Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ vấn đề LIÊN kết GIỮA sản XUẤT và THƯƠNG mại TRONG QUÁ TRÌNH CHUYỂN SANG nền KINH tế THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (480.09 KB, 94 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lựa chọn đề tài và tên gọi của luận án:
Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản, được Mác phản ánh trong
bộ "Tư bản", là một mẫu hình, một con đường chuyển nền sản xuất
tiểu thủ công nghiệp truyền thống và nông nghiệp ở nhiều quốc gia,
của nhiều dân tộc lên thành nền đại công nghiệp, biến cải nền sản
xuất hàng hoá nhỏ thành nền sản xuất lớn tư bản hiện đại, trong đó
nổi bật lên là vai trò của hiệp tác và phân công, vai trò của các ngành
thương mại và dịch vụ.
Trong phần IV, phần nói về "sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối"
(Hay ba giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản), C.Mác trình bày
quá trình hình thành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa từ hiệp
tác giản đơn đến giai đoạn máy móc và đại công nghiệp. Người đã
trình bày sự phát triển của quá trình phân công và hợp tác hoá, sự
phát triển của quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá; liên kết
những người sản xuất độc lập từ kiến tạo quan hệ trao đổi kết quả lao
động (sản phẩm), đến chỗ kết hợp hiệp tác trực tiếp ngay trong quá
trình sản xuất (quá trình lao động) với nhau; từ chỗ hợp tác giữa
những người lao động trong một xưởng thợ, đến chỗ hiệp tác và kết
hợp giữa các công trường thủ công thành công trường thủ công lớn
hơn, giữa các công ty, xí nghiệp thành các công ty, xí nghiệp lớn hơn,
làm cho quy mô của các doanh nghiệp ngày một lớn và quá trình tích
tụ và tập trung tư bản ngày càng mạnh mẽ. Quá trình đó được diễn ra
từ những quan hệ nội tại, phát triển từ thấp đến cao, từ quan hệ ban
đầu ngẫu nhiên lỏng lẻo cho đến lúc bền chặt cố kết và hoà hợp với
nhau tạo nên một chỉnh thể ngày một lớn hơn.
Trong các tác phẩm "Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga",
"chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản" và một
loạt tác phẩm bàn về "chính sách kinh tế mới", Lênin cũng vạch ra các
quy luật phát triển của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn mới và con
đường đưa nền sản xuất hàng hoá nhỏ lên chủ nghĩa xã hội thông


qua chủ nghĩa tư bản nhà nước, thông qua "chế độ hợp tác"… Trong
tác phẩm "về tác dụng của vàng hiện nay và sau khi chủ nghĩa xã hội
hoàn toàn thắng lợi" và một số tác phẩm khác, Người đề cao vai trò to
lớn của thương mại trong việc "liên kết hàng chục triệu tiểu nông" lại
và liên kết chúng với nền đại công nghiệp, đưa chúng vào quỹ đạo
hoạt động của chủ nghĩa xã hội, bằng sự thuyết phục những lợi ích
thiết thực trước mắt và lâu dài để tạo nhanh và rộng sự liên kết ấy.
Nghĩa là, việc tổ chức quá trình liên kết kinh tế giữa sản xuất và


thương mại sẽ góp phần quan trọng vào việc đưa nền sản xuất hàng
hoá (tiểu nông) lên sản xuất lớn đại công nghiệp của chủ nghĩa xã hội.
Sau này, với nhận thức và những sáng tạo mới mẻ về phương
diện lý luận và bằng tài tổ chức của mình, Lênin đã thực hiện trong đời
sống kinh tế - xã hội Nga công cuộc liên kết sản xuất tiểu nông với
công nghiệp và thương mại và thông qua hoạt động bao tiêu của
thương mại để đưa một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu ở Liên Xô
thành một nền kinh tế tiên tiến lúc đó. Trong vài chục năm gần đây,
vấn đề liên kết kinh tế lại được nhiều nhà kinh tế học của các nước xã
hội chủ nghĩa đề cập tới ở các khía cạnh sau:
1. Liên kết kinh tế trong sản xuất theo sản phẩm và theo ngành
chủ yếu trên lĩnh vực công nghiệp trong phạm vi hệ thống Xã hội chủ
nghĩa.
2. Liên kết nông - công nghiệp trong phạm vi một vùng và một
nước (chủ yếu trong công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm).
3. Liên kết kinh tế giữa khoa học và sản xuất.
Ở nước ta, vào đầu những năm 80, kể từ khi có Nghị quyết Hội
nghị trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 6 (khoá IV) với chủ
trương "bung ra" trong sản xuất, vấn đề liên kết kinh tế đã nổi lên như
một vấn đề nóng hổi của thực tiễn đời sống kinh tế. Đặc biệt sau khi

có Nghị quyết của Hội nghị trung ương 3 (khoá VI) với chủ trương
phát triển nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, thì liên kết kinh tế
đã trở thành một hiện tượng "thường nhật" của các doanh nghiệp và ở
các địa phương. Từ đó, trên các sách, báo, tạp chí, hội nghị, đề tài
khoa học, đã có không ít tác giả bàn đến vấn đề liên kết kinh tế.
Nhưng cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách
toàn diện và có hệ thống về bản chất, nội dung, bước đi và triển vọng
của quá trình liên kết kinh tế ở nước ta. Hơn nữa, về các vấn đề cơ
bản này, còn có những ý kiến khác nhau.
Từ sau đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta
đã quyết tâm chuyển nền kinh tế từ hoạt động trong cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, mở rộng
quan hệ kinh tế với bên ngoài. Thực chất của công cuộc đổi mới kinh
tế này là nhằm đưa đất nước thoát khỏi sự trì trệ, nghèo nàn, lạc hậu,
đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế quốc dân và tìm ra con đường
phát triển kinh tế ngắn nhất.
Thực hiện chủ trương đổi mới đó, đã, đang và sẽ xuất hiện nhiều
hình thức kinh tế năng động, nhiều loại hình doanh nghiệp sản xuất và


thương mại khác nhau, thuộc nhiều hình thức sở hữu thuần khiết
hoặc đan xen nhau. Hình thức quan hệ kinh tế chủ yếu và ngày càng
trở nên phổ biến giữa các doanh nghiệp khác nhau cũng như trong
một doanh nghiệp là quan hệ liên kết sản xuất và thương mại. Đến
lượt mình, nó làm xuất hiện những loại hình doanh nghiệp và quan hệ
kinh tế mới phức tạp hơn, nhưng hiệu quả kinh tế cao hơn, góp một
phần nhất định vào việc đưa đất nước từng bước thoát ra khỏi sự
khủng hoảng, trì trệ, giữ vững sự ổn định và phát triển.
Tuy nhiên trong sự vận động, chuyển hoá, "bung ra" ban đầu và

trong điều kiện luật pháp chưa ban hành kịp thời, đầy đủ hoặc chưa
thể giải phóng hoàn toàn khỏi tư duy cũ thì có không ít những quan hệ
kinh tế được xem như là "một hiện tượng không lành mạnh" cần phải
"uốn nắn". Vì vậy cần có một công trình nghiên cứu tương đối công
phu hơn về thực chất và những vấn đề liên quan của quá trình liên kết
kinh tế giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, trong đó đi sâu vào việc liên kết giữa sản xuất và thương mại.
Để một lần nữa minh chứng và trên cơ sở đó khẳng định những mặt
đúng và chưa đúng, những mặt được và chưa được của quá trình liên
kết kinh tế ở nước ta, thực sự làm cho nó trở thành một biện pháp
tăng hiệu quả sản xuất-kinh doanh, tạo công ăn việc làm và tăng thu
nhập cho người lao động, góp phần nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh
tế quốc dân và quá trình tái sản xuất xã hội vận động phát triển nhanh.
Xuất phát từ những nhận thức trên, tôi đã lựa chọn "Vấn đề liên kết
kinh tế giữa sản xuất và thương mại trong quá trình chuyển sang nền
kinh tế thị trường" làm đề tài luận án.
2. Mục đích nghiên cứu của luận án:
Lựa chọn đề tài nghiên cứu trên, chúng tôi nhằm những mục tiêu
chủ yếu sau:
- Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu một cách có chọn lọc những kết
quả của những công trình đã công bố, cùng với những suy nghĩ
nghiên cứu của bản thân, cố gắng làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực
tiễn của sự hình thành và phát triển các quan hệ liên kết kinh tế trong
nền kinh tế quốc dân.
- Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp, các quan hệ liên kết giữa sản xuất
và thương mại, bản luận án nêu lên những nội dung chủ yếu trong sự
phát triển của quá trình liên kết sản xuất với thương mại trong nền
kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.



- Phân tích, vạch rõ phương hướng, những nguyên tắc điều kiện
cần thiết và kiến nghị một số giải pháp nhằm đẩy mạnh sự phát triển
của các quan hệ liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại, góp
phần làm cho nền kinh tế thị trường phát triển nhanh chóng.
3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
- Đối tượng chính được nghiên cứu trong bản luận án này là các
quan hệ liên kết kinh tế dưới góc độ kinh tế chính trị học. Nghĩa là,
bản luận án tập trung vào các vấn đề: cơ sở hình thành, bản chất, xu
hướng vận động, những hình thức, những điều kiện cần thiết và
những giải pháp thích hợp thúc đẩy quá trình phát triển liên kết kinh tế
giữa sản xuất và thương mại.
- Phạm vi nghiên cứu được giới hạn chủ yếu trong các mối quan
hệ liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp sản xuất và thương mại (một
số đơn vị tiêu biểu), cùng các mối quan hệ giữa các khâu sản xuất và
thương mại, dịch vụ trong một doanh nghiệp.
- Tác giả luận án sử dụng các phương pháp biện chứng duy vật,
phương pháp hệ thống, kết hợp chặt chẽ các phương pháp minh hoạ,
đối chiếu so sánh, kết hợp kinh nghiệm trong nước với kinh nghiệm
thế giới, lịch sử và hiện đại. Đồng thời cũng vận dụng tổng hợp các
phương pháp của công việc tổng kết thực tiễn như điều tra chọn mẫu,
phân tích, khái quát... để làm sáng tỏ các vấn đề.
4. Đề tài đã được nghiên cứu đến đâu:
Như ở phần trên chúng tôi đã trình bày, trong vài chục năm qua,
vấn đề liên kết kinh tế đã được nhiều nhà kinh tế học ở các nước xã
hội chủ nghĩa bàn đến. Nhiều tác phẩm đã được dịch sang tiếng Việt.
Các cuốn sách này chủ yếu trình bày quá trình phát triển các mối quan
hệ liên kết kinh tế trên phạm vi hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới,
liên kết khoa học và sản xuất, liên kết nông- công nghiệp ở Liên Xô
cũ. Đáng chú ý là các công trình sau:

- "Liên kết sản xuất xã hội chủ nghĩa và quản lý" của 3 tác giả:
Iu.A.Lavricốp, Ph.M.Rusinốp, V.I Trumacốp; Nhà xuất bản "Tư tưởng"
Matxcova, ấn hành năm 1976.
-"Từ sự hợp tác kinh tế đến liên kết kinh tế xã hội chủ nghĩa" của 2
tác giả E.P.Bavrin và C.C Alaban; Nhà xuất bản "Kinh tế" Matxcova,
xuất bản năm 1982…
Các tác giả nước ngoài khác viết về vấn đề này hiện có ở thư viện
nước ta không nhiều. Có một số được viết theo các bài tạp chí và các


chương của các cuốn sách. Trong số đó có một vài cuốn sách nói về
các khía cạnh của liên kết kinh tế đáng chú ý như:
- "Liên kết dọc của sản xuất: Sự đền bù thất bại của thị trường"
của Wiliamson O., nhà xuất bản tự do, Newyork ấn hành năm 1971.
- "Sự hợp nhất: Quá khứ và hiện tại" của Randall Smith và Dennis
Brooks - do Hiệp hội của các Trớt ấn hành năm 1963.
- "Lý thuyết tổ chức: Sự tiếp cận liên kết" của Robert C.Ford, Barry
R.Armandi và Cherril P.Heaton, do Happer và Row xuất bản tại New
York 1988.
Ở Việt Nam, vào những năm 80, vấn đề liên kết kinh tế cũng được
khá nhiều nhà kinh tế quan tâm. Đã có nhiều công trình công bố trên
các sách báo, tạp chí và tại các hội nghị khoa học. Phần lớn là các bài
báo, tạp chí và các chương trong cuốn sách. Các công trình nghiên
cứu tương đối công phu như:
- "Liên kết kinh tế xã hội chủ nghĩa - giai đoạn hiện nay của phân
công lao động quốc tế xã hội chủ nghĩa", của tập thể tác giả, do nhà
xuất bản Thông tin lý luận ấn hành năm 1985, tại Hà Nội.
- Đề tài cấp Nhà nước 98a-03-08" các hình thức liên kết kinh tế
trong thời kỳ quá độ ở nước ta, chú ý đến liên kết nông-công nghiệp,
liên kết ngành-lãnh thổ, liên kết các thành phần kinh tế" do Phó Giáo

sư Hoàng Kim Giao làm chủ nhiệm và tác giả bản luận án là một
thành viên. Đề tài nghiệm thu tháng 5 năm 1989.
- Đề tài khoa học cấp Bộ "Phát triển và hoàn thiện cơ chế hoạt
động các hình thức liên kết kinh tế giữa các thành phần kinh tế trong
sản xuất-kinh doanh công nghiệp" do Phó giáo sư Nguyễn Đình Phan
làm chủ nhiệm. Đề tài nghiệm thu tháng 5-1992.
Các công trình trên chưa đề cập nhiều đến vấn đề liên kết kinh tế
giữa sản xuất và thương mại, đặc biệt trong cơ chế thị trường có sự
điều tiết của Nhà nước.
5. Đóng góp mới của luận án:
- Bằng tư duy lý luận kết hợp logic và lịch sử, tác giả bản luận án
trình bày một cách tương đối hệ thống về quá trình hình thành và phát
triển các quan hệ liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp, cố gắng làm
rõ bản chất của liên kết kinh tế.
- Là bản luận văn đầu tiên trình bày và phân tích thực trạng và xu
hướng vận động của các quan hệ liên kết kinh tế giữa sản xuất và


thương mại ở nước ta trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị
trường.
- Cuối cùng, đóng góp mới của tác giả bản luận án là những
kiến nghị về những giải pháp ở tầm kinh tế vĩ mô nhằm thúc đẩy
quá trình liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại, đồng thời
góp phần đẩy mạnh sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
6. Phần kết quả nghiên cứu:
- Kết cấu của luận án:
Ngoài lời mở đầu và phần kết luận, bản luận án được trình bày
thành ba chương:
Chương I: Sự hình thành, phát triển của quan hệ liên kết kinh tế
trong nền kinh tế thị trường.

Chương II: Thực trạng của các quan hệ liên kết kinh tế giữa sản
xuất và thương mại.
Chương III: Một số nội dung và giải pháp chủ yếu để phát triển các
quan hệ liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại.
Sau đây là nội dung các chương, mục cụ thể:
CHƯƠNG I
SỰ HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN CỦA QUAN HỆ LIÊN KẾT KINH TẾ
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Sự hình thành và phát triển của các loại quan hệ liên kết
kinh tế trong nền kinh tế thị trường
Lịch sử ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản được C.Mác khái
quát trình bày trong bộ "Tư bản", chính là quá trình hình thành và phát
triển các doanh nghiệp Tư bản chủ nghĩa , cũng chính là quá trình
hình thành và phát triển các quan hệ liên kết kinh tế giữa các doanh
nghiệp trong nền kinh tế đó.
Phân công lao động xã hội và chế độ tư hữu là tiền đề cơ bản của
sự ra đời nền sản xuất hàng hoá. Đặc trưng chủ yếu của nền sản xuất
hàng hoá nói chung là mỗi người sản xuất chỉ chuyên sâu ở một hoặc
vài nghề nhất định nào đó. Họ không tự mình sản xuất được những
thứ mà họ cần cho đời sống của bản thân và gia đình. Để thoả mãn
các nhu cầu của mình buộc những người sản xuất phải trao đổi sản
phẩm cho nhau, tức phải quan hệ với nhau thông qua trao đổi trên thị
trường.


Một trong những con đường làm xuất hiện các doanh nghiệp tư
bản chủ nghĩa, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là quy luật giá
trị làm phân hoá những người sản xuất hàng hoá trong nền sản xuất
hàng hoá giản đơn.
Trong nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa, ngày nay gọi là

nền kinh tế thị trường hiện đại, luôn luôn có những doanh nghiệp mới
ra đời, một số doanh nghiệp thì bị phá sản, bị thôn tính, sát nhập và
một số khác thì ngày càng phát triển lớn mạnh, theo quy luật mà
C.Mác gọi là quy luật "tích tụ và tập trung tư bản chủ nghĩa" hay quy
luật "tích luỹ tư bản chủ nghĩa". Chính quy luật tích luỹ tư bản chủ
nghĩa chịu sự chi phối của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường.
Phân công lao động làm cho quá trình tái sản xuất xã hội ngày
càng chia nhỏ thành nhiều khâu, nhiều công đoạn và rất nhiều người
sản xuất hàng hoá khác nhau đã chuyên tâm vào một số công việc,
một số sản phẩm, tức là quá trình chuyên môn hoá. Chuyên môn hoá
ngày càng sâu sắc làm xuất hiện ngày càng nhiều các loại doanh
nghiệp khác nhau về chức năng, về sản phẩm. Sự xuất hiện các
doanh nghiệp độc lập, chuyên môn hoá đã buộc họ phải quan hệ với
nhau, lúc đầu thông qua trao đổi sản phẩm trên thị trường. Các mối
quan hệ trao đổi sản phẩm giữa các doanh nghiệp ban đầu diễn ra
một cách ngẫu nhiên. Các doanh nghiệp là những chủ thể sản xuất và
kinh doanh hàng hoá luôn luôn có nhu cầu trao đổi hàng hoá với nhau.
Hàng hoá "có thể trao đổi được là nhờ một hành vi tự nguyện của
những người chủ của chúng, muốn nhượng chúng lại cho nhau"(4). Vì
động cơ của các chủ doanh nghiệp là sản xuất - kinh doanh hàng hoá
nhằm thu lợi nhuận, cho nên họ luôn luôn tìm đến nhau và đến với
người tiêu dùng để trao đổi, tiêu thụ hàng hoá của mình. Hành vi
mang tính "tự nguyện", nhưng là bắt buộcđối với mọi người sản xuất
hàng hoá nói chung và đối với các doanh nghiệp nói riêng, trở thành
hành động thường xuyên của chúng. Và "sự không ngừng lặp đi lặp
lại của trao đổi đã làm cho nó trở thành một quá trình xã hội đều đặn",
(4) và nhờ có những người khác muốn tiêu dùng chúng. Một loạt các
cuộc trao đổi (bán-mua) sản phẩm ngẫu nhiên giữa các doanh nghiệp,
bạn hàng bất kỳ cứ diễn ra liên tiếp trên thị trường. Sau rất nhiều lần
quan hệ trao đổi khi thì với doanh nghiệp này, khi thì với doanh nghiệp

khác, đến một lúc nào đó doanh nghiệp X nhận thấy những mối lợi to
lớn trong quan hệ kinh tế với doanh nghiệp Y hoặc doanh nghiệp Z...
Ngược lại doanh ngiệp Y hoặc doanh nghiệp Z cũng nhận ra những
mối lợi đáng kể xét trên nhiều khía cạnh khi quan hệ làm ăn với doanh
nghiệp X... Nghĩa là, họ đã tìm thấy những bạn hàng mạng lại lợi ích


kinh tế to lớn thường xuyên cho nhau, nếu như tiến hành quan hệ làm
ăn với nhau lâu dài. Cuối cùng họ đi đến thoả thuận ký kết những hợp
đồng kinh tế tay đôi, tay ba hoặc nhiều bên để tiến hành những quan
hệ kinh tế thường xuyên, lâu dài, ổn định với nhau. Như vậy, mối quan
hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp nói trên đã có sự thay đổi lớn về
chất. Nó không chỉ dừng lại ở quan hệ mua - bán trao đổi ngẫu nhiên
bất kỳ, mà đi đến thoả thuận hợp tác, quan hệ kinh tế ổn định, thường
xuyên, lâu dài. Chúng tôi gọi thời điểm này là mốc khởi đầu của quá
trình liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp X với doanh nghiệp Y hoặc
doanh nghiệp Z...
Chuyên môn hoá, đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế thị trường có
sự cạnh tranh khốc liệt, không có nghĩa là một doanh nghiệp nào đó
chỉ duy nhất sản xuất một loại sản phẩm hoặc đảm nhiệm duy nhất
một giai đoạn công nghệ và sử dụng một loại nguyên vật liệu. Bất kỳ
một doanh nghiệp nào cũng thông thường chuyên môn hoá sản xuất kinh doanh vào một vài loại sản phẩm hoặc một số giai đoạn công
nghệ tuỳ thuộc vào quy mô của doanh nghiệp, vào trình độ phân công
chuyên môn hoá của lực lượng sản xuất xã hội nói chung, vào sự vận
động biến đổi của thị trường… Vì vậy, trong vòng xoáy của các hoạt
động kinh tế, các doanh nghiệp không chỉ có quan hệ kinh tế với một
doanh nghiệp duy nhất nào đó, mà phải quan hệ với rất nhiều doanh
nghiệp khác nhau, đồng thời không chỉ thực hiện một loại hình quan
hệ kinh tế, mà thực hiện rất nhiều loại hình, thang bậc trình độ khác
nhau của quan hệ kinh tế. Trong khi doanh nghiệp A thực hiện quan

hệ liên kết rất chặt chẽ với doanh nghiệp B, nhưng chỉ thực hiện
những quan hệ hợp tác tương đối lỏng lẻo trên một vài lĩnh vực, trong
một quãng thời gian với nhất định với doanh nghiệp C, đồng thời lại
phải tiến hành quan hệ trao đổi, mua-bán, vay- mượn... một cách
ngẫu nhiên, nhất thời với các doanh nghiệp D, E, F... và cũng có thể
phải cạnh tranh "sống mái" với các doanh nghiệp N, K, H... và... Trong
vòng xoáy hoạt động kinh tế đan xen ấy, các quan hệ kinh tế nói
chung và quan hệ liên kết kinh tế nói riêng, diễn ra chằng chịt với nhau
và vận động phát triển, chuyển hoá không ngừng.
Cùng với đà phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là phân
công lao động xã hội của chuyên môn hoá sản xuất-kinh doanh, của
sự vận động biến đổi của thị trường, đồng thời nhằm tăng cường sức
mạnh cạnh tranh, hạn chế những cạnh tranh khốc liệt, các doanh
nghiệp từ chỗ chỉ tiến hành quan hệ trao đổi, mua-bán, vay-mượn...
nhất thời ngẫu nhiên, tiến lên ký kết thoả thuận hợp đồng trao đổi
cung cấp các sản phẩm thường xuyên cho nhau và sau đó tiến đến


thoả thuận ký kết hợp tác, phân công sản xuất, kinh doanh các loại
sản phẩm khác nhau giữa các doanh nghiệp. Các giai đoạn hợp tác
nói trên có thể tương ứng với các hình thức Các-ten (Cartel) và Xanhđi-ca (Syndicate) mà V.I. Lênin và các nhà kinh tế học trước và sau
ông đã nêu lên (xem 25 + 83). Như vậy, về phương diện logic và lịch
sử, quá trình liên kết kinh tế diễn ra trong lưu thông trao đổi để làm
nhiệm vụ giải quyết "đầu vào" (input) và đầu ra (output) cho các doanh
nghiệp, tiếp đến là sự liên kết giữa lĩnh vực sản xuất và lĩnh vực
thương mại, sau cùng là sự liên kết chính ngay trong quá trình sản
xuất. Nếu phân định theo lĩnh vực (Sector) thì quá trình liên kết được
phát triển như sau:
- Diễn ra trong bản thân lĩnh vực thương mại
- Liên kết giữa sản xuất và thương mại

- Diễn ra trong bản thân lĩnh vực sản xuất.
Ngày nay quá trình liên kết kinh tế diễn ra theo lĩnh vực (ngành)
nói trên tồn tại một cách đồng thời, xen kẽ nhau. Thậm chí có những
mối quan hệ liên kết chỉ có thể phân biệt được theo sector về phương
diện phân tích, nghiên cứu khoa học. Sự hợp tác trong bản thân lĩnh
vực lưu thông, thương mại giữa những nhà sản xuất là biểu hiện của
quan hệ liên kết ngang (horizontal intertion) và thiết lập nên sự điều
hoà, phối hợp chung nhằm bảo đảm "đầu vào", "đầu ra", là sự phân
định về thị trường giữa các nhà sản xuất. Nó giúp có các nhà sản xuất
chuyên tâm hơn vào sản xuất và kết quả là hiệu suất kinh tế sẽ cao
hơn.
Tuy nhiên sự khai thông về mặt "đầu ra" và sự đảm bảo một cách
ổn định, hợp lý, kịp thời về phương diện "đầu vào" phải là sự hợp tác
chặt chẽ giữa lĩnh vực sản xuất (productive sector) với lĩnh vực
thương mại (trade sector). Sự hợp tác này là biểu hiện của quan hệ
liên kết dọc (vartical integration) và là kết quả của hợp tác, phân công
chặt chẽ giữa các nhà sản xuất với các nhà thương mại. Sự hợp tác
chặt chẽ và chuyên môn hoá sâu giữa những nhà doanh nghiệp này
sẽ làm cho hiệu quả kinh tế của từng doanh nghiệp nói riêng và của
các doanh nghiệp nói chung sẽ cao hơn nhiều. Cùng với sự phát triển
của phân công lao động, chuyên môn hoá sản xuất thì quá trình hợp
tác giữa những nhà sản xuất cũng xuất hiện đồng thời hoặc xen kẽ, kế
tiếp. Kết quả của sự hợp tác này là sự phối hợp có hiệu quả các kế
hoạch sản xuất giữa các doanh nghiệp, là giải quyết vấn đề công nghệ
sản xuất - cải tiến quy trình công nghệ, là tìm kiếm thay thế nguyên vật
liệu mới... và cuối cùng là nâng cao hiệu quả kinh tế không ngừng.


Sau một quá trình quan hệ, hợp tác làm ăn với nhau khá quen
thuộc và đã tin tưởng vào nhau, đồng thời xuất phát từ nhu cầu về khả

năng về vốn thiết bị, công nghệ, về tình hình thị trường, các doanh
nghiệp tiến tới ký kết thoả thuận góp vốn để thành lập một doanh
nghiệp mới gọi là Xí nghiệp liên doanh hoặc Công ty liên doanh. Xí
nghiệp "liên doanh" (Joint venture) hay "hợp doanh" là sự "hùn vốn",
góp vốn của hai hoặc nhiều doanh nhân, doanh nhiệp nhỏ nhằm tạo
thành một doanh nghiệp có vốn lớn hơn để kinh doanh. Cũng có thể
chỉ là một phần vốn nào đó của các doanh nghiệp độc lập góp vào để
thành lập một doanh nghiệp mới hoàn toàn, chỉ để sản xuất - kinh
doanh ở một vài ngành nghề, lĩnh vực khác hẳn so với những lĩnh vực
đang hoạt động của các doanh nghiệp thành viên.
Xí nghiệp liên doanh có Hội đồng quản trị (bao gồm chủ tịch, phó
chủ tịch và các uỷ viên) đại diện cho các doanh nghiệp thành viên và
ban giám đốc để điều hành hoạt động của Xí nghiệp. Ban giám đốc có
thể là những nhà quản lý của các doanh nghiệp thành viên, cũng có
thể là những nhà quản lý chuyên nghiệp do Hội đồng quản trị liên
doanh thuê. Các bên liên doanh cùng nhau chịu rủi ro, lỗ, lãi đến cùng
và cùng nhau thoả thuận phân chia lợi nhuận theo tỷ lệ góp vốn liên
doanh. Có thể các thành viên vẫn tồn tại và hoạt động độc lập. Chỉ có
Xí nghiệp liên doanh là hoạt động dưới sự điều hành chung thông qua
Hội đồng quản trị và Ban giám đốc. Tuỳ theo khả năng và nhu cầu về
vốn, thiết bị, công nghệ, yêu cầu của thị trường đối với các bên tham
gia liên doanh, cũng như tuỳ thuộc vào trình độ kinh tế, luật pháp của
từng nước mà các bên tham gia liên doanh (góp vốn) có thể thành lập
các doanh nghiệp với các hình thức như: "Xí nghiệp chung vốn"
(Partnership), hoặc "Công ty" (company), hay "Công ty trách nhiệm
hữu hạn" (Co.Ltd). (xem 3 + 9 + 32 + 57 + 84 + 94).
Cùng với đà tiến bộ của lực lượng sản xuất, trước hết là khoa học
và công nghệ, sau một quá trình hợp tác, quan hệ gắn bó lâu
dài, đồng thời nhằm mục đích tăng cường tiềm lực cạnh tranh trên thị
trường ngày càng mở rộng phạm vi, các doanh nghiệp đã tự nguyện

"sát nhập", "hợp nhất", "hoà hợp", "liên hợp", "kết hợp" lại với nhau về
cả phương diện liên kết ngang, lẫn liên kết dọc thành một doanh
nghiệp lớn hơn. Các doanh nghiệp tham gia vào quá trình liên kết này
không còn là những doanh nghiệp hoạt động độc lập, trở thành một bộ
phận trong doanh nghiệp mới lớn hơn. Nó còn được gọi là quá trình
liên hợp hoá. Quá trình này được hình thành theo hai cách: hoặc là
một doanh nghiệp mẹ (doanh nghiệp lớn) có sức mạnh trong cạnh
tranh đã thu hút, "sát nhập" các doanh nghiệp nhỏ (không đủ sức tồn


tại trong cạnh tranh), và trở thành doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh
lên, hoặc là các doanh nghiệp tự nguyện cùng nhau thoả thuận kết
hợp, hợp nhất lại với nhau thành một doanh nghiệp lớn hơn. Khi bàn
về quá trình xã hội hoá nền sản xuất C.Mác đã gọi quá trình "sát
nhập", "hợp nhất" nói trên là quá trình tập trung hoá sản xuất, là "quá
trình tập trung tư bản". Các loại doanh nghiệp lớn này được hình
thành từ những doanh nghiệp cùng ngành hoặc khác ngành với nhau
theo kiểu liên kết ngang và theo kiểu liên kết dọc. Các hình thức của
các kiểu liên kết này có thể thấy trong lịch sử tương ứng với các loại
tờ-rớt, công-xooc-xi-om (Consortium), hoặc các xí nghiệp liên hợp
(combinate), liên hợp các xí nghiệp (union of enterprises), tổ hợp sản
xuất lãnh thổ (APK)… (xem 4 + 24 + 25 + 79 + 96). Trong quá trình
này mối quan hệ giữa cạnh tranh và liên kết vận động phát triển một
cách biện chứng không ngừng. Chính nhân tố cạnh tranh trên thị
trường đã thúc đẩy các doanh nghiệp phải có nhu cầu hợp tác liên kết
với nhau. Sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp làm hạn chế và
đi đến thủ tiêu cạnh tranh trong nội bộ một tổ chức liên kết, đồng thời
lại tăng cường sức mạnh cạnh tranh của tổ chức trên thị trường.
Sự vận động phát triển của các quan hệ liên kết kinh tế giữa các
doanh nghiệp đến giai đoạn cao, tức là liên hợp hoá, đi đến sát nhập,

kết hợp, hợp nhất lại hình thành một doanh nghiệp mới, có quy mô lớn
hơn, tạo ra khả năng tiếp thu, đổi mới công nghệ kỹ thuật tiến bộ,
nâng cao năng suất lao động, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn, có
sức cạnh tranh lớn trên thị trường. Khi trở thành doanh nghiệp có tư
cách pháp nhân mới, lớn hơn, các doanh nghiệp này lại tiến hành
hoạt động và quan hệ kinh tế với nhiều loại hình từ thấp lên cao với
rất nhiều doanh nghiệp khác. Chúng lại tiến hành quan hệ trao đổi ,
buôn bán lẫn nhau và với các doanh nghiệp khác một cách ngẫu
nhiên, nhất thời tiến lên quan hệ hợp tác trao đổi sản phẩm một cách
thường xuyên, ổn định, lâu dài, quan hệ phân công hợp tác trong sản
xuất-kinh doanh, liên doanh và liên hợp, hợp nhất… Quá trình đó luôn
luôn vận động, biến đổi, phát triển theo những vòng xoáy trôn ốc, làm
cho lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, quy mô của các doanh
nghiệp ngày càng mở rộng, công nghệ, kỹ thuật, năng lực quản lý
càng ngày càng tiến bộ, năng suất lao động và hiệu quả kinh tế ngày
càng nâng cao và sức cạnh tranh trên thị trường ngày càng lớn mạnh.
Cứ thế sẽ vận động mãi không ngừng, làm cho nền kinh tế ngày càng
phát triển, trình độ xã hội hoá ngày càng nâng cao.
Quá trình liên kết kinh tế ở giai đoạn liên hợp hoá diễn ra liên tục
nếu không bị giới hạn bởi điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội nào đó


ràng buộc sẽ có xu hướng liên hợp hoá theo ngành rất cao hình thành
những công ty, liên hiệp ngành độc quyền. Nghĩa là quá trình tập trung
hoá về phương diện tổ chức sản xuất-kinh doanh ở quy mô rất cao,
tạo ra những tổ hợp độc quyền trong một ngành, lĩnh vực nào đó.
Nhưng bản thân sự độc quyền lại kìm hãm sự phát triển kinh tế. Vì thế
ngày nay ở rất nhiều nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới người
ta ban hành luật chống độc quyền. Luật đó sẽ quy định giới hạn doanh
thu về một loại sản phẩm, một lĩnh vữc hoạt động nào đó chỉ chiếm tỷ

lệ phần trăm nào đó trong tổng doanh thu của cả nước về lĩnh vực
hoặc sản phẩm đó, tuỳ theo tình hình đặc điểm của mỗi nước.
Để thích ứng với luật chống độc quyền, phù hợp với quy luật vận
động phát triển theo kiểu vòng xoáy trôn ốc của các quan hệ kinh tế
nói trên, ngày nay ở các nước có nền kinh tế thị trường hiện đại, phát
triển, đã và đang hình thành những hình thức tổ chức kinh tế khổng lồ:
concern, conglomerate và Group. Các loại tập đoàn kinh tế khổng lồ
này là một hình thức liên kết kinh tế cao, xét về quy mô của tập đoàn
là hết sức lớn, song về phương diện tổ chức thì tương đối "lỏng lẻo"
so với các hình thức liên hợp hoá đã nói ở trên, đồng thời chúng lại
chứa đựng nhiều lĩnh vực hoạt động kinh doanh, nhiều loại sản phẩm
được sản xuất và buôn bán. Nó là một tổ chức kinh tế thực sự nhưng
lại không có tư cách pháp nhân kinh tế đầy đủ hoạt động độc lập. Hoạt
động chung của các tập đoàn này chủ yếu trên các lĩnh vực tài chính,
đầu tư, tín dụng công nghệ và thương mại. Nó là những sự góp vốn
của các doanh nghiệp thành viên và được tập trung đầu tư vào những
dự án có hiệu quả nhất của một vài doanh nghiệp thành viên nào đó
… (xem 61 + 83 + 91).
Nhìn lại lịch sử hoạt động kinh tế của nhân loại chúng ta thấy liên
kết kinh tế xuất hiện từ khá lâu. Ngay từ thời kỳ tiền sử của chủ nghĩa
tư bản - hình thức "phường hội" của những người thợ thủ công và
những người buôn bán nhỏ đã ra đời. Phường hội chính là phương
thức sơ khai của liên kết kinh tế giữa những người thợ thủ công cá
thể nhỏ lẻ, sản xuất phân tán manh mún và những người buôn bán
nhỏ để giúp nhau sản xuất-kinh doanh, để tập hợp lại nhằm tăng thêm
sức mạnh cạnh tranh. Vào thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản, thời kỳ
tích luỹ nguyên thuỷ, thời kỳ "công trường thủ công" thể kỷ 16-17,
những công ty cổ phần đầu tiên đã xuất hiện, đã có những sự liên kết
khá chặt chẽ giữa những công trường thủ công độc lập hoặc có sự
kết hợp ngay trong một công trường thủ công những lĩnh vực sản xuất

khác nhau. Vào thời kỳ này ở Anh, người ta thấy những công trường
thủ công làm ra tư liệu sản xuất gắn liền với công trường thủ công làm


ra sản phẩm. Những xí nghiệp thuỷ tinh lớn ở Anh đều tự mình làm
lấy những nồi nấu bằng đất chịu lửa. Có những công trường thủ công
làm pha lê kết hợp với công trường thủ công mài thuỷ tinh và công
trường thủ công đúc đồng (xin xem 4).
Vào cuối thế kỷ 19, các hình thức kinh tế theo chiều ngang như
Các-ten, Xanh-di-ca, tờ-rớt là chiếm ưu thế. Các-ten lầ hình thức liên
kết kinh tế thấp nhất. Các doanh nghiệp tham gia vào Các-ten vẫn
hoàn toàn độc lập trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm và họ thoả
thuận với nhau về giá cả, thị trường tiêu thụ và khối lượng sản phẩm
sản xuất ra. Các-ten nổi tiếng nhất là Các-ten dầu lửa đã thống nhất
những công ty lớn nhất thế giới để giữ giá dầu nhằm thu nhiều lợi
nhuận cho những giếng dầu ở Tếch-dát (Texas). Gần đây nổi tiếng là
Các-ten của các nước dầu lửa (OPEC). Trong các Xanh-di-ca thì sản
xuất là hoạt động độc lập của các doanh nghiệp, còn tiêu thụ do một
ban quản trị của tổ chức đảm nhiệm. So với Các-ten, nó là hình thức
liên kết kinh tế cao hơn. Tờ-rớt là hình thức liên kết kinh tế cao nhất
vào cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20. Nó liên kết toàn bộ các hoạt động
sản xuất, tiêu thụ và tài chính của doanh nghiệp thành viên, dưới dự
điều hành của Ban quản trị Tổ chức. Mỗi doanh nghiệp tham gia Tờrớt trở thành như một cổ đông và hưởng lợi nhuận theo cổ phần đóng
góp. Nó trở thành một công ty cổ phần khổng lồ duy nhất thống trị
trong một ngành nào đó, là những tổ chức độc quyền lũng đoạn thị
trường các nước và thế giới. Vào thời kỳ này ở Đức thì hình thức Cácten chiếm ưu thế, ở Pháp thì hình thức Xanh-đi-ca chiếm ưu thế, còn
ở Mỹ thì hình thức Tờ-rớt lại chiếm ưu thế (xin xem 25 + 44).
Từ cuối những năm 20 của thế kỷ này trở đi ở Mỹ và một số nước
tư bản chủ nghĩa khác liên kết kinh tế theo chiều dọc trở nên chiếm ưu
thế. Những liên minh (union) kinh tế giữa sản xuất và tiêu thụ của một

loạt ngành khác nhau, có mối liên hệ với nhau, kế tiếp nhau vào một
tổ chức kinh tế lớn, vào một công ty cổ phần. Nó thống nhất tổ chức
từ các khâu khai thác nguyên liệu đến chế biến sản xuất thành phẩm
và tổ chức tiêu thụ được tập trung vào trong một công ty cổ phần. Nổi
bật là trong các ngành luyện kim, hoá chất, chế tạo ô tô và máy móc,
công nghiệp thực phẩm… vài chục năm gần đây xuất hiện những hình
thức liên kết kinh tế đa ngành, (theo như Phó giáo sư Nguyễn Đình
Phan gọi là "liên kết kinh tế ngoại vi") như các tổ chức Công-xooc-xiom, Công - xen, Công – gờ - lô - mê - rát, Nhóm công ty (group).
Chúng là những công ty cổ phần, những tập đoàn kinh tế khổng lồ, tập
hợp những lĩnh vực hoạt động độc lập về mặt kỹ thuật, nhằm phân bổ
những rủi ro trên nhiều lĩnh vực hoạt động và đảm bảo phương tiện tài


chính và vật chất để mở rộng và tập trung sản xuất-kinh doanh. Ngày
nay hình thức liên kết kiểu Conglemerate phát triển mạnh nhất và rộng
khắp. Tập đoàn SAMSUNG (Nam Triều Tiên) với 176.947 công nhân,
doanh thu 35 tỷ USD (1989) đã liên kết 32 công ty, có mạng lưới chi
nhánh là 180 ở 54 nước và 90 thành phố. Các lĩnh vực kinh doanh
của nó là: trao đổi mậu dịch (Trades): chiếm 33% doanh thu; tài chính
(Finance) chiếm 25% doanh số, còn sản xuất (productions) chiếm
42% doanh thu (trong đó: điện tử: 22% doanh thu, dệt - thực phẩm:
7%, chế tạo máy móc: 5%, hoá chất: 4%, xây dựng: 4%). ở Nhật,
những hãng lớn như TOYOTA MOTOR, NISSAN MOTOR,
MITSUBISHI, SAUWA, MITSUI, SUMITOMO… thì tránh "Luật chống
độc quyền" bằng hình thức liên kết các công ty vừa và nhỏ thành một
hệ thống các vành đai "vệ tinh" bao quanh các công ty "mẹ" (Công ty
lớn) thành nhiều tầng lớp lớn nhỏ khác nhau. Các công ty mẹ đảm
nhận khâu lắp ráp chính, cuối cùng và tiêu thụ sản phẩm trên thị
trường. Việc tiêu thụ cũng được tiến hành bởi hệ thống các nấc thang
chi nhánh, đại lý thương mại ở khắp đất nước và trên thế giới (xem 9

+ 44 + 61 + 62 + 63 + 78). Để cạnh tranh trên thị trường thế giới, ở
hầu khắp các nước trên thế giới, các doanh nghiệp đều liên kết với
nhau dưới hình thức "Hiệp hội". Hiệp hội là những tổ chức liên kết
kinh tế dọc theo ngành bao gồm các nhà sản xuất và tiêu thụ trong
một ngành hàng nào đó. Nó là một tổ chức liên kết kinh tế theo "mô
hình cấu trúc lỏng" (Slack - Structure Model). Các doanh nghiệp tham
gia vào Hiệp hội vẫn hoạt động một cách độc lập với pháp nhân đầy
đủ. Hiệp hội được Nhà nước thừa nhận và được tham gia với Nhà
nước trong việc điều hoà phối hợp thị trường trong và ngoài nước
thông qua việc cấp hạn ngạch (quota) xuất - nhập khẩu. Các doanh
nghiệp tham gia và Hiệp hội được thảo luận thống nhất giá cả thị
trường, phối hợp hoạt động sản xuất - kinh doanh và được phân phối
quota xuất khẩu vào thị trường một nước nào đó. Có rất nhiều Hiệp
hội hiện đang tồn tại và mở rộng phạm vi ảnh hưởng của nó như:
CHEMICAL INDUSTRIES ASSOCIATION OF JAPAN, PETROLIUM
ASSOCIATION OF BRITIAN … (Xem: 85 + 87 + 89 + 90 + 92).
Chúng ta vừa trình bày về phương diện logic và lịch sử quá trình
hình thành và phát triển của liên kết kinh tế, thông qua những nấc
thang của những mối quan hệ, những hình thức liên kết kinh tế và
được thể hiện bởi những hình thức tổ chức và quan hệ kinh doanh.
Vậy thì bản chất hay thực chất và những đặc trưng chủ yếu của liên
kết kinh tế là gì? Chúng ta sẽ chuyển qua phần tiếp theo.
1.2 Bản chất và những đặc trưng chủ yếu của liên kết kinh tế


a/. Chúng ta nhận thấy rằng, cho đến nay, trong hệ thống dịch
thuật và giữa các nhà khoa học hầu như thống nhất coi danh từ quốc
tế tương đương của "liên kết" là integration. Trong hệ thống thuật ngữ
kinh tế quốc tế, integration (hay integratio) nguyên là một từ gốc latinh,
có nghĩa là sự góp vào, hợp nhất, hoà hợp, phối hợp, sát nhập nhiều

bộ phận thành một chỉnh thể (xem 46 + 81…). Chính vì vậy có một
thời kỳ, danh từ ấy được dịch sang tiếng Việt với nghĩa là "nhất thể
hoá", hơn mười năm lại nay nó mới được dịch nghĩa là "liên kết". Mặc
dù vậy, cách hiểu về "liên kết kinh tế" (Economic Integration) trong
những năm qua vẫn rất khác nhau. Một số thì coi liên kết kinh tế là
một hình thức tổ chức sản xuất xã hội giống như tập trung hoá, hiệp
tác hoá, liên hiệp hoá sản xuất. Số khác lại coi nó là hình thức quản lý
(xem 34 + 42 + 66 + 70). Đề tài do Phó giáo sư Hoàng Kim Giao làm
chủ nhiệm thì coi liên kết kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh các
mối quan hệ về hiệp tác, liên doanh, liên hợp hoá (xem 15 + 16). Đề
tài do Phó Giáo sư Nguyễn Đình Phan làm chủ nhiệm thì coi nó là một
phạm trù biểu hiện sự phối hợp hoạt động giữa các cá nhân, các tổ
chức hoặc giữa các quốc gia nhằm thực hiện những mục tiêu nhất
định với những hiệu quả kinh tế cao nhất (xem 45+45). Phổ thông hơn
(những nhà quản lý thực tiễn, các nhà báo…) mà nhiều người gọi là
quan niệm "dân dã " thì họ coi liên kết kinh tế gần như đồng nghĩa với
những quan hệ kinh tế theo chiều ngang giữa các doanh nghiệp và
giữa các cá nhân, chủ thể quản lý… (xem 30 + 31 + 67). Các văn bản
của nhà nước thì coi "liên kết kinh tế là những hình thức phối hợp hoạt
động, do các đơn vị kinh tế tự nguyện tiến hành đề cùng nhau bàn bạc
và đề ra các chủ trương biện pháp có liên quan đến công việc sản
xuất, kinh doanh của mình, nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển theo
hướng có lợi nhất" (54).
Như đã trình bày ở mục trên, chúng ta thấy tiền đề của quá trình
liên kết kinh tế là sự phát triển của quá trình phân công lao động xã
hội, chuyên môn hoá sản xuất kinh doanh. Quá trình liên kết kinh tế
xuất hiện trong nền sản xuất hàng hoá, nền kinh tế thị trường, khởi
thuỷ của nó là các quan hệ kinh tế, quan hệ trao đổi, mua-bán sản
phẩm, hàng hoá trên thị trường vận động phát triển qua nhiều nấc
thang trình độ cố kết bền vững của các quan hệ kinh tế giữa các

doanh nghiệp. Quá trình liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp diễn ra
trước hết trong lưu thông, trao đổi sản phẩm. Nó được đánh dấu bởi
sự hợp tác trao đổi sản phẩm giữa các doanh nghiệp. Sự bán - mua,
trao đổi hàng hoá không phải diễn ra một cách ngẫu nhiên, nhất thời
giữa các doanh nghiệp mà đã trở nên thường xuyên, liên tục, có hợp
đồng kế hoạch từ trước và ổn định bạn hàng trong một thời gian


tương đối dài. Rõ ràng là, vào thời điểm này, quan hệ kinh tế giữa các
doanh nghiệp đã chuyển biến về chất, nâng tầm quan hệ lên một trình
độ cao hơn, thường xuyên, ổn định và cố kết hơn, có sự thoả thuận
hợp tác lâu dài và bền vững hơn.
Quá trình đó được phát triển lên một giai đoạn cao hơn, tức là sự
hợp tác diễn ra ngay trong quá trình sản xuất. Giai đoạn này cũng
được phát triển qua nhiều nấc thang của nó. Bắt đầu chỉ là sự thoả
thuận phân công chuyên môn hoá sản xuất sản phẩm, chi tiết, bán
thành phẩm hoặc kinh doanh tiêu thụ sản phẩm, cung ứng vật tư thiết
bị giữa các doanh nghiệp với nhau, hoặc là cùng nhau góp vốn để
thực hiện một dự án, một nhiệm vụ chung cho các doanh nghiệp, như
đầu tư vào nghiên cứu khoa học, công nghệ, áp dụng tiến bộ khoa
học-kỹ thuật, tìm nguồn nguyên liệu mới, khai thác thị trường, nguồn
tài nguyên và lao động dồi dào… Quá trình liên kết kinh tế giữa các
doanh nghiệp còn phát triển lên đến những giai đoạn cao hơn đó là
liên hiệp, hợp nhất các doanh nghiệp lại với nhau hình thành một
doanh nghiệp thống nhất lớn hơn.
Nó là một quá trình kinh tế với nhiều hình thức cụ thể luôn luôn
vận động và phát triển, là những hình thức vận động của quan hệ sản
xuất xã hội thích ứng với trình độ của lực lượng sản xuất ở từng giai
đoạn trong nền kinh tế hàng hoá. Nó phản ánh các mối quan hệ về
hợp tác, liên doanh và liên hợp. Khi quá trình liên kết đạt tới việc sát

nhập hình thành nên một tổ chức, một doanh nghiệp mới lớn hơn, đó
là sự biểu hiện của tập trung sản xuất. Như vậy, chúng tôi hiểu, thực
chất hay bản chất của liên kết kinh tế chính là quá trình xã hội hoá về
phương diện kinh tế nền sản xuất xã hội. Sự phát triển của liên kết
kinh tế làm cho lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, mức độ tập
trung hoá ngày càng cao, làm cho các khu vực kinh tế ngày càng xích
lại gần nhau, gắn bó, cố kết với nhau hơn. Động cơ và mục đích chủ
yếu của liên kết kinh tế là nhằm đạt tới lợi nhuận tối đa và ổn định, là
nhằm tăng cường sức mạnh trong cạnh tranh trên thị trường ngày
càng mở rộng phạm vi. Lợi ích kinh tế là sợi dây, là chất nhựa làm gắn
bó các doanh nghiệp, các chủ thể liên kết lại với nhau. Cạnh tranh là
nhân tố khách quan thúc đẩy các doanh nghiệp "tự nguyện bắt buộc"
liên kết lại với nhau trên cơ sở đảm bảo lợi ích sống còn trên thị
trường. Để đạt tới lợi nhuận tối đa và ổn định giữa các thành viên,
hoạt động liên kết kinh tế lầ nhằm phát triển, tìm kiếm, khai thác ngày
càng nhiều nguồn nguyên liệu cho sản xuất, đa dạng hoá mặt hàng,
tăng nhanh khối lượng và chất lượng sản phẩm, rút ngắn và đẩy
nhanh quá trình lưu thông, tiêu thụ sản phẩm, mở rộng phát triển thị


trường, tức là nâng cao năng suất lao động, tồn tại, phát triển và
mang lại hiệu quả kinh tế ngày càng cao.
Liên kết kinh tế là một quá trình vận động phát triển tự nhiên, tuỳ
thuộc trình độ, phạm vi của phân công và chuyên môn hoá sản xuất
kinh doanh, tuỳ thuộc vào quá trình vận động phát triển của các quan
hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp, vào lợi ích của các bên tham gia
liên kết, vào môi trường cạnh tranh. Nó còn tuỳ thuộc vào mối quan hệ
nội tại giữa các doanh nghiệp, cũng như giữa các bộ phận, các khâu
của quá trình tái sản xuất xã hội, phụ thuộc vào sự "thử thách" của
quá trình quan hệ, vào trình độ công nghệ quản lý, cũng như năng lực

điều hành của đội ngũ cán bộ quản lý. Không thể áp đặt về phương
diện tổ chức từ bên ngoài, hoặc từ bên trên bất kỳ một hình thức tổ
chức liên kết kinh tế theo ý muốn chủ quan.
b. Xem xét trên những khía cạnh khác nhau ta thấy liên kết kinh tế
có những nét đặc trưng sau:
Một là, liên kết kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan. Nó
phản ánh những mối quan hệ nội tại khách quan xuất phát từ những
lợi ích kinh tế khách quan giữa những chủ thể kinh tế. Đồng thời nó
phản ánh một quá trình vận động phát triển tự nhiên của lực lượng
sản xuất xuất phát từ trình độ và phạm vi của sự phân công lao động
xã hội, chuyên môn hoá sản xuất-kinh doanh.
Hai là, chúng là những quan hệ kinh tế đạt đến trình độ gắn bó
chặt chẽ, ổn định, thường xuyên, lâu dài, thông qua những thoả thuận
hợp đồng từ trước giữa các bên tham gia liên kết. Khác với cách quan
niệm có tính chất "phổ thông", "dân dã", không phải tất cả các quan hệ
kinh tế theo chiều ngang giữa các doanh nghiệp đều là liên kết kinh tế.
Những quan hệ kinh tế nhất thời, những quan hệ buôn bán trao đổi
thường nhật, ngẫu nhiên bất kỳ giữa các doanh nghiệp… không phải
là liên kết kinh tế.
Ba là, liên kết kinh tế là một quá trình là xích lại gần nhau và ngày
càng cố kết, đi đến thống nhất trên tinh thần tự nguyện giữa các thành
viên liên kết. Quá trình này vận động phát triển qua những nấc thang
quan hệ từ hợp tác, liên doanh đến liên hợp, liên minh, hợp nhất
lại.Và như vậy, quá trình phân công chuyên môn hoá là quá trình tiền
đề, điều kiện, là quá trình vừa đối lập biện chứng , vừa bổ sung không
thể thiếu được của quá trình liên kết kinh tế. Còn hợp tác hoá và liên
hợp hoá là những hình thức biểu hiện của những nấc thang, những
bước phát triển khác nhau của liên kết kinh tế. Quá trình liên kết kinh
tế phát triển đến bước hợp nhất, thống nhất lại thành một đơn vị kinh



tế lớn hơn, sẽ chuyển sang một giai đoạn mới khác hẳn về chất. Đó là
sự thể hiện của sự tập trung (concentration) sản xuất. Giữa các phạm
trù trên vừa có sự phân biệt, vừa có sự thống nhất biện chứng với
nhau.
Tóm lại: quá trình liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp diễn ra
theo nấc thang với các hình thức sau:
- Quan hệ hợp tác trao đổi sản phẩm lâu dài , (chủ yếu diễn ra
trong lĩnh vực quan hệ thương mại).
- Hợp tác phân công, chuyên môn hoá sản xuất.
- Liên doanh.
- Liên hiệp hoá sản xuất-kinh doanh và liên minh kinh tế.
Bốn là, liên kết kinh tế là những hình thức hay những biểu hiện
của sự phối hợp hoạt động giữa các thành viên liên kết thông qua
những "giao kèo", "thoả thuận", "hợp đồng", "hiệp định", "điều lệ",
thông qua những hình thức, hình thể nào đó, nhằm thực hiện những
mục tiêu nhất định với hiệu quả kinh tế cao nhất trong tất cả các lĩnh
vực khác nhau của hoạt động kinh tế (đầu tư, sản xuất, kinh doanh,
khoa học, công nghệ, bảo vệ tài nguyên, môi trường…). Tuỳ theo góc
độ xem xét, nếu quá trình liên kết được diễn ra:
- Giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành kinh tế-kỹ thuật goị
là liên kết theo ngành;
- Giữa các doanh nghiệp thuộc các ngành và các khâu khác nhau
của quá trình tái sản xuất xã hội gọi là liên kết liên ngành;
- Giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau
(có các hình thức sở hữu khác nhau) gọi là liên kết giữa các thành
phần kinh tế (còn gọi là giữa các khu vực kinh tế);
- Giữa các doanh nghiệp trong một vùng lãnh thổ địa phương nhất
định gọi là liên kết theo vùng (địa phương);
- Giữa các doanh nghiệp vượt ra ngoài phạm vi một vùng lãnh thổ

địa phương nào đó gọi là liên kết liên vùng;
- Giữa các doanh nghiệp thuộc các quốc gia khác nhau, tức là
vượt ra ngoài phạm vi khuôn khổ một quốc gia nào đó, gọi là liên kết
quốc tế.
Các hình thức liên kết kinh tế được biểu hiện về phương diện tổ
chức hình thể đã và đang diễn ra trong lịch sử với nhiều tên gọi rất
phong phú: Các - ten (Cartel), Xanh - đi - ca (Syndicate), Tờ - rớt
(Trust), Công – xooc – xi - om (Consortium), doanh nghiệp chung vốn


(Partnership), Công ty, Công ty cổ phần, Tổng công ty (Company,
Corporation, General Co.), Công ty trách nhiệm hữu hạn (Co.Ltd), Tập
đoàn (Concern, Conglomerate, Group), Xí nghiệp (Công ty) liên doanh
(Joint venture), Nhóm sản phẩm, Vệ tinh, Xí nghiệp liên hợp
(Combinate), Liên hiệp các xí nghiệp (Union of enterprises), Tổ hợp
sản xuất - lãnh thổ (APK), Tổ chức hiệp tác (Cooperation), Hiệp hội
(Society, Association)…
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CỦA CÁC QUAN HỆ LIÊN KẾT KINH TẾ GIỮA
SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI
2.1 Quá trình phát triển các quan hệ liên kết kinh tế ở nước
ta:
Trước khi đi vào phân tích tình hình thực tiễn của quá trình liên kết
kinh tế giữa sản xuất và thương mại, cần phải điểm qua quá trình lịch
sử vận động và thực trạng quan hệ liên kết kinh tế giữa các doanh
nghiệp trong nền kinh tế quốc dân nói chung để hiểu rõ hơn về bối
cảnh.
a/ Mặc dầu nền kinh tế hàng hoá nước ta còn kém phát triển, song
khi tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp thành công, tiếp thu
những quan điểm kinh tế và chính trị của các nước xã hội chủ nghĩa,

mà chủ yếu là Liên Xô trước đây, chúng ta đã tiến hành một loạt biện
pháp nhằm liên kết các doanh nghiệp với mong muốn làm biến đổi
nhanh chóng nền kinh tế quốc dân: Tiến hành cải cách ruộng đất, hợp
tác hoá trong nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp, xây dựng và
phát triển mạnh các xí nghiệp công, thương nghiệp, các nông trường,
lâm trường quốc doanh, tiến hành quản lý nền kinh tế quốc dân theo
cơ chế kế hoạch hoá tập trung.
Năm 1956, vừa mới tiến hành xong công cuộc cải cách ruộng đất thực hiện xong khẩu hiệu "người cày có ruộng", hai năm sau (1958)
chúng ta đã bắt tay vào tiến hành phong trào hợp tác hoá một cách ồ
ạt và cũng chỉ hai năm sau (1960) đã "căn bản hoàn thành phong trào
hợp tác hoá" trong nông nghiệp với 88,8% số hộ nông dân miền Bắc
gia nhập hợp tác xã. Cũng trong thời gian này chúng ta vừa tiến hành
cải tạo công, thương nghiệp tư bản tư nhân, vừa xây dựng các cơ sở
công, thương nghiệp, nông trường quốc doanh. Sau ngày miền Nam
hoàn toàn giải phóng, thống nhất tổ quốc, chúng ta lại tiến hành rầm
rộ phong trào hợp tác hoá trong nông nghiệp và cải tạo công thương
nghiệp tư bản tư nhân ở miền Nam.


Tư tưởng về sự phân công, hiệp tác giữa các khu vực sản xuất-cơ
sở nền tảng của quan hệ liên kết kinh tế - đã được đặt ra ngay trong
Nghị quyết 21-NQ/TW ngày 5 tháng 7 năm 1961 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá III, trong đó ghi rõ yêu cầu của
sự phân công hiệp tác của khu vực thủ công nghiệp với công nghiệp
quốc doanh. Nghị quyết số 143-CP ngày 3 tháng 8 năm 1970 của Hội
đồng Chính phủ, quy định về nguyên tắc phân công, hiệp tác giữa
công nghiệp quốc doanh với tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp
(xem 44).
Tuy nhiên, do xuất phát từ việc tiếp thu một cách máy móc mô
hình hợp tác hoá và liên hợp hoá ở các nước xã hội chủ nghĩa, cùng

với sự choáng ngợp bởi thành tựu trong chiến tranh giải phóng dân
tộc do có sự đóng góp phần nào của phong trào hợp tác hoá và cải
tạo công thương nghiệp nói trên mà tháng 8 năm 1974 tại Hội nghị
tổng kết công tác tổ chức sản xuất nông nghiệp ở Thái Bình đã đề ra
yêu cầu phải tạo ra các "công trường thủ công XHCN". Cho nên, trong
nông nghiệp đã đẩy mạnh phong trào quy mô hợp tác xã toàn xã và
còn có ý đồ đưa nhanh lên quy mô hợp tác xã liên xã, cùng với tư
tưởng xây dựng huyện nông-công nghiệp và pháo đài bảo vệ tổ
quốc… Mặc dù, trình độ lực lượng sản xuất-công cụ sản xuất và kỹ
thuật canh tác thô sơ, lạc hậu, cán bộ quản lý năng lực kém, trình độ
sản xuất hàng hoá còn thấp.
Trong công, thương nghiệp thì sự áp dụng quá trình liên hợp hoá
một cách máy móc cũng được tiến hành một cách tràn lan. Hình thức
liên hiệp các xí nghiệp ở nước ta bắt đầu xuất hiện vào cuối năm 1974
(thành lập Liên hiệp các xí nghiệp chè) và cuối năm 1975 thành lập
liên hiệp các xí nghiệp dệt. Từ chủ trương "đẩy mạnh chuyên môn
hoá, tổ chức tốt việc hợp tác hoá và liên hợp hoá trong sản xuất, tạo
điều kiện tổ chức các nhóm sản phẩm, công ty, xí nghiệp liên hợp, liên
hiệp các xí nghiệp" của Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IV,
sau đó là Chỉ thị số 548-TTg ngày 1 tháng 12 năm 1978 của Thủ
tướng Chính phủ về việc "Tổ chức các Liên hiệp sản xuất" và Nghị
định số 302-CP ban hành điều lệ về "Tổ chức và hoạt động của Liên
hiệp các xí nghiệp", bằng các biện pháp tổ chức hành chính chúng ta
đã tiến hành sát nhập rất nhiều xí nghiệp, công ty, cửa hàng, nông
trường. Trạm trại... vào thành các liên hiệp các xí nghiệp, xí nghiệp
liên hợp, nhóm sản phẩm, tổng công ty một cách ồ ạt, máy móc mà
không tính đến tất yếu kinh tế-kỹ thuật, không tuân theo nguyên tắc tự
nguyện... Theo thống kê chưa đầy đủ của Viện quản lý kinh tế Trung
ương thì đến nay trên cả nước có trên 200 Liên hiệp (Tổng công ty)



các xí nghiệp theo ngành và vùng (địa phương). Trong thời kỳ thực
hiện quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, một số Liên hiệp và
Tổng công ty bước đầu đã có những tác dụng đáng kể trong việc quản
lý theo ngành. Nhưng phần đông chưa có tác dụng thực sự, bởi có sự
chồng chéo về mặt chức năng đối với cơ quan quản lý Nhà nước cấp
Bộ. Mặt khác, xét về phương diện hiệu quả sản xuất-kinh doanh, thì
trên thực tế, đại bộ phận là kém hiệu quả. Hơn nữa, nó còn cản trở
tính độc lập, tự chủ, sáng tạo của các doanh nghiệp cơ sở.
Quan hệ giữa công nghiệp (kể cả thủ công nghiệp) và thương
nghiệp thời kỳ này có đặc điểm nổi bật là hình thức gia công thương
nghiệp mang tính phổ biến. Các xí nghiệp công nghiệp chủ yếu sản
xuất hàng gia công trên cơ sở định mức tiêu hao nguyên vật liệu, tiền
công do các cửa hàng, công ty thương nghiệp định ra và giao cho
theo từng tháng, từng quý và theo từng lô sản phẩm. Thực chất của
mối quan hệ này là sự phụ thuộc một chiều của các doanh nghiệp sản
xuất công nghiệp vào các doanh nghiệp thương mại. Hình thức này đã
tồn tại trong cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp.
Nó được thực hiện theo kế hoạch pháp lệnh và tiến hành tiêu thụ (mà
thực chất là giao nộp sản phẩm) cho các công ty thương mại theo địa
chỉ đã được chỉ định từ trước của kế hoạch Nhà nước. Trong mối
quan hệ đó lợi ích của các doanh nghiệp sản xuất bị xâm phạm đáng
kể. Dù có hiểu là quan hệ liên kết kinh tế thì chính nó thể hiện tính
chất gò bó, gượng ép. Tuy nhiên trong chừng mực nào đó, hình thức
gia công thương nghiệp vẫn có phần biểu hiện quan hệ có tính chất
"hai bên" giữa doanh nghiệp sản xuât và doanh nghiệp thương mại.
Đồng thời nó đã góp phần tạo ra nhiều công ăn việc làm và thu nhập
cho người lao động ở các xí nghiệp công nghiệp. giải quyết được một
phần khó khăn về nguyên vật liệu. Về phía các công ty thương mại
thực sự chủ động và ít nhiều tạo được nguồn hàng khá ổn định

thường xuyên cung cấp cho người tiêu dùng theo kế hoạch trên giao.
Có thể nói, cùng với việc tiếp thu và áp dụng một cách máy móc,
duy ý chí quan niệm xây dựng nhanh CNXH và nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung, quá trình liên kết kinh tế ở nước ta trước những năm
1980 không được tiến hành một cách tự nguyện và dần dần từ thấp
đến cao, thông qua những tất yếu kinh tế, xuất phát từ trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất và các quan hệ kinh tế, cùng với sự đáp
ứng về trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý. Nó diễn ra
một cách tràn làn, ồ ạt, bất chấp quy luật, bằng biện pháp hành chính
tổ chức dội từ trên xuống, chủ yếu thông qua mối quan hệ liên kết dọc,


thậm chí đi ngay vào quá trình liên kết ở giai đoạn cao và dẫn đến có
nhiều yếu kém trong quản lý kinh tế, hiệu quả kinh tế vô cung thấp.
b/ Nghị quyết Hội nghị trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần
thứ 6 (khoá IV) cuối năm 1979 đề ra chủ trương đẩy mạnh phát triển
công nghiệp hàng tiêu dùng, công nghiệp địa phương, tăng cường và
phát huy quyền tự chủ của các địa phương và cơ sở đã tạo điều kiện
cho việc tìm tòi phát hiện nhiều hình thức kinh tế năng động, thích
hợp, mở rộng và phát triển các quan hệ kinh tế giữa các đơn vị kinh tế
cơ sở. Mặt khác, đầu những năm 80 (1981) trên trường quốc tế,
chúng ta bắt đầu tham gia vào quá trình liên kết kinh tế quốc tế XHCN
(sau khi đã trở thành thành viên của Hội đồng tương trợ kinh tế
(SEV)), cũng là một nhân tố thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế giữa
các doanh nghiệp trong nước ra đời và phát triển với nhiều hình thức
phong phú đa dạng.
Cũng chính vào cuối những năm 70, đầu những năm 80 này, nền
kinh tế nước ta gặp khó khăn nhất trong sản xuất kinh doanh. Hầu hết
các xí nghiệp đều thiếu vật tư nguyên liệu cho sản xuất, phụ tùng thiết
bị thay thế, mức huy động công suất máy móc thiết bị vào sản xuất chỉ

khoảng 25-30% công suất thiết kế. Để triển khai thực hiện Nghị quyết
Trung ương 6 khoá IV, tức chủ trương "bung ra" trong sản xuất kinh
doanh, phát triển mạnh kinh tế gia đình, Nghị quyết 25+26/CP đã đưa
ra chủ trương "kế hoạch 3 phần" và "4 nguồn khả năng" tạo điều kiện
cho hoạt động kinh tế của các đơn vị sôi động hẳn lên. Các đơn vị
được quyền tìm kiếm bạn hàng, trao đổi những vật tư "dư thừa, ứ
đọng", sản phẩm của kế hoạch "phụ", phần "vượt" kế hoạch, các
doanh nghiệp được quyền trao đổi để buôn bán công khai, tự nguyện
quan hệ với nhau ngày càng phổ biến. Từ chỗ lúc đầu quan hệ mua
bán với nhau từng đợt một và số lượng ít ỏi, cá đơn vị tiến lên quan
hệ mua bán trao đổi vật tư sản phẩm với nhau thường xuyên hơn,
khăng khít hơn và đi đến ký kết các hợp đồng sản xuất những vật tư
cho nhau một cách ổn định, thường xuyên (tất nhiên vẫn chỉ nằm
trong khuôn khổ kế hoạch "phụ"). Tóm lại là các đơn vị đã mở rộng và
phát triển quan hệ liên kết kinh tế nhằm mục tiêu bảo đảm nguồn
nguyên vật liệu, phụ tùng thay thế cho sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp. Chính nó đã thực sự tháo gỡ khó khăn cho các xí
nghiệp trong giai đoạn này. Các văn bản pháp quy của Nhà nước đã
chính thức thừa nhận "nguồn hàng do liên kết kinh tế tạo ra là một
trong 4 nguồn khả năng để thực hiện kế hoạch sản xuất-kinh doanh
của các đơn vị cơ sở".


Tuy vậy, một phần do chưa định rõ thế nào là liên kết kinh tế, một
phần do chưa có các luật, lệ, các văn bản pháp quy ban hành để quy
định phạm vi chó phép "bung ra" của các hoạt động kinh tế nói chung,
quy định tính chất, nội dung của liên kết kinh tế nói riêng, mà hầu như
tất cả các hoạt động kinh tế, quan hệ kinh tế giữa các đơn vị diễn ra
ngoài phạm vi khuôn khổ kế hoạch pháp lệnh của nhà nước đều được
coi là liên kết kinh tế. Nhiều doanh nghiệp nhà nước đã lợi dụng danh

nghĩa "liên kết kinh tế" để hoạt động phi pháp, biến vật tư quý hiếm
được phân bổ theo chỉ tiêu kế hoạch nhà nước thành những "vật tư
dư thừa' hoặc "sản phẩm phụ" để "liên kết" thu lãi lớn… Thực chất là
đã gây khó khăn thêm cho việc thực hiện kế hoạch nhà nước nói
chung. Vì vậy, để chấn chỉnh một bước các hoạt động kinh tế của các
doanh nghiệp quốc doanh, nhằm thực hiện chủ trương "bung ra đúng
hướng", cũng như quy định hướng dẫn nội dung, tính chất và phạm vi
hoạt động liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp, Hội đồng Bộ trưởng
đã ban hành Nghị quyết số 56/HĐBT về cải tiến quản lý kinh tế nhằm
sửa đổi Nghị quyết số 25, 26/CP và Quyết định số 162/HĐBT quy định
về hoạt động liên kết kinh tế vào tháng 11 năm 1984. Với các quyết
định này, phạm vi của liên kết kinh tế đã bị thu hẹp hơn, do đó làm
lành mạnh hơn các hoạt động kinh tế, các quan hệ kinh tế giữa các
doanh nghiệp, dù vẫn còn "kế hoạch hai phần" và "kế hoạch ba phần".
Do vậy, quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp từ đó có hai dạng
khác nhau: dạng quan hệ thứ nhất thực hiện theo ý đồ của Nhà nước,
của cơ quan quản lý cấp trên, tức theo địa chỉ chỉ định của kế hoạch
Nhà nước, dạng quan hệ thứ hai hình thành khi các đơn vị sản xuất
kinh doanh tự tìm đến nhau hợp tác làm ăn. Dạng quan hệ thứ hai chủ
yếu diễn ra trong phạm vi giải quyết những nhiệm vụ "thứ yếu", nhiệm
vụ "phụ thêm", nhiều doanh nghiệp đã dựa vào thế mạnh của mình và
tìm thấy thế mạnh của nhau, đã tiến hành thoả thuận hợp tác, liên kết
làm ăn với nhau tương đối lâu dài.
Mười tám xí nghiệp của Tổng công ty tạp phẩm (nay là Tổng công
ty Nhựa Việt Nam thuộc Bộ Công nghiệp nhẹ) hàng năm có khả năng
sản xuất 180 mặt hàng, trong khi đó chỉ có 80 mặt hàng kế hoạch
được Nhà nước đảm bảo vật tư, còn lại 100 mặt hàng tự cân đối qua
khâu liên kết và sản xuất phụ. Nổi bật nhất là mặt hàng mũ thợ lò là
sản phẩm liên kết có hiệu quả nhất giữa Công ty xuất nhập khẩu than
(coallimex) và Tổng công ty tạp phẩm. Còn ở Công ty bột giặt miền

Nam (thành phố Hồ Chí Minh), từ 1979 về trước nguồn vật tư cho sản
xuất 100% được thực hiện qua kế hoạch Nhà nước. Sang năm 1980
thì kế hoạch Nhà nước chỉ đảm bảo được 90% vật tư, còn 10% được


thực hiện qua khâu liên kết. Năm 199, các cơn số tương ứng là70%
và 30%. Đến năm 1992 thì 30% là do kế hoạch Nhà nước phân phối,
còn 70% thực hiện qua khâu liên kết. Nhà máy cao su Vinh (Nghệ An)
nhờ liên kết kinh tế với Nhà máy cao su Sao Vàng mà khép kín dây
chuyền sản xuất lốp xe đạp. Sự kết hợp chặt chẽ giữa Nhà máy cơ
khí Tam Hiệp (Bộ Lâm nghiệp) với các viện nghiên cứu và các cơ sở
sản xuất khác đã rút ngắn được thời gian nghiên cứu để sản xuất phụ
tùng xe REO, tiết kiệm cho Nhà nước hàng triệu đồng ngoại tệ mạnh
(mỗi năm khoảng 500.000 USD). Sự liên kết giữa Nhà máy chế tạo
máy công cụ số 1 (nay thuộc Bộ Công nghiệp nặng) với 20 nhà máy
và Viện nghiên cứu đã sản xuất thành công dây chuyền thiết bị toàn
bộ cho các trạm thuỷ điện loại 2000-3000 KW và loại 5-6 MW… sản
xuất hoàn chỉnh thiết bị dây chuyền sản xuất líp xe đạp… Trong tổ
chức "hiệp tác" này, Nhà máy công cụ số 1 đảm nhiệm vai trò trung
tâm tổ chức liên kết. Các đơn vị khác được phân công khảo sát, thiết
kế, sản xuất những phụ kiện, Nhà máy công cụ số 1 lắp ráp, được
thực hiện bằng các hợp đồng sản xuất về quy cách, chủng loại, phẩm
chất theo những tiêu chuẩn quy ước với những đơn giá đã được
thống nhất giữa các bên. Hợp tác xã mua bán xã Thanh Hoà (Vĩnh
Phú) thì đứng làm trung gian liên kết giữa các hộ nông dân trồng sắn
trong huyện với Nhà máy rượu Đồng Xuân, thông qua phương thức
ký hợp đồng trao đổi hàng hai chiều với giá cả thoả thuận giữa các
bên. Hàng đối lưu chủ yếu là sắn và rượu. Nhờ đó Nhà máy rượu
Đồng Xuân có đủ nguyên liệu, bà con nông dân bán được sắn, có
rượu uống theo giá thoả đáng… (xem thêm 31+56).

c/ Từ cuối năm 1985 trở đi, sau khi có Nghị quyết Hội nghị trung
ương Đảng lần thứ 8 (khoá V), chuyển hoạt động kinh tế của các
doanh nghiệp sang hạch toán kinh doanh, đặc biệt từ sau Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI, quyết định chuyển nền kinh tế nước ta
sang sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, cùng với Quyết định
217/HĐBT (1987) giao quyền tự chủ cho giám đốc các doanh nghiệp
Nhà nước, làm cho hoạt động sản xuất-kinh doanh của các doanh
nghiệp ngày càng linh hoạt, năng động, cácc quan hệ kinh tế giữa các
doanh nghiệp diễn ra mạnh mẽ, sôi động, đan xen phức tạp và ngày
càng gắn bó mật thiết với nhau hơn. Các quan hệ kinh tế nhất thời
giữa các doanh nghiệp luôn luôn vận động chuyển hoá phát triển sang
quan hệ hợp tác, liên kết lâu dài hơn, ngày càng nhiều. Các quan hệ
liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp đi vào thực chất hơn, diễn ra
theo đúng quy luật tất yếu của quá trình phát triển kinh tế nói chung,
của các quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp nói riêng và phạm vi
của chúng đã bao trùm trên toàn bộ các mặt hoạt động, trên toàn bộ


nhiệm vụ sản xuất-kinh doanh của mỗi doanh nghiệp . Hoạt động liên
kết kinh tế trở nên sôi động, phong phú hơn, diễn ra trên tất cả các
lĩnh vực, các thành phần kinh tế, cho nên Nghị quyết Hội nghị Trung
ương lần thứ 3 (khoá VI) đưa vấn đề liên kết trở thành một nội dung
quan trọng của Nghị quyết. Tinh thần của Nghị quyết đã xác định liên
kết kinh tế trở thành một nội dung quan trọng của các hoạt động kinh
tế, đặc biệt trong nền kinh tế hàng hoá, trên cơ sở hiệu quả kinh tế và
phát triển. Đồng thời Nghị quyết cũng nêu rõ yêu cầu hoạt động liên
kết kinh tế phải tuân thủ pháp luật, không gây tổn hại đến hoạt động
kinh doanh của các doanh nghiệp, đảm bảo các bên cùng có lợi. Mặt
khác ngày 22 tháng 3 năm 1989, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị
định số 28/HĐBT về "Điều lệ xí nghiệp liên doanh" (hay "Xí nghiệp cổ

phần") và ngày 4 tháng 4 năm 1989 ban hành Quyết định số 38/HĐBT
về "Liên kết kinh tế trong sản xuất, lưu thông, dịch vụ" thay cho Quyết
định số 163/HĐBT ngày 14 tháng 11 năm 1984, quy định cụ thể đối
với việc thành lập, giải thể hoạt động của các xí nghiệp liên doanh (xí
nghiệp cổ phần, chung vốn), những nội dung chủ yếu của liên kết kinh
tế trong điều kiện chuyển sang phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần .
Nhìn chung, cùng với quá trình chuyển nền kinh tế nước ta từ hoạt
động, vận hành theo cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, quan liêu
bao cấp sang vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước, cùng với việc xác lập, mở rộng quyền tự chủ cho các doanh
nghiệp Nhà nước, kiện toàn tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà
nước (theo Quyết định số 388/HĐBT về đăng ký, thành lập, giải thể
các doanh nghiệp Nhà nước và Chỉ thị số 202/CT của Thủ tướng
Chính phủ về cổ phần hoá thí điểm các doanh nghiệp Nhà nước) việc
xác lập quyền bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp trước pháp
luật (không phân biệt loại hình sở hữu và cấp quản lý), đã làm cho các
hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp ngày càng chủ động, tích
cực, sống động và "lành mạnh", làm cho nền kinh tế nước ta ngày
càng đi vào thế ổn định và phát triển. Quá trình đó cũng làm cho các
quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp ngày càng mở rộng. Song
song với nó, quan hệ liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp cũng
được gia tăng, phát triển từ thấp đến cao, từ lỏng lẻo đến cố kết
khăng khít. Liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp đã và đang phát
triển với nhiều loại hình phong phú, đa dạng, tồn tại xen kẽ, đan chéo
và bên cạnh nhau. Phổ biến nhất hiện nay là hình thức hợp tác đầu tư
sản xuất-kinh doanh và liên doanh, trong đó hình thức liên doanh phát
triển mạnh. Nhiều xí nghiệp, công ty liên doanh hai bên và nhiều bên
đã và đang được thành lập cùng các hình thức hợp tác sản xuất-kinh



×