Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

Phân tích tình hình thất nghiệp ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (660.03 KB, 35 trang )

CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU
1.1 LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Thất nghiệp là hiện tượng kinh tế vĩ mô ảnh hưởng sâu sắc và trực tiếp
đến mọi người. Thất nghiệp đồng nghĩa với chất lượng cuộc sống giảm đi, đời
sống xã hội bất an. Vì vậy, có lẽ không ngạc nhiên lắm khi thấy thất nghiệp
thường là chủ để tranh luận giữa các nhà kinh tế cũng như những người lập
chính sách kinh tế vĩ mô.
Việt Nam trong những năm gần đây nền kinh tế đang gặp không ít khó
khăn và chịu tác động mạnh mẽ của nền kinh tế toàn cầu, tình trạng suy giảm
kinh tế toàn cầu khiến tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam ngày càng gia tăng, đặc
biệt là lao động trong tầng lớp thanh niên, sinh viên mới ra trường, lao động
thành thị…. Thất nghiệp dẫn đến nhiều vấn đề bất ổn cho xã hội như: gia tăng
tỷ lệ tội phạm, vấn đề tâm lý, tỷ lệ phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc…
Cho nên vấn đề đặt ra cho đất nước ta hiện nay là giải quyết vấn nạn thất
nghiệp ổn thỏa, đang là vấn đề cấp bách và cần thiết để đưa nền kinh tế đất
nước đi lên hội nhập một cách toàn diện, sâu rộng hơn với các nước trên thế
giới.Mặc dù nền kinh tế nước ta trong những năm gần đây có nhiều chuyển
biến tốt nhưng tình trạng thất nghiệp vẫn chưa được đầy lùi và có chiều hướng
gia tăng. Tỷ lệ thất nghiệp tăng, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế lại chậm
lại, đây thật là vấn đề nan giải cho các nhà hoạch định kinh tế vĩ mô. Việt Nam
hiện có khoảng trên 54,4 triệu người trong độ tuổi lao động tại thời điểm
01/10/2014 và dự báo sẽ còn tăng, mỗi năm lại thêm hơn một triệu lao động
khiến cho áp lực của chính phủ phải tạo thêm việc làm ngày càng gia tăng.
Theo các chuyên gia kinh tế nhận xét thì có nhiều nguyên nhân dẫn đến thất
nghiệp như: do trình độ sản xuất ngày càng cao; áp dụng nhiều tiến bộ khoa
học kỹ thuật đòi hỏi một đội ngũ lao động có trình độ cao và chuyên môn
cao… chính vì vậy những người không đủ điều kiện dễ dàng bị sa thải; định
hướng nghề nghiệp cho lớp thanh niên còn nặng nề tư tưởng thích làm “thầy”
hơn làm “thợ”…
Chính vì những lý do trên, em chọn đề tài “Phân tích tình hình thất


nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2008 – 2014” nhằm tìm hiểu rõ hơn thực trạng
thất nghiệp, từ đó tìm hiểu nguyên nhân và nghiên cứu giải pháp nhằm góp
phần giải quyết cơ bản các vấn đề liên quan đến thất nghiệp.

1


1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1 Mục tiêu chung
Phân tích tình hình thất nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2008-2014trên cơ
sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm giải quyết các vấn đề liên quan đến thất
nghiệp.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
Phân tích về sự ảnh hưởng của tốc độ tăng trưởng GDP đến thất nghiệp
ở Việt Nam giai đoạn 2008-2014.
Phân tích về các chính sách việc làm và giải quyết thất nghiệp ở Việt
Nam giai đoạn 2008-2014.
Phân tích về nguyên nhân và các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ thất nghiệp
ở Việt Nam giai đoạn 2008-2014.
Phân tích về sự ảnh hưởng của năng suất lao động đến tốc độ tăng trưởng
GDP của Việt Nam giai đoạn 2008-2014.
Đề xuất một số giải pháp nhằm giúp giảm tỉ lệ thất nghiệp ở Việt Nam
trong thời gian tới.
1.3 PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.3.1 Không gian nghiên cứu
Chuyên đề phân tích tình hình thất nghiệp tại Việt Nam.
1.3.2 Thời gian nghiên cứu
Số liệu nghiên cứu được thu thập từ năm 2008-2014.
Thời gian thực hiện từ 21/09/2015-28/12/2015.
1.3.3 Đối tượng nghiên cứu

Chuyên đề tập trung nghiên cứu về tình hình thất nghiệp ở Việt Nam
giai đoạn 2008-2014.

2


CHƯƠNG 2
CỞ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1.1 Định nghĩa thất nghiệp
Thất nghiệp được định nghĩa là tình trạng người lao động đang trong độ
tuổi lao động, có khả năng lao động, có nhu cầu việc làm hay đang tìm việc
mà không tìm được việc làm.
2.1.2 Phân loại thất nghiệp
a. Theo ý chí của người lao động được phân thành hai loại
Thất nghiệp tự nguyện: Là hiện tượng người lao động từ bỏ một công
việc nào đó do một số nguyên nhân, mặc dù họ vẫn có nhu cầu làm việc.
Một số nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp tự nguyện
- Thay đổi chổ ở: Thông thường người lao động chuyển đến nơi ở mới,
từ bỏ công việc cũ, họ thường giải quyết việc đảm nhận chổ làm mới. Tuy
nhiên, cũng không ít trường hợp không làm được điều đó và rơi vào tình trạng
không có việc làm.
- Mức lương: Với một số ngành nghề nhất định, người lao động cho rằng
họ có năng lực trên thị trường lao động. Do đó, họ chỉ đi làm khi được trả mức
lương cao hơn mức bình quân được trả phổ biến cho ngành nghề đó.
- Người lao động đang trong thời gian đợi thuyên chuyển công tác.
- Sinh viên mới tốt nghiệp đại học đang trong quá trình đi tìm việc.
- Công việc hiện tại của người lao động không còn phù hợp(chuyên môn,
trình độ), họ sẵn sàng từ bỏ công việc đó để đi tìm một công việc khác thích
hợp hơn.

Thất nghiệp không tự nguyện: Là hiện tượng người lao động có khả
năng lao động, trong độ tuổi lao động, có mong muốn làm việc nhưng do một
số nguyên nhân mà không được tuyển dụng, không có việc làm và trở thành
thất nghiệp.
Một số nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp không tự nguyện
- Người lao động mong muốn việc làm với mức lương phổ biến của
ngành nghề mà họ có khả năng trên thị trường lao động, nhưng tại nơi mà họ
3


đang tìm việc không có người sử dụng lao động(không có vị trị công việc
trống, nên không có người tuyển dụng).
- Người lao động bị sa thải do cắt giảm sản xuất, giảm biên chế, vi phạm
kỹ luật lao động và một số nguyên nhân khác.
b. Theo tính chất của thất nghiệp
Thất nghiệp tạm thời: Phát sinh do sự di chuyển của con người giữa
các vùng miền, các công việc hoặc các giai đoạn khác nhau của cuộc sống và
họ cần thời gian để tìm được việc làm thích hợp.
Đây là loại thất nghiệp khá phổ biến và thường xuyên xảy ra, thậm chí
một nền kinh tế được coi là đầy đủ công ăn việc làm thì loại thất nghiệp này
vẫn tồn tại.
Nguyên nhân
- Do quá trình đi tìm việc làm của sinh viên mới ra trường.
- Do sự thay đổi chổ ở của người lao động.
- Phụ nữ quay trở lại tham gia vào lực lượng lao động sau khi sinh con.
- Đợi thuyên chuyển công tác.
- Mất việc làm do doanh nghiệp bị phá sản.
Thất nghiệp cổ điển: Là dạng thất nghiệp liên quan tới loại việc làm mà
tiền công thực tế trả cho người làm công việc đó cao hơn mức tiền công thực
tế bình quân của thị trường lao động chung, khiến cho lượng cung về lao động

đối với công việc này cao hơn lượng cầu. Dạng thất nghiệp này còn được gọi
là thất nghiệp tiền công thực tế.
Nguyên nhân
- Do sự đấu tranh của công đoàn đòi tiền lương ở mức cao hơn mức
lương cân bằng.
- Do sự quyết định một cách cứng nhắc của chính phủ về luật tiền lương
tối thiểu với mức lương cao hơn mức tiền lương cân bằng trên thị trường lao
động.
Thất nghiệp cơ cấu: Là dạng thất nghiệp do không có sự đồng bộ giữa
kỹ năng tay nghề của người lao động với cơ hội việc làm do nhu cầu lao động
và sản xuất thay đổi. Điều này phát sinh do sự mất cân đối giữa cung và cầu về
các loại lao động. Cầu của loại lao động này tăng, cầu loại lao động khác
giảm, cung không điều chỉnh kịp cầu (Lê Khương Ninh, 2010, trang 33).

4


Nguyên nhân
- Trong quá trình vận động của nền kinh tế thị trường, sẽ có những ngành
phát triển thu hút nhiều lao động, nhưng cũng có nhiều ngành bị thu hẹp làm
dư thừa lao động. Nhưng lượng lao động này chưa kịp được đào tạo và đào tạo
lại để bổ sung vào chổ cầu tăng lên. Điều này thấy rõ nhất ở hai ngành công
nghiệp và nông nghiệp. Do ứng dụng tiến bộ của khoa học và kỹ thuật vào sản
xuất nông nghiệp làm dư thừa lượng lao động trong nông nghiệp. Trong khi
đó, cầu lao động trong công nghiệp tăng lên do thu hút được vốn đầu tư nước
ngoài, nhưng lượng lao động dư thừa chưa được đào tạo hoặc đào tạo lại để
kịp thời bổ sung.
Thất nghiệp chu kỳ: Là loại thất nghiệp liên quan đến chu kỳ kinh tế tại
pha mà tổng cầu thấp hơn tổng cung dẫn tới doanh nghiệp phải thu hẹp sản
xuất và phải giảm thuê mướn lao động (Lê Khương Ninh, 2010, trang 34).

Thất nghiệp cọ xát: Là loại thất nghiệp tạm thời do người lao động
đang chờ để tìm được việc làm mà họ kỳ vọng chứ không phải không thể tìm
được việc làm nào (Lê Khương Ninh, 2010, trang 32).
Thất nghiệp trá hình: Là dạng thất nghiệp của những người lao động
không được sử dụng đúng hoặc không được sử dụng hết kỹ năng. Thuộc loại
này bao gồm cả những người làm nghề nông trong thời điểm nông nhàn (đôi
khi những người này được tách riêng thành những người thất nghiệp theo thời
vụ).
Thất nghiệp mùa vụ: Loại thất nghiệp này phát sinh theo chu kỳ sản
xuất và kinh doanh xuất hiện phổ biến trong nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư
nghiệp với những công việc mang tính chất mùa vụ. Đây là loại thất nghiệp dễ
dự đoán trước.
Thất nghiệp do thiếu cầu: Đây là loại thất nghiệp theo lý thuyết của
Keynes, nó xảy ra khi tổng cầu giảm mà tiền lương và giá cả chưa kịp để điều
chỉnh và phục hồi mức hữu nghiệp toàn phần.
Chúng ta biết rằng, tiền lương và giá cả được điều chỉnh theo mức cân
bằng dài hạn. Vì thế, khi tổng cầu giảm một mức nhất định trong ngắn hạn sẽ
làm cho sản lượng giảm và mức hữu nghiệp thấp hơn. Một số công nhân muốn
làm việc tại mức lương thực tế hiện hành nhưng không thể tìm được việc làm.
Chỉ trong dài hạn, khi tiền lương và giá cả giảm đến mức cần thiết để phục hồi

5


tổng cầu ở mức hữu nghiệp toàn phần thì thất nghiệp do thiếu cầu mới bị triệt
tiêu.
Thất nghiệp dai dẳng: Loại thất nghiệp này xảy ra do người lao động
có tật về thể xác và thần kinh nên hầu như không thể được thuê làm việc và
những người tạm thời không có việc làm trong thời gian chuyển công việc
trong nền kinh tế, nơi mà các công việc mời chào luôn thay đổi.

Thất nghiệp công nghệ: Do sự áp dụng những tiến bộ của khoa học
công nghệ vào sản xuất ngày càng được tăng cường làm cho người lao động
trong các dây chuyền sản xuất bị loại ra, từ đó phát sinh thất nghiệp công
nghệ.
Ngoài các loại thất nghiệp nêu trên còn một loại thất nghiệp mà chúng ta
hay đề cập đến đó là thất nghiệp tự nhiên.
Trong bất kỳ một quốc gia nào, cũng luôn có một lượng thất nghiệp nhất
định(thậm chí quốc gia đó được đánh giá là toàn dụng lao động). Đó là mức
thất nghiệp tối thiểu phải chấp nhận được gọi là tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Hạ
thất nghiệp tới mức tối thiểu có thể xem như là thành công trong mục tiêu toàn
dụng hay thất nghiệp thấp.
Tỷ lệ thất nghiệp này luôn tồn tại vì những nguyên nhân khách quan sau
- Luôn tồn tại một tỷ lệ lao động lười biếng, thực sự không muốn làm
việc.
- Có những lao động chấp nhận thất nghiệp tạm thời để tìm cơ hội có
việc làm khác với mức lương cao hơn vì không hài lòng với thu nhập thấp
hiện tại.
- Nhiều lao động không cập nhật và nâng cao tay nghề, bị đào thải, đang
chờ xin việc khác hoặc phải học lại nghề.
- Lao động đang chờ phân công do chuyển việc.
- Lao động đang làm việc một phần thời gian.
- Lao động thất nghiệp vào những thời điểm nông nhàn ở nông thôn.
Vì các yếu tố nêu trên nên việc hạ thất nghiệp xuống 0% là đều không
thể. Một số nhà kinh tế học cho rằng việc duy trì một tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên
là đều cần thiết. Đó sẽ là nguồn lực cần thiết cho quốc gia khi phải sản xuất
vượt tiềm năng, họ là đối tượng để giữ cân bằng tiền lương, không làm tiền
lương tăng cao và bất hợp lý khi thị trường lao động khan hiếm.

6



2.1.3 Đặc trưng của thất nghiệp
Theo tuổi: Thất nghiệp có xu hướng nhiều nhất ở các nhóm tuổi trẻ
nhất, giảm dần cho đến độ tuổi lao động chính.
Một số nguyên nhân dẫn đến điều đó là
- Cũng giống như bất kỳ sự chuyển đổi nào, cần phải có một thời gian
nhấtđịnh để người lao động trẻ thích nghi khi chuyển từ ghế nhà trường sang
môi trườnglàm việc. Họ cần một thời gian để tìm hiểu các điều kiện của thị
trường lao động,chẳng hạn như có thể có những loại công việc gì, với mức
lương bao nhiêu, yêu cầu công việc như thế nào và nó có phù hợp với bản thân
hay không? Hơn thế nữa, thanhniên vẫn ở giai đoạn đầu của cuộc đời, phần
lớn vẫn có chỗ dựa là cha mẹ và chưa lậpgia đình nên trách nhiệm của họ đối
với gia đình là không quá cao. Họ có thể chấpnhận thất nghiệptạm thời một
thời gian để chờ một công việc có thu nhập cao hoặc có điều kiện làm việc tốt
hơn hoặc phù hợp hơn với bản thân.
- Ở độ tuổi lao động chính, người lao động thường phải có trách nhiệm
với gia đình, đòi hỏi phải có một việc làm với thu nhập ổn định. Thất nghiệp ở
nhóm tuổi nàythực sự là thử thách đối với gia đình họ.
- Tuổi càng cao, người lao động tích luỹ được càng nhiều kinh nghiệm,
trình độ chuyên môn kỹ thuật được nâng cao, cơ hội tìm kiếm việc làm ngày
càng cao.
Theo giới: Tỷ lệ thất nghiệp của nữ giới thường cao hơn nam giới.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến điều đó, một trong những nguyên
nhân chính là
- Mặc dù trong điều kiện hiện nay, nam nữ bình đẳng nhưng tâm lý
chung củacác nhà tuyển dụng vẫn thích tuyển nam giới hơn nữ giới. Bởi vì
trong quá trình công tác, nam thường có điều kiện đi công tác xa, ít phải bận
công việc gia đình nhất là concái hơn nữ.
- Nam giới thường có sức khoẻ cũng như điều kiện để nâng cao trình độ
hơnnữ giới nên khả năng tìm kiếm việc làm cao hơn.

Theo trình độ chuyên môn kỹ thuật: Người có trình độ chuyên môn lành
nghề càng cao thì thất nghiệp càng ít.
Nguyên nhân là
- Do nhu cầu lao động chất lượng cao ngày càng nhiều trong khi cung
ứng lao động này lại ít, nên người có trình độ chuyên môn lành nghề càng cao
thì khả năng tìm việc càng dễ dàng hơn. Hơn nữa người có trình độ chuyên

7


môn kỹ thuật và học vấn càng cao thì càng có khả năng nhận nhiều loại công
việc hơn.
Theo khu vực: Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động ở thành thị luôn
cao hơn tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực nông thôn.
Nguyên nhân là
- Người ta nói rằng, nếu thất nghiệp là vấn đề của khu vực thành thị thì
thiếu việclàm vấn đề của khu vực nông thôn. Tại sao thất nghiệp là vấn đề của
thành thị, điều này sẽ được lý giải trong phần sau: Nguyên nhân thất nghiệp ở
khu vực thành thị. Còn ở khu vực nông thôn, mức sống chủ yếu là thấp, hơn
nữa họ thường không có một nguồn thu nhập nào khác nếu họ không làm việc.
Vì vậy họ dễ chấp nhận bất kì công việc gì và duy trì thời gian không làm việc
là ngắn nhất. Tuy nhiên, do khối lượngcông việc ít, lại chủ yếu mang tính thời
vụ nên tuy không thất nghiệp nhưng thiếu việc làm là rất nhiều.
2.1.4 Ảnh hưởng của thất nghiệp tới phát triển kinh tế xã hội
2.1.4.1 Hậu quả kinh tế của thất nghiệp
Đối với quốc gia
-Tỷ lệ thất nghiệp cao dẫn đến làm giảm sức mua, làm ảnh hưởng đến sự
phát triển kinh tế nói chung.
-Nguồn thu từ thuế thu nhập giảm. Tình trạng bất ổn định xã hội gia
tăng; tỷ lệ tội phạm tăng. Các chi phí an sinh, trợ cấp xã hội sẽ tăng. Ở nhiều

nước phát triển có quy định rất chặt chẽ và có tỷ lệ trợ cấp xã hội này khá lớn
thì đây là một khoản chi không nhỏ cho quốc gia. Tỷ lệ thất nghiệp trong xã
hội là một chỉ tiêu quan trọng đánh giá sự phát triển bền vững của một quốc
gia.
Đối với cá nhân người lao động
-Thất nghiệp gắn liền với đói nghèo, đời sống và sức khỏe không đảm
bảo.Tạo ra sự khủng hoảng tâm lý và tinh thần kéo dài, làm giảm lòng tin vào
xã hội và bản thân.
- Thất nghiệp xô đẩy người ta vào chỗ nghiện ngập, rượu chè, ma túy,
mại dâm và các loại tội phạm khác. Mỗi cá nhân là một thành viên của xã hội.
Tình trạng thất nghiệp luôn làm suy yếu một xã hội về cả hai mặt vật chất và
tinh thần.

8


Đối với doanh nghiệp
- Thất nghiệp tạo ra cơ hội cho doanh nghiệp giảm giá sức lao động (đặc
biệt là khi thất nghiệp kéo dài). Người thuê lao động (đặc biệt là các xí nghiệp
nhỏ) kéo dài tuần làm việc hơn so với quy định của pháp luật, kéo dài thời
gian nghỉ không lương, không trả tiền viện phí cho phụ nữ sinh con nhỏ, người
lao động bị ốm đau, không nhận lao động nữ vào làm việc, hủy bỏ các hợp
đồng lao động tùy tiện,…Từ đó ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi, lợi ích của
người lao động.
2.1.4.2 Hậu quả xã hội của thất nghiệp
Thất nghiệp đang là một vấn nạn mà xã hội đang phải đối mặt. Giai đoạn
(2005-2010), Việt Nam mỗi năm có khoảng 5.000 doanh nghiệp tuyên bố giải
thể, ngưng hoạt động. Tuy nhiên, tại một cuộc hội thảo mới đây, Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết, từ năm 2011 đến nay,
bình quân có tới hơn 50.000 doanh nghiệp giải thể và ngưng hoạt động.

Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, số lượng doanh nghiệp “chết”
cao gấp 10 lần của những năm về trước. Những tác động từ thực trạng nêu trên
đã gây ra nhiều hệ lụy cho xã hội. Người lao động mất việc làm, doanh nghiệp
nợ ngân hàng, nợ bảo hiểm xã hội, nợ tiền điện, viễn thông, nước... Điều này
có nghĩa, khi doanh nghiệp “chết” đi, lượng người thất nghiệp sẽ gia tăng theo
quy luật cung cầu của nền kinh tế.
Các chuyên gia ngành xã hội học cho rằng, chỉ cần mỗi doanh nghiệp có
từ 5 đến 10 lao động bị sa thải thì số người mất việc có thể lên dến nửa triệu
người. Nếu thu nhập bình quân tại các doanh nghiệp mức 3 triệu
đồng/người/tháng thì số thu nhập mất đi của nửa triệu lao động sẽ là 1.500 tỷ
đồng/tháng (tương đương mức 75 triệu USD).Khi thất nghiệp xảy ra, của cải
vật chất không những không tăng thêm mà càng ngày càng tiêu hao thêm nữa.
Nói thế để thấy rằng, thiệt hại do “cơn bão” thất nghiệp rất lớn, có thể lên tới
hàng tỷ USD cho mỗi năm.
Bên cạnh đó, sinh viên ra trường đang đối mặt với những rủi ro về cơ hội
tìm việc làm. Hàng năm chúng ta có hơn một triệu thí sinh thi tú tài, chỉ cần
một nửa số này thi đậu vào đại học, trung học chuyên nghiệp và trường dạy
nghề thì số người còn lại (từ18 đến 20 tuổi) sẽ tham gia vào lực lượng lao
động phổ thông gia tăng hàng năm.Nếu nền kinh tế hấp thu tốt, lực lượng lao
động này sẽ tạo ra rất nhiều sản phẩm cho xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Bằng không, lực lượng này có thể gây ra nhiều hệ lụy cho xã hội. Các nhà xã
hội học cho biết, tỉ lệ tội phạm các loại và các tệ nạn xã hội thường gia tăng
nhanh chóng cùng với tỉ lệ thất nghiệp tại các quốc gia.

9


Thất nghiệp đang là một nỗi lo lớn gây nhiều hệ lụy và trở thành gánh
nặng cho xã hội. Tác động của thất nghiệp vô cùng nguy hiểm cho an sinh xã
hội và sự phát triển bền vững của một nền kinh tế. Lao động thất nghiệp sẽ

tăng tỉ lệ thuận với số lượng doanh nghiệp giải thể, ngưng hoạt động trong thời
gian qua.
2.1.5 Những nguyên nhân và yếu tố dẫn đến thất nghiệp
Một là, lực lượng lao động phân bố không đồng đều giữa các vùng địa lý
kinh tế, chủ yếu tập trung ở đồng bằng sông Hồng (không bao gồm Hà Nội):
15,2%, đồng bằng sông Cửu Long: 19,1%, trong khi các vùng đất rộng có tỉ
trọng lao động thấp như Trung du và miền núi phía Bắc chỉ chiếm 13,7%, Tây
Nguyên chiếm 6,3% lực lượng lao động. Vì vậy, chưa tạo điều kiện phát huy
được lợi thế về đất đai, tạo việc làm cho người lao động và góp phần phân bố
lại lực lượng lao động, đây chính là nguyên nhân tạo ra sự mất cân đối cục bộ
về lao động và là tác nhân của thất nghiệp, thiếu việc làm.
Hai là, lực lượng lao động có chất lượng thấp. Theo đánh giá của Ngân
hàng Thế giới, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam đạt mức 3,79 điểm
(trong thang điểm 10), xếp hạng thứ 11 trong số 12 quốc gia được khảo sát tại
châu Á. Nguồn nhân lực nước ta yếu về chất lượng, thiếu năng động và sáng
tạo, tác phong lao động công nghiệp. Ngoài ra, thể lực của lao động Việt Nam
ở mức trung bình kém, chưa đáp ứng được cường độ làm việc và những yêu
cầu trong sử dụng máy móc thiết bị theo tiêu chuẩn quốc tế. Công tác chăm
sóc sức khỏe và an toàn nghề nghiệp chưa tốt; bên cạnh đó, kỷ luật lao động
còn kém so với nhiều quốc gia trong khu vực. Một bộ phận lớn người lao động
hiện nay chưa được tập huấn về kỷ luật lao động công nghiệp, tùy tiện về giờ
giấc và hành vi. Người lao động chưa được trang bị các kiến thức và kỹ năng
làm việc theo nhóm, thiếu khả năng hợp tác và gánh chịu rủi ro, ngại phát huy
sáng kiến và chia sẻ kinh nghiệm làm việc.
Ba là, năng suất, hiệu quả lao động trong các ngành kinh tế thấp và có sự
khác biệt đáng kể giữa khu vực nông nghiệp với khu vực công nghiệp và khu
vực dịch vụ.
Bốn là, tình trạng mất cân đối cung - cầu lao động cục bộ vẫn thường
xuyên xảy ra. Thị trường lao động nước ta chủ yếu tập trung ở các thành phố
lớn, các vùng kinh tế trọng điểm, nơi có nhiều KCX-KCN, như: Long An, TP

HCM, Bình Dương, Đồng Nai… Ngược lại một số tỉnh như Bạc Liêu, Ninh
Thuận, Thanh Hóa, Nghệ An lại có tình trạng dư cung, đang phải đối mặt với
tỉ lệ thất nghiệp cao.

10


Năm là, mặc dù đã tiến hành 2 đợt cải cách tiền lương (năm 1993 và
2004), bước đầu tách tiền lương khu vực sản xuất kinh doanh và khu vực hành
chính sự nghiệp, tạo điều kiện đổi mới chính sách tiền lương khu vực sản xuất
kinh doanh theo định hướng thị trường nhưng mức tiền lương tối thiểu thấp
chưa được tính đúng, tính đủ cho mức sống tối thiểu và chỉ đáp ứng được 70%
nhu cầu cơ bản của người lao động, thấp hơn mức lương tối thiểu thực tế trên
thị trường khoảng 20% và hiện nay mới đạt khoảng 45% mức tiền lương tối
thiểu trung bình của khu vực ASEAN.
Sáu là, công tác quản lý nhà nước về lao động - việc làm còn nhiều hạn
chế, các chính sách, pháp luật đang từng bước hoàn thiện, hệ thống thông tin
thị trường lao động còn sơ khai thiếu đồng bộ. Chính sách bảo hiểm thất
nghiệp hết sức tiến bộ nhưng chưa đạt được mục tiêu như mong muốn nhằm
không chỉ hỗ trợ cuộc sống người lao động khi mất việc làm mà còn phải đào
tạo nghề, tư vấn, hỗ trợ để giúp quay lại thị trường lao động.
2.2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1 Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu được sử dụng trong chuyên đề nghiên cứu là số liệu thứ cấp và
được thu thập từ các nguồn sau:
- Báo cáo tỉ lệ thất nghiệp các năm từ 2008-2014của tổng cục thống kê
Việt Nam.
- Số liệu thứ cấp được thu thập từ internet như trang thông tin điện tử của
tổng cục thống kê Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu kinh tế, cổng thông tin điện
tử Bộ Lao Động Thương Binh & Xã Hội......

2.2.2 Phương pháp phân tích số liệu
Sử dụng phương pháp so sánh số tuyệt đối và tươngđối để phân tích tình
hình thất nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2008-2014. Đồng thời kết hợp phương
pháp mô tả để thấy được những thay đổi và biến động của tỷ lệ thất nghiệp
qua các năm.
So sánh bằng số tuyệt đối: Là việc xác định chênh lệch giữa trị số củachỉ
tiêu kỳ phân tích với trị số của kỳ gốc, cho thấy sự biến động về số tuyệt đối
của đối tượng (Mai Văn Nam, 2008, trang 39).
So sánh bằng số tương đối: Là việc xác định số % tăng (giảm) giữakỳ
thực tế so với kỳ gốc hoặc tỷ trọng của một hiện tượng trong tổng thể quy
chung, cho thấy tốc độ phát triển hoặc kết cấu, mức độ phổ biến của hiện
tượng (Mai Văn Nam, 2008, trang 43).

11


CHƯƠNG 3
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2008 -2014
3.1 KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH KINH TẾ CỦA VIỆT NAM 2008-2014
Thu nhập bình quân theo đầu người của Việt Nam đã tăng đáng kể từ
năm 2008, khi Việt Nam bắt đầu chuyển từ nước có thu nhập thấp sang nhóm
nước có thu nhập trung bình. Ước tính bình quân mỗi năm, thu nhập đã tăng
10%. Năm 2013, thu nhập của người Việt Nam tính theo GDP bình quân là
hơn 1.900 USD/người, ngang giá sức mua PPP tương đương 5.200 USD/USD,
năm 2014 đã chạm mốc tăng lên là 2.000 USD/người.
Theo số liệu do Tổng Cục Thống kê công bố, năm 2014 là năm đầu tiên
trong kế hoạch 5 năm (2011-2015) kể từ 2011 đến nay, tăng trưởng kinh tế
không chỉ về đích mà còn vượt kế hoạch. So với kế hoạch chỉ tiêu tăng trưởng
kinh tế 5,8% mà Quốc hội đưa ra thì năm 2014 đạt 5,98% quả là con số đáng

mừng cho nền kinh tế Việt Nam. Mức tăng trưởng năm 2014 cao hơn mức
tăng trưởng 5,25% của năm 2012 và 5,42% của năm 2013 cho thấy dấu hiệu
tích cực của nền kinh tế trước bối cảnh chính trị có nhiều bất ổn khi Trung
Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép HD 981 trong vùng đặc quyền kinh tế lãnh
thổ Việt Nam. Mức tăng trưởng có dấu hiệu hồi phục này đã giúp cho nền
kinh tế vĩ mô có được sự ổn định - mục tiêu mà Việt Nam theo đuổi trong
nhiều năm nay, đặc biệt là sau khi lạm phát lên tới trên 20% trong năm 2008 năm đầu tiên Việt Nam chịu tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Con
số tăng trưởng 5,98% được Tổng Cục Thống kê chính thức công bố đã khiến
giới chuyên gia không khỏi bất ngờ.

12


Đơn vị tính:%

Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam – tình hình kinh tế xã hội giai đoạn 2008-2014

Hình 3.1 Mức tăng trưởng GDP của Việt Nam giai đoạn 2008-2014
Trước tình hình khủng hoảng tài chính thế giới nổ ra năm 2008, nền kinh
tế Việt Nam cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng đó. Ở giai đoạn này, mức
tăng GDP luôn thấp hơn 7% và ngày càng đi xuống, đến năm 2012 chỉ còn
5,25%, chưa bằng hai phần ba so với mức trước khủng hoảng. Trong khi đó,
trước thời điểm khủng hoảng, Việt Nam luôn được coi là một trong những
điểm sáng trên bản đồ kinh tế toàn cầu với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt
7,8%/ năm.
Việt Nam với một Chính phủ có chế độ chính trị ổn định vẫn tiếp tục
thúc đẩy cải cách và tái cơ cấu nền kinh tế nhằm bình ổn kinh tế vĩ mô và tăng
cường mở rộng kinh tế trong cả nước. Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo và
thuần nhất về sắc tộc.Một đất nước với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong
phú như dầu mỏ, khoáng sản và các mặt hàng nông sản. Việt Nam là quốc gia

có dân số khá lớn 90,5 triệu người tính đến 0 giờ ngày 01/04/2014,với tỷ lệ
dân số trẻ trong độ tuổi từ 15 đến 65 tuổi lớn (67%). Việt Nam đã bước vào
giai đoạn “cơ cấu dân số vàng” với số người trong độ tuổi lao động gấp đôi số
người ngoài độ tuổi lao động. Hàng năm có thêm khoảng 1,2 triệu lao động trẻ
tham gia vào lực lượng lao động của cả nước. “Cơ cấu dân số vàng” có thể
được duy trì trong khoảng 15 đến 30 năm, hoặc 40 năm, tùy thuộc vào tỷ lệ
sinh trong tương lai. Việt Nam có thể tận dụng lợi thế về tỷ lệ phụ thuộc thấp
và dân số vàng để phát triển một lực lượng lao động chất lượng cao nhằm thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế.

13


Việt Nam có một lực lượng lao động rất năng động và có kỹ năng tốt.
Chi phí lao động và chi phí hoạt động của doanh nghiệp thấp nhất thế
giới.Việt Nam là một trong những điểm đến hấp dẫn nhất đối với đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI). Mặc dù bị tác động bởi các vấn đề kinh tế vĩ mô trong
hai năm qua, Việt Nam vẫn đứng thứ 11 trên thế giới và thứ 3 trong khu
vực.Việt Nam thực sự đã đạt được những tiến bộ vững chắc trong việc xây
dựng nền móng cho nhiều cải cách như sự ổn định về tình hình lạm phát và tỷ
giá hối đoái, thặng dư thương mại và tăng dự trữ ngoại hối quốc gia. Cùng với
sức mạnh của doanh số bán lẻ trong nước, đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu và
thị trường, và sự linh hoạt của lực lượng lao động đã giúp cho nền kinh tế Việt
Nam giữ mức tăng trưởng dương và phục hồi một cách nhanh chóng. Bên
cạnh đó, Chính phủ cũng đã chính thức phê duyệt Kế hoạch tái cơ cấu nền
kinh tế giai đoạn 2013-2020 tập trung tái cơ cấu đầu tư công, tái cơ cấu các tổ
chức tín dụng và doanh nghiệp nhà nước. Cùng với những diễn biến tích cực
trên, lực lượng lao động với chi phí nhân công thấp cộng với nguồn tài nguyên
thiên nhiên phong phú sẵn có sẽ luôn là những ưu điểm hấp dẫn nhà đầu tư
nước ngoài tham gia vào thị trường đầu tư tiềm năng Việt Nam.

Các doanh nghiệp sản xuất quốc doanh và tư nhân sở hữu công nghệ sản
xuất hiện đại cùng với lực lượng lao động rẻ, chuyên môn cao đã tạo ra chi phí
khởi đầu hoạt động thấp cho các doanh nghiệp này. Việt Nam dưới góc nhìn là
một quốc gia và một thị trường phát triển đã trở thành một “điểm đến” cho các
công ty nước ngoài đang tìm kiếm cơ hội cắt giảm chi phí nhưng vẫn duy trì
chất lượng ổn định và mang lại mức thu hồi vốn nhanh.
3.2 THỰC TRẠNG THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 20082014

14


Bảng 3.1: Tỷ lệ thất nghiệp chung ở Việt Nam phân theo vùng lãnh thổ từ năm 2008-2014
Đơn vị tính:%
Năm
Vùng

2008

Đồng bằng Sông Hồng
Trung du và miền núi phía Bắc
Bắc trung bộ và Duyên hải miền Trung
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Đồng bằng sông Cửu Long
Cả nước

2,29
1,13
2,24
1,42

3,74
2,71
2,38

2009
2,69
1,38
3,11
2,00
3,99
3,31
2,90

2010
2,61
1,21
2,94
2,15
3,91
3,59
2,88

2011
1,99
0,87
2,28
1,31
3,20
2,77
2,22


2012
1,91
0,75
2,21
1,47
2,64
2,17
1,96

2013
2,65
0,81
2,15
1,51
2,70
2,42
2,18

2014

2013/2012

2,82
0,76
2,23
1,22
2,47
2,06
2,10


Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam – kết quả điều tra lao động và dân số giai đoạn 2008-2014

15

0,74
0,06
(0,06)
0,04
0,06
0,25
0,22

2014/2013
0,17
(0,05)
0,08
(0,29)
(0,23)
(0,36)
(0,08)


Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam – kết quả điều tra lao động và dân số giai đoạn 2008-2014

Hình 3.2 Tỷ lệ thất nghiệp chung ở Việt Nam phân theo vùng lãnh thổ từ năm 2008-2014

16



Tỷ lệ thất nghiệp chung ở Việt Nam giai đoạn 2008-2014 có nhiều
chuyển biến rõ rệt theo hướng tích cực, các con số giảm liên tục qua từng năm
như khu vực Đông Nam Bộ 3,74% năm 2008 cao nhất so với các vùng khác,
tiếp dến là Đồng bằng sông Cửu Long 2,71% và thấp nhất là Trung du và
miền núi phía Bắc với 1,13%. Tuy nhiên, đến năm 2012 thì các con số này lại
tiếp tục xu hướng giảm vùng Đông Nam Bộ còn 2,64%, Đồng bằng sông Cửu
Long là 2,17%, Đồng bằng sông Hồng 1,91% và chỉ có Tây Nguyên tăng
không đáng kể 1,47%, những khu vực còn lại điều giảm. Điều này cho thấy
mức sống của người dân còn thấp, hệ thống an sinh xã hội chưa phát triển
mạnh nên người lao động không chịu cảnh thất nghiệp kéo dài mà chấp nhận
làm những công việc không ổn định với mức thu nhập thấp và bấp bênh.Bên
cạnh đó, hệ thống bảo hiểm thất nghiệp của Việt Nam không mạnh như các
nước phát triển để có thể hỗ trợ cho người thất nghiệp đủ sống nên người lao
động thiếu việc làm hoặc thất nghiệp sẵn sàng xoay sở đủ nghề phụ để có thu
nhập.
Đến năm 2013, tỷ lệ thất nghiệp chung ở Việt Nam tăng trở lại cụ thể là
Đông Nam Bộ 2,70%, Đồng bằng sông Hồng tăng 2,65%, Đồng bằng sông
Cửu Long 2,42%, các khu vực còn lại tăng không đáng kể. Nhìn chung, tỷ lệ
thất nghiệp có xu hướng tăng lên do sản xuất vẫn gặp khó khăn làm ảnh hưởng
đến việc làm của người lao động. Lí do chính làm tỷ lệ thất nghiệp gia tăng là
phần lớn các KCN-KCX sản xuất trì trệ, thu hẹp hoạt động sản xuất và các
doanh nghiệp bắt buộc phải cắt giảm một lượng không nhỏ người lao động.
Nguyên nhân thứ hai, là do lượng hàng tồn kho của doanh nghiệp vào thời
điểm cuối năm vẫn còn nhiều nên không thể đẩy mạnh hoạt động sản xuất,
việc tuyển dụng thêm lao động là điều không cần thiết. Nguồn cung lao động
đang vượt xa so với cầu, không chỉ lực lượng lao động phổ thông khó tìm việc
làm mà hàng ngàn sinh viên tốt nghiệp cao đẳng, đại học cũng đang phải chật
vật để tìm một công việc ổn định.
Năm 2014, tỷ lệ thất nghiệp chung ở Việt Nam giảm mạnh chỉ có Đồng
bằng sông Hồng,Bắc trung bộ và Duyên hải miền Trung tăng không đáng kể.

Kết quảlà nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng khả quan, nền kinh tế đất nước đã
đạt được mục tiêu kiểm soát lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp. Chỉ số
giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2014 giảm 0,24% so với tháng trước, tăng 1,84%
so với tháng 12/2013; bình quân năm 2014 tăng 4,09% so với năm 2013.Tổng
vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ước đạt trên 1.220 nghìn tỷ đồng, tăng 11,5%
so với năm trước (bằng 31% GDP). Trong đó, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) thực hiện cả năm 2014 ước đạt 12,35 tỷ USD, tăng 7,4% so với năm
trước. Số dự án cấp mới tăng 24,5% với số vốn đăng ký cấp mới tăng 9,6% so
17


với năm trước; số lượt dự án tăng vốn tăng 25,8%. Khi vốn đầu tư vào các dự
án tăng lên đồng nghĩa với việc người lao động có thêm việc làm giúp giảm tỷ
lệ thất nghiệp, vì vậy trong những năm gần đây nhà nước liên tục cải cách
chính sách thu hút vốn FDI nhằm mục đích tạo thêm cơ hội cho các nhà đầu tư
nước ngoài tham gia, giúp tăng cường năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp,
đồng thời tạo ra nguồn vốn lớn cho Chính phủ tái cơ cấu doanh nghiệp khác.
Dựa vào sự thay đổi qua các năm tỷ lệ thất nghiệp chung ở Việt Nam
liên tục giảm, điều này cho thấy rằng những cơ chế chính sách kinh tế xã hội
về lao động và việc làm đã có hiệu quả trong thực tế. Một trong những chính
sách hỗ trợ việc làm nữa cho người lao động được nêu trong dự thảo luật Việc
làm là chính sách tín dụng ưu đãi. Nhà nước thực hiện chính sách này nhằm
hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm từ quỹ quốc gia về việc làm
và các nguồn tín dụng khác.Theo báo cáo của Ngân hàng Chính sách xã hội,
tính đến 30/6/2014, dư nợ chương trình cho vay hộ nghèo đạt 40.422 tỷ đồng,
chiếm 31,91% tổng dư nợ các chương trình tín dụng chính sách tại NHCSXH;
chương trình cho vay hộ cận nghèo dư nợ đạt 13.636 tỷ đồng chiếm 10,77%
tổng dư nợ; chương trình cho vay giải quyết việc làm dư nợ đạt 5.860 tỷ đồng,
chiếm 4,63% tổng dư nợ.Trong năm 2014, trên cơ sở kiến nghị của cử tri, Đại
biểu Quốc hội, để đáp ứng tốt hơn nhu cầu vay vốn phục vụ sản xuất, kinh

doanh, nhằm góp phần thực hiện chính sách an sinh xã hội, giảm nghèo bền
vững, ngày 26/4/2014, Thống đốc NHNN kiêm Chủ tịch Hội đồng Quản trị
NHCSXH đã ký ban hành Quyết định 34/QĐ-HĐQT điều chỉnh mức cho vay
tối đa đối với hộ nghèo từ 30 triệu đồng/hộ lên 50 triệu đồng/hộ, theo đó mức
cho vay tối đa đối với hộ cận nghèo cũng được điều chỉnh tương ứng lên 50
triệu đồng/hộ.Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định 872/QĐ-TTg
ngày 6/6/2014 về điều chỉnh giảm lãi suất cho vay đối với một số chương trình
tín dụng chính sách, bao gồm: chương trình cho vay hộ nghèo; cho vay học
sinh, sinh viên; cho vay giải quyết việc làm; cho vay xuất khẩu lao động.

18


Bảng 3.2: Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị ở Việt Nam phân theo vùng lãnh thổ từ năm 2008-2014
Đơn vị tính:%
Năm
Vùng

2008

Đồng bằng Sông Hồng
Trung du và miền núi phía Bắc
Bắc trung bộ và Duyên hải miền Trung
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Đồng bằng sông Cửu Long
Cả nước

5,35
4,17

4,77
2,51
4,89
4,12
4,65

2009
4,59
3,90
5,54
3,05
4,54
4,54
4,60

2010
3,73
3,42
5,01
3,37
4,72
4,08
4,29

2011
3,41
2,62
3,96
1,95
4,13

3,37
3,60

2012
3,49
2,25
3,91
1,89
3,24
2,87
3,21

2013
5,13
2,26
3,81
2,07
3,34
2,96
3,59

2014

2013/2012

4,86
2,35
3,71
1,94
3,00

2,79
3,40

Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam – kết quả điều tra lao động và dân số giai đoạn 2008-2014

19

1,64
0,01
(0,1)
0,18
0,1
0,09
0,38

2014/2013
(0,27)
0,09
(0,1)
(0,13)
(0,34)
(0,17)
0,81


Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế ở Mỹ năm 2008 có sức
ảnh hưởng lớn. Người Việt Nam, khoảng 667.000 người mất việc làm, 3.000
lao động từ nước ngoài phải về nước trước thời hạn. Khoảng 2 triệu người thất
nghiệp, tỷ lệ thất nghiệp chung cho cả nước là 2,38%, thành thị là 4,65% và
nông thôn là 1,53%, số người thất nghiệp trên thực tế là khoảng 1 triệu người.

Chỉ tiêu tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta hiện nay chỉ được tính cho khu vực thành
thị, với những người trong độ tuổi với nam là 15-60, với nữ la 15-55 tuổi. Tỷ
lệ thất nghiệp của Việt Nam năm 2008 là 4,65% tăng 0,01% so với năm 2007,
tỷ lệ lao động thiếu việc làm là 5,1% tăng 0,2% so với năm 2007. Những năm
trước, hai chỉ tiêu này có xu hướng giảm 0,1-0,2%/năm.
Có sự chênh lệch về tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng ở khu vực thành thị
giữa các vùng. Năm 2012, trong khi tỷ lệ này ở vùng Đồng bằng sông Hồng là
3,49%, Đông Nam Bộ 3,24%%, Bắc trung bộ và Duyên hải miền Trung
3,91%, cả nước là 3,21% thì vùng Trung du và miền núi phía Bắc chỉ có
2,25%, vùng Đồng bằng sông Cửu Long có 2,87% và thấp nhất là Tây Nguyên
với 1,89%.Lực lượng lao động thành thị đang ngày một tăng, ngoài ra do dicư
từ nông thôn ra thành thị đã gây ra tỷ lệ thất nghiệp cao ở đô thị.Không những
người thất nghiệp do trình độ chuyên môn thấp không theo kịp sự phát triển
của khoa học công nghệ. Bên cạnh đó, còn có thất nghiệp trong số người được
đào tạo. Mức thất nghiệp trong số những người được giáo dục liên quan tới
việc thị trường điều chỉnh theo dòng người tốt nghiệp phổ thông, giáo dục mở
rộng nhưng hiếm khi có đủ việc làm cho họ khi ra trường. Nguyện vọng về
việc làm trong những người được giáo dục không đáp ứng được. Trạng thái
diễn ra ở các đô thị hiện nay là tốc độ tăng của nguồn nhân lực lớn hơn tốc độ
tăng công việc làm.
Năm 2013 thì tỷ thất nghiệp ở khu vực thành thị tăng trở lại ở vùng Đông
Nam Bộ 3,24% giảm 0,1% so với năm 2012, Bắc trung bộ và Duyên hải miền
Trung 3,81%giảm 0,1% so với năm 2012. Cả nước 3,59% tăng 0,38% so với
năm 2012, Trung du và miền núi phía Bắc 2,26% giảm 0,01% so với năm
2012, Đồng bằng sông Cửu Long 2,96% giảm 0,09% so với năm 2012, Đồng
bằng sông Hồng 5,13% tăng 1,64% và đặc biệt là khu vực Tây Nguyên duy trì
được tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp nhất so với các vùng khác chỉ có 2,07% tăng
0,18% so với năm 2012. Nhân lực ở nông thôn thiếu việc làm, thu nhập thấp
do đó tràn ra đô thị kiếm việclàm và một cuộc sống dễ chịu hơn so với nông
thôn. Đây là nguyên nhân thường gặp ở nhiều nước chậm phát triển. Trong khi

đó ở đô thị, người ta lại chú trọng nhiều đến loại doanh nghiệp công nghiệp hệ
số vốn đầu tư cao nhưng thường chỉ số có chỉ số sử dụng nhân lực thấp, coi
nhẹ tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, các hoạt động dịch vụvà tổ chức sản
20


xuất của các hộ gia đình. ở đô thị tồn tại một khu vực, được gọi là “khu vực
không kết cấu”. Đặc điểm của khu vực này:Chứa đựng một nguồn nhân lực
lao động đông đảo (bên cạnh nguồn nhân lực làm việc tại các cơ quan nhà
nước, các doanh nghiệp nhà nước hoặc liên doanh, các doanh nghiệp nước
ngoài). Có kết cấu về nghề nghiệp, về dạng hoạt động rất đa dạng, phức tạp và
thường năng động trong sự chuyển đổi từ sản xuất nhỏ đến sửa chữa, buôn bán
vừa và nhỏ, dịch vụ các loại. Không tạo được giá trị tổng sản phẩm và thu
nhập quốc dân gì lớn mà nhiều hoạt động chỉ là hoạt động tái phân phối nhằm
có thu nhập để sống (nhiều người có mức thu nhập dưới mức sống tối thiểu).
Ngoài ra, vấn đề quan trọng được đặc biệt chú ý tại đô thị là còn tồn tại nạn
thất nghiệp, tỷ lệ số người này chiếm khá cao (12-15% các nguồn nhân lực ở
đô thị). Sự mất cân bằng giữa cung và cầu về các nguồn nhân lực ở đô thị là
một trong nhiều nguyên nhân làm nảy sinh những vấn đề phức tạp về kinh tế,
xã hội ở đô thị và cuộc sống của những người thất nghiệp ngày càng khó khăn.
Tỷ lệ thất nghiệp năm 2014 giảm đáng kể, cụ thể là Đồng bằng sông
Hồng 4,86% giảm 0,27% so với năm 2013, Đông Nam Bộ 3,00% giảm 0,34%
so với năm 2013, Đồng bằng sông Cửu Long 2,79% giảm 0,17% so với năm
2013, Tây Nguyên 1,94% giảm 0,13% so với năm 2013, Bắc trung bộ và
Duyên hải miền Trung 3,71% giảm 0,1% so với năm 2013, Cả nước 3,40%
giảm 0,19% so với năm 2013, Trung du và miền núi phía Bắc 2,35% tăng
0,09% so với năm 2013. Nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp năm 2014
giảm là do nền kinh tế Việt Nam phục hồi trở lại. Trong năm 2014, cả nước có
74842 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 432,2
nghìn tỷ đồng, giảm 2,7% về số doanh nghiệp và tăng 8,4% về số vốn đăng ký

so với năm trước. Số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới
trong năm đạt 5,8 tỷ đồng, tăng 11,5% so với năm 2013. Số lao động dự kiến
được tạo việc làm của các doanh nghiệp thành lập mới trong năm qua là 1091
nghìn người, tăng 2,8% so với năm trước. Như vậy, mặc dù vẫn chưa thực sự
thoát khỏi bối cảnh khó khăn nhưng xét trên khía cạnh quy mô vốn, doanh
nghiệp thành lập mới trong năm 2014 đã tăng hơn so với năm 2013. Trong 12
tháng, cả nước có 15419 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 7,1% so
với cùng kỳ năm 2013. Việc các doanh nghiệp hoạt động trở lại và hàng hóa
được xuất đi nhiều, đơn đặt hàng tăng lên buộc các doanh nghiệp phải tuyển
thêm lao động để đáp ứng nhu cầu sản xuất, điều này giúp giảm tỷ lệ thất
nghiệp ở khu vực thành thị giảm mạnh trong năm 2014.
Tuy nhiên, việc sử dụng nguồn nhân lực đô thị còn biểu hiện ra ở một
dạng thất nghiệp khác gọi là “thất nghiệp trá hình” ẩn náu trong biên chế của
các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước có quá nhiều người so với
21


yêu cầu của công việc.Khả năng tạo ra cầu về công việc của doanh nghiệp lớn
hiện tại để sử dụng nguồn nhân lực mới tăng hàng năm ở các nước chậm phát
triển còn yếu. Đó là bức tranh chưa có gì sáng sủa tại đô thị ở những nước
chậm phát triển và đang phát triển như Việt Nam.

22


Bảng 3.3: Tỷ lệ thất nghiệp khu vực nông thôn ở Việt Nam phân theo vùng lãnh thổ từ năm 2008-2014
Đơn vị tính:%
Năm
Vùng


2008

Đồng bằng Sông Hồng
Trung du và miền núi phía Bắc
Bắc trung bộ và Duyên hải miền Trung
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Đồng bằng sông Cửu Long
Cả nước

1,29
0,61
1,53
1,00
2,05
2,35
1,53

2009
2,01
0,95
2,40
1,61
3,37
2,97
2,25

2010
2,18
0,82

2,29
1,66
2,90
3,45
2,30

2011
1,41
0,54
1,71
1,06
1,81
2,59
1,60

2012
1,25
0,46
1,60
1,30
1,73
1,94
1,39

2013
1,60
0,54
1,58
1,30
1,69

2,24
1,54

2014

2013/2012

1,87
0,46
1,70
0,93
1,60
1,83
1,49

Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam – kết quả điều tra lao động và dân số giai đoạn 2008-2014

23

0,35
0,08
(0,02)
0
(0,04)
0,3
0,15

2014/2013
0,27
(0,08)

0,12
(0,37)
(0,09)
(0,41)
(0,05)


Xu hướng chung của tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực nông thôn phân theo
vùng lãnh thổ cũng giảm dần qua các năm và một điều đặc biệt là tỷ lệ thất
nghiệp ở nông thôn lại thấp hơn khu vực thành thị rất nhiều. Số liệu năm 2008
cho ta thấy ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc có tỷ lệ thấp nhất chỉ 0,61%
và cao nhất là Đồng bằng sông Cửu Long 2,35% còn các khu vực khác giao
động từ 1,00%-2,05%. Năm 2012, Trung du và miền núi phía Bắc 0,46%,
Đồng bằng sông Cửu Long 1,94%, Đồng bằng Sông Hồng 1,25%, Bắc trung
bộ và Duyên hải miền Trung 1,60%, Tây Nguyên 1,30%, Đông Nam Bộ
1,73%, Cả nước 1,39%.
So sánh tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực nông thôn năm 2013, những số liệu ở
năm 2013 cho thấy tỷ lệ thất nghiệp ở nông thôn qua các năm tăng trở lại.
Đồng bằng sông Cửu Long 2,24% tăng 0,3% so với năm 2012, Trung du và
miền núi phía Bắc 0,54% tăng 0,08% so với năm 2012, Bắc trung bộ và
Duyên hải miền Trung 1,58% giảm 0,02%so với năm 2012, Tây Nguyên
1,30%so với năm 2012, Đông Nam Bộ 1,69% giảm 0,04% so với năm 2012,
Cả nước 1,54% tăng 0,3%so với năm 2012. Điều này nói lên sự ổn định về
khả năng duy trì tỷ lệ thất nghiệp và hiệu quả của các cơ chế chính sách về lao
động, việc làm được chú trọng, cũng như sự đa dạng về việc làm ở khu vực
nông thôn. Mặc dù tỷ lệ thất nghiệp tăng không đáng kể nhưng đây là điều
đáng báo động cho các nhà hoạch định việc làm ở vùng nông thôn, lực lượng
dồi dào nhưng trình độ chuyên môn của lao động nông thôn chưa cao. Hiện
lao động có việc làm và kỹ năng chuyên môn chỉ chiếm 16,8%, còn lại 83,2%
là lao động chưa qua đào tạo, chưa có trình độ kỹ thuật chuyên môn. Thêm

vào đó, hầu hết các thị trường lao động vẫn chỉ tập trung chủ yếu ở các tỉnh,
thành phố có nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất và ở ba vùng kinh tế trọng
điểm. Ở vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, thị trường lao động lại chưa phát
triển nên dẫn đến thực trạng là nơi thừa, nơi thiếu lao động.
Năm 2014, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực nông thôn đồng loạt giảmĐồng
bằng sông Cửu Long 1,83% giảm 0,41% so với năm 2013, Trung du và miền
núi phía Bắc 0,46% giảm 0,08% so với năm 2013, Bắc trung bộ và Duyên hải
miền Trung 1,70% giảm 0,12% so với năm 2013, Tây Nguyên 0,93% giảm
0,37% so với năm 2013, Đông Nam Bộ 1,60% giảm 0,09% so với năm 2012 ,
Cả nước 1,49% giảm 0,05% so với năm 2013. Nguyên nhân chính lý giải cho
hiện tượng giảm đồng loạt này do chính sách đẩy mạnh thực hiện Đề án tái cơ
cấu nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.
Hoàn thiện cơ chế chính sách để giữ và sử dụng hiệu quả đất lúa và phát triển
các vùng sản xuất chuyên canh, chăn nuôi quy mô lớn, các khu nông nghiệp
công nghệ cao. Tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ. Khuyến
24


khích hợp tác, liên kết từ sản xuất, bảo quản, chế biến đến tiêu thụ sản phẩm,
bảo đảm hài hòa lợi ích. Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt
động của các nông, lâm trường quốc doanh. Ưu tiên nguồn lực và huy động
toàn xã hội tham gia thực hiện có hiệu quả chương trình xây dựng nông thôn
mới. Khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh ở nông thôn, nhất là
các ngành sử dụng nhiều lao động để giải quyết việc làm, tăng thu nhập và
chuyển dịch cơ cấu lao động. Đề án này được thực hiện góp phần không nhỏ
vào việc giải quyết số lao động thất nghiệp ở khu vực nông thôn trong năm
2014.
Nguồn lực quan trọng cho sự tăng tốc kinh tế ở khu vực nông thôn phải
kể đến là nguồn lao động đã qua đào tạo. Mặc dù, trong thời gian qua, lộ trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa công nghiệp khá nhanh, đã chuyển đổi số lượng

không nhỏ lao động thuần nông sang sản xuất công nghiệp hàng hóa. Song lao
động ở khu vực nông nghiệp chiếm tới 76% lực lượng lao động xã hội và số
lao động đã qua đào tạo chỉ chiếm 10% so với 25% ở khu vực thành thị. Nhiều
công trình nghiên cứu cho thấy, ở nông thôn dấn trí thấp hơn 2 lần, nhân tài
thấp hơn 8,6 lần, trong đó đào tạo nghề thấp hơn 10 lần so với thành thị. Đó
còn chưa kể đến một thực tế hiện nay, tình trạng lao động ở nông thôn mới sử
dụng 80% thời gian lao động, tỷ lệ thất nghiệp chiềm khoảng 6%, đặc biệt
trong thời gian gần đây có cơ chế chuyển đổi từ đất nông nghiệp sang sản xuất
công nghiệp và xây dựng các công trình công cộng nên tỷ lệ lao động thiếu
việc làm có xu hướng tăng cao. Trong thời gian tới cần có giải pháp phù hợp
để đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở khu vực nông thôn.
3.3 ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ TÌNH HÌNH THẤT NGHIỆP VÀ THIẾU
VIỆC LÀM CỦA LAO ĐỘNG TRONG ĐỘ TUỔI Ở VIỆT NAM, ẢNH
HƯỞNG CỦA LAO ĐỘNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG GDP GIAI ĐOẠN
2008-2014
Lý thuyết và kinh nghiệm thực tế tại các nước đang phát triển đều khẳng
định vai trò to lớn của nguồn nhân lực trong quá trình tăng trưởng và công
nghiệp hoá. Trong giai đoạn đầu phát triển, khi nguồn vốn còn khan hiếm,
nguồn nhân lực thường đóng vai trò rất quan trọng, như là một nhân tố tăng
trưởng theo chiều rộng chủ yếu của nền kinh tế. Trong giai đoạn công nghiệp
hoá, vai trò của vốn đầu tư tăng lên nhưng không vì thế mà vị trí của nguồn
nhân lực bị xem nhẹ, lúc này chất lượng nguồn nhân lực lại trở thành nhân tố
cơ bản tạo ra công nghệ và kỹ thuật mới làm tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu
tư. Đặc biệt, khi khoa học và công nghệ đã thực sự trở thành động lực chủ yếu
của quá trình tăng trưởng thì vai trò nhân tố tăng trưởng theo chiều sâu của
nguồn nhân lực sẽ cực kỳ quan trọng.
25



×