Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

THIÊN NHIÊN TRONG THƠ NGUYỄN KHUYẾN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.14 KB, 61 trang )

THIÊN NHIÊN TRONG THƠ NGUYỄN KHUYẾN

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nguyễn Khuyến (1835-1909) là một trong những cây đại thụ của nền văn học
dân tộc. Tuy bóng mát của cây đại thụ ấy không rợp bóng thời gian suốt bao thế
kỷ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, nhưng gốc rễ của nó đã ăn sâu vào đất Việt, góp
phần tạo nên tâm hồn dân Việt.
Là nhà thơ có tài năng về nhiều mặt đồng thời sống trong giai đoạn đất nước
có nhiều biến động, nhưng tài năng thơ văn của Nguyễn Khuyến vẫn tỏa sáng trên
thi đàn dân tộc. Đọc thơ Nguyễn Khuyến chúng ta sẽ cảm nhận sâu sắc về một tâm
hồn yêu nước sâu nặng nhưng cũng rất thầm kín và chân thành. Đóng góp của ông
tuy không rực rỡ như người anh hùng Nguyễn Trãi cũng không vang dội như tên
tuổi của đại thi hào Nguyễn Du với tuyệt tác Truyện Kiều nhưng cái tên Nguyễn
Khuyến đã gắn liền với “nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam” như một
dấu son trong nền văn học trung đại Việt Nam.
Thiên nhiên trong thơ văn Nguyễn Khuyến không chỉ là bức tranh tuyệt đẹp
về làng quê Việt Nam mà đó còn là những cảnh sinh hoạt nông thộn vô cùng chân
thực và rất mực gần gũi. Ẩn đằng sau những bức tranh ấy còn là một tâm hồn rất
đáng quý của nhà thơ Yên Đổ đối với nhân dân, đất nước. Từ niềm ngưỡng mộ
chân thành đối với nhà thơ Nguyễn Khuyến cũng như sự yêu quý những bức tranh
thiên nhiên đậm đà màu sắc dân tộc trong thơ văn ông mà chúng tôi quyết định
chọn đề tài tiểu luận “Thiên nhiên trong thơ văn Nguyễn Khuyến”.
Chọn đề tài này chúng tôi mong muốn sẽ mang đến một số đóng góp cho
công tác nghiên cứu thơ văn Nguyễn Khuyến đồng thời phục vụ cho công tác
giảng dạy sau này vì Nguyễn Khuyến là tác gia được chọn giới thiệu ở trường phổ
thông. Đi sâu vào việc tìm hiểu hình ảnh thiên nhiên trong thơ văn ông, chúng tôi
mong muốn có cái nhìn toàn vẹn hơn về tài năng của Nguyễn Khuyến trong việc
miêu tả thiên nhiên đồng thời tìm hiểu những tâm sự mà nhà thơ gửi gắm đằng sau



những bức tranh thiên nhiên tràn đầy màu sắc, hình ảnh, âm thanh và dạt dào cảm
xúc ấy.

2. Lịch sử vấn đề
Đối với đề tài “Thiên nhiên trong thơ văn Nguyễn Khuyến”, đã có rất nhiều
công trình nghiên cứu và bài viết của nhiều tác giả đề cập đến với nhiều góc độ,
khía cạnh khác nhau. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu sau đây:
Nhà thơ Xuân Diệu với công trình nghiên cứu “Các nhà thơ cổ điển Việt
Nam” đã gọi Nguyễn Khuyến là: “Nhà thơ của quê hương, làng cảnh Việt Nam”.
Ở đây, Xuân Diệu đã có sự cảm nhận rất sâu sắc về ba bài thơ thu của Nguyễn
Khuyến. Ở mỗi bài thơ, Xuân Diệu đã phát hiện ra những cái hay riêng về phương
diện nội dung cũng như hình thức. Xuân Diệu cho rằng: “Ba bài thơ thu hay vì
Nguyễn Khuyến là một thi sĩ có tài. Nhưng cần một điều kiện nữa: là nhà thơ có
tài ấy phải gắn bó, thâm nhập, hòa tâm hồn mình một cách sâu sắc, thấm thía với
đất nước Việt Nam. Nhà thơ ấy phải sống như Nguyễn Khuyến” [2, 411]. Không
chỉ ca ngợi Nguyễn Khuyến là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam, Xuân Diệu còn
cho rằng: “Hai trục xúc cảm rất rõ trong thơ Nguyễn Khuyến, là quê hương làng
nước, và đồng bào nhân dân; không phải tâm hồn nhà thơ nào cũng có cả hai trụ
cột như thế” [2, 411]. Từ quan niệm của Xuân Diệu về nhà thơ Nguyễn Khuyến
chúng ta có thể thấy Nguyễn Khuyến là một nhà thơ gắn bó mật thiết với quê
hương làng cảnh Việt Nam.
“Thi hào Nguyễn Khuyến – đời và thơ” do Nguyễn Huệ Chi chủ biên là công
trình nghiên cứu nhằm “cố gắng ghi nhận những bước đổi thay đáng kể trong quá
trình nhận diện lại Nguyễn Khuyến, đánh dấu bằng hội nghị khoa học lớn về
Nguyễn Khuyến năm 1985, nhân kỷ niệm 150 năm ngày sinh nhà thơ” [1, 24]. Bên
cạnh việc đi sâu vào tìm hiểu, tập hợp những tài liệu, những bài viết nghiên cứu về
cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Nguyễn Khuyến, Nguyễn Huệ Chi còn
nhận định về nhà thơ như sau: “Nguyễn Khuyến đã đưa lại cho bức tranh làng
cảnh Việt Nam cũng như cho khung cảnh sinh hoạt của nông thôn Việt Nam



hương vị, màu sắc, đường nét, sức sống như nó vẫn tồn tại, mà ủ kín trong đó là
cái hồn muôn đời của con người, đất nước Việt Nam” [1, 24].
“Nguyễn Khuyến về tác gia và tác phẩm” do Vũ Thanh tuyển chọn và giới
thiệu (Nxb Giáo dục – 2007) là “sự tập hợp một cách rộng rãi những bài viết và
công trình khoa học tiêu biểu về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Khuyến từ xưa
đến nay nhằm đem đến cho bạn đọc một bức tranh toàn cảnh những thành tựu
trong việc nghiên cứu một trong những tác gia văn học lớn nhất cuối thế kỷ XIX.
Cuốn sách ra đời với mong muốn trở thành cơ sở cho bước tiếp theo trong việc
nghiên cứu sự nghiệp của nhà thơ được cả dân tộc yêu mến” [10, 44]. Quyển sách
gồm có bốn phần chính: Phần một: Nguyễn Khuyến giữa bước ngoặt lịch sử và sự
chuyển mình của văn học dân tộc; Phần hai: Từ những biến đổi trong quan niệm
thẩm mĩ đến nhà thơ của con người và làng cảnh Việt Nam; Phần ba: Sự kết hợp
phức điệu và tài hoa trong một phong cách thơ; Phần bốn là phần phụ lục. Như
vậy tác giả đã tập hợp các bài viết, công trình nghiên cứu và phân chia theo nội
dung của mỗi bài để chúng ta có cái nhìn tổng quát hơn về cuộc đời, sự nghiệp
sáng tác của nhà thơ Nguyễn Khuyến cũng như phong cách nghệ thuật của thơ văn
ông. Đồng thời đây cũng là tài liệu tham khảo vô cùng quý báu cho chúng ta tham
khảo về nhà thơ Nguyễn Khuyến nói chung và đề tài “Thiên nhiên trong thơ văn
Nguyễn Khuyến” nói riêng.
Đặng Thị Hảo với bài viết “Đề tài thiên nhiên và quan niệm thẩm mĩ” đã
khẳng định: “…thơ thiên nhiên chỉ chiếm một phần ba trong tổng số hơn bốn trăm
bài thơ ông để lại, nhưng những cống hiến quan trọng của nhà thơ trên phương
diện này đã đưa ông lên vị trí những thi sĩ – danh họa tầm cỡ của thơ ca cổ điển
Việt Nam. Mảng thơ phong cảnh được viết bằng cả hai thứ văn tự Hán Việt của
ông là những sắc thái khác nhau của cùng một phong cách nghệ thuật thống nhất
– phong cách Yên Đỗ - góp phần vào việc khẳng định khả năng biểu hiện kỳ diệu
của thơ thiên nhiên trước mọi vấn đề của đời sống xã hội, đời sống tinh thần, tình
cảm của con người”[10, 258]. Tác giả bài viết còn chỉ ra sự kế thừa và phát triển
của Nguyễn Khuyến khi sáng tác về mảng đề tài thiên nhiên trong thơ ca trung đại



Việt Nam. Đồng thời chỉ ra những nét đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả thiên nhiên
của nhà thơ như sau: “Nhà thơ tái hiện thiên nhiên bằng một bút pháp nghệ thuật
điêu luyện, bằng khiếu quan sát tinh tường, một trực giác nhạy bén trước vẻ đẹp
đa dạng của thiên nhiên, cùng với tình yêu quê hương hồn nhiên mà sâu sắc.
Dường như không phút nào nhà thơ ngừng theo dõi và tái hiện những bức tranh
thiên nhiên sống động quanh mình. Ông quan sát thiên nhiên, tắm mình trong thế
giới muôn ngàn màu sắc đó với niềm thích thú đặc biệt” [10, 260].
Phạm Ngọc Lan với bài viết “Những vần thơ xuân” đã giới thiệu đôi nét về
thơ xuân trong văn học trung đại Việt Nam từ đó đi sâu vào tìm hiểu, so sánh tính
kế thừa và phát triển trong những bài thơ xuân của Nguyễn Khuyến. Tác giả bài
viết này cho rằng: “Rõ ràng với ý nghĩa là ánh phản quang của thời đại và con
người tác giả, thơ xuân Nguyễn Khuyến đã không có chất lạc quan của thơ xuân
Lý Trần, cũng không có niềm say sưa của những tình cảm yêu đương hay sắc thái
cô đơn mà vẫn tự tin của thơ xuân thế kỷ trước. Thơ xuân của ông đã là tiếng nói
day dứt về nỗi đau nước mất, mà bản thân mình thì bất lực, vô dụng. Đó cũng là
một nét mới mà Nguyễn Khuyến đã đem vào trong nền thơ xuân dân tộc” [10,
267].
Với công trình nghiên cứu “Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn
hóa”, Trần Nho Thìn đã dành một phần để đi sâu vào tìm hiểu “Từ những biến
động trong quy tắc phản ánh thực tại của văn chương nhà nho đến bức tranh sinh
hoạt nông thôn trong thơ Nguyễn Khuyến”. Ở đây, tác giả đã chỉ ra những mâu
thuẫn và day dứt trong tâm hồn nhà thơ Nguyễn Khuyến trước thời cuộc của đất
nước. Bên cạnh đó, ông đã đi sâu vào tìm hiểu và lý giải về bức tranh thiên nhiên
trong thơ văn Nguyễn Khuyến như sau: “Với tư thế bình dân, phi nho của mình,
Nguyễn Khuyến có lẽ là người đầu tiên trong lịch sử văn học Nôm phản ánh một
cách khá cụ thể, sinh động bức tranh sinh hoạt hằng ngày của làng quê vào thơ
ông. Thiên nhiên làng quê không còn là không gian thanh tĩnh, xa lánh vật dục, xa
lánh chốn thị thành bon chen danh lợi như không gian thơ nhà nho truyền thống

nữa. Không đứng bên ngoài hay bên trên để quan sát nữa, cụ Tam Nguyên Yên Đổ


đã là người có mặt thật sự, hiện diện thường trực trong cuộc sống hằng ngày ấy,
tắm mình, đằm mình trong không khí ấy” [11, 568]. Có thể nói, Nguyễn Khuyến
đã từ bỏ tư thế nhà nho của mình để sống hòa mình với khung cảnh làng quê nên
ông mới có được những dòng thơ viết về thiên nhiên vô cùng chân thực và hay
đến như thế.
Nhìn chung, ở mỗi công trình nghiên cứu đều có những phát hiện, khám phá
rất mới mẻ và vô cùng sâu sắc. Đây chính là nguồn tư liệu vô cùng phong phú để
chúng ta có thể tìm hiểu về tác gia Nguyễn Khuyến một cách trọn vẹn và đầy đủ
nhất. Các tác giả không chỉ giới thiệu về vị trí của Nguyễn Khuyến trong nền văn
học trung đại Việt Nam mà còn đi vào tìm hiểu đề tài thiên nhiên trong thơ văn
ông.
Đối với đề tài “Thiên nhiên trong thơ văn Nguyễn Khuyến” ta thấy các công
trình nghiên cứu đã ít nhiều đề cập đến nhưng các tác giả chỉ tập trung đi sâu vào
việc khẳng định Nguyễn Khuyến là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam mà chưa có
cái nhìn thật bao quát về bức tranh phong cảnh và bức tranh tâm trạng trong thơ
văn ông. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu đã nêu sẽ là nguồn tài liệu vô
cùng quý báu để chúng ta tìm hiểu đề tài một cách hợp lý và thấu đáo.

3. Mục đích, yêu cầu
Ở đề tài này mục đích của người viết là đi vào tìm hiểu thiên nhiên trong thơ
văn Nguyễn Khuyến trên cơ sở so sánh với thiên nhiên trong thơ văn trung đại
Việt Nam. Bên cạnh đó, chúng tôi sẽ tìm hiểu thiên nhiên trong thơ văn Nguyễn
Khuyến ở hai mặt: Bức tranh phong cảnh và bức tranh tâm trạng. Cuối cùng là
xem xét nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong thơ văn ông trên ba bình diện: Bút
pháp tả thực, nghệ thuật tạo dựng hình ảnh và chất liệu đời thường.
Từ sự so sánh với thiên nhiên trong thơ văn trung đại Việt Nam với thiên
nhiên trong thơ văn Nguyễn Khuyến chúng ta sẽ thấy được sự kế thừa và phát

triển của Nguyễn Khuyến trong việc miêu tả thiên nhiên. Thiên nhiên trong thơ
văn Nguyễn Khuyến được thể hiện ở mặt nội dung lẫn mặt hình thức. Tìm hiểu nội
dung và nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong thơ văn Nguyễn Khuyến sẽ giúp


người đọc vừa phát hiện ra tài năng của Nguyễn Khuyến đồng thời yêu quý và trân
trọng tấm lòng yêu quê hương, đất nước của nhà thơ Yên Đổ.

4. Phạm vi nghiên cứu
Ở đề tài này, đầu tiên người viết sẽ khái quát thiên nhiên trong thơ văn trung
đại qua bốn giai đoạn chính sau đó mới đi sâu vào tìm hiểu thiên nhiên trong thơ
văn Nguyễn Khuyến. Ở phần nội dung chính này chúng tôi chỉ đi vào phân tích
những bài thơ có miêu tả thiên nhiên ở mặt nội dung và hình thức nghệ thuật để
làm sáng tỏ cho đề tài đã chọn.

5. Phương pháp nghiên cứu
Để giúp cho việc hoàn thành đề tài một cách khoa học và hợp logic chúng tôi
sẽ sử dụng kết hợp nhiều phương pháp như: tổng hợp, so sánh, liệt kê… và các
thao tác chứng minh, phân tích, đánh giá… để làm rõ vấn đề.
Đầu tiên chúng tôi sẽ tổng hợp các tài liệu có liên quan đến đề tài sau đó đi
vào phân tích thơ văn Nguyễn Khuyến đồng thời so sánh với những tác giả khác
trong văn học trung đại để làm cho đề tài thêm phong phú và thú vị.

Chương 1

THIÊN NHIÊN TRONG THƠ VĂN TRUNG ĐẠI
1.1. Thiên nhiên trong thơ văn thời Lý - Trần.
1.1.1. Thiên nhiên trong thơ văn thời Lý.
Văn học thời Lý vốn mang nặng hệ ý thức Phật giáo. Đặc điểm của văn học
thời kỳ này là lực lượng các nhà sư sáng tác chiếm đa số trên văn đàn. Phật giáo

chiếm vị trí độc tôn trong đời sống tinh thần của dân tộc. Để đáp ứng nhu cầu
truyền bá rộng rãi đạo Phật vào trong nhân dân, các nhà sư đã tìm cách thể hiện
những triết lý Phật giáo vốn trừu tượng, khó hiểu qua hình thức các bài kệ ngắn
gọn, sinh động, dễ nhớ, dễ hiểu để giúp người học đạo được thuận lợi hơn trong
quá trình nghiên cứu, học tập. Và như vậy văn học thời Lý có tác dụng là công cụ


hỗ trợ tích cực cho việc truyền bá lý thuyết đạo Phật. Do đó thiên nhiên trong văn
học thời này chủ yếu gắn liền với những quan niệm triết lý của Phật giáo.
Triết lý Phật giáo cho rằng vạn vật trong vũ trụ này cùng chung một bản thể.
Cùng một bản thể mà lại biến hóa và biểu hiện dưới muôn vàn dạng thức khác
nhau. Phật giáo đã cho rằng mọi vật trong thế gian này chỉ là muôn vàn dạng thức
biểu hiện của cùng một bản thể, thì tất phải cho rằng con người cùng với trời đất
và muôn loài chẳng qua chỉ là cùng một thể chất. Với quan niệm ấy, văn học
Thiền tông đã dễ dàng đem nhập con người làm một với thiên nhiên. Đoàn Văn
Khâm trong bài thơ “Văn Quảng Trí thiền sư” đã tỏ lòng thương tiếc nhà sư vừa
mất như sau:
“Đạo lữ bất tu thương vĩnh biệt,
Viện tiền sơn thủy thị chân hình”.
(Các đạo hữu không nên đau thương vì sự vĩnh biệt, Núi sông trước chùa
trông xa, ấy là chân hình của nhà sư).
Như vậy quan niệm của Phật đồng nhất bản thể của con người với thiên
nhiên. Dù cho nhà sư có chết đi thì đó chỉ là sự hủy diệt về mặt thân xác, còn bản
thể thật sự của nhà sư thì vẫn tồn tại mãi trong thiên nhiên, cây cỏ, núi sông.
Ngoài ra, hình ảnh thiên nhiên thường xuất hiện trong thơ văn thời kỳ này
chủ yếu là để giúp cho các nhà sư giảng dạy những lý thuyết Phật giáo của họ:
“Giác hưởng tùy phong xuyên trúc đáo,
Sơn nham đái nguyệt quá tường lai”.
(Kệ của thiền sư Viên Chiếu)
(Tiếng tù và theo gió luồn trúc mà đến, Ngọn núi cao cõng trăng vượt tường

mà qua).
Hay:
“Xuân hoa dữ hồ điệp,
Cơ luyến cơ tương vi”.
(Kệ của thiền sư Viên Chiếu)


(Hoa xuân và bươm bướm, Hầu quyến luyến nhau lại hầu xa rời nhau).
Thiên nhiên xuất hiện trong những câu thơ trên vừa trữ tình, lãng mạn lại vô
cùng giàu hình ảnh, giàu sức gợi tả. Nhưng thực chất những câu thơ này không
nhằm vào việc miêu tả thiên nhiên mà chỉ cốt ý làm sáng tỏ cho quan niệm về sự
hòa đồng giữa vạn vật và con người. Đó là sự xóa bỏ ranh giới giữa chủ thể nhận
thức và đối tượng nhận thức. Những hình tượng sinh động và những tứ thơ độc
đáo đã làm cho thiên nhiên dù không phải là bức tranh của hiện thực nhưng vẫn rất
gợi hình đồng thời chuyển tải được những triết lý Phật giáo nằm ẩn đằng sau câu
chữ của bài kệ.
Tuy dùng thơ để truyền đạt những lý thuyết vốn khô khan, khó nhớ của đạo
Phật nhưng các nhà sư vẫn có những lời thơ rất đẹp về thiên nhiên với đầy đủ màu
sắc, hương vị và âm thanh.
“Khô mộc phùng xuân hoa giác phát,
Phong suy thiên lý phức thần hương”
(Cây héo vào xuân hoa nở dậy, Gió đưa ngàn dặm nức hương thần)
Hay:
“Ly hạ trùng dương cúc,
Chi đầu noãn nhật oanh”.
(Hoa cúc tiết dương nở chân giậu, Chim oanh ngày trời ấm hót đầu cành).
Thiên nhiên xuất hiện trong thơ đời Lý không hề cứng nhắc khô khan mà rất
giàu xúc cảm với một niềm thiết tha yêu đời, yêu cuộc sống mặc dù khung cảnh
thiên nhiên trong thơ thường bị chi phối bởi cái nhìn “sắc không”. Chẳng hạn ở
bài Cáo tật thị chúng, Mãn giác thiền sư đã làm sáng tỏ cho quan niệm “sắc

không”của nhà Phật qua sự đối sánh giữa thời gian tuần hoàn của vũ trụ với thời
gian ngắn ngủi của đời người đồng thời thể hiện niềm hy vọng của con người
trong cuộc sống:
“Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá,


Lão tòng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tân,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”.
(Xuân qua trăm hoa rụng, Xuân đến trăm hoa đua nở. Việc đời trôi qua trước
mắt, Cảnh già hiện ra trên mái đầu. Chớ bảo rằng xuân tàn hoa rụng hết, Đêm qua,
sân trước, một nhành mai).
Nhìn chung, thơ Thiền tông đời Lý mỗi khi đề cập đến thiên nhiên thì các
thiền sư đều muốn qua đó gửi gắm những quan điểm triết học của mình. Đáng chú
ý là quan niệm vạn vật nhất thể của Thiền tông đã đưa đến sự hòa đồng giữa nhà
thơ và thiên nhiên. Sự hòa đồng này đã làm cho thiên nhiên trở nên rất đỗi gần gũi,
gắn bó với con người trong một thể thống nhất hoàn chỉnh.

1.1.2. Thiên nhiên trong thơ văn thời Trần
Bên cạnh việc phản ánh lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, văn học thời
Trần còn thể hiện lòng yêu mến cảnh thiên nhiên tươi đẹp của đất nước. So với
thiên nhiên trong thơ văn thời Lý, thiên nhiên trong thơ văn thời Trần đã có nhiều
nét thực hơn và đẹp hơn hẳn. Các nhà thơ không còn dùng thơ văn để thuyết giáo
cho những lý thuyết của nhà Phật nữa mà thay vào đó là những cảm xúc rất tinh tế
trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước. Họ đã bắt đầu chú ý đến việc miêu tả cuộc
sống bình dị nơi thôn dã:
“Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô bán hữu tịch dương biên.

Mục đồng địch lý ngưu quy tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền”.
(Xóm trước thôn sau tựa khói lồng, Bóng chiều như có thoắt dường không.
Mục đồng thổi sáo trâu về hết, Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng).
(Thiên Trường vãn vọng – Trần Nhân
Tông).
Tuy nhà thơ chỉ miêu tả bằng thứ ngôn ngữ rất giản dị nhưng vẫn thể hiện
được cái “thần” riêng của bức tranh phong cảnh. Không chỉ miêu tả cuộc sống và


sinh hoạt của con người nơi thôn dã, các nhà thơ thời này còn mang khát khao
muốn thâu tóm tất cả những chi tiết phong phú của cảnh vật thiên nhiên vào trong
bức tranh thơ của họ:
“Cô tự thê lương thu ái ngoại,
Ngư thuyền tiêu sắt mộ chung sơ.
Thủy minh, sơn tĩnh, bạch âu quá,
Phong định, vân nhàn, hồng thụ sơ”.
(Ngôi chùa cổ ẩn mình sau lớp khói mùa thu, Thuyền câu hiu hắt, chuông
chiều bắt đầu điểm. Nước trong, núi lặng, chim âu trắng bay qua, Gió im, mây
nhởn nhơ, cây lơ thơ lá đỏ)
(Lạng Sơn vãn cảnh – Trần Nhân
Tông)
Ngoài ra, ở nhiều bài thơ của các nhà thơ thời kỳ này, thiên nhiên không chỉ
là đối tượng thẩm mỹ mà còn là điều kiện để các nhà thơ giải bày, bộc bạch tâm sự
của mình. Chẳng hạn, Trần Minh Tông đã từng mượn tiếng mưa đêm để nói lên
tâm trạng ân hận, day dứt không nguôi suốt ba mươi năm vì một quyết định sai
lầm của mình mà dẫn đến cái chết vô tội của hàng trăm người trong vụ án Trần
Quốc Chẩn (1328):
“Thu khí hòa đăng thất thự minh,
Bích tiêu song ngoại độ tàn canh.

Tự tri tam thập niên tiền thác,
Khẳng bã nhàn sầu đối vũ thanh”
(Dạ vũ – Trần Minh Tông)
(Hơi thu hòa cùng ánh đèn mờ đi trước ánh ban mai, Giọt mưa rơi trên tàu lá
chuối ngoài song cửa tiễn canh tàn. Tự biết sai lầm của mình ba mươi năm trước,
Nay đành ôm sầu ngồi nghe mưa rơi)
Không chỉ yêu mến cảnh thiên nhiên tươi đẹp của đất nước các nhà thơ thời
kỳ này còn thông qua những bức tranh thiên nhiên để thể hiện niềm tự hào về
những chiến công oanh liệt của dân tộc.


“Lâu Lãi hang sâu hơn đáy giếng,
Chi Lăng ải hiểm tựa trời cao.
Ngựa leo, gió lướt ngoảnh đầu lại,
Cửa khuyết trời tây mây ráng treo”
(Ải Chi Lăng – Phạm Sư
Mạnh).
Với niềm tự hào về truyền thống đấu tranh vẻ vang của dân tộc, các tác giả
thường khai thác đề tài sông Bạch Đằng với cảm hứng ca ngợi đầy sảng khoái, tự
hào:
“Ánh nước chiều hôm màu đỏ khé,
Tưởng rằng máu giặc vẫn chưa khô”
(Bạch Đằng giang – Trần Minh Tông)
Như vậy, thiên nhiên trong thơ văn thời Trần hết sức phong phú, đa dạng.
Các nhà thơ đã bước đầu phát hiện và cảm nhận những vẻ đẹp bình dị mà tuyệt vời
của thiên nhiên đất nước. Đây là sự tiếp nối thơ văn miêu tả thiên nhiên của thời
Lý và là nền tảng để các nhà thơ giai đoạn sau kế thừa và phát huy.

1.2. Thiên nhiên trong thơ văn thời Lê
Nếu kể từ năm 1418 là khi Lê Lợi khởi nghĩa cho đến năm 1505 ( khi Lê

Hiển Tông mất, thì thời thịnh của nhà Lê kéo dài non một trăm năm. Văn học thế
kỷ XV được chia thành hai giai đoạn với hai nội dung khác nhau:

1.2.1. Giai đoạn nửa đầu thế kỷ XV
Nội dung chủ yếu của văn học nửa đầu thế kỷ XV là nội dung ca ngợi cuộc
kháng chiến chống quân Minh và người anh hùng Lê Lợi. Đây là giai đoạn văn
học tập trung phản ánh cuộc chiến đấu cho độc lập dân tộc và những cố gắng
nhằm xây dựng chế độ trong thời bình. Âm điệu anh hùng là âm điệu chủ đạo của
văn học nửa đầu thế kỷ XV. Chính vì thế, các tác gia thời kỳ này khi viết về thiên
nhiên cũng mượn thiên nhiên để thể hiện âm điệu này.
Trước tiên, thiên nhiên trong văn học nửa đầu thế kỷ XV thể hiện niềm tự
hào về những địa danh đã làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân


Minh xâm lược. Những địa danh nổi tiếng như Lam Sơn, núi Chí Linh, sông Bạch
Đằng đã lần lượt xuất hiện trong sáng tác giai đoạn này nhằm ca ngợi truyền thống
đấu tranh bất khuất của dân tộc ta.
Cuộc kháng chiến chống xâm lược và thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam
Sơn đã trở thành nguồn đề tài lớn cho các nhà văn, nhà thơ mặc sức sáng tác với
tên tuổi của tác gia như Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn, Nguyễn
Thời Trung,… Chẳng hạn Nguyễn Mộng Tuân được mệnh danh là một “kiện
tướng về phú” trong đó có nhiều bài phú ca ngợi kháng chiến như Chí Linh sơn
phú, Lam Sơn phú, Lam Sơn giai khí phú, Nghĩa Kỳ phú… Hay Lý Tử Tấn cũng có
Chí Linh sơn phú, Xương Giang phú vừa là những bài vừa mô tả tinh thần kháng
chiến anh dũng của quân dân ta vừa vạch tội ác dã man của quân giặc. Ngay cả
người anh hùng Nguyễn Trãi cũng có những câu văn rất đẹp về những địa danh đã
làm nên chiến thắng vẻ vang của dân tộc
“Nhìn núi này cao vợi vợi chừ, nhớ xưa gian khổ,
Gây dựng nên nghiệp vương chừ, quên lãng sao đang.
Xin ghi thịnh đức vào đá chừ, lưu truyền bất hủ,

Mãi nghìn đời, vạn đời chừ, cùng trời đất miên trường”.
(Chí Linh sơn phú - Nguyễn Trãi)
Bên cạnh đó thiên nhiên lúc bấy giờ được thể hiện qua cái nhìn lý tưởng về
một xã hội lý tưởng mà các nhà thơ muốn xây dựng.
“Tinh đẩu nhất thiên giai củng bắc,
Giang hà vạn phái tận trào đông.
Mao nghê cổ vũ quy vương hóa,
Hà nhĩ âu ca yển đức phong”.
( Tứ hải nhất gia - Lý Tử Tấn)
(Cả trời sao đều quay về hướng bắc, Muôn dòng sông thảy nhằm vào hướng
đông. Già lẫn trẻ mừng rỡ theo về vương hóa, Khắp xa gần vui hát, thuận triều đức
phong).


Bài thơ ca ngợi mối thống nhất của nước Đại Việt, và niềm mơ ước về một
đất nước hòa bình thống nhất của nhà thơ Lý Tử Tấn. Và Nguyễn Trãi trong bài
thơ Hạ quy Lam Sơn I cũng đã vẽ nên một hình ảnh rất đẹp về đất nước trong
cảnh thái bình:
“Viễn phương ngọc bạch đồ vương hội,
Trung Quốc uy nghi đổ Hán quan.
Sóc tẩm dĩ thanh kình lãng tức,
Nam châu vạn cổ cựu giang san”
(Hạ quy Lam Sơn I)
(Phương xa mang ngọc lụa đến dâng, vẽ thành bức tranh “vương hội”, Uy
nghi của nước cũ lại được thấy ở các quan triều đình mới khôi phục. Khí dữ
phương Bắc đã trong, sóng kình đã lặng, Non sông nước Nam còn mãi muôn đời).
Không chỉ thể hiện niềm tự hào về truyền thống đấu tranh bất khuất của dân
tộc, ca ngợi đất nước trong thời hòa bình, các nhà thơ còn đi sâu vào việc miêu tả
thiên nhiên gắn liền với đời sống hiện thực. Đó là cảnh thiên nhiên tươi đẹp mang
đậm phong vị quê hương và rất mực gần gũi. Ta có thể bắt gặp những vần thơ viết

về thiên nhiên thôn dã vừa tinh tế lại vừa giản dị trong thơ văn thời kỳ này:
“Hà thời kết ốc vân phong hạ,
Cấp giản phanh trà chẩm thạch miên”.
(Bao giờ làm được nhà dưới núi mây, Múc nước suối nấu chè, gối hòn đá
ngủ).
Đó là những dòng chữ miêu tả thiên nhiên bằng chữ Hán của Nguyễn Trãi.
Còn ở thơ Nôm, ông đã phản ánh một cách cụ thể về cuộc sống và con người Việt
Nam qua hình ảnh thiên nhiên. Tác giả miêu tả phong vị quê hương thật đậm đà
bằng cách sử dụng chữ Nôm - tiếng mẹ đẻ của dân tộc:
“Tả lòng thanh mùi núc nác
Vun đất ải rảnh mồng tơi”
(Ngôn chí - bài 9)
“Ao quan thả gửi bè rau muống,


Đất bụt ương nhờ một rảnh mùng”.
(Thuật hứng- bài 23)
Qua những bài thơ Nôm của Nguyễn Trãi ta thấy những ước lệ tượng trưng
trong việc miêu tả thiên nhiên đã được thay dần bằng những chất liệu của đời sống
thực. Đó là bè rau muống, rảnh mồng tơi, kê, khoai, … những sản vật rất gần gũi
với người nông dân và cuộc sống nông thôn.
Cùng với Nguyễn Trãi, nhà thơ Lý Tử Tấn cũng có những bài thơ miêu tả
thiên nhiên rất hay, mang đậm màu sắc thôn dã:
“Hòe thủ âm âm đạc vấn tường,
Hà hoa niểu niểu phiến tân hương.
Nhất phần thu sắc quân thiên sắc,
Tứ cố sơn quang tiếp thủy quang.
Tử giải hàm hoang sơ thướng đoạn,
Hương duyên đái lục sảo thiêm nhương”.
(Sơ thu - Đầu mùa thu)

(Cây hòe đo bóng trên tường phấn, Hương sen dịu dàng phả hương thơm
mới. Một phần sắc thu pha với sắc trời, Bốn bề ánh núi tiếp liền ánh nước. Cua đỏ
tía ngậm gạch vàng đã chui vào rọ, Phật thủ thơm đượm màu xanh, dần dần thêm
múi).
Phong vị quê hương mà Lý Tử Tấn yêu mến và miêu tả đã gợi lên cho chúng
ta những vần thơ của Nguyễn Trung Ngạn vào thế kỷ XIV:
“Dâu già lá rụng tằm vừa chín
Lúa sớm nở hoa cua béo ghê
Nghe nói quê nhà nghèo vẫn tốt
Giang Nam vui thú chẳng bằng về”
(Quy hứng)
Các nhà thơ trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XV không chỉ thể hiện tấm lòng
yêu mến cảnh thiên nhiên tươi đẹp của quê hương đất nước mà bên cạnh đó còn
phần nào bộc lộ những bất mãn đối với chính quyền phong kiến. Là những người


trí thức đầy tài năng nhưng không được trọng dụng nên đôi lúc họ cảm thấy bất
mãn thời thế, chán nản muốn về quê ở ẩn, lánh xa chốn danh lợi nhiều cạm bẫy.
Chính vì thế họ sống hòa mình với thiên nhiên, mượn thiên nhiên làm bầu bạn để
tìm sự thanh thản cho tâm hồn. Chẳng hạn, ở nhà thơ Nguyễn Trãi ta sẽ bắt gặp
một hồn thơ chan hòa tình cảm đối với thiên nhiên và con người. Ông luôn có
cách nhìn, cách cảm sâu sắc trước vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên, xem thiên
nhiên là bạn, là láng giềng, là anh em trong những ngày ở ẩn tại Côn Sơn:
“Cò nằm hạc lặn nên bầy bạn.
Ấp ủ cùng ta làm cái con”.
Hay:
“Láng giềng một áng mây bạc,
Khách khứa hai ngàn núi xanh”.

1.2.2. Giai đoạn nửa cuối thế kỷ XV

Văn học nửa cuối thế kỷ XV được tính từ năm 1460, năm Lê Thánh Tông lên
ngôi. Lúc này, chế độ phong kiến của nước ta đang ở vào thời kỳ thịnh trị. Ở thời
kỳ này nhà vua là người giám sát và chỉ đạo trực tiếp việc sáng tác văn học của
triều thần. Lực lượng sáng tác chủ yếu là nho sĩ quan liêu, nhất là các triều thần
được Lê Thánh Tông tuyển chọn vào Hội Tao Đàn. Do đó, nội dung chủ yếu của
văn học giai đoạn này là nội dung thù phụng, ca ngợi sự thịnh trị của chế độ phong
kiến và tài đức của vua Lê Thánh Tông.
Các nhà thơ sáng tác dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của nhà vua về đề tài, cảm
hứng nên đôi khi khuynh hướng ca ngợi, thù tạc không kém phần khiên cưỡng, thụ
động. Và thiên nhiên trong giai đoạn này (trong Hồng Đức quốc âm thi tập) có
nhiều bài mang tính chất ngâm vịnh tiêu khiển với đề tài công thức, tuy cũng có
câu đẹp, lời hay nhưng phần nhiều sáo rỗng, ít giá trị. Tuy nhiên cũng có một số
bài của một số tác giả thể hiện được tình cảm chân thực của nhà thơ đối với cảnh
vật, trong số đó đáng chú ý là những bài miêu tả cảnh vật thiên nhiên mang đậm
màu sắc dân tộc. Chẳng hạn, nhà thơ Nguyễn Trực đã có những nét độc đáo trong
cách miêu tả thiên nhiên đơn giản nhưng có ý nghĩa sâu sắc:


“Địa viễn phi trần thiểu,
Sơn cao đắc nguyệt đa”.
(Đề Cực Lạc tự)
(Xa đất nên bụi ít, Trên cao được trăng nhiều).
Hay nhà thơ Thái Thuận thì lại chú ý đến cái bình thường, dung dị nơi đồng
quê:
“Mao xá nhân yên lý,
Cô chu tiểu bạc thì.
Thôn đồng tam tứ bối,
Duyên thủy mịch bành kỳ”.
(Hoàng giang tức sự)
(Nhà cỏ tuôn làn khói, Thuyền con ghé mái bồng. Trẻ con năm bảy tốp, Bắt

cáy dọc ven sông)
Nhà thơ Nguyễn Bảo lại có những bức tranh quê hết sức cụ thể và sinh động.
Tình cảm trong thơ ông là tình cảm của một người gắn bó sâu sắc với làng mạc,
ruộng đồng:
“Ly biên ế ế giá miêu trưởng,
Thảo lý thanh thanh vu diệp hy”.
(Mía cạnh giậu tre đang nảy ngọn, Khoai trong đám cỏ đã xanh cây).
Các tác giả nói trên phần nhiều không hề chịu sự gò bó theo những khuôn
mẫu của văn học cung đình, và đã có những nét tiến bộ rõ rệt trong nội dung sáng
tác mà đặc biệt là trong việc miêu tả cảnh sắc thiên nhiên. Qua những bài thơ viết
về thiên nhiên của họ chúng ta bắt gặp ở đó tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu con
người, yêu cuộc đời một cách chân thành và vô cùng sâu sắc.
Đó là những nhà thơ không bị ảnh hưởng của lối ngâm vịnh khuôn sáo chốn
cung đình. Còn những nhà thơ cung đình mặc dù bị gò bó trong những quy tắc
khuôn sáo nhưng thơ viết về thiên nhiên của họ vẫn có những câu, những bài rất
hay khi viết về cảnh sắc thiên nhiên của đất nước. Chẳng hạn, chủ nghĩa yêu nước
trong thơ văn Lê Thánh Tông được biểu hiện ở lòng tự hào vì non sông đất nước


tươi đẹp, hùng vĩ. Thơ văn của Lê Thánh Tông đã dành phần lớn cho cảm hứng về
thiên nhiên. Đây là cảnh đẹp của núi Lam Sơn, sông Lương Thủy nơi phát tích của
nhà Lê:
“Núi Lam Sơn cao chót vót như ôm lấy núi Thiên Mục, núi Lam Sơn vươn
mình tựa vào núi Thụ Mệnh. Hình dạng núi Lam Sơn im lặng như thương đàn trẻ
thơ, lởm chởm như dựng đứng những giáo mác. Ngọn núi cao ngất rồi phẳng dần,
thế núi bất bình rồi hoàn tán. Núi có chỗ to lớn và kéo dài, núi có chỗ bằng phẳng
và thư thái.
…(Sông Lương Giang) sóng mạnh nổi lên, đua nhau so sánh chiều cao; nước
thác ầm ĩ như thiêng liêng nhảy vọt. Gió gầm thác mạnh, chảy vướng lại lùi. Sóng
tan rã rồi chảy mạnh, sóng to lớn cứ găng nhau…”

(Phú chữ Hán: Lam Sơn Lương Thủy
phú).
Thơ vịnh cảnh của Lê Thánh Tông thường thể hiện sự quan tâm đến cuộc đời
hơn là đi tìm cái đẹp thiên nhiên thuần túy. Nhà vua miêu tả thiên nhiên nhưng
cũng đồng thời vẽ lại cảnh giàu có của đất nước:
“Tang giá liêu vân thổ vũ khoan,
Biều luân chưng phủ trọng kim hoàn.
Nhân gia đa thiểu lục âm hạ,
Xuyết thốc tâm trung địch bạc can”.
(Tang châu)
(Xanh tốt đồng dâu rộng thênh thang, Bầu, nồi quý giá tựa the vàng. Dưới
chòm cây mát nhà dăm mái, Vựa kén lau khô xếp dọc ngang).
Như vậy thơ văn trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ XV mặc dù mang tính chất
công thức, khuôn sáo do ảnh hưởng của lối sáng tác cung đình nhưng bên cạnh đó,
vẫn có những bài thơ rất hay viết về thiên nhiên. Các nhà thơ đã có sự sáng tạo
dần trong việc miêu tả thiên nhiên. Thiên nhiên không chỉ gần với đời sống thực
hơn mà còn thể hiện sự quan tâm và yêu mến cuộc sống của các tác giả thời kỳ
này.


1.3. Thiên nhiên trong thơ văn từ thế kỷ XVI - nửa đầu thế kỷ XVIII
Do tình trạng xã hội phức tạp nên các xu hướng văn học thời kì này có tính
chất chống đối nhau. Thơ văn từ nửa cuối thế kỷ XVI – đến nửa đầu thế kỷ XVIII
bên cạnh nội dung Thù phụng, ca ngợi chính quyền phong kiến còn có nội dung tố
cáo hiện thực xấu xa thối nát của chính quyền phong kiến đương thời. Tuy nhiên
trong giai đoạn này văn học vẫn có nội dung ca ngợi cảnh đẹp thiên nhiên đất
nước.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ lớn của thế kỷ XVI. Tiếng thơ của ông cũng
là tiếng nói của thế kỷ XVI, thế kỷ mà chế độ phong kiến nước ta bước đầu đi vào
con đường khủng hoảng, do đó tư tưởng của các tầng lớp sĩ phu cũng có nhiều xu

hướng phức tạp. Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ yếu sống ở nông thôn nên phần lớn tác
phẩm của ông được viết trong bối cảnh nông thôn khi nhà thơ về ở ẩn. Trong
nhiều bài thơ, Hán cũng như Nôm, ngoài những tình cảm đối với con người, nhà
thơ thường miêu tả cảnh đẹp ở thôn quê và lòng tha thiết của ông đối với cuộc
sống ẩn cư. Đối với thiên nhiên, thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm ít có những nét bút hào
hứng, hoành tráng như thơ Nguyễn Trãi. Có lúc ông dựa vào thiên nhiên để phát
biểu những quan điểm triết học hoặc quan niệm nhân sinh:
“Sơn đới thu dung thanh chuyển sấu,
Giang hàm nguyệt ảnh bạch tương xai.
Cơ quan liễu khước đô vô sự,
Tân quán sài môn tận nhật khai”.
(Ngụ hứng)
(Núi đượm sắc thu màu xanh hóa nhạt, Sông lồng bóng nguyệt, sắc trắng
ganh nhau. Trong lòng không có cơ tâm thì tự nhiên vô sự, Cửa sài ở quán Tân cứ
mở suốt ngày).
Thơ ông thường thể hiện tình cảm ấm áp, tâm hồn trong trẻo trong sự gắn bó
giữa con người và cảnh vật:
“Trăng trong gió mát là tương thức,
Nước biếc non xanh ấy cố tri”


(Thơ chữ Nôm: bài 90)
Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm vừa giản dị, tươi đẹp:
“Giang sơn tám bức là tranh vẽ,
Hoa cỏ tư mùa ấy gấm thêu”.
(Thơ chữ Nôm: bài 3)
lại vừa sinh động, tinh tế, hấp dẫn:
“Oanh sơ đầu thiệt tu huỳnh sáp,
Điệp bất câm phong hộ phấn nhi”.
(Thơ chữ Hán: Tao xuân)

(Chim oanh vàng rụt rè, vừa tập uốn lưỡi, Con bướm phấn bạo dạn, theo gió
tung bay).
Với niềm yêu mến tha thiết đối với thiên nhiên đất nước, Nguyễn Bỉnh
Khiêm đã viết nên những lời thơ mỹ lệ, tươi mát, hồn hậu thể hiện tấm lòng yêu
thiên nhiên và yêu mến cuộc đời sâu nặng
Ngoài ra, do tình hình nước nhà tạm thời bị chia cắt nên văn học phân giới
Bắc Nam sông Gianh và vì vậy thiên nhiên trong thơ văn thời kỳ này cũng có sự
khác nhau giữa Đàng ngoài và Đàng trong. Về nội dung tư tưởng, văn học Đàng
ngoài ở thế kỷ XVII, XVIII, trừ những tác phẩm có ít nhiều yếu tố chân thực, phần
lớn đầy tính chất thù phụng. Trịnh Căn thông qua cảnh trí thiên nhiên để nói lên sự
phồn vinh giả tạo của thế kỷ XVII:
“Lá tuôn doành quế màu lai láng,
Gấm trải đường hoa khách dập dìu”
(Quán Trấn Võ)
Hoàng Sĩ Khải cũng mô tả cảnh đẹp Thăng Long nhưng chỉ nhằm mục đích
thù phụng triều đại mới:
“Trường An phong cảnh hữu tình,
Có đường giong ngựa có thành xem hoa.
Cớ chi mày hỡi con đỗ vũ?
Quyến xuân về lại rủ hè sang.


Hây hây mơ mệt hải đường,
Xanh phô màn liễu, lục trương tán hòe”.
(Tứ thời khúc vịnh – Hoàng Sĩ
Khải)
Do mang tính chất thù phụng nên thơ văn viết về thiên nhiên của các tác giả
này phần lớn mang tính công thức và cầu kỳ. Thiên nhiên tuy đẹp nhưng lại không
hề mang tính chân thực mà chỉ là sự thù phụng ca ngợi sự thịnh trị giả tạo của
chính quyền phong kiến đương thời. So với văn học Đàng ngoài thì văn học Đàng

trong thể hiện hình ảnh thiên nhiên rất mực chân thực mặc dù hình thức nói chung
còn thô sơ. Đọc những đoạn thơ của Đào Duy Từ ca tụng cảnh Tư Dung ở Thuận
Hóa, những đoạn thơ của Mạc Thiên Tích ca tụng cảnh Hà Tiên, chúng ta thấy cả
một niềm vui, một sự tin tưởng ở tương lai, không hề thấy ở đây tư tưởng bi lụy
chán đời, dù có đôi chỗ ca ngợi với ý nghĩa thù phụng:
“Khéo ưa thay cảnh Tư Dung,
Cửa thông bốn bể nước thông trăm ngòi.
Trên trời tinh tú phân ngôi,
Đêm treo thỏ bạc, ngày soi ác vàng.
Dưới thời sơn thủy khác thường,
Động Đình ấy nước, Thái Hàng kìa non…”
(Tư Dung vãn – Đào Duy Từ)
Mạc Thiên Tích mặc dù là người Trung Quốc nhưng ông đã có công khai phá
vùng đất Hà Tiên và gắn bó với nơi này. Đọc Hà Tiên thập vịnh và Lư Khê nhàn
điếu phú, chúng ta không chỉ bàn đến tinh thần yêu thiên nhiên đất nước, tinh thần
nhàn tản yêu đời, mà còn chú ý đến tinh thần Việt hóa trong tư tưởng và qua bút
pháp của tác giả. Trong Hà Tiên thập vịnh bằng quốc âm, điển tích đã ít dùng và
lời văn đã khá thanh thoát:
“Dưới rừng mấy trẻ mục đồng,
Lưng trâu thổi địch, gió lồng theo khe”.
Hay:


“Hiu hiu ai phất gió đông,
Trên hồ tinh tú một dòng lung lay”.
Tóm lại thiên nhiên trong văn học giai đoạn này bên cạnh mục đích thù
phụng, ca ngợi chính quyền phong kiến là chủ yếu những vẫn có những vần thơ
rất hay viết về thiên nhiên và những cảnh sắc tươi đẹp của đất nước. Với sự phân
chia văn học Đàng ngoài và văn học Đàng trong, các nhà thơ đã thể hiện vẻ đẹp
của thiên nhiên đất nước ở cả hai miền và mỗi nơi đều có những nét đẹp riêng mặc

dù hình thức vẫn còn thô sơ thiếu sự trau chuốt.
1.4. Thiên nhiên trong thơ văn từ nửa sau thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX
Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX được bắt đầu
với sự ra đời của tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn và kết thúc với
tác giả Cao Bá Quát. Đây là giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của nền văn học dân
tộc trong suốt thời kỳ phong kiến. Vì sự phát triển của nó mà nhiều nhà nghiên
cứu đã mệnh danh cho giai đoạn này là giai đoạn văn học cổ điển Việt Nam. Văn
học giai đoạn này có một diện mạo riêng với một lực lượng sáng tác hùng hậu và
những đổi thay với nhiều khuynh hướng phức tạp, với những đặc điểm rất nổi bật.
Thiên nhiên trong giai đoạn văn học này cũng vô cùng phong phú. Từ Chinh phụ
ngâm của Đặng Trần Côn đến thơ Hồ Xuân Hương và Truyện Kiều của Nguyễn
Du, thiên nhiên lần lượt xuất hiện với những đặt sắc khác nhau. Thiên nhiên gắn
liền với phong cách tác giả.
Ở tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn do Đoàn Thị Điểm diễn
Nôm ta thấy: bút pháp tả cảnh trong Chinh phụ ngâm cũng đã phục vụ đắc lực
cho việc biểu hiện nội dung trữ tình của tác phẩm. Người ta thường ca ngợi tài
năng của Nguyễn Du trong việc tả cảnh ngụ tình. Về phương diện này, Chinh phụ
ngâm cũng thành công không phải ít. Ngoại cảnh ở đây gắn bó với tình người
nhưng là tình yêu đôi lứa. Từ cảnh tiêu điều lạnh lẽo của một ngày đông u ám:
“Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cảnh cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun”.
đến cảnh đẹp đẽ não nùng quyến rũ trong một đêm trăng lộng lẫy:


“Lá màn lay ngọn gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.
Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông”.
đều liên quan đến nỗi khát khao thầm kín nhưng thiết tha của người chinh phụ.
Rồi cảnh bạt ngàn của rừng chiều điểm bóng dáng một người lữ khách:

“Ngàn thông chen chúc khóm lau,
Cách ghềnh thấp thoáng người đâu đi về”
đã nói rất nhiều về nỗi lòng mong đợi của người khuê phụ.
Nhìn chung thiên nhiên trong Chinh phụ ngâm mang nặng tính chất ước lệ
tượng trưng mặc dù thiên nhiên chủ yếu là dùng để miêu tả nội tâm nhân vật và
những khát vọng hạnh phúc trong tâm hồn người chinh phụ.
Đến với Hồ Xuân Hương, nhà thơ nữ tiêu biểu nhất và cũng phức tạp nhất
của văn học giai đoạn này ta sẽ thấy thiên nhiên trong thơ nữ sĩ gắn liền với con
người và phẩm cách, cá tính độc đáo của bà. Tình cảm đối với thiên nhiên trong
thơ hồ Xuân Hương rất chân thực và tràn đầy sức sống.Trong thơ Hồ Xuân Hương
những bài thơ lấy đề tài trong cảnh vật thiên nhiên hay cảnh vật sinh hoạt hằng
ngày chiếm hơn một nửa số lượng thi phẩm. Trong số đó ta có thể tìm thấy một ít
bài mà tác giả của nó viết ra không phải cốt để tả cảnh, mà chỉ là mượn một cảnh,
một vật nào đấy để chế giễu các hạng người thường tự xưng là “anh hùng”, là
“quân tử” (Quả mít, Con ốc nhồi…), có bài tác giả gởi gắm vào đấy một nỗi niềm
tâm sự của mình (Bánh trôi nước). Ngoài ra, trong những bài khác, Xuân Hương
đã nói lên cái lòng yêu mến thắm thiết của mình đối với cảnh vật.
Cảnh vật trong thơ Hồ Xuân Hương tươi tắn, đậm đà và khỏe mạnh:
“Cầu trắng phau phau đôi ván ghép,
Nước trong leo lẻo một dòng thông”
(Giếng nước)
Thế giới vô tri vô giác trong thơ bà luôn cựa quậy, động đậy như tuồng cái
sức sống nội tại trong nó tràn đầy quá, mãnh liệt quá.


“Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc,
Đầm đìa lá liễu, giọt sương gieo”.
(Đèo Ba Dội)
Nói đến nghệ thuật tả cảnh của Xuân Hương, ta thường so sánh với thơ của
Bà huyện Thanh Quan, một nữ sĩ ra đời sau Xuân Hương không xa mấy. Điều này

rất có ý nghĩa. Lấy một bài tiêu biểu của Bà huyện Thanh Quan, bài Qua đèo
Ngang ta sẽ thấy trong đó một thế giới “không hình, không sắc, không mùi vị”, có
tiếng cuốc, tiếng đa đa nhưng thực ra đó là thứ âm vang mơ hồ ở trong lòng con
người. Và trong cái thế giới đó, cả không gian, cả thời gian, cả con người đều lắng
xuống trong một trạng thái ngưng đọng vĩnh viễn.
Xuân Hương là một nhà thơ yêu đời, yêu người, thiết tha với cuộc sống.
Chính vì thế bà yêu thiên nhiên trong cái độ phát triển sung sức của nó. Đứng
trước thiên nhiên ngay trước những gì tầm thường, nhỏ nhặt nhất, hình như bao
giờ bà cũng có một sự ngạc nhiên thú vị, bao giờ nữ sĩ cũng tìm thấy một hứng thú
mới mẻ, một lý do để gắn bó với cuộc sống:
“Đá kia có biết xuân già dặn,
Chả trách người ta lúc trẻ trung”.
(Đá ông chồng bà chồng)
Tình cảm đối với thiên nhiên của Hồ Xuân Hương là thứ tình cảm chân thành
lành mạnh, khác hẳn với những thứ tình cảm đối với thiên nhiên giả tạo, khuôn
sáo hoặc yếu đuối đầy rẫy trong văn học phong kiến của ta và cả trong văn học
lãng mạn sau này.
Nguyễn Du là nhà thơ có tên tuổi chói lọi nhất của giai đoạn văn học cổ điển
Việt Nam. Truyện Kiều là tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Du và cũng là tác
phẩm tiêu biểu nhất cho giai đoạn văn học cổ điển rực rỡ này. Tác phẩm Truyện
Kiều thành công về cả mặt nội dung lẫn hình thức và đã được các nhà nghiên cứu
tìm hiểu ở nhiều góc độ khác nhau. Trong đó, thiên nhiên trong Truyện Kiều cũng
mang những nét vô cùng độc đáo góp phần làm nên thành công cho tác phẩm.


Phong cảnh thiên nhiên trong Truyện Kiều có đầy đủ bốn mùa: xuân, hạ, thu,
đông và mỗi mùa đều có những nét đẹp riêng. Đây là vẻ đẹp của mùa xuân:
“Cỏ non xanh rợn chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Hay vẻ đẹp của mùa hè:

“Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông”
Thiên nhiên mang đầy những hình ảnh, màu sắc và âm thanh vô cùng gợi
cảm và tràn đầy sức sống. Nhưng điều đặc biệt trong Truyện Kiều, Nguyễn Du
đặc biệt chú ý đến việc miêu tả thiên nhiên để làm nền cho sự xuất hiện của các
nhân vật. Đồng thời Nguyễn Du cũng xem thiên nhiên như một tạo vật có hồn,
một nhân vật chứng kiến và cảm thông với mọi nỗi buồn đau của con người:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đặc biệt thành công khi miêu tả phong cảnh
thiên nhiên. Nếu ở tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân,
phong cảnh thiên nhiên chỉ là những nét vẽ mờ nhạt, sơ sài, thiếu sức sống thì đến
với Truyện Kiều, Nguyễn Du lại thổi cái hồn vào những phong cảnh thiên nhiên
tuyệt đẹp làm nền cho tác phẩm.
“Người lên ngựa kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
Dặm hồng bụi cuốn chinh an,
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh”
Những cảnh vật vừa thi vị hóa vừa biểu hiện sâu sắc tâm trạng của nhân vật.
Và đối với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã tạo dựng những hình ảnh thiên nhiên vừa
đẹp, vừa có hồn. Và hơn thế nữa thiên nhiên còn là một nhân vật chứng kiến mọi
nỗi buồn vui của con người trong truyện với thái độ cảm thông sâu sắc:
“Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường”.


Riêng tả cảnh thì Nguyễn Du cũng theo truyền thống có sẵn trong văn học
Trung Quốc cũng như trong văn học Việt Nam. Cảnh xen vào tâm trạng con người
là để làm nổi bật tâm trạng ấy. Nhiều khi không trực tiếp tả tâm trạng nhân vật mà
thông qua cảnh vật để gợi lên tâm trạng ấy. Tuy vẫn có những chỗ mang tính chất
công thức, ước lệ tượng trưng nhưng các yếu tố của đời sống thực dần được nhà

thơ chú ý khai thác. Có thể nói đối với Nguyễn Du, thiên nhiên là công cụ phục vụ
đắc lực cho việc bộc lộ nội tâm nhân vật.
Nhìn chung thiên nhiên trong giai đoạn văn học nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa
đầu thế kỷ XIX đã có sự tiến bộ vượt bậc so với các giai đoạn trước. Thiên nhiên
lúc bấy giờ đã có sự trau chuốt về mặt hình thức và hoàn thiện về mặt nội dung.
Đặc biệt, thiên nhiên trong thơ đã được các tác giả chú ý khai thác để làm bộc lộ
cho nội tâm nhân vật và cũng đồng thời giúp cho các nhà thơ có thể bộc lộ tính
cách và tài năng của mình.
Như vậy qua việc tìm hiểu thiên nhiên trong thơ văn trung đại, chúng ta đã có
cái nhìn khái quát về thiên nhiên qua các thời kỳ. Ở mỗi thời kỳ khác nhau thiên
nhiên trong thơ văn đều mang những đặc điểm riêng, những nét đặc sắc riêng.Tính
chất công thức ước lệ nhìn chung được các tác giả sử dụng nhiều trong việc miêu
tả thiên nhiên nhưng nó cũng dần được các tác giả thay thế bằng những chất liệu
của đời sống hiện thực. Điểm qua một số đặc điểm của thiên nhiên trong thơ văn
trung đại sẽ tạo nền tảng cơ sở để chúng ta đi vào tìm hiểu thơ văn Nguyễn
Khuyến. Từ đó chúng ta sẽ thấy được sự kế thừa và phát huy của ông trong quá
trình miêu tả thiên nhiên.

Chương hai

THIÊN NHIÊN TRONG THƠ VĂN NGUYỄN KHUYẾN
Sau khi cáo bệnh từ quan, Nguyễn Khuyến trở về với ruộng vườn. Hai mươi
năm của đời cụ là hai mươi năm giữa người, giữa cảnh thôn quê. Khác với Chu
Mạnh Trinh, Nguyễn Khuyến không chỉ mượn thiên nhiên làm bạn tiêu sầu, mà
còn hòa mình vào cuộc sống nông thôn. Với đặc điểm ấy, lời thơ cụ Nguyễn


×