Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Phân tích tình hình xuất khẩu thủy sản của khu vực Đồng bằng sông cửu long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (392.96 KB, 22 trang )

CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU
1.1 LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Hiện nay trên thế giới xu thế toàn cầu hóa ngày càng được nhiều quốc
gia chú trọng. Đặc biệt là việc gia nhập vào các tổ chức kinh tế lớn trên thế
giới. Việt Nam cũng vậy, cũng bị ảnh hưởng không nhỏ bởi xu hướng toàn cầu
này. Năm 2007, Việt Nam gia nhập WTO, tổ chức thương mại lớn nhất thế
giới. Trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đang ngày càng mở
rộng cánh cửa giao thương với các quốc gia trên thế giới thông gia hoạt động
xuất nhập khẩu, mỗi nước đều có những lợi thể so sánh riêng của mình thì
thủy sản cũng được coi là thế mạnh của Việt Nam và khu vực đồng bằng sông
Cửu Long là nền tảng quyết định thế mạnh đó. Và thực tế cũng đã cho thấy,
hoạt động sản xuất và xuất khẩu thủy sản khu vực đồng bằng sông Cửu Long
đã và đang chứng minh được vai trò và tầm quan trọng của mình đối với sự
phát triển kinh tế của đất nước. Trong các nước xuất khẩu thủy sản trên thế
giới, Việt Nam được coi là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng thủy
sản nhanh nhất, với tốc độ tăng trưởng trung bình trong giai đoạn 2012-2014
đạt 16%/năm, trong đó khu vực ĐBSCL giữ vai trò quyết định. Hiện nay, thủy
sản Việt Nam ngày càng được đánh giá cao trên thị trường quốc tế. Cả nước
có khoảng hơn 700 nhà máy chế biến thủy sản quy mô công nghiệp, trong đó
khu vực ĐBSCL có khoảng 300 doanh nghiệp lớn nhỏ. Mặc dù chịu nhiều ảnh
hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng nhiều mặt hàng thủy sản vẫn có
được chỗ đứng riêng cho mình và duy trì tốc độ tăng trưởng. Thủy sản Việt
Nam luôn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ngành nông nghiệp. Tuy nhiên,
ngành thủy sản cũng đang đứng trước nhiều khó khăn. Thị trường xuất khẩu
thủy sản thế giới vẫn đang phải đối mặt với nền kinh tế toàn cầu chưa hoàn
toàn thoát khỏi khủng hoảng. Tiêu dùng giảm, xu hướng tiết kiệm gia tăng,
những rào cản kỹ thuật từ phía nhà nhập khẩu, đặc biệt là luật mới: Luật IUU
(Quy định về hoạt động đánh bắt cá bất hợp pháp, không có báo cáo và không
theo quy định) bắt đầu có hiệu lực từ 1/1/2010.
Với những thách thức cùng những rào cảng nêu trên, xuất khẩu thủy sản


của ta có thể vượt qua và tiếp tục phát triển được hay không? Chính vì vậy mà
đề tài “Phân tích tình hình xuất khẩu thủy sản của khu vực Đồng bằng
sông Cửu Long giai đoạn 2014-2016” được thực hiện và qua đó đề xuất một
số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho việc sản xuất, khai thác và xuất khẩu
thủy sản của Việt Nam nói chung và khu vực ĐBSCL nói riêng.

1


1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1 Mục tiêu chung
Tìm hiểu và phân tích hoạt động sản xuất cũng như hoạt động xuất nhập
khẩu thủy sản khu vực Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2012 đến 2014,
từ đó đề xuất giải pháp thiết thực nhằm nâng cao hoạt động xuất khẩu thủy sản
cả về số lượng lẫn chất lượng.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Tìm hiểu chung về tình hình thực trạng xuất khẩu thủy sản Việt Nam
nói chung và khu vực Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng giai đoạn từ 2014
đến 2016.
- Đánh giá khó khăn, thuận lợi và vai trò của hoạt động sản xuất thủy sản
khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đối với cả nước.
- Đề ra hướng giải pháp nhằm nâng cao sản lượng và chất lượng sản
phẩm để hướng đến thị trường thế giới một cách thuận lợi và an toàn.
1.3 PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.3.1 Phạm vi không gian
Đề tài được thực hiện tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
1.3.2 Phạm vi thời gian
Số liệu thu thập và nghiên cứu chủ yếu được tổng hợp từ năm 2014 đến
2016 trong lĩnh vực xuất khẩu thủy sản khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
1.3.3 Đối tượng nghiên cứu

- Nghiên cứu về hoạt động xuất khẩu hàng thủy sản.
- Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao sản lượng và chất
lượng thủy sản khu vực Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và cả nước nói
chung.

2


CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1.1 Các khái niệm
Theo Điều 28, Luật Thương Mại và Đoàn Thị Hồng Vân (2011) thì có
các khái niệm sau:
Xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt
Nam đưa vào các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là
khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật.
Nhập khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa vào lãnh thổ Việt Nam
từ nước ngoài khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu
vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật.
Xuất siêu là khái niệm dùng mô tả tình trạng CCTM có giá trị lớn hơn 0
(zero). Nói cách khác, khi kim gạch xuất khẩu cao hơn nhập khẩu trong một
thời gian nhất định, đó là xuất siêu.
Nhập siêu là khái niệm dùng mô tả tình trạng CCTM có giá trị nhỏ hơn 0
(zero). Nói cách khác, khi kim ngạch xuất khẩu cao hơn xuất khẩu trong một
thời gian nhất định, đó là nhập siêu.
Quản trị xuất nhập khẩu là tổng hợp các hoạt động hoạch định chiến
lược và kế hoạch kinh doanh, tổ chức thực hiện và kiểm tra, kiểm soát các
hoạt động kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu, từ khâu đầu đến cuối của chu kỳ
kinh doanh (giao dịch, đàm phán hợp đồng; soạn thảo, ký hợp đồng và tổ chức

thực hiện hợp đồng) nhằm đạt được mục tiêu đề ra một cách hiệu quả nhất.
Cán cân thương mại là một trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh
toán quốc tế. CCTM ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của
một quốc gia trong một khoản thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như
mức chênh lệch giữa chúng (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu). Khi mức chênh lệch
lớn hơn 0, thì CCTM có thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0,
thì CCTM có thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, CCTM ở trạng thái
cân bằng.
2.1.2 Vai trò của hoạt động xuất khẩu
Thứ nhất, xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, phục vụ công
nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Thứ hai, xuất khẩu đóng góp quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất
3


khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một là, xuất khẩu chỉ là
việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa.
Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và đang phát triển như nước ta, sản
xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng, nếu thụ động chờ sự “thừa ra” của sản
xuất, thì xuất khẩu sẽ vẫn cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm. Sản xuất và sự thay
đổi cơ cấu kinh tế cũng sẽ rất chậm chạp. Hai là, coi thị trường và đặc biệt là
thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Quan điểm này
xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản xuất. Điều này có
tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thứ ba, xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển
thuận lợi.
Thứ tư, xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần
cho sản xuất phát triển và ổn định. Bên cạnh đó, xuất khẩu tạo điều kiện mở
rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất

trong nước.
Thứ năm, xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế, kỹ thuật nhằm cải tạo
và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này muốn nói đến xuất khẩu
là phương tiện quan trọng tạo ra vốn và kỹ thuât, công nghệ từ thế giới bên
ngoài vào Việt Nam, nhằm hiện đại hoá nền kinh tế của đất nước, tạo ra một
năng lực sản xuất mới.
Thứ sáu, thông qua xuất khẩu, hàng hoá của ta sẽ tham gia vào cuộc đua
cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng. Cuộc cạnh tranh
này đòi hỏi chúng ta phải tố chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn
thích nghi với thị trường.
Thứ bảy, xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn
thiện công việc quản trị sản xuất và kinh doanh, xuất khẩu có tác động tích cực
đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của người dân.
Không những thế, xuất khẩu còn là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các
mối quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta.
2.1.3 Các hình thức của xuất khẩu
Trên thị trường thế giới có nhiều cách để các doanh nghiệp có thể giao
dịch với nhau. Tuy nhiên, trong thực tế xuất khẩu thường có một số hình thức
xuất khẩu chủ yếu sau:
- Xuất khẩu trực tiếp là hình thức xuất khẩu do doanh nghiệp trong nước
trực tiếp xuất khẩu hàng hóa cho một doanh nghiệp nước ngoài thông qua các
tổ chức của mình.

4


- Xuất khẩu gián tiếp là hình thức xuất khẩu mà nhà xuất khẩu và nhà
nhập khẩu thông qua người thứ ba, người này là trung gian.
- Xuất khẩu gia công ủy thác là hình thức xuất khẩu trong đó đơn vị
ngoại thương đứng ra nhập nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm cho các xí

nghiệp gia công, sau đó thu hồi thành phẩm để bán cho bên nước ngoài, đơn vị
được hưởng phí ủy thác theo thỏa thuận của các xí nghiệp ủy thác.
- Xuất khẩu ủy thác là hình thức xuất khẩu trong đó doanh nghiệp xuất
khẩu đóng vai trò trung gian, đại diện cho nhà sản xuất kí kết hợp đồng và làm
thủ tục xuất khẩu, sau đó doanh nghiệp được hưởng % theo lợi nhuận hoặc
một số tiền nhất định, theo thương vụ hay theo kì hạn.
- Phương thức mua bán đối lưu là phương thức giao dịch trong đó xuất
khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người mua đồng thời là người bán,
lượng hàng trao đổi với nhau có giá trị tương đương, người ta còn gọi phương
thức xuất khẩu này là xuất khẩu liên kết hoặc phương thức hàng đổi hàng.
- Xuất khẩu tại chỗ là hình thức xuất khẩu mà hàng hóa không di chuyển
ra khỏi biên giới quốc gia mà được sử dụng ở các khu chế xuất hoặc doanh
nghiệp bán sản phẩm cho các tổ chức nước ngoài ở trong nước.
- Phương thức mua bán tại hội chợ triển lãm hội chợ là thị trường hoạt
động định kì, được tổ chức vào một thời gian và một địa điểm cố định trong
một thời hạn nhất định, tại đó người bán đem trưng bày hàng hóa của mình và
tiếp xúc với người mua để kí hợp đồng mua bán.
- Tạm nhập tái xuất là loại hàng hóa trở lại ra nước ngoài những hàng
hóa trước đây đã nhập khẩu, chưa qua chế biến ở nước tái xuất, nước tái xuất
trả tiền nước xuất khẩu và thu tiền của nước nhập khẩu.
- Xuất khẩu theo nghị định thư là hình thức xuất khẩu hàng hóa (thường
là trả nợ) được kí theo nghị định thư của hai Chính phủ.
2.2 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN XUẤT KHẨU HÀNG HÓA
2.2.1 Các nhân tố khách quan
Mỗi doanh nghiệp, công ty đều hoạt động trong một môi trường kinh
doanh nhất định. Môi trường kinh doanh tạo những tiền đề thuận lợi cho hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp nhưng môi trường kinh doanh không thuận
lợi sẽ mang lại cho doanh nghiệp không ít khó khăn . Sau đây là một số công
cụ mà các quốc gia thường sử dụng để quản lý, hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu
của quốc gia mình.

2.2.1.1 Thuế quan
Thuế quan xuất khẩu là một loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hóa xuất
khẩu. Thuế quan xuất khẩu làm cho giá cả hàng hóa quốc tế cao hơn giá cả
5


trong nước. Thuế xuất khẩu được chính phủ ban hành nhằm quản lý hoạt động
xuất khẩu theo chiều hướng có lợi nhất cho quốc gia mình đồng thời mở rộng
quan hệ kinh tế đối ngoại, nâng cao hiệu quả cảu hoạt động xuất khẩu, góp
phần bảo vệ cho sự phát triển sản xuất của hàng hoá trong nước. Nếu chính
phủ muốn khuyến khích xuất khẩu một mặt hàng nào đó, họ sẽ giảm thuế xuất
khẩu nhằm mục đích cho nhiều nhà doanh nghiệp hơn tham gia vào hoạt động
xuất khẩu. Còn ngược lại nếu hạn chế xuất khẩu một mặt hàng nào đó, chính
phủ sẽ tăng thuế, điều này sẽ hạn chế lượng doanh nghiệp tham gia vào hoạt
động này. Hiện nay các mặt hàng thủy sản chủ yếu đang được nhà nước
khuyến khích xuất khẩu nhằm giải quyết các vấn đề xã hội nên được miễn
thuế xuất khẩu.
2.2.1.2 Hạn ngạch xuất khẩu (quota)
Hàng rào phi thuế quan đầu tiên phải kể đến là hạn ngạch xuất khẩu
(quota) bởi được xem là xem là công cụ chủ yếu và có vai trò quan trọng trong
xuất khẩu hàng hóa. Hạn ngạch được hiểu như quy định của nhà nước về số
lượng cao nhất của một mặt hàng hay một nhóm hàng được phép xuất khẩu từ
một thị trường nội địa trong một thời gian nhất định thông qua hình thức cấp
giấy phép.
Quota xuất khẩu là một trong những công cụ trước đây cũng được áp
dụng cho hàng hóa thủy sản làm hạn chế khả năng xuất khẩu.
2.2.1.3 Trợ cấp xuất khẩu
Trợ cấp xuất khẩu là một trong những biện pháp có tác dụng mở rộng
thúc đẩy xuất khẩu đối với những mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu.
Chính phủ có thể tự cấp trực tiếp hoặc cho vay với lãi suất thấp đối với các

nhà xuất khẩu trong nước, bên cạnh đó chính phủ còn có thể thực hiện một
khoản vay ưu đãi với các bạn hàng nước ngoài để có thể có các điều kiện mua
các sản phẩm do nước mình sản xuất ra và để xuất khẩu ra bên ngoài.
2.2.1.4 Nhân tố chính trị - pháp luật
Đây là nhân tố hoàn toàn khách quan đối với doanh nghiệp. Các nhà xuất
khẩu luôn phải chú ý đến các yếu tố về chính trị pháp luật như:
- Các quy định của nhà nước đối với hoạt động mua bán hàng hoá quốc
tế.
- Các hiệp định thương mại mà quốc gia tham gia.
- Các quy định nhập khẩu hàng hóa của quốc gia mà mình tham gia hoạt
động xuất khẩu.
- Các vấn đề pháp lý và tập quán quốc tế có liên quan tới xuất khẩu như
luật bảo hiểm quốc tế, luật vận tải quốc tế, các quy định về giao nhận ngoại
thương...

6


2.2.2 Nhân tố chủ quan
Nhân tố chủ quan là những đặc điểm, tiềm năng của doanh nghiệp có ảnh
hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động cũng như hoạt động xuất khẩu của
doanh nghiệp. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu, tuy
nhiên những nhân tố sau đây là quan trọng và nằm trong tầm kiểm soát của
doanh nghiệp
2.2.2.1 Cơ chế quản lý của doanh nghiệp
Cơ chế tổ chức bộ máy hợp lý sẽ giúp cho các nhà quản lý sử dụng tốt
nguồn nhân lực của công ty, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Còn nếu bộ máy
cồng kềnh, sẽ hạn chế nguồn lực và làm giảm hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp
2.2.2.2 Nhân tố con người

Trình độ chuyên môn, năng lực làm việc của mỗi thành viên trong doanh
nghiệp là yếu tố quyết định sự thành công của doanh nghiệp trong hoạt động
sản xuất kinh doanh. Nói về tiềm lực trong doanh nghiệp, nhân tố con người là
nhân tố quan trọng nhất.Trong hoạt động xuất khẩu từ khâu nghiên cứu thị
trường, tìm kiếm nguồn hàng, khách hàng đến công tác giao dịch đàm phán ký
kết và thực hiện hợp đồng nếu được thực hiện bởi những cán bộ nhanh nhạy,
năng động, trình độ chuyên môn cao thì chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả cao.
2.2.2.3 Khả năng vốn và khả năng áp dụng tiến bộ khoa học-công
nghệ
Vốn là yếu tố không thể thiếu trong kinh doanh, công ty có vốn kinh
doanh càng lớn thì cơ hội giành được những hợp đồng trong kinh doanh sẽ
càng trở nên dễ dàng hơn. Vốn của công ty ngoai nguồn vốn tự có thì nguồn
vốn huy động cũng có vai trò rất lớn trong hoạt động kinh doanh.
Thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật thực chất cũng là nguồn vốn của công ty
(vốn hiện vật). Việc trang bị và áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ tác động
trực tiếp đến chất lượng hàng hoá của doanh nghiệp, chất lượng dịch vụ mà
doanh nghiệp đưa ra đối với khách hàng và khả năng phục vụ của doanh
nghiệp đối với khách hàng.
2.3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.3.1 Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu thu thập từ website của Bộ Tài Chính, Tổng cục hải quan, Tổng
cục thống kê, bộ Thông tin Thương mại Việt Nam (Viet Nam Business New),
các trang website đáng tin cậy khác…
2.3.2 Phương pháp phân tích số liệu
 Phương pháp mô tả số liệu: Nêu lên ý nghĩa của các thông số để từ đó
đưa ra những nhận xét, đánh giá các yếu tố đang xem xét hoặc phân tích.

7



 Phương pháp so sánh: Phương pháp so sánh là phương pháp xem xét
các chỉ tiêu phân tích bằng cách dựa trên việc so sánh số liệu với một chỉ tiêu
cơ sở (chỉ tiêu gốc).
* So sánh bằng số tuyệt đối
Là kết quả của phép trừ giữa chỉ số của năm phân tích so với năm gốc
của các chỉ tiêu kinh tế để thấy được quy mô và số lượng của xu hướng phát
triển. Phản ánh quy mô của chỉ tiêu nghiên cứu nên khi so sánh bằng số tuyệt
đối, các nhà phân tích sẽ thấy rõ được sự biến động về quy mô của chỉ tiêu
nghiên cứu giữa kỳ phân tích với kỳ gốc.

y  y1  y0
Trong đó: y0 : là chỉ tiêu kỳ gốc
y1: là chỉ tiêu kỳ phân tích

y : là chênh lệch tăng giảm của các chỉ tiêu kinh tế
* So sánh bằng số tương đối
Khác với số tuyệt đối, khi so sánh bằng số tương đối, các nhà quản lý sẽ
nắm được kết cấu, mối quan hệ, tốc độ phát triển, mức độ phổ biến và xu
hướng biến động của các chỉ tiêu kinh tế. Trong phân tích tài chính, các nhà
phân tích thường sử dụng các loại số tương đối sau:
- Số tương đối động thái: Số tương đối động thái biểu hiện sự so sánh
mức độ của hiện tượng ở 2 thời kỳ hay 2 thời điểm khác nhau nhằm phản ánh
rõ hơn tình hình của hiện tượng ở thời kỳ hay thời điểm nghiên cứu.
- Số tương đối kết cấu: Số tương đối kết cấu là tỷ lệ so sánh giữa số tuyệt
đối của từng bộ phận cấu thành nên tổng thể với số tuyệt đối của tổng thể hiện
tượng nghiên cứu nhằm nghiên cứu cấu thành của hiện tượng. Nếu kết cấu
thay đổi sẽ thấy được nguyên nhân thay đổi bản chất của hiện tượng trong các
điều kiện khác nhau.

8



CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG THỦY SẢN KHU VỰC
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG 2014 ĐẾN 2016
3.1 PHÂN TÍCH SƠ LƯỢC TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU THỦY SẢN CẢ
NƯỚC GIAI ĐOẠN 2014 ĐẾN 2016
Trong bối cảnh mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động xuất nhập
khẩu của các nước là thước đo đánh giá kết quả của quá trình hội nhập quốc tế
và phát triển trong mối quan hệ tùy thuộc vào nhau của các quốc gia. Hoạt
động xuất nhập khẩu là yếu tố quan trọng nhằm phát huy mọi nguồn lực, tạo
thêm vốn đầu tư để đổi mới công nghệ, tăng thêm việc làm, thúc đẩy nhanh
qua trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong giai đoạn 2012 – 2014, tăng trưởng xuất khẩu tăng dần qua các
năm, lần lượt là 5,25%, 5,42% và 5,98% dù tình hình kinh tế khó khăn, ngành
Nông nghiệp vẫn tiếp tục thể hiện vai trò quan trọng, là trụ đỡ của nền kinh tế.
Đối với mặt hàng thủy sản nói riêng, vẫn khá ổn định và vững chắc thể hiện
thông qua sự tăng lên của kim ngạch xuất khẩu, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu
được cải thiện theo chiều hướng đa dạng hóa. (Tổng cục Thống kê, 2014)
Năm 2012, theo đánh giá chung sản xuất thủy sản tiếp tục gặp nhiều khó
khăn trong đó có những nguyên nhân chính như kinh tế thế giới chưa hồi
phục, nguyên liệu đầu vào tăng cao, dịch bệnh đối với tôm, cá tra và nghêu
diễn biến phức tạp ngay từ đầu năm cùng với bão và áp thấp nhiệt đới nhiều.
Trong khi đó, mặc dù nhiều hộ nuôi cá tra gặp khó khăn về vốn, giống và đầu
ra nhưng diện tích nuôi cả nước vẫn đạt 5,6 nghìn ha, tăng khoảng 1,8% so với
năm 2011, sản lượng cá ước đạt 1,19 triệu tấn, tăng 3,4 % với năng suất bình
quân là 274 tấn/ha, thấp hơn so với năm 2011 (305 tấn/ha). Cũng trong năm
2012, theo số liệu Thống kê Hải quan cho thấy con số xuất khẩu thủy sản đạt
6,15 tỷ USD, tăng 0,7% so với cùng kì năm 2011. (Tổng cục Hải quan, 2012)
Năm 2013, mặc dù thời tiết không thuận lợi, nhiều mưa bão, giá xăng

dầu tăng làm ảnh hưởng lớn đến hoạt động khai thác thủy sản. Tuy nhiên,
được sự quan tâm, tạo điều kiện của các bộ, ngành và chính quyền các địa
phương nên sản lượng thủy sản khai thác 2013 vẫn tăng, ước tính đạt 2,7 ngàn
tấn, tăng 3,3% so với năm trước. Sự tăng lên của ngành thủy sản đã kéo cả
“đoàn tàu” nông nghiệp đạt mức 27,5 tỷ USD kim ngành xuất khẩu, tăng nhẹ
so 0,7% so với năm 2012. Xuất khẩu thủy sản tiếp tục là “điểm sáng” với kim
ngạch xuất khẩu xuất khẩu tháng 12 ước đạt 617 triệu USD, đưa giá trị xuất
khẩu cả năm đạt 6,7 tỷ USD, tăng 10,1% so với cùng kì năm ngoái. Mỹ tiếp
tục là thị trường nhập khẩu thủy sản lớn nhất, chiếm 21,89% tổng kim ngạch
xuất khẩu thủy sản.
9


Theo số liệu thống kê của Bộ đưa ra, kim ngạch xuất khẩu tháng 12/2014
đạt 628,8 triệu USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu thủy sản năm 2014 đạt 7,84 tỷ
USD, tăng 16,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là mức xuất khẩu kỷ lục của
ngành thủy sản. (Bộ NN&PTNT)
3.2 THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN RIÊNG KHU VỰC
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ NĂM 2011 ĐẾN NAY
3.2.1 Sản lượng và kim ngạch
Đồng bằng sông Cửu Long là một trong ba khu vực có tổng kim ngạch
xuất khẩu cao nhất nước ta. Năm 2011, ĐBSCL đối mặt với ngập lũ lớn đối
với các tỉnh đầu nguồn và nước mặn xâm nhập nội đồng các tỉnh ven biển
Đông. Đồng thời, tình hình khủng hoảng tài chính tiền tệ, giá cả biến động
trong nước và thế giới tác động phức tạp. Vượt qua mọi thách thức đó, năm
2012 ĐBSCL tiếp tục khẳng định thế mạnh sản xuất thủy sản của mình, đặc
biệt là thủy – hải sản đạt thắng lợi lớn.
Năm 2012 các tỉnh ĐBSCL đưa diện tích nuôi thủy sản lên 795.000 ha,
tăng 5.000 ha so năm 2011 với sản lượng đạt 2,4 triệu tấn và cùng cả nước
hướng đến mục tiêu xuất khẩu thủy sản đạt 6,5 tỷ USD năm 2012. (Tổng cục

thủy sản, 2012)
Năm 2012, tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản toàn vùng đạt khoảng 2 tỷ
USD tương đương sản lượng khoảng 1,5 triệu tấn, chiếm 53% về lượng và
32% về kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả nước.
Năm 2013 ĐBSCL đã đạt sản lượng 2,2 triệu tấn thủy sản trên diện tích
nuôi đạt 795.000 ha, chiếm 89% diện tích và 92,5% sản lượng các tỉnh phía
Nam, trong đó có 650.000 ha tôm sú với sản lượng 310.000 tấn; 5.000 ha cá
tra với sản lượng trên 1 triệu tấn.
Trong đó, tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2013 riêng khu vực ĐBSCL là
kim ngạch xuất khẩu vùng ĐBSCL đạt khoảng hơn 4 tỷ USD. Trọng đó, vùng
kinh tế trọng điểm khu vực chiếm 36,7%. ĐBSCL nằm trong 3 khu vực có
nhiều địa phương xuất khẩu “tỷ USD” nhất cả nước với tỷ lệ 26% tương ứng
với kim ngạch xuất khẩu.
Bước sang năm 2014, trong chín tháng đầu năm 2014, tổng sản lượng
thủy sản vùng ĐBSCL đạt 2,8 triệu tấn, tăng 140.000 tấn so cùng kỳ năm
ngoái. Trong 2,8 triệu tấn kể trên, có 1 triệu tấn thu được từ khai thác và 1,8
triệu tấn do nuôi trồng, tổng giá trị 34.500 tỷ đồng. Hai tỉnh Kiên Giang và
tỉnh Cà Mau dẫn đầu với sản lượng đạt 830.000 tấn, chiếm gần 30% tổng sản
lượng toàn vùng. Lượng thuỷ sản nói trên là nguồn nguyên liệu dồi dào cung

10


ứng cho các nhà máy trong vùng chế biến và đã xuất khẩu đạt giá trị trên 3,4
tỷ USD, tăng 19% so cùng kỳ năm 2013.
3.2.2 Hoạt động xuất khẩu thủy sản
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng có nhiều lợi thế nuôi trồng thủy sản.
Trong những năm qua, ngành thủy sản của khu vực có mức tăng trưởng ổn
định, sản lượng nuôi trồng chiếm 65% so với cả nước.
Xuất khẩu thủy sản khu vực năm 2012, theo Bộ Nông nghiệp và Phát

triển Nông thôn tổng kim ngạch ước đạt gần 6,15 tỷ USD tăng 0,7% so với
cùng kì năm 2011, mặc dù chưa đạt được mục tiêu đề ra trước đó là 6,5 tỷ
USD nhưng con số này cũng đã chứng minh được sự nổ lực vượt khó của toàn
ngành trong năm 2012 đầy khó khăn. Năm 2012 có thể nói là năm nhiều thách
thức đối với ngành nuôi trồng thủy sản khu vực, người nuôi thì lao đao với
dịch bệnh xảy ra tại nhiều vùng nuôi, giá cả lên xuống thất thường, doanh
nghiệp đối mặt với tình trạng thiếu vốn, thiếu nguyên liệu và hoạt động sản
xuất cầm chừng…
Bước sang năm 2013, tính đến cuối tháng 12, ĐBSCL thu hoạch với sản
lượng đạt hơn 1 triệu tấn, giảm 3% đưa xuất khẩu thủy sản đạt 6,7 tỷ USD,
trong đó xuất khẩu cá tra đạt hơn 1,522 tỷ USD, chiếm 25,7% giảm 0,2% so
với cùng kì năm 2012 và là mặt hàng xuất khẩu lớn thứ hai sau tôm. Ước giá
trị xuất khẩu năm 2013 đạt 1,8 tỷ USD.
Nhìn chung trên địa bàn cả nước Theo số liệu thống kê của Bộ đưa ra,
giá trị xuất khẩu thủy sản cả năm 2014 ước tính đạt gần 7,1 tỷ USD, tăng 6,5%
so với cùng kì năm ngoái. Trong đó, giá trị nuôi trồng thủy sản ước đạt hơn
115 nghìn tỷ và giá trị khai thác thủy sản ước đạt hơn 73 nghìn tỷ đồng. (Bộ
NN&PTNT)
Trước những khó khăn và rào cản của các quốc gia nhập khẩu lớn như
Hoa Kỳ tăng thuế chống bán phá giá, Nhật Bản tăng cường kiểm tra dư lượng
kháng sinh đối với mặt hàng xuất khẩu tôm, ngành xuất khẩu thủy sản cả nước
nói chung và khu vực ĐBSCL nói riêng đang phải đối mặt và nhìn nhận trở
ngại trước mắt khó có thể đạt được mục tiêu 6,7 tỷ USD đến cuối năm.
3.2.3 Những thị trường xuất khẩu chính
Trong nhiều năm qua, hàng thủy sản là một trong những mặt hàng xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam ra thị trường thế giới. Kim ngạch xuất khẩu thủy
sản tháng 12/2014 dạt 628,8 triệu USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu thủy sản
2014 đạt 7,84 tỷ USD, tăng 16,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là mức xuất
khẩu kỷ lục của ngành thủy sản. Về thị trường xuất khẩu, các mặt hàng thủy
sản của Việt Nam đã xuất khẩu sang 165 quốc gia và vùng lãnh thổ. Mỹ, EU,


11


và Nhật Bản vẫn là ba thị trường tiêu thụ lớn nhất của thủy sản Việt Nam, tổng
giá trị xuất khẩu thủy sản của ba thị trường này năm 2014 đạt hơn 4,38 tỷ
USD, chiếm 55,95% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản của cả nước. Trong đó,
Mỹ vẫn duy trì ở vị trí là thị trường nhập khẩu hàng đầu của thủy sản Việt
Nam, chiếm 22% tổng giá trị xuất khẩu. Tiếp theo là EU với 18,2% thị phần
và còn lại là Nhật Bản với hơn 15%.
3.2.3.1 Thị trường Mỹ
Mỹ là thị trường nhập khẩu thủy sản lớn và chủ lực của Việt Nam. Năm
2014, tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang thị trường Mỹ tăng 25,3%.
Tổng giá trị xuất khẩu tôm có mức tăng trưởng mạnh so với cùng kỳ năm
ngoái với 26,9%, đạt 3,95 tỷ USD, chiếm 50,38% tổng kim ngạch xuất khẩu
thủy sản. Đứng đầu về nhập khẩu tôm Việt Nam chính là thị trường Mỹ chiếm
26,92% tỷ trọng xuất khẩu tôm và giá trị xuất khẩu đạt 1,06 tỷ USD, tăng
28%. Riêng đối với mặt hàng xuất khẩu cá tra, mặc dù giảm 11,5% so với
cùng kỳ năm ngoái, tương đương chỉ đạt 336,8 triệu USD, nhưng Mỹ vẫn là
thị trường quan trọng đứng thứ 2 của cá tra Việt Nam, sau thị trường EU. (Số
liệu Hải quan và Tổng cục Thủy Sản, 2014)
Tuy nhiên, đối với thị trường nhập khẩu lớn này, hàng thủy sản Việt
Nam khi đưa sang thị trường Mỹ đã và đang gặp không ít khó khăn như sức ép
cạnh tranh bởi Mỹ được xem là thị trường béo bở đối với rất nhiều quốc gia
chứ không chỉ riêng Việt Nam, sức ép về thuế chống bán phá giá, đặc biệt là
những rào cản cũng như những quy định kỹ thuật khắt khe của thị trường “ông
lớn” này.
3.2.3.2 Thị trường EU
.Đối với khu vực thị trường EU, là thị trường lớn thứ 2 của thủy sản Việt
Nam chỉ sau Mỹ, xuất khẩu thủy sản năm 2013 sang khu vực này đạt gần 1,15

tỷ USD, tăng 1,6% so với năm 2012. Đây được xem là một thị trường rộng lớn
và đầy hấp dẫn đối với các doanh nghiệp và hàng hóa Việt Nam, đặc biệt là
các loại mặt hàng thủy sản. Các sản phẩm chủ yếu xuất khẩu sang EU là: tôm,
cá tra, cá ngừ, mưc và bạch tuộc, nhuyễn thể 2 mảnh vỏ, chả cá và surimi, cua,
ghẹ,…Xét về cơ cấu sản phẩm thủy sản xuất khẩu vào thị trường EU thì tôm
và cá tra là hai mặt hàng chính, chiếm lần lượt là 34,6% VÀ 32,6% tổng kim
ngạch xuất khẩu sang thị trường này. (Bộ Công Thương Việt Nam, 2013)
Năm 2014, xuất khẩu cá tra cả nước đạt gần 1,77 tỷ USD, tăng nhẹ 0,4%
so với năm 2013. EU vẫn là thị trường chủ lực nhập khẩu cá tra của Việt Nam
với con số 344,3 triệu USD, chiếm 19,47% tỷ trọng. Riêng đối với mặt hàng
tôm, thị trường EU chỉ chiếm tỷ trọng khoảng 17,27% . (Số liệu Hải Quan và
Tổng Cục Thủy Sản, 2014)
12


Tuy nhiên, hàng thủy sản khi xuất khẩu sang khu vực EU phải đáp ứng
được các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật khắt khe do khu vực này đưa ra nhằm
bảo vệ tốt nhất sức khỏe con người, bảo vệ môi trường sinh thái và phát triển
bền vững, v.v… Doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam trong thời gian tới sẽ phải
đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt do nhiều nước xuất khẩu thủy
sản chủ lực trên thế giới đều muốn tăng thị phần trên khu vực đầy tiềm năng
này.
3.2.3.3 Thị trường Nhật Bản
Mặc dù tỷ trọng cũng như kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam
sang thị trường Nhật Bản nhìn chugn chưa cao như Mỹ và EU, nhưng Nhật
Bản cũng là được xem là thị trường quan trọng và tiềm năng phát triển trong
thời gian tới.
Theo số liệu Hải quan và tổng hợp của VASEP, năm 2014, đối với mặt
hàng tôm xuất khẩu của Việt Nam, Nhật Bản chiếm tỷ trọng 18,8% với giá trị
xuất khẩu đạt 743,4 triệu USD, tăng 4,9% so với năm 2013, đứng vị trí thứ hai

trong ba thị trường nhập khẩu thủy sản chính của Việt Nam.
Tuy nhiên xuất khẩu của nhóm hàng này sang thị trường Nhật Bản còn
hạn chế, thị phần không đáng kể so với tiềm năng của Việt Nam. Một số mặt
hàng thủy sản của nước ta chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn về vệ sinh an
toàn thực phẩm theo quy định của Luật vệ sinh an toàn thực phẩm Nhật Bản
nên lượng và kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Nhật chưa nhiều. Tuy nhiên,
bên cạnh đó, một số mặt hàng khác như tôm, cá ngừ đã vượt qua hàng rào chất
lượng khắt khe của Nhật Bản và dành được sự tin dùng của người Nhật sau
nhiều năm nổ lực.
3.3 ĐÁNH GIÁ XUẤT KHẨU THỜI GIAN QUA
3.3.1 Đánh giá chung hoạt động xuất khẩu thủy sản Việt Nam
Thủy sản là mặt hàng phục vụ nhu cầu thiết yếu của con người trong
cuộc sống và nhu cầu về mặt hàng này trên thế giới được dự báo sẽ ngày càng
tăng nhanh hơn trong những năm tiếp theo khi cung hàng thủy sản ở một số
quốc gia đang giảm đi. Điều này có thể thấy thủy sản xuất khẩu của Việt Nam
sẽ gặp nhiều thuận lợi về thị trường xuất khẩu, sản lượng và giá cả khi tiến
hành hoạt động xuất khẩu.
Năm 2014 được đánh giá là năm thuận lợi cho hoạt động sản xuất thủy
sản, ước tính giá trị sản xuất thủy sản cả năm đạt gần 188 nghìn tỷ đồng, tăng
6,5% so với cùng kỳ năm 2013. Về hoạt động xuất khẩu, mặc dù gặp rất nhiều
khó khăn từ rào cản của thị trường, nhưng năm 2014 vừa qua kim ngạch xuất
khẩu nước ta vẫn đạt mức kỷ lục với giá trị xuất khẩu gần 8 tỷ USD, tăng hơn
17% so với năm 2013. Đóng góp nhiều nhất là mặt hàng tôm xuất khẩu trên 4
13


tỷ USD, tăng 25% so với năm 2013. Các doanh nghiệp thủy sản ĐBSCL cho
biết, đạt được con số kỷ lục nói trên, một phần là nhờ vào nguồn cung nguyên
liệu của nước ta trong năm 2014 được đảm bảo. (Hiệp hội chế biến và xuất
khẩu thủy sản Việt Nam, 2014)

Với kim ngạch xuất khẩu đạt gần 8 tỷ USD, năm 2014 là năm ngành
thủy sản nước ta với tốc độ tăng trưởng cao nhất và lien tiếp trong vòng ba
năm từ 2012 – 2014. Không chỉ đạt được những con số ấn tượng về kim ngạch
xuất khẩu, mà năm 2014 còn là năm thắng lợi về mở rộng thị trường xuất khẩu
với các doanh nghiệp xuất khẩu. Điểm sang dễ thấy nhất về việc mở rộng thị
trường xuất khẩu là vào tháng 8/2014, Nga – một trong những thị trường lớn
đã dỡ bỏ lệnh cấm và cho phép nhập khẩu thủy sản của Việt Nam. Tận dụng
được cơ hội này, đã giúp nhiều doanh nghiệp thủy sản gia tăng được kim
ngạch xuất khẩu trong năm 2014. Thống kê từ Tổng cục Hải quan cho thấy,
năm 2014, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nga đạt khoảng 1,5 tỷ
USD.
Tuy nhiên, chất lượng của hàng thủy sản xuất khẩu được yêu cầu ngày
càng cao tại các thị trường đặc biệt và các quốc gia có nền kinh tế phát triển.
Hàng hóa xuất khẩu phải đạt được các tiêu chuẩn nghiêm ngặt về chất lượng
và vệ sinh an toàn thực phẩm. Bên cạnh đó, trị giá xuất khẩu của hàng thủy
sản Việt Nam còn thấp do số lượng xuất khẩu nhiều nhưng phải chấp nhận giá
thế giới, đôi khi còn bị ép giá và chịu sự cạnh tranh của các đối thủ cạnh tranh
lớn của các quốc gia khác trên trường thế giới.
Các quốc gia nhập khẩu, đặc biệt là các quốc gia phát triển áp dụng
những biện pháp ngày càng tinh vi hơn đối với hàng thủy sản nhập khẩu. Hộ
đòi hỏi hàng thủy sản nếu muốn xuất khẩu vào thị trường phải đáp ứng những
nhu cầu về chất lượng hàng hóa, vệ sinh an toàn thực phẩm…Điều này đã gây
ra không ít khó khăn cho hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam khi mà trình
độ kỹ thuật của nước ta còn rất yếu kém, chưa thể bắt kịp trình độ của các
nước phát triển trên thế giới.
3.3.2 Vai trò của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đối với xuất
khẩu thủy sản cả nước
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng có diện tích nuôi trồng, khai thác và
đánh bắt thủy sản lớn nhất trong cả nước. Sản lượng xuất khẩu thủy sản của
vùng hằng năm chiếm khoảng 60-70% sản lượng thủy sản xuất khẩu cả nước

và kim ngạch xuất khẩu thủy sản khoảng trên 2,5 tỷ USD. Trong đó sản phẩm
chủ lực của vùng là cá tra, cá basa và con tôm.
Vùng ĐBSCL có đất đai màu mỡ, rất thuận lợi cho phát triển nông
nghiệp, có bờ biển chiếm trên 10% chiều dài bờ biển cả nước, với vùng kinh tế
đặc quyền; thềm lục địa có thế mạnh về hải sản, trữ lượng có khả năng khai
14


thác từ 350-400 nghìn tấn/năm, vùng bãi triều có diện tích hàng trăm nghin ha
nuôi trồng thủy sản nước ngọt; có nhiều tài nguyên khoàng sản có trữ lượng
lớn dưới lòng biển, thềm lục địa; có biên giới hữu nghị với đất nước bạn
Campuchia, đã hình thành các cửa khẩu quốc tế và quốc nôi, giao lưu kinh tế
chính ngạch và tiểu ngạch với số lượng hàng hóa lớn và kim ngạch xuất khẩu
năm sau cao hơn năm trước, đã tạo ra mối liên kết gắn bó nhiều năm qua giữa
đồng bằng sông Cửu Long với thị trường Campuchia, Thái Lan, Myanmar.
Đến nay, diện tích nuôi trồng thủy sản ĐBSCL đạt gần 800.000 ha, có
thể mở rộng lên xấp xỉ 1 triệu ha, với nhiều đối tượng nuôi phong phú, đa
dạng trên cả ba loại hình mặt nước: nước mặn, nước lợ, nước ngọt. Hiện toàn
vùng có hơn 300 doanh nghiệp chế biến thủy sản đủ điều kiện xuất khẩu,
chiếm gần 50% doanh nghiệp cả nước, công suất chế biến hơn 1 triệu tấn/năm.
Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2013 riêng khu vực ĐBSCL là kim
ngạch xuất khẩu vùng ĐBSCL đạt khoảng hơn 4 tỷ USD. Trọng đó, vùng kinh
tế trọng điểm khu vực chiếm 36,7%. ĐBSCL nằm trong 3 khu vực có nhiều
địa phương xuất khẩu “tỷ USD” nhất cả nước với tỷ lệ 26% tương ứng với
kim ngạch xuất khẩu.

15


CHƯƠNG 4

THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TRONG XUẤT KHẨU THỦY SẢN
KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
4.1 THUẬN LỢI
4.1.1 Về tự nhiên
Đồng bằng sông Cửu Long là một vùng có hệ thống sông ngòi dày đặc,
có 8/13 tỉnh giáp biển và nằm ở hạ nguồn hệ thống sông MeKong. Vì vậy,
vùng có nguồn lợi thủy sản vô cùng phong phú và dồi dào, bên cạnh đó
ĐBSCL là vùng có diện tích nuôi trồng thủy sản lớn nhất cả nước. Năm 2014,
diện tích nuôi trồng thủy sản các tỉnh ĐBSCL lên 800.000 ha mặt nước, tăng
5000 ha so với năm 2013. Nguồn nước do hệ thống sông MeKong cung cấp đã
tạo điều kiện vô cùng thuận lợi cho việc nuôi cá basa, có 8/13 tỉnh giáp biển
do đó việc khai thác và nuôi tôm khá thuận lợi. Bên cạnh đó, ĐBSCL có diện
tích rừng ngập mặn khá lớn, khoảng 100.000 ha tập trung ở các tỉnh Cà Mau,
Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre,…Vùng rừng ngập mặn này luôn
luôn chịu sự chi phối của thủy triều biển với nhiều hệ thực vật rừng phổ biến,
từ đó tạo điều kiện để kết hợp nuôi trồng thủy sản. Mặt khác, khu vực ĐBSCL
hằng năm lũ tràn về đem lại một nguồn thức ăn lớn từ tự nhiên tạo sự thuận lợi
cho việc nuôi trồng thủy sản phát triển.
4.1.2 Về nguồn nhân lực
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng có dân số đông nhất trong các vùng
của cả nước, chiếm 22% dân số cả nước. Dân số trong độ tuổi lao động của
vùng trên 12 triệu người năm 2011, chiếm tỷ trọng đông nhất 22,3% so với
toàn quốc. Chính nguồn lao động dồi dào đã tạo điều kiện thuận lợi cho phát
triển ngành thủy sản. Các doanh nghiệp thủy sản đã tận dụng được nguồn nhân
lực này để phát triển và cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Do lĩnh vực chế
biến thủy sản cần nhiều nguồn lao động phổ thong nên rất phù hợp với điều
kiện của vùng. Nguồn lao động giá rẻ, và chi phí đào tạo, quản lý thấp nên các
doanh nghiệp tiết kiệm được nhiều chi phí. Từ đó giá thành sản phẩm thủy sản
của vùng cũng thấp hơn so với thế giới.
Một điều kiện thuận lợi đáng được kể đến đó là ĐBSCL là vùng có

truyền thống nuôi trồng thủy sản, người dân có nhiều kinh nghiệm, cơ chế thị
trường của vùng năng động, các ban, ngành đưa ra nhiều chính sách khuyến
ngư và đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản của vùng.

16


4.2 KHÓ KHĂN
4.2.1 Hạn chế trong thu hút đầu tư, cơ sở hạ tầng yếu kém
Đồng bằng sông Cửu Long thời gian qua đã tranh thủ các nguồn lực,
sáng tạo trong thu hút kêu gọi đầu tư với tổng vốn đăng kí tính đến tháng
9/2013 khoảng 11 tỷ USD. Tuy nhiên, bức tranh kinh tế vùng dù có phát triển
nhưng vẫn chưa thật sự xứng tầm với tiềm năng của vùng, kinh tế vẫn chưa
phát triển bền vững, yếu tố rủi ro vẫn còn cao. Theo đó, quy mô doanh nghiệp
thủy sản của vùng chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ, chưa tạo được thế mạnh trong
cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Mặt khác, cơ sở hạ tầng ĐBSCL tuy được đầu tư nhưng vẫn còn yếu kém
và chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển. Công nghệ, trang thiết bị và hệ
thống phục vụ cho quá trình chế biến của các nhà máy chưa theo kịp yêu cầu
về chất lượng.
4.2.2 Thị trường xuất khẩu còn nhiều thách thức
Tuy vẫn duy trì được đà tăng trưởng nhưng mặt hàng thủy sản khu vực
vẫn nhiều bấp bênh chưa được tháo gỡ. Đầu tiên là sản xuất hàng khu vực chủ
yếu là do hộ gia đình, quy mô nhỏ lẻ là phổ biến nên sẽ gặp khó khăn khi thị
trường yêu cầu với số lượng lượng lớn, chất lượng cao và đảm bảo về tính
đồng bộ về quy cách,…
Bên cạnh đó, thủy sản nước ta còn phải đối mặt và cạnh tranh quyết liệt
với hàng thủy sản nước ngoài trên thị trường trong và ngoài nước, nhất là thủy
sản nhập khẩu có chất lượng cao, nhất là các nước phát triển.
Đồng thời, các thị trường lớn ngày càng đòi hỏi cao về chất lượng, vệ

sinh an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường, nên nhiều nước đã đưa ra quy
định ngày càng khắt khe đối với hàng thủy sản nhập khẩu. Trong khi việc
kiểm định và giám sát chất lượng thủy sản của nước ra còn nhiều hạn chế,
chưa kiểm soát được hoàn toàn từ khâu nguyên liệu đầu vào cho đến khi cung
ứng ra ngoài thị trường. Do đó, chất lượng thủy sản chưa đồng nhất và thường
xuyên bị thị trường các nước kiểm tra kháng sinh hóa chất, gây cản trở trong
hoạt động xuất khẩu.
Đặc biệt, các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản của vùng còn thiếu kinh
nghiệm về thương mại quốc tế. Các doanh nghiệp luôn gặp khó khăn trong các
vụ kiện cũng như tranh chấp quốc tế. Vì chưa có đủ kiến thức về thương mại
quốc tế nên khi xảy ra tranh chấp chúng ta thường thua thiệt.
4.2.3 Chưa có sự liên kết giữa người nuôi và doanh nghiệp và giữa
các doanh nghiệp
Sự liên kết giữa người nuôi và doanh nghiệp cũng như giữa các doanh
nghiệp với nhau chưa tốt. Đây là điểm yếu quan trọng và vùng cần khắc phục
để có thể chủ động được nguồn cung và ổn định giá cả thủy sản trên thị
17


trường. Trong những năm qua, vẫn chưa có sự thống nhất giữa người nông
dân và doanh nghiệp. Vì vậy, việc các nhà máy thường xuyên bị thiếu nguyên
liệu, giá cả biến động khó kiểm soát thường xuyên xảy ra.

18


CHƯƠNG 5
GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU NÔNG SẢN
KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
5.1 NÂNG CAO NHẬN THỨC VỀ HỘI NHẬP CHO DOANH NGHIỆP,

DOANH NHÂN
Theo điều tra của phòng Thương mại với Công nghiệp Việt Nam, có tới
50% doanh nghiệp chưa biết gì về các bước thực thi Hiệp định thương mại
Việt Nam – Hoa Kỳ, 35% doanh nghiệp không có thông tin gì về việc Việt
Nam sắp gia nhập vào các tổ chức quốc tế… Chắc chắn tỷ lệ này đối với khu
vực nông nghiệp – nông thôn lại càng nghiêm trọng. Điều này sẽ là một trong
những trở ngại lớn nhất đối với Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng khi
hội nhập ngày càng đi vào chiều sâu.
Vì vậy cần tổ chức các lớp tập huấn, các đợt đi thực tế cũng như tuyên
truyền rộng rãi hơn nữa các quan điểm, đường lối và lộ trình hội nhập kinh tế
quốc tế của nước ta.
5.2 PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG, NÂNG CAO KHẢ NĂNG VỀ
THÔNG TIN, TIẾP THỊ VÀ DỰ BÁO THỊ TRƯỜNG
Đẩy mạnh hợp tác thương mại với các nước, gắn quan hệ đối ngoại với
xuất khẩu thủy sản. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách thương mại để tạo
điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ thủy sản trong và ngoài nước. đa dạng
hóa thị trường, các hình thức ngoại thương và phương thức thanh toán phù
hợp với điều kiện và lợi ích các bên tham gia, giảm bớt rủi ro về giá cho nhà
sản xuất và kinh doanh.
Hiện nay nhiều doanh nghiệp vẫn “mù” thông tin về hoạt động xuất
khẩu, thị trường nào thuận lợi và khó khăn. Do đó, Bộ chỉ đạo cục Xuất nhập
khẩu cần có trang thông tin thị trường tương đối nhạy bén và nóng hơn để
phục vụ xuất khẩu thủy sản khu vực ĐBSCL.
5.3 GIẢI PHÁP TỪ HOẠT ĐỘNG XÚC TIẾN THƯƠNG MẠI
Hiện nay nước ta đã hội nhập với nền kinh tế toàn cầu thì thị trường là
yếu tố sống còn đối với doanh nghiệp và hoạt động của ngành. Hoạt động xúc
tiến thương mại không chỉ tổ chức ở chiều rộng mà còn phải tiến hành theo
chiều sâu. Các doanh nghiệp cần phân tích, tìm hiểu đặc điểm thị trường xuất
khẩu, thông qua việc khảo sát thị trường, tham gia hội chợ triển lãm. Cần có
sự hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tìm hiểu và thâm nhập vào những thị

trường mới tìm năng. Song song đó, doanh nghiệp cần kết hợp với nhà nước
và cơ quan chức năng, tổ chức các hội thảo quốc tế khoa học về giống, nuôi
trồng, chế biến thủy sản nhiệt đới, tìm hiểu các cơ hội để thu hút các doanh
nghiệp đầu tư vào nuôi trồng, chế biến thủy sản. Phối hợp linh hoạt và hiệu
19


quả cả bốn nội dung chiêu thị cơ bản: Quảng cáo, khuyến mãi, chào hàng cá
nhân, tuyên truyền/quan hệ công chúng.
5.4 XÂY DỰNG, ĐIỀU TIẾT CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH PHÙ HỢP ĐỐI
VỚI MẶT HÀNG THỦY SẢN CHỦ LỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU
LONG
Đồng bằng sông Cửu Long luôn khẳng định vai trò quan trọng trong lĩnh
vực sản xuất thuỷ sản, trong đó, sản xuất hơn 50% sản lượng thuỷ sản của cả
nước. Tuy nhiên, phát triển thủy sản của khu vực còn thiếu sự bền vững, mang
nặng tính tự phát, chưa có sự gắn kết cần thiết giữa sản xuất với nhu cầu thị
trường và công nghệ chế biến. Đây chính là một trong những nguyên nhân
khiến cho hàng hoá sản xuất ra khó tiêu thụ, giá cả không ổn định. Khoa học
và công nghệ trong chế biến thủy sản còn chậm phát triển so với nhu cầu
chuyển đổi cơ cấu sản xuất. Vấn đề đặt ra là nhằm xây dựng, điều tiết, đổi mới
mạnh mẽ cơ chế, chính sách phù hợp với từng mặt hàng như cá tra, basa, tôm,
cá ngừ,… Trong đó, cần chú trọng đến cơ chế liên kết trong sản xuất, trong
việc hình thành trung tâm đầu mối trong sản xuất, chính sách tài chính là thuế
đối với người sản xuất và kinh doanh, cơ chế hỗ trợ và ưu tiên cho phát triển
khoa học và công nghệ trong sản xuất và chế biến.

20


CHƯƠNG 6

KẾT LUẬN
Xuất khẩu thủy sản là ngành có vai trò quan trọng trong sự phát triển
kinh tế của vùng ĐBSCL nói riêng và cả nước nói chung. Tiềm năng và lợi thế
thủy sản của vùng là vô cùng lớn. Đây là vùng đứng đầu cả nước về sản lượng
thủy sản cũng như kim ngạch xuất khẩu thủy sản. Sản lượng khai thác và nuôi
trồng hằng năm đều tăng và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản lượng của cả
nước. Xuất khẩu thủy sản góp phần giải quyết vấn đề lao động và việc làm cho
vùng, đảm bảo hoàn thành các mục tiêu của Nhà nước đã đề ra.
Thị trường xuất khẩu của vùng đã được mở rộng ra nhiều nước. Trong đó
những thị trường lớn là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và
ASEAN. Thủy sản của vùng vẫn còn gặp nhiều khó khăn trên thị trường thế
giới do yêu cầu về chất lượng, tiêu chuẩn quốc tế, rào cản thương mại, chính
sách bảo hộ,… Qua đó các doanh nghiệp gặp khó khăn, ảnh hưởng đến sản
lượng cũng như kim ngạch thủy sản của vùng.
Toàn vùng hiện nay có trên 300 doanh nghiệp thủy sản. Các doanh
nghiệp đã dần tiến hành đổi mới công nghệ, tự chủ nguyên liệu và nâng cao
chất lượng sản phẩm. Do phát triển quá nhanh nên các doanh nghiệp thường
xuyên lâm vào tình trạng thiếu nguyên liệu, hoạt động dưới công suất thiết kế.
Các doanh nghiệp chưa liên kết chặt chẽ với nhau, làm cho việc tranh giành
nguyên liệu vẫn xảy ra, đẩy giá nguyên liệu lên cao và khó kiểm soát. Bên
cạnh những doanh nghiệp thực hiện tốt các tiêu chuẩn về an toàn vệ sinh thực
phẩm thì vùng vẫn có một số doanh nghiệp bơm tạp chất vào sản phẩm làm
ảnh hưởng đến uy tín của ngành.

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đoàn Thị Hồng Vân, 2011. Quản trị xuất nhập khẩu. NXB Tổng hợp
TP.HCM.

2. Tổng cục Thống kê, 2014. <www.gso.gov.vn>. [Ngày truy cập: 15 tháng 11
năm 2015].
3. Tổng cục Hải quan, 2012.
4. Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn Việt Nam. <www.mard.gov.vn>.
[Ngày truy cập: 15 tháng 11 năm 2015].
5.
 /> /> />-12-2012-f.pdf
 /> /> /> /> />434&Category=Th%C3%B4ng%20b%C3%A1o%20%20Th%C3%B4ng%20c%C3%A1

22



×