở liên
doanh, liên kết giữa hai hay một số thành phần kinh tế trong nước với nhau hay giữa
trong nước với nước ngoài.
Như vậy, trong thời kỳ quá độ lên CNXH, sự tồn tại khách quan của nhiều thành phần
kinh tế và sự đồng hành phát huy tác dụng của các thành phần giai cấp, các tầng lớp xã
hội; thợ thủ công tập thể và cá thể; nông dân hợp tác xã và cá thể; trí thức và viên chức;
tiểu chủ, tiểu thương và tư sản trong nước cũng như tư sản nước ngoài đang đầu tư vào

Việt Nam trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là một thực trạng kinh tế - xã hội
khách quan.
Xét về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ, quá trình phát triển kinh tế và phân công lao
động xã hội, phân ngành trong sản xuất - kinh doanh ngày càng phong phú, đa dạng. Điều
này tất yếu đưa đến sự đa dạng cơ cấu xã hội theo nghề nghiệp. Ví dụ, giai cấp công
nhân, xét theo cơ cấu nghề nghiệp, có công nhân công nghiệp, công nhân nông nghiệp,
công nhân dịch vụ... Ngay công nhân công nghiệp cũng còn phân ra làm nhiều loại: công
nhân công nghiệp nặng, công nhân công nghiệp nhẹ... Quá trình chuyên môn hoá và hiện
đại hoá càng cao, quá trình đa dạng hoá cơ cấu nghề nghiệp càng tăng.
Cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu nền kinh tế còn quy định tính chất, bản chất của các
mối quan hệ xã hội khác như cơ cấu xã hội - dân số được hình thành một cách khách
quan trên cơ sở đặc trưng về giới tính và lứa tuổi. Thuộc loại cơ cấu này có những cộng
đồng xã hội mang tính đặc thù được gọi là cộng đồng xã hội nhân khẩu (thanh niên, phụ
nữ, người già, người về hưu, cựu chiến binh...).


Sự biến động của cơ cấu xã hội gắn liền và được quy định bởi sự biến động của cơ cấu
kinh tế, của cơ cấu thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế cạnh tranh nhau phát triển.
Từ đó dẫn đến cơ cấu xã hội biến động và phát triển trong mối quan hệ vừa đấu tranh,
vừa liên minh; vừa có sự phân hoá, vừa có sự xích lại gần nhau. Đấu tranh và liên minh là
những quá trình tất yếu trong xã hội có giai cấp. Trong thời kỳ quá độ, đấu tranh giai cấp
không phải với mục đích chủ yếu là loại trừ nhau càng sớm càng tốt, mà là cùng giúp
nhau phát triển lực lượng sản xuất theo đúng hướng, hoạt động sản xuất kinh doanh theo
đúng pháp luật, xây dựng tính cộng đồng, hữu ái, khắc phục khó khăn để xây dựng
CNXH. Trong quá trình đấu tranh và liên minh ấy, các giai cấp, các tầng lớp xã hội cần
có tổ chức của mình. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của các tổ chức chính trị - xã hội là
để đáp ứng yêu cầu đó. Chính sự biến động không ngừng của các thành phần kinh tế và
cơ cấu kinh tế đã quy định tính chất “động” của các tổ chức chính trị - xã hội. Sự biến đổi
của các tổ chức chính trị - xã hội phụ thuộc vào cơ sở kinh tế - xã hội. Chẳng hạn, trước
Đại hội VI, giai cấp công nhân Việt Nam có tổ chức của mình là Tổng công đoàn Việt

Nam. Đại hội VI đã quyết định đổi tên thành Tổng liên đoàn lao động Việt Nam. Năm
1990, Luật công đoàn được ban hành có ghi rõ: “Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội
rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động Việt Nam”.Trước đây, trong cơ
chế quan liêu bao cấp, khái niệm công nhân đồng nhất với những người lao động công
nghiệp trong biên chế nhà nước. Nay, trong cơ chế thị trường với nhiều thành phần kinh
tế khác nhau, Công đoàn phải thu hút vào mình tất cả những người lao động trong lĩnh
vực hành chính sự nghiệp, công nghiệp, dịch vụ...- bất luận họ thuộc thành phần kinh tế
nào. Từ đó, hình thức Công đoàn phải đổi mới. Trong hệ thống Công đoàn Việt Nam đang
xuất hiện hình thức nghiệp đoàn... Vấn đề này có ý nghĩa rất lớn; nó chỉ ra rằng, không nên


coi các tổ chức chính trị - xã hội là bất di, bất dịch. Nó có thể phù hợp, phát huy tác dụng
trong điều kiện này, nhưng không thể tồn tại trong những điều kiện khác. Nó là một phạm
trù “động” cả về hình thức thể hiện, chức năng và phương thức hoạt động (vấn đề này còn
được đề cập kỹ ở phần sau).
b. Hình thức tổ chức, phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội của
nhân dân cũng bị quy định bởi mục tiêu, chiến lược, sách lược cách mạng trong từng
thời kỳ, bởi trạng thái của thiết chế chính trị và nền dân chủ.
Thích ứng với giai đoạn lấy mục tiêu chống đế quốc làm nhiệm vụ hàng đầu, chúng ta
thành lập ra các tổ chức phản đế của nhân dân (Mặt trận phản đế Đông Dương, Hội công
nhân phản đế, Đoàn thanh niên phản đế,...). Khi cần tập trung mọi lực lượng nhằm chĩa
mũi nhọn vào bọn phản động nhất trong đế quốc Pháp và bè lũ tay sai, ta lập ra Mặt trận
bình dân, Mặt trận Liên Việt hoặc trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, có Mặt
trận Tổ quốc ở miền Bắc, Mặt trận Dân tộc giải phóng và liên minh các lực lượng dân
tộc, dân chủ ở miền Nam, thậm chí có Đảng nhân dân cách mạng miền Nam Việt Nam.
Đó là những hiện tượng mang tính sách lược cách mạng.
Trong thời kỳ trước đổi mới, thích ứng với thiết chế chính trị mang tính tập trung tuyệt
đối, quan liêu, dân chủ mang nặng tính hình thức là một hệ thống các tổ chức chính trị xã hội đơn điệu về hình thức; nghèo nàn về nội dung; quan hệ mệnh lệnh, hành chính hoá
trong phương thức hoạt động.
Khi thực hiện đổi mới hệ thống chính trị nhằm hình thành từng bước một thể chế dân

chủ, hình thành và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, cả hình thức tổ chức, phương thức
hoạt động, chức năng của các tổ chức chính trị - xã hội cũng ngày càng phong phú, đa
dạng.


c. Sự hình thành và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội còn bị quy định bởi
trình độ văn hoá, khoa học, kỹ thuật của nhân dân.
Lênin đã từng nói: “Người mù chữ sẽ đứng ngoài chính trị”, và “chúng ta cần khoa
học kinh tế để không bị chết đói, cần chính trị để khỏi tự giết mình trước đó”. Văn hoá là
hiện tượng xã hội thể hiện năng lực của con người trong công cuộc chế ngự thiên nhiên,
cải tạo xã hội và hoàn thiện bản thân mình. Trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật giúp
nhân dân hiểu cần làm gì và làm như thế nào và để đạt mục tiêu đó, con người cần được
liên kết lại thành những tổ chức ra sao, các tổ chức ấy hoạt động bằng phương tiện gì...
Như vậy, rõ ràng là cả hình thức tổ chức, phương thức và phương tiện hoạt động, những
mục tiêu của các tổ chức chính trị - xã hội cũng bị quy định một cách chặt chẽ bởi trình
độ văn hoá, khoa hoc kỹ thuật của xã hội.
d. Các tổ chức chính trị - xã hội ra đời và hoạt động còn bị quy định bởi tính chung về
lợi ích phù hợp với giới tính và lứa tuổi cũng như vị trí xã hội cụ thể của các thành viên
cấu thành tổ chức.
Động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và
kết hợp hài hoà các lợi ích, thống nhất quyền lợi và nghĩa vụ công dân. Nhu cầu của
thanh niên, phụ nữ, người già... ngoài những điểm chung giống nhau, họ có những đòi
hỏi riêng về lợi ích, về nhu cầu. Chẳng hạn, thanh niên cần việc làm, vui chơi, giải trí;
phụ nữ cần sự bình đẳng với nam giới, cần có nhu cầu đảm bảo lợi ích trong nuôi, dạy
con cái... Chính là để đảm bảo lợi ích của họ, Đoàn thanh niên; Hội phụ nữ... đã ra đời.
e. Hình thức tổ chức, phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội cũng bị
quy định bởi những mối quan hệ quốc tế hiện thực với tất cả tính đa dạng của nó.



×