Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

21 câu hỏi và trả lời ôn tập triết học mác lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.23 KB, 26 trang )

ÔN TẬP LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
Câu 1 : Trình bày quan điểm nhân sinh quan trong Triết học Phật Giáo
Ấn Độ cổ đại.
* Sơ lược tiểu sử :
_ Phật Giáo là trào lưu tôn giáo, xuất hiện khoảng TK6 TCN ở miền Bắc Ấn
Độ. Phật Giáo phản ánh sự phản đối đạo Balamon, sự phân chia đẳng cấp khắc
nghiệt, đòi tự do tư tưởng, lý giải sự khổ đau của con người, và đi tìm con đường
để giải thoát con người khỏi khổ đau. _ Phật Giáo được xây dựng trên cơ sở đời
sống của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakyamauni – tức là bậc hiền giả dòng Sakya )
Phật (Bụt) có nghóa là đấng giác ngộ người khác. _ Lòch sử của đạo Phật được
ghi chép trong kinh Jakata ( được viết sau khi Phật đã mất 100 năm ), thêm nữa,
tôn giáo khi xây dựng tôn giáo của mình thường thêm thắt các chi tiết để làm
tăng chất linh thiêng. Tuy nhiên, giới nghiên cứu đều thống nhất ở các điểm sau
:
1+ Phật là người có thật, con của vương hầu sống cạnh dãy núi Malayia, bố là
Suildhodina, và mẹ là Maga. Tương truyền đức Phật khi sinh ra nói được ngay,
1 tay chỉ lên trời, 1 tay chỉ xuống đất, mẹ đức Phật mất, sống với dì ghẻ ( cũng
là dì ruột ).
2+ Theo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam; Phật sinh 624 TCN, theo tài liệu của
Trung Quốc trong tác phẩm Tỳ Bà Sa Luận cho rằng Phật sinh 486386 TCN.
3+ Phật đi tu vì : ngay từ nhỏ là người từ bi yêu thương nhân loại. Năm 19t, vua
bắt Phật lấy vợ, vì sợ Phật bỏ nhà nên mỗi lần Phật đi chơi đều cho đi theo và 4
lần Phật đi chơi đều gặp cảnh khổ. Năm 29t, Phật từ bỏ tất cả ( vợ, con, cung
điện ) để đi tu. Lúc đầu tu ở dòng Sankhya ( lấy roi quật vào người ) 6 năm
nhưng không giác ngộ nên Phật đã bỏ xuống núi đổi cách tu. Phật ngồi gốc cây
bồ đề 48 ngày và khi nhận 1 bát sữa từ tay cô gái chăn bò, có 1 luồng sáng từ
trời chiếu xuống nên giác ngộ.
4+ Sau đó Phật trở về dòng Sankhya giác ngộ cho các bạn cùng tu, rồi truyền
đạo khắp nơi, gặp mùa mưa thì lưu lại, mùa khô thì tiếp tục truyền đạo.
+Năm 80t, đức Phật mất ở Korilaga, sau khi mất xác Phật được thiêu và lấy tro
để thờ ở chùa Xá Lợi ( nơi thờ của Phật ). _ Lý thuyết Phật Giáo mở ra 1 vấn đề




rất mới về nhân sinh : Phật chủ trương không tán thành đẳng cấp. Sau khi đức
Phật mất. Ca Diếp đã triệu tập Kết tập 1 gọi là vương sáng. Học trò của Phật
ngồi nhớ lại lời Phật dạy rồi biên soạn Kinh Tạng & Luật Tạng. Kết tập 2 được
triệu tập sau khi đức Phật mất 100 năm, xuất hiện mâu thuẫn : 1 số đông đòi
sửa lại Kinh Tang & Luật Tạng, 1 số khác trung thành nên chia thành 2 phái.
Kết tập 3 được họp 245 TCN ở Pata Lipatra dưới sự bảo trợ của vua kabusa :
biên soạn hoàn chỉnh về 3 kinh : luân, sư, tạng . Kết tập 4 họp TK2 dưới sự chủ
toạ của nhà tư kế hữu, chủ trương phổ biến & truyền bá tư tưởng ra bên ngoài.
TK5 sau CN, người hung nô xâm lược & hủy diệt Phật Giáo -> Phật Giáo
suy tàn ở Ấn Độ ( nhưng vẫn là tôn giáo lớn ) . TK8 vua Hexa khôi phục Phật
Giáo. Sau đó, người Hồi Giáo xâm lược Ấn Độ -> Phật Giáo suy tàn & TK12
biến mất hoàn toàn ở Ấn Độ.
TK18 -> đầu TK19, người Châu Âu khuyến khích Phật Giáo ở Ấn Độ > Phật
Giáo được khôi phục. Mặc dù có sự khôi phục, nhưng Phật Giáo không còn là
tôn giáo lớn ở Ấn. Dù vậy Ấn chính là quê hương của Phật Giáo. Hiện nay Phật
Giáo thế giới có 1 trào lưu : Đại Thừa ( nhờ đến người khác nhất là những người
thành chính quả ), Tiểu Thừa ( sự nỗ lực cố gắng của chính bản thân mình ).
Tiểu Thừa, cấp cao nhất là La Hán, Đại Thừa là Bồ Tát. Tư tưởng Phật Giáo
lúc đầu truyền khẩu sau mới viết thành văn bản.
* Quan điểm nhân sinh quan
Nhân sinh quan là quan niệm về con người, đời người, cuộc sống. Toàn bộ nhân
sinh quan của Phật Giáo được thể hiện trong Tứ Diệu Đế ( 4 nguyên lý thiêng
liêng & thần diệu của đạo Phật ) . _ Khổ đế : trong cổ đại đề cập đến bản chất
của nhân sinh quan : cuộc đời có ý nghóa như thế nào & mang bản chất gì?
Theo quan niệm Phật Giáo : đời là bể khổ ( nước mắt của chúng sinh đọng lại
đầy hơn 4 bể ) . Theo Phật gồm có các nỗi khổ :
1+ Nhò khổ : bên trong & bên ngoài .
2+ Tam khổ : cái khổ quá khứ, hiện tại & tương lai .

3+ Tứ khổ : sinh lão bệnh tử .
4+ Bát khổ .
5+ Oán tăng hội .
6+ Thụ biệt ly : đang yêu mà phải xa nhau -> khổ .
7+ Sở cầu bất đắc khổ : cái ta mong muốn ( công danh , đòa vò , phú quý ,
tình duyên mà không đạt được -> khổ ) .


8+ Ngũ thủ uẩn khổ : khổ vì thân xác . Thống kê lại , đời người có 110 nỗi khổ .
Đời là bể khổ do :
9+ Gắn với chế độ thống trò và đẳng cấp khắc nghiệt ở .
10+ Vòng đới quá ngắn ngủi .
11+ Nhân đế ( tập đế ) : Phật giải thích nguyên nhân của nỗi khổ là do
nguyên nhân nhận thức , nguyên nhân tinh thần . Cụ thể là do Thập nhò
nhân duyên & nghiệp báo luân hồi gây ra .
12+ Thập nhò nhân duyên :


Vô minh : không sáng suốt , không nhận thức sự vật , hiện tượng .


Duyên hành : Hành động của ý thức , dao động của tâm & khuynh
hướng , manh nha của nghiệp .


Duyên thức : là tâm thức của con người , từ chỗ trong sáng cân
bằng là minh -> ô nhiễm mất cân bằng là vô minh .


Duyên danh sắc : là sự hội nhập của các ý thức tinh thần & vật chất

. Danh là tinh thần , sắc là vật chất . Cơ thể cấu tạo bởi ngũ uẩn : sắc ( vc ) , thụ
( cảm giác ) , tưởng , hành , thức là tinh thần .


Duyên lục nhập : là quá trình tiếp xúc thế giới khách quan ( lục căn
tiếp xúc lục trần )


Duyên xúc : là sự tiếp xúc phối hợp giữa lục căn , lục trần và thức .


Duyên thụ : thụ là cảm giác , do tiếp xúc mà nảy sinh cái cảm giác
yêu , ghét , vui , buồn .


Duyên ái : ái tức là yêu thích ( ám chỉ sự nảy sinh dục vọng ) .


Duyên thủ : đã yêu thích thì muốn giữ lấy chiếm lấy .


Duyên hữu : là tiến tới chủ thể chiếm hữu ( cái ta thì phải tồn tại
hữu tức là đã có hành động tạo nghiệp .


Duyên sinh : đã có tạo nghiệp ( hữu ) tức đã có nghiệp nhân , ắt có
nghiệp quả -> sinh ra ta .


Duyên lão tử : đã sinh ra thì phải già và chết . Lão Tử là kết quả

cuối cùng của 1 quá trình nhưng đồng thời là nguyên nhân của 1 vòng luân hồi
khác .


Nghiệp : sợi dây tạo tác nối cái này với cái kia .
+ Nghiệp báo luân hồi : con người có tam nghiệp :


Thân nghiệp : do hành động gây ra .


Khẩu nghiệp : do lời nói gây ra .

• Ý nghiệp : mới chỉ có trong ý nghó .
Vì tam nghiệp cho nên con người rơi vào 6 kiếp : Đòa ngục ; Ma
đói ; súc vật ; atula ( nửa người nửa vật ) ; người ; trời .
6 kiếp này luân hồi mãi không dứt , chỉ khi nào thành Phật lên
cõi Phật mới thoát khỏi 6 kiếp .

_ Diệt đế : trong diệ đế Phật khẳng đònh , nỗi khổ hoàn toàn có thể tiêu diệt để
chấm dứt nghiệp luân hồi . Chỉ ra con đường ta luyện để được lên niết bàn .
Nghóa của niết bàn :
.1+ Viên tòch , rơi vào thế giới của sự tòch diệt .
.2+ Tây phương cực lạc .
.3+ Nơi thường Lạc Ngã Tònh : thường ( còn mất ) lạc ( vui vẻ ) ngã ( bản thân
mình ở đó ) tònh ( trong sạch ) .
.4+ Nơi hoàn toàn thủ tònh để không phải quay lại làm kiếp người hay kiếp
khác chòu khổ .
.5+ Phật tại tâm . Niết bàn được hiểu nhiều nghóa nhưng tóm lại niết bàn là 1
trạng thái không còn ý thức và cái vô thức cũng chìm vào chân không , nó

không còn là 1 quá trình , không có 1 nội dung nào . Tất cả chỉ còn lại sự yên
lặng vô biên . _ Đạo đế : đưa ra con đường giải thoát diệt khổ , thực chất là
nhằm tiêu diệt vô minh , gồm bát chánh đạo ( 8 con đường chính ) , tam học và
lục độ .
.6+ Bát chánh đạo :


Chính kiến : hiểu biết đúng đắn .


Chính tư duy : suy nghó đúng đắn .


Chính ngữ : giữ cho lời nói được chân chính .


Chính nghiệp : nghiệp có tà nghiệp và chính nghiệp . Chính nghiệp
phải giữ cẩn thận .


Chính mệnh : phải tiết chế dục vọng , phải trì giới ( giữ gìn các
điều răn ) .




Chính tinh tiến : phải cố gắng nỗ lực trong việc tìm kiếm và truyền
bá chân lý của đạo Phật



Chính niệm : thường phải nhớ Phật và niệm Phật .


Chính đònh : là phải ngồi thiền , tónh lặng , tập trung tư tưởng để suy
nghó về tứ diệu đế và vô ngã vô thường . +Tam
học : gồm giới , đònh , và tuệ .


Giới ( điều răn ) : phải giữ gìn các điều răn gồm : ngũ giới ( bất
sát , bất đạo đức là không trộm cắp , bất vọng ngữ tức là không nói xấu người
khác , bất tà tâm là không quan hệ nam nữ lung tung , bất tữu tức là không uống
rượu ) . Bát giới ( không xem ca nhạc , không nằm soãi tay chân , không ăn quá
ngọ , không lấy vợ lấy chồng , không được tồn trữ tiền bạc , không được ăn
trộm, ăn cắp , không được nói xấu người khác , không được giết hại sinh vật
nhất là người .


Đònh : tức là thiền đònh tức là phải ngồi tập trung tư tưởng đến nỗi
quên hết mọi việc vật xung quanh .


Tuệ : là trí tuệ nhà Phật , phải nắm vững các nguyên lý , giáo pháp
nhà Phật .
+ Lục độ : 6 con đường , bến đò đưa lên niết bàn .


Bố thí : lời nói , việc làm , tiền của .


Trì giới : giữ điều răn .



Nhẫn nhục .


Tinh tiến : cố gắng nỗ lực .


Thiền đònh .


Trí tuệ .
Câu 2 : Trình bày những tư tưởng cơ bản trong TH của Khổng Tử .
* Sơ lược tiểu sử :
Khổng Tử ( 551 – 479 ) TCN : ông xuất thân trong 1 gia đình qúi tộc nhỏ đang
bò sa sút ở nước Lỗ . Tư tưởng của Khổng Tử là đại diện cho tư tưởng của bộ
phận bảo thủ trong giai cấp qúy tộc, thò tộc Chu. Vì vậy, ông muốn khôi phục
lại pháp chế, kỷ cương của nhà Chu và đây là lập trường nhất quán của ông. Tư
tưởng triết học của ông thể hiện ở 2 phương diện cơ bản : Bản thể luận, Học
thuyết về chính trò- xã hội.


* Tư tưởng cơ bản :
_ Bản thể luận : Quan niệm về thế giới của Khổng Tử chòu ảnh hưởng trực tiếp
bởi quan niệm về thế giới của người Trung Quốc cổ đại được trình bày trong
kinh dòch. Theo quan điểm này thì vũ trụ ban đầu là 1 mớ hỗn độn, trong đó có
tồn tại cái lý gọi là thái cực vô hình. Thái cực vô hình này là 1 thể thống nhất
của 2 mặt âm và dương. Do sự tương tác âm và dương thì sinh ra thanh khí,
trọng khí : khí nặng bốc lên làm trời, trọng khí lắng xuống lòng đất. Bởi sự điều
hòa âm-dương của trời đất sinh ra vạn vật trong đó có con người. Theo quan

điểm này, trời ở ngôi cao nhất, trời không mang tính thần thánh mà trời mang
tính duy vật. Thần thánh không phải hư vô mà con người không lý giải
được.Bản thể luận của Khổng Tử còn thể hiện trong quan điểm về “trời”, “qủy
thần”. Quan niệm về trời, qủy thần của ông vẫn tồn tại nhiều mâu thuẫn thể
hiện tư tưởng của ông vừa mang tính bảo thủ vừa mang tính tiến bộ. Cụ thể
Khổng Tử cho rằng : “trời” là quy luật, trật tự của vạn vật và mặt khác ông lại
khẳng đònh có sự tồn tại của thiên mệnh và số phận của mỗi con người là do
thiên mệnh qui đònh. Mặt khác, ông cũng khẳng đònh rằng con người với nỗ lực
chủ quan của mình hoàn toàn có thể thay đổi thiên mệnh. Quan niệm về “qủy
thần”, Khổng Tử không nghi ngờ sự tồn tại của qủy thần và ông lại ít bàn đến
quỷ thần. Ông khuyên con người đối xử với qủy thần bằng cách tôn kính, xa
lánh và cảnh giác.
* Học thuyết của Khổng Tử về chính trò – xã hội :
Lý tưởng chính trò của Khổng Tử được biểu hiện tập trung ở trong các học
thuyết nhân, lễ, chính danh.
0
+ Nhân: bao gồm nhiều nghóa khác nhau song về cơ bản nhân được hiểu
là ái nhân (thương người). Thương người theo Khổng Tử là việc gì không muốn
xảy ra với mình thì đừng đem áp dụng cho người khác. Thương
1
người còn được hiểu mình muốn thành đạt phải giúp người khác thành
đạt, mình muốn lập thân phải giúp người khác lập thân. Thân còn bao gồm
hàng loạt các đức tính khác nhau : khiêm tốn, dũng cảm, thật thà, trung, hiếu,
học gắn liền với hành, biết yêu người đáng yêu, biết ghét kẻ đáng ghét. Từ đó
suy ra nhân không chỉ là thương người mà thực chất còn là đạo làm người. Tuy
nhiên, học thuyết nhân của Khổng Tử lấy việc yêu thương người thân là cơ sở.
Mặt khác nó bò hạn chế bởi lập trường giai cấp. Khổng Tử khẳng đònh chỉ người
quân tử mới có đức nhân, còn kẻ tiểu nhân thì không có đức nhân. Điều kiện để
thực hiện đức nhân là phẩm chất thật thà, chất phát của con người.



.2+ Lễ : được hiểu theo nghóa rộng là thể chế chính trò xã hội, là phong tục tập
quán truyền thống (sinh, tử, tang, hôn). Khổng Tử cho rằng cần phải dùng lễ để
khôi phục đức nhân, mọi người cần phải tuân thủ theo lễ, phải sống theo lễ. Tuy
nhiên cái lễ mà Khổng Tử đề cập đến là lễ của nhà Chu đứng trên lập trường
bảo thủ trong giai cấp qúi tộc, thò tộc Chu. Ông muốn khôi phục lại cái lễ của
nhà Chu, nhưng ông không thấy được sự suy tàn của lễ nhà Chu là tất yếu lòch
sử. Vì vậy ông đưa ra 1 số biện pháp cải lương nhằm cứu vãn tình thế.
.3+ Chính danh : là con đường để đạt đến điều nhân, con đường để ổn đònh trật
tự xã hội.


Cơ sở của thuyết chính danh : Khổng Tử cho rằng gốc của con
người là gốc nhân. Nhờ có đức nhân mà dân tốt, nước yên, thiên hạ thái bình.
Tuy nhiên vào thời đại của ông, người ta không còn sống theo đạo con người
nữa, kỷ cương phép nước bò lu mờ, luân thường đạo lý bò đảo lộn. Để ổn đònh
trật tự xã hội. Khổng Tử kiên trì theo đường lối nhân trò và chủ nghóa chính
danh đònh phận.

• Nội dung của thuyết chính danh : Theo Khổng Tử mỗi vật có 1 công
dụng nhất đònh, cái đó gọi là thực. Ứng với mỗi công dụng là 1 tên được gọi là
danh. Đối với con người, danh là tên gọi của chức vụ, đòa vò, thứ bậc của con
người trong xã hội. Thực là phận sự của người đó bao gồm cả quyền lợi, nghóa
vụ. Theo Khổng Tử nếu danh và thực phù hợp với nhau thì chính danh, nếu
danh và thực không phù hợp với nhau thì loạn danh. Một xã hội có chính danh
là 1 xã hội ổn đònh, trật tự, còn 1 xã hội loạn danh là xã hội mất ổn đònh. Vì vậy
để khôi phục trật tự xã hội thì phải chính danh.
Theo thuyết chính danh, Khổng Tử chia XH thành các mối quan hệ khác nhau.
Mỗi quan hệ XH được gọi là 1 luân. Thời Khổng Tử, tất cả có 5 luân : vua-tôi,
cha-con, chồng-vợ, anh-em, bạn-bè. Ông đặc biệt nhấn mạnh quan hệ vua-tôi,

cha-con. _ Đối với quan hệ vua-tôi thì Khổng Tử phản đối duy trì vua tôi theo
huyết thống, chủ trương vua phải dùng người hiền tài, phải rộng lượng với kẻ
cộng sự. Theo Khổng Tử nhà cầm quyền phải đảm bảo 3 điều sau :

• Phải đảm bảo lương thực cho dân no ấm.

• Phải có binh lực mạnh để bảo vệ dân.

• Phải giữ được lòng tin đối với dân. Đồng thời Khổng Tử cho rằng vua
phải lấy lễ để khiến bề tôi, bề tôi phải lấy đạo trung để thờ vua, coi vua như


cha mẹ của mình. _ Đối với quan hệ cha-con : cha đối với con phải lấy từ ái làm
trọng, còn con đối với cha phải lấy đạo hiếu làm đầu. Hiếu là cốt ở tâm thành
kính, đồng thời con cái phải can ngăn nhẹ nhàng lỗi mà cha mẹ mình mắc
phải.Để thực hiện chính danh Khổng Tử chủ trương lễ, nhạc, thi, thư. Theo
Khổng Tử người ta tạo lập là nhờ lễ hứng khởi là nhờ thi, thành đạt là nhờ nhạc.
Nếu nhạc mà trang nghiêm hoà nhã và có tác dụng nuôi dưỡng tính tình, cảm
hoá lòng người và hướng con người đến chân thiện mỹ. Còn thi thư giúp con
người trình bày tư tưởng của mình và biện luận với người khác. Tuy nhiên, dùng
lễ nhạc thi thư thì phải trên nền tảng của đức nhân. Nếu 1 người không có đức
nhân mà dùng lễ nhạc thi thư thì chỉ là sự sáo rỗng của hình thức. Câu 11 :
Trình bày những điều kiện và tiền đề ra đời của Triết học M-L.
* Điều kiện kinh tế – xã hội :
Triết học C.M ra đời vào thời kỳ chủ nghóa phong kiến sụp đổ và chủ nghóa tư
bản lớn mạnh ở 1 số nước Châu Âu và Bắc Mỹ. Chủ nghóa tư bản đã tạo ra nền
công nghiệp khó và cùng với nó là giai cấp vô sản cách mạng – giai cấp hiện
thân của nền sản xuất mới, giai cấp trung tâm của thời đại. Sự hình thành và
phát triển các trung tâm công nghiệp lớn đã tạo ra những biến đổi sâu sắc trong
phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản. Là người con của dân tộc Đức, Mác

đã xuất hiện rất đúng lúc. Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc và sáng tạo những di
sản tư tưởng Triết học của loài người, phân tích đúng thực tiễn kết hợp với năng
lực tư duy của nhà bác học. Các Mác và Anghen xây dựng nên chủ nghóa duy
vật biện chứng và chủ nghóa duy vật lòch sử.
* Tiền đề về lý luận của Mác : kế thừa có chọn lọc và sáng tạo.
Toàn bộ những hạt nhân hợp lý của toàn bộ hệ thống Triết học trước đó,
quan trọng là kế thừa chủ nghóa duy vật của Phoibac và kế thừa phép
biện chứng của Heghen.
Tiền đề về khoa học tự nhiên : Triết học M là sự tổng kết các thành tựu
khoa học tự nhiên thế kỷ 19, trong đó quan trọng nhất :
_ Học thuyết tiến hoá của Dacuyn.
_ Đònh luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng của Ropee pa.
_ Học thuyết tế bào.
Tiền đề về thực tiễn : Triết học Mác nói chung và chủ nghóa Mác nói
riêng là tổng kết phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân.


Câu 3 : Trình bày những tư tưởng cơ bản trong TH của Lão Tử.
* Tiểu sử sơ lược:
Sinh vào khoảng TK6 – TK 5 TCN, Lão Tử được coi là ông tổ của đạo gia. LT
sống cùng thời với KT, ông là người làng Nhân, Hương Lệ, nước Sở. Ông là
người họ Lý, tên Nhó Tự Bá Dương. Người đời sau kính trọng ông gọi là đạo
Tam. Ông làm quan giữ sách của nhà Nhu, sống ẩn dật. Tác phẩm của ông gồm
3 vấn đề : tư tưởng về đạo, tư tưởng về phép biện chứng và tư tưởng quan niệm
vô vò.
* Tư tưởng cơ bản :
_ Tư tưởng về đạo : chiếm 1 vai trò trong học thuyết của LT. Khái niệm đạo
được xuất hiện trước của LT nhưng đến thời của LT đạo được thấu hiểu 1 cách
hoàn chỉnh. _ Thể (bản chất) : được thể hiện ở 2 tính chất : tự nhiên thuần phát
và trống không.



Tính tự nhiên thuần phát của đạo được hiểu như là tính khách quan
vốn có như thế, nó không bò phụ thuộc vào ý chí của con người. Tính tự nhiên
của đạo cũng không được hiểu như tồn tại khách quan của TH phương Tây vì
đạo chứa đựng được cái hòa đồng của tất cả cái tồn tại và không tồn tại cả cái
tuyệt đối và cái tương đối. Đạo là tự nhiên nhưng không tồn tại có đònh tính, có
hình thái mà là 1 trạng thái vónh cửu, chứa đựng tất cả, cả thần linh thượng đế
cũng từ đạo mà ra.


Tính trống không : bản chất của đạo là sự im lặng trống không, sự
im lặng trống không này rõ ràng là không có gì ngoài cái trống không. Nhưng
theo LT, sự trống không đó nó lại có 1 nội dung xác đònh bởi vì nó là cái đầu
tiên sinh ra vạn vật và nó vô cùng vô tận. Bản chất của vũ trụ, của trái đất là
cái khoảng không vónh cửu, nó là cái đầu tiên sinh ra vạn vật. Từ bản chất đó
LT cho rằng đạo là cái vô danh, con người không thể nghe thấy, nhìn thấy nắm
bắt được đạo. LT viết “không tên là gốc trời đất, có tên là mẹ vạn vật”. Không
tên chỉ là mặt thể (bản chất) của đạo. Đây là trạng thái ban đầu nguyên thuỷ
của đạo khi đạo chưa vận động, chưa bộc lộ bản chất. Có tên là mặt dùng chỉ
trạng thái đạo vận động biến đổi để sản sinh ra vạn vật. Vì đạo tồn tại tự nhiên
theo bản tính vốn có của mình và vạn vật sinh ra từ đạo rồi tồn tại theo qui luật
tự nhiên. LT gọi là đạo vô vò “ Đạo thường không làm nhưng
không gì không làm”. _ Phép biện chứng chất phác trong TH Lão Tử :


Toàn bộ thế giới là 1 cuộc đại chuyển tiếp không ngừng, tức là mọi sự vật luôn
luôn vận động biến đổi phát triển. Trong sự vận động biến đổi đó tất cả chỉ là
tương đối, chỉ là 1 giai đoạn của dòng chuyển hoá vô tận. Sự vận động của vạn
vật không phải là hỗn loạn mà luôn luôn tuân theo qui luật của tạo hoá, đây là

qui luật hết sức nghiêm ngặt, không 1 sự vật nào đứng ngoài qui luật đó, kể cả
thần linh thượng đế. Toàn bộ vũ trụ tuân theo 2 qui luật phổ biến là : luật quân
bình và phản phục.
+ Luật quân bình : là luôn luôn giữ cho sự vận động được thăng bằng không để
cho cái gì thái quát thiên lệch hay bất cập. Theo LT “ khuyết thì đầy, cong thì
ngay, trũng lại đầy, cũ lại mới, ít thì được, nhiều thì mất”.
Chính nhờ luật quân bình vạn vật mới tồn tại theo 1 trình tự nhất đònh. Luật
quân bình chống lại những gì thái quá trái với qui luật tự nhiên. Để chống lại
những gì thái quá nó lấy nhu thắng cương, lấy nhược thắng cương. +Luật phản
phục : có 2 nghóa :


Vạn vật biến hoá trao đổi cho nhau theo 1 vòng tuần hoàn đều đặn,
kế tiếp theo 1 cách nhòp nhàng bất tận, đây là qui luật bất di bất dòch của tự
nhiên.


Phản phúc nghóa là trở về với đạo tự nhiên vô vi nghóa là với chính
bản tính tự nhiên của con người, không thái quá, không bất cập. Theo LT, nếu
không trở về với đạo tự nhiên vô vi, chống lại qui luật tự nhiên, cố tình can
thiệp vào tính tự nhiên của tạo hoá thì con người sẽ chuốc lấy bại. Mọi sự vật
biến đổi có nguồn gốc từ trong bản thân sự vật. Mỗi một sự vật là thể thống
nhất của 2 mặt đối lập vừa tương hoà vừa xung khắc, vừa độc lập vừa liên hệ
ràng buộc nhau, bao hàm lẫn nhau và không thể thiếu nhau được.
LT còn xây dựng 1 loạt các mâu thuẫn trong tất cả các lónh vực tự nhiên, XH
đạo đức, quan hệ ứng xử…giải quyết các mâu thuẫn được ông nâng lên như 1
nghệ thuật sống : động – tónh, nóng – lạnh, thấp – cao, mềm – cứng, hữu – vô,
còn – mất, tốt – xấu, thiện – ác….
_ Tư tưởng của đạo vô vi : vô vi có nghóa là phương pháp sống thiên
nhiên mộc mạc, thuần phác không bò ức chế gượng ép. Đạo vô vi xuất phát

từ quan niệm trên điểm cốt lõi là NT sống của con người trong sự hoà nhập
với tự nhiên và tuân theo bản tính tự nhiên của con người.
Khái niệm vô vi có 3 nghóa :
.1+ Vạn vật đầu có bản tính tự nhiên, chúng vận động biến hoá theo lẽ tự nhiên


mà không cần biết đến ý nghóa mục đích của bản thân chúng (vd : bản tính tự
nhiên của cá là bơi lội, của lửa là nóng….). Sống với cái vốn có TN mộc mạc,
thuần phác của mình, không trái với qui luật TN, không được can thiệp vào quá
trình vận hành của sự vật khác, phải chấp nhận và thích ứng với mọi hoàn cảnh
của môi trường. +Vô vi có nghóa là tự do tuyệt đối, không bò ràng buộc bởi bất
kỳ 1 ý tưởng, dục vọng, đam mê và mong muốn nào.
.2+ Vô vi nghóa là phải luôn luôn bảo vệ, giữ gìn bản tính TN của mình, phải
biết ngăn chặn những gì làm tổn hại đến bản tính tự nhiên của vạn vật mà trước
hết là chống lại mọi hành động của con người trong XH. Theo đạo vô vi có 3
cái phải nắm giữ bảo vệ : từ ái, cần kiệm, không dám đứng trước thiên hạ. Con
người sống phải biết từ ái, cần kiệm, khoan dung, tri thức….Lão Tử chủ trương
bỏ hết những gì trái với đạo TN vô vi, vượt quá bản tính tự nhiên của con người,
LT kêu gọi đưa con người về trạng thái tự nhiên nguyên thuỷ chất phác. =>
Tóm lại : tư tưởng về đạo, tư tưởng về phép biện chứng và tư tưởng về đạo vô
vi của LT đã đạt đến 1 trình độ sâu sắc độc đáo, 1 trình độ tư duy lý luận rất
cao, đóng góp vào nét đặc sắc của phương Đông. Tuy còn nhiều điểm hạn chế
nhưng chúng ta phải nghiêng mình trước những gì mà ông đã đưa ra.
Câu 4 : Trình bày những tư tưởng triết học của L.Phoiơbách về tự nhiên
và con người .
* Sơ lược tiểu sử : ( 1804 – 1872 )
9 Luc-vich Phoiơbách sinh ra trong 1 gia đình luật sư nổi tiếng. Gia đình ông
muốn ông trở thành 1 luật sư nhưng khi học đại học Phoiơbách lại học
triết học. Do ông học giỏi nên được giữ lại trường, trở thành phó giáo sư
rồi giáo sư. Phoiơbách đã phát hiện ra những bất hợp lý trong triết học

của Heghen, ông cùng Mac-Anghen tham gia sinh hoạt trong nhóm
“Heghen trẻ”. Sau 1 thời gian, ông bất mãn với hệ thống triết học, ông bỏ
dạy về quê ở ẩn trong 28 năm.
9 Tác phẩm nổi tiếng : “ Phê phán triết học của Heghen ” –xb 1839, “bản
chất đạo Thiên Chúa” và “luận cương sơ bộ của cải cách triết học” – xb
1842, “ cơ sở triết học của tương lai ” –xb 1843, “bản chất tôn giáo” –xb
1845.
9 Toàn bộ hệ thống triết học của Phoiơbách được gọi là CNDV nhân bản vì
ông xác đònh lấy con người làm đối tượng trung tâm của triết học. Ông
xác đònh nghiên cứu khoa học tự nhiên để phục vụ cho nghiên cứu con


người.
9 Về cuối đời, Phoiơbách đọc triết học của Mác, ông đã bỏ
triết học của mình và theo triết học của Mac. Quan niệm
về giới tự nhiên :
¾ Ông tập trung vào phê phán : bác bỏ học thuyết của Heghen về giới
tự nhiên vì theo Heghen , giới tự nhiên là sản phẩm của ý niệm
tuyệt đối.
¾ Ông đã bảo vệ các quan điểm duy vật của thế giới, ông cho rằng
thế giới chúng ta đang sống là thế giới vật chất, tồn tại khách quan
và không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của duy vật, còn ý thức
chỉ là sản phẩm của bộ óc (sản phẩm tự nhiên ) và con người là 1
bộ phận của giới tự nhiên.
¾ Khi đứng ra bảo vệ các quan điểm duy vật thì Phoiơbách đã phát
triển 1 số luận điểm có thể của duy vật và đã khắc phục được
những hạn chế của CNDV trước đó :
.1+ Cho rằng trong tự nhiên có nhiều chất và lượng khác nhau và cảm giác của
chúng ta hoàn toàn có thể nhận thức được.
.2 + Phoiơbách chứng minh con người là chủ thể đồng thời là bộ phận của giới

tự nhiên, còn ý thức con người chỉ là 1 thuộc tính của bộ óc con người.
.3+ Phoiơbách chứng minh rằng không gian và thời gian tồn tại khách quan, gắn
liền với vật chất và thừa nhận tính khách quan của quy luật tự nhiên, quy luật tự
nhiên tự vận động đến 1 điều kiện nào đó thì sinh ra vật chất hữu cơ của con
người.
* Quan niệm về con người :
¾ Phoiơbách đặt con người là trung tâm trong hệ thống triết học
của mình.
¾ Phê phán Heghen chỉ chú ý đến mặt ý thức, mặt tư duy của con
người mà không chú ý đến mặt tự nhiên, mặt thể xác của con
người và theo ông chính mặt thể xác của con người cùng với toàn
bộ thuộc tính của nó tạo thành bản chất của con người.
¾ Phoiơbách quan niệm nhiệm vụ của triết học là phải đem lại cho
con người quan niệm mới chính bản thân mình đồng thời tạo cho
con người 1 đời sống hạnh phúc. Phoiơbách còn quan niệm con
người là 1 bộ phận của tự nhiên, con người là 1 sinh vật có cảm


giác, biết tư duy, có ham muốn, có dục vọng, có mơ ước. Theo
Phoiơbách, bản chất của con người chính là tình yêu. Trong các
loại tình cảm thì tình yêu nam nữ là đỉnh cao của bản chất con
người, từ đó Phoiơbách đưa khẩu hiệu : “con người hãy ôm hôn
nhau đi thì XH sẽ hết mọi điều đau khổ”. Từ đó Phoiơbách sùng
bái tình yêu và tôn thờ tình yêu như 1 thứ tôn giáo.
+ Tiêu biểu : quan tâm con người ( chủ yếu quan tâm về mặt tự
nhiên, mặt sinh học ).
+ Hạn chế : Phoiơbách đã tuyệt đối hoá tình yêu, coi tình yêu là bản chất của
con người mà không chú ý đến mặt XH và không thấy được điều kiện chính trò
XH mà con người sống. Phoiơbách phê phán con người trong triết học của
Heghen là trừu tượng trong khi quan điểm của ông về con người cũng trừu

tượng.
Câu 5 : Phân Tích Mối Quan Hệ Biện Chứng Giữa Vật Chất Và Thức ,
Vai Trò Của Tri Thức Khoa Học Đối Với Sự Nghiệp Đổi Mới Của Nền Kinh
Tế Nước Ta Hiện Nay ?
Phân Tích Mối Quan Hệ Biên Chứng Giữa Vật Chất Và Thức
Xuất phát từ việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, chủ nghóa duy vật biện
chứng khẳng đònh: vật chất là tính thứ nhất quyết đònh ý thức, ý thức là tính thứ
hai phụ thuộc vào vật chất và con người có khả năng nhận thức được thế giới
khách quan. Nghiên cứu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong thực tiển xã
hội được thể hiện thông qua mối quan hệ biện chứng giữa nhân tố vật chất
(khách quan) và nhân tố tinh thần (chủ quan). Trong mối quan hệ đó thì vật
chất bao giờ cũng giữ vai trò quyết đònh đối với nhân tố tinh thần, nhưng ngược
lại nhân tố tinh thần tác động một cách tích cực đối với nhân tố vật chất Nhân
tố vật chất là những điều kiện, hoạt động vật chất của xã hội và các qui luật
khách quan vốn có của nó. Xuất phát từ khái niệm vật chất của triết học là thực
tại khách quan không phụ thuộc vào ý thức của con người và khi tác động vào
giác quan con người thì sinh ra cảm giác. Điều này đòi hỏi con người thừa nhận
tồn tại khách quan của mọi đối tượng vật chất trong hoạt động tinh thần của
mình. Nhưng trong hoạt động thực tiễn, thực tại khách quan không phải là thế
giới vật chất nói chung, mà là hiện thực khách quan thể hiện trong hoạt động
thực tiễn bằng các nhân tố vật chất (nhân tố khách quan). Nhân tố tinh thần là
toàn bộ hoạt động tinh thần của con người như: tình cảm, ý chí và tư tưởng của


con người, là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ não con
người. Vai trò quyết đònh của nhân tố vật chất đối với nhân tố tinh thần Xuất
phát từ quan điểm cho rằng vật chất có trước quyết đònh ý thức, cho nên nhân tố
vật chất cũng là cái có trước, cái quyết đònh còn nhân tố tinh thần là cái có sau,
cái phụ thuộc vào nhân tố vật chất. Toàn bộ hoạt động tinh thần của con người
(dù thể hiện dưới các hình thức khác nhau ) đều là sự phản ánh hiện thực khách

quan và bò qui đònh bởi hoạt động vật chất của con người. Có nghóa là thực tiển
là nguồn gốc, động lực và là tiêu chuẩn của nhận thức.
Trong hoạt động tinh thần của con người nói chung, kể cả ý thức cá nhân hay ý
thức xã hội hoặc đường lối chủ trương chính sách của một nhà nước.... cũng
phải dựa trên cơ sở hiện thực khách quan, thì mới có thể làm cho khả năng
khách quan trở thành hiện thực Tự thân nó, ý thức tư tưởng của con người không
thể thực hiện được sự biến đổi nào trong hiện thực, nếu nó không thông qua các
nhân tố vật chất, bởi “chỉ có lực lượng vật chất đánh bại bởi một lực lượng vật
chất mà thôi” Vai trò của nhân tố tinh thần (chủ quan) Xuất phát từ quan điểm
cho rằng ý thức là tính thứ hai phụ thuộc vào vật chất và con người có khả năng
nhận thức được hiện thực khách quan. Cho nên, vai trò của nhân tố tinh thần có
ý nghóa quan trọng trong hoạt động thực tiễn xã hội. Sự phản ánh của ý thức về
hiện thực khách quan, không phải là sự phản ánh thụ động, đơn giản mà nó có
tính tích cực, năng động và sáng tạo. Cho nên, kết quả của sự phản ánh đúng về
hiện thực bao giờ cũng có ý nghóa đònh hướng chung cho hoạt động thực tiễn và
ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của hoạt động thực tiễn. Ý thức là sự phản ánh
hiện thực khách quan trong bộ não con người và được cải tiến ở trong đó. Cho
nên nó có tính độc lập tương đối. Vai trò của ý thức thể hiện ở tính năng động
và sáng tạo của nó được thể hiện ngay từ khi con người xác đònh đối tượng mục
tiêu, phương hướng hoạt động cũng như việc lựa chọn cách thức, phương pháp
thực hiện mục tiêu đã đề ra. Có nghóa là nó đònh hướng cho con người biết phân
tích, lựa chọn những khả năng thực tế của việc vận dụng những qui luật khách
quan trong hoạt động thực tiễn. Sức mạnh của ý thức (nhưng nó cũng do hoàn
cảnh khách quan qui đònh) tùy thuộc vào mức độ xâm nhập của nó vào hoạt
động của quần chúng và một khi lý luận khoa học xâm phạm vào hoạt động của
quần chúng thì nó trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong những điều kiện
khách quan nhất đònh, ý thức của con người có thể giữ vai trò quyết đònh đến
kết quả của hoạt động thực tiển. Có nghóa là, nhân tố chủ quan với sự nhận thức
đúng đắn và ý chí của con người có thể phát huy được năng lực tối đa của các



nhân tố vật chất và nhân tố tinh thần trong những điều kiện khách quan nhất
đònh. Nhưng xét quá trình lâu dài thì nhân tố vật chất bao giờ cũng giữ vai trò
quyết đònh đối với nhân tố tinh thần
* Ý nghóa phương pháp luận
Vật chất và các qui luật khách quan vốn có của nó đều tồn tại khách quan độc
lập với ý thức của con người nhưng lại quyết đònh với ý thức của con người. Cho
nên, trong hoạt động thực tiển xã hội của con người phải xuất phát từ hiện thực
khách quan, chứ không xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người. Nhưng
mặt khác cũng phải thấy tính độc lập tương đối và tính tích cực, năng động và
sáng tạo của ý thức trong hoạt động thực tiễn Khắc phục tính tiêu cực, thụ động
và ỷ lại trông chờ vào điều kiện khách quan Chống lại quan điểm duy tâm siêu
hình về vấn đề này Vận dụng vào quá trình học tập và công tác của bản thân
Vai trò của nhận thức có một vò trí đặc biệt trong quá trình thúc đẩy xã hội phát
triển hay kìm hãm sự phát triển của xã hội không được chủ quan duy ý chí mà
phải phản ánh đúng quy luật:
* Vật chất: -Hoàn cảnh đòa lý -Điều kiện dân số -Phương thức sản xuất -Lực
lượng sản xuất, quan hệ sản xuất -Khoa học công nghệ -Tri thức xã hội -Nhân
tố con người *Ý thức: -Tư tưởng -Triết học -Chính trò -Đạo đức -Tập quán -Tâm
lý -Truyền thống
Vai Trò Của Tri Thức Khoa Học Đối Với Sự Nghiệp Đổi Mới Của Kinh Tế Nước
Ta Hiện Nay
Từ đầu thế kỷ XX đến nay, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật là một bước
nhảy vọt trong lực lượng sản xuất. Thực chất của cuộc cách mạng đó là ở chỗ
nó mở ra kỷ nguyên mới của sản xuất tự động hóa với việc phát triển ứng dụng
điều khiển học và vô tuyến điện tử. Khoa học là điểm xuất phát cho những biến
đổi to lớn trong kỹ thuật sản xuất, tạo ra những ngành mới như chế tạo ra vật
liệu mới, khai thác nguồn năng lượng mới…. Đặc điểm chung đòi hỏi thay đổi
mối quan hệ giữa khoa học và thực tiễn, mà trong đó tri thức khoa học được vật
chất hóa kết tinh vào mọi yếu tố của lực lượng sản xuất. Cho nên, ngày nay

khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong thời kỳ quá độ đi lên xã
hội chủ nghó ở nước ta hiện nay, đườnglối đúng đắn của đảng và nhà nước ta có
khả năng bảo đảm sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và
lợi ích xã hội, giải quyết kòp thời những mâu thuẫn nội bộ trong nhân dân, tạo
những điều kiện thuận lợi để mỗi cá nhân có điều kiện phát triển toàn diện.
Bên cạnh đó, việc xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành


theo cơ chế thò trường đi đôi với việc tăng cường vai trò quản lý của nhà nước
theo đònh hướng xã hội chủ nghóa luôn đảm bảo công bằng về quyền lợi và
nghóa vụ của mọi công dân, chống đặc quyền đặc lợi: phát huy yếu tố con người
là mục đích cao nhất trong mọi hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội là một yêu
cầu trong việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội ở nước
ta hiện nay. Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức, sự hình thành và phát
triển của ý thức có liên quan mật thiết đến quá trình con người nhận thức về thế
giới, tích lũy những tri thức, sự hiểu biết nói chung. Tri thức là kết quả của quá
trình phản ánh thế giới khách quan và có tính chất lòch sử xã hội. Tri thức bao
gồm có tri thức cảm tính và tri thức lý tính (hoặc tri thức kinh nghiệm và tri thức
lý luận). Như vậy, xét về nguồn gốc tri thức là một hiện tượng mang tính xã
hội. Chúng ta biết rằng khoa học là hệ thống các tri thức của con người về thế
giới. Tri thức khoa học khác biệt với tri thức thông thường và tri thức kinh
nghiệm. Tri thức kinh nghiệm được hình thành một cách trực tiếp thông qua
những điều kiện sống thường ngày, mang tính hiện tượng, tính bên ngoài, tính
riêng biệt và cụ thể, còn tri thức khoa học đem lại hiểu biết cái bản chất, cái
qui luật của hiện thực khách quan. Xét về vai trò và tác dụng, tri thức khoa học
bao gồm khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng. Khoa học cơ bản vạch ra
những nguyên tắc, qui tắc, phương pháp cụ thể để ứng dụng trực tiếp vào hoạt
động cải tiến tự nhiên và xã hội. Vai trò của tri thức khoa học ngày càng quan
trọng và đóng vai trò chủ đạo trong việc đònh hướng nền kinh tế, một nền kinh
tế đang chuyển mình đi lên: *Trong sự chuyên môn hóa, tự động hóa ngày càng

cao, tri thức khoa học được kết tinh trong mọi nhân tố của lực lượng sản xuấttrong đối tượng lao động - kỹ thuật – quá trình công nghệ và cả trong những
hình thức tổ chức tương ứng của sản xuất; người lao động không còn là nhân tố
thao tác trực tiếp trong hệ thống kỹ thuật mà chủ yếu là vận dụng tri thức khoa
học để điều khiển và kiểm tra quá trình sản xuất, hoàn thiện lực việc quản lý
kinh tế… *Khoa học ngày nay đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thành
đối tượng lao động, thành máy móc thiết bò và phương pháp công nghệ mới,
thành các hình thức tổ chức sản xuất mới, cho nên tri thức khoa học là không
thể thiếu được trong sự nghiệp đổi mới nền kinh tế nước ta hiện nay. Chúng ta
bước vào xây dựng XHCN với một xuất phát điểm về kinh tế nhất là lực lượng
sản xuất do đó chúng ta phải tập trung sức lực toàm dân để phát triển lực lượng
sản xuất trước hết là đầu tư cho chiến lược con người (nhất là người lao động)
mặt khác từng bước cải tiến thay đổi công cụ sản xuất nghèo nàn lạc hậu nếu


có điều kiện thì thay thế bằng công nghệ mới hiện đại. Do đó tri thức khoa học
thực sự đóng một vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đổi mới nền kinh tế
nước ta hiện nay.
Câu 6: Tại Sao Khi Xem Xét Đánh Giá 1 Sự Vật Hiện Tượng Hay Con
Người Nào Đó , Chúng Ta Phải Có Quan Điểm Lòch Sử ,Cụ Thể, Toàn Diện
Và Phát Triển ?
Cơ sở lý luận của những quan điểm: toàn diện, lòch sử và cụ thể. Đó là nội dung
nguyên lý mối liên hệ phổ biến. Như chúng ta đã biết đối lập phép biện chứng,
quan điểm siêu hình coi sự tồn tại của các sự vật và hiện tượng trong thế giới là
những cái tách rời nhau, giữa chúng không có sự liên hệ tác động qua lại,
không có sự chuyển hóa lẫn nhau và nếu có chỉ là sự liên hệ có tính ngẫu
nhiên, gián tiếp.... Phương pháp siêu hình được phổ biến rộng rãi trước hết
trong khoa học tự nhiên và sau đó trong triết học và nổi bật hơn cả là ở thế kỷ
17 – 18 . Đối với khoa học tự nhiên thời kỳ này do phương pháp sưu tầm tài
liệu, cho nên việc tách rời các bộ phận riêng của sự vật có ý nghóa đối với
nghiên cứu khoa học. Nhưng sẽ sai lầm khi phương pháp này thể hiện ở trong

triết học, vì nó không có khả năng nhận thức cái chung, cái bản chất và qui luật
của hiện thực khách quan. Trên cơ sở kế thừa và phát triển những tư tưởng biện
chứng trong lòch sử và đồng thời khái quát những thành tựu của khoa học tự
nhiên thế kỷ
XIX. Mác đã nêu lên nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Nội dung nguyên lý
về mối liên hệ phổ biến cho rằng, trong sự tồn tại của các sự vật và hiện tượng
của thế giới không phải là sự tồn tại tách rời và cô lập lẫn nhau, mà chúng là
một thể thống nhất. Trong thể thống nhất đó nó có những mối liên hệ, tác động
qua lại lẫn nhau, ràng buộc và phụ thuộc, qui đònh lẫn nhau, chuyển hóa cho
nhau... Xét về mặt hình thức mối liên hệ phổ biến của các sự vật và hiện tượng
thể hiện mang tính đa dạng và phong phú như: *Mối liên hệ bên trong bản chất
các sự vật và hiện tượng, là mối liên hệ giữa các thuộc tính, các yếu tố bên
trong (mâu thuẫn bên trong) qui đònh sự tồn tại, vận động và phát triển của các
sự vật. *Mối liên hệ bên ngoài của các sự vật và hiện tượng. *Mối liên hệ về
không gian, thời gian; mối liên hệ bản chất và hiện tượng; nguyên nhân và kết
quả; nội dung và hình thức... Dù thể hiện dưới hình thức nào thì mối liên hệ đều
mang tính phổ biến, tính khách quan và tính qui luật.
Nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến có ý nghóa đối với hoạt động nhận


thức và hoạt động thực tiễn của con người:
*Về nguyên tắc phải thừa nhận tính khách quan, tính qui luật của mối liên hệ
phổ biến ở trong hiện thực. *Vì phải có quan điểm toàn diện, quan điểm này
đòi hỏi chúng ta phải phân tích về sự vật phải đặt nó trong mối quan hệ với sự
vật khác. Đồng thời phải nghiên cứu tất cả những mặt, những yếu tố, những
mối liên hệ vốn có của nó. Qua đó để xác đònh được mối liên hệ bên trong, bản
chất...để từ đó có thể nắm bắt được bản chất, qui luật của sự vật và hiện tượng
(nên lấy ví dụ minh họa thêm thì càng tốt). Ví dụ: khi nhận xét một người nào
đó không thể chỉ nhìn bề ngoài của người đó mà đưa ra nhận xét, phải xét đến
những yếu tố khác như bản chất tính tình, họ đối xử với mình có thật lòng hay

không, những mối liên hệ của người đó với những người xung quanh như với
người thân hay với những người bạn của người đó có tốt hay không. Vì phải có
quan điểm cụ thể, bởi vì trong quá trình tồn tại vận động và phát triển của bản
thân các sự vật và hiện tượng là một quá trình có tính giai đoạn. Cho nên khi
phân tích tính toàn diện về các mối liên hệ của sự vật phải đặt nó trong mối
quan hệ cụ thể, với những điều kiện lòch sử cụ thể của các mối quan hệ đó (nên
lấy ví dụ minh họa thêm thì càng tốt). *Sự phát triển bao hàm sự vận động, sự
xuất hiện cái mới theo chiều hướng đi lên. Nhưng không phải bất kỳ sự vận
động nào cũng bao hàm sự phát triển. Cho nên, sự phát triển và đổi mới là hiện
tượng diễn ra không ngừng ở trong tự nhiên, xã hội và tư duy mà nguồn gốc của
nó là sự đấu tranh của các mặt đối lập trong bản thân các sự vật và hiện tượng.
Khái niệm phát triển thì không khái quát mọi sự vận động nói chung. Nó chỉ
khái quát những vận động đi lên, sự xuất hiện cái mới theo một chiều hướng
chung là từ thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp, từ cái chưa hoàn thiện đến cái
hoàn thiện. *Muốn nắm bắt được bản chất của sự vật và hiện tượng, nắm bắt
được khuynh hướng vận động của chúng thì phải có quan điểm phát triển. *Về
mặt nguyên tắc phải thừa nhận tính khách quan, qui luật và phát triển là khuynh
hướng của sự vận động của các sự vật và hiện tượng.
*Quan điểm phát triển với yêu cầu khi phân tích một sự vật, hiện tượng phải
đặt nó trong sự vận động, phải phát hiện được xu hướng biến đổi, chuyển hóa
của chúng. *Quan điểm phát triển còn đòi hỏi chúng ta phải có quan điểm đúng
về cái mới, cái mới phù hợp với qui luật, cái mới là tiêu chuẩn của sự phát triển
(nên lấy ví dụ minh họa thêm thì càng tốt).
Câu 7 : Dựa Trên Những Cơ Sở Lý Luận Nào Mà Đảng Ta Lại Chủ Trương
Xây Dựng Quan Hệ Sản Xuất Dựa Trên Chế Độ Đa Dạng Hóa Hình Thức


Sở Hữu Với 1 Nền Kinh Tế Hàng Hóa Nhiều Thành Phần Và 1 Chế Độ
Phân Phối Lao Động ?
Nước ta lựa chọn con đường xã hội chủ nghóa bỏ qua phương thức sản xuất tư

bản chủ nghóa với ý nghóa bỏ qua chế độ chính trò của chủ nghóa tư bản. Nhưng
trong điều kiện chủ trương một kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với cơ chế
thò trường có sự quản lý của nhà nước. Nhằm phát huy mọi tiềm năng các thành
phần kinh tế, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất để xây dựng cơ sở kinh tế
xã hội chủ nghóa, từng bước xã hội hóa chủ nghóa. Trong đó kinh tế quốc doanh
bao giờ cũng giữa vai trò chủ đạo có ý nghóa quyết đònh đối với sự phát triển
nền kinh tế ở nước ta hiện nay.... Nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghóa
xã hội, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghóa, không có nghóa là xóa
bỏ các quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, mà chỉ phát triển sở hữu
công cộng về tư liệu sản xuất. Hiện nay trong điều kiện chuyển sang nền kinh
tế thò trường theo đònh hướng xã hội chủ nghóa. Cho nên việc duy trì và phát
triển hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là một yêu cầu khách quan
mang tính qui luật. Bởi vì, trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ đi lên xã hội
chủ nghóa, thì sở hữu tư nhân như một bộ phận tự nhiên của quá trình kinh tế
nhiều thành phần cũng có ý nghóa thúc đẩy phát triển sản xuất nâng cao đời
sống của nhân dân. Mặt khác, duy trì và phát triển kinh tế tư nhân (dưới mọi
hình thức), thì đồng thời với nó là thu hút nguồn lực về vốn, về lao động, về quá
trình chuyển giao công nghệ mới....Nhưng nó đều thông qua sự quản lý của nhà
nước xã hội chủ nghóa. Nhà nước xã hội chủ nghóa sẽ giữa vai trò quyết đònh và
điều tiết chung đối với các hình thức sở hữu này phải phục vụ cho lợi ích của
nhân dân. *Trong cơ cấu kinh tế xã hội chủ nghóa hiện nay ở nước ta, thì hình
thức sở hữu công cộng ngày càng được hoàn thiện và phát triển. Trong đó nền
kinh tế quốc doanh bao giờ cũng giữa vai trò chủ đạo, quyết đònh đối với nền
kinh tế hiện nay. Cho nên, xét về loại hình quan hệ sản xuất cơ bản hiện nay ở
nước ta bao gồm quan hệ sản xuất xã hội chủ nghóa dựa trên cơ sở sở hữu công
cộng về tư liệu sản xuất và quan hệ sản xuất cũ dựa trên hình thức sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất. Nhưng nó thống nhất và mang tính mâu thuẫn trong
một cơ cấu kinh tế thống nhất – kinh tế thò trường có đònh hướng xã hội chủ
nghóa và dưới sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghóa. *Trong thời kỳ quá độ
đi lên xã hội chủ nghóa ở nước ta hiện nay, đườnglối đúng đắn của đảng và nhà

nước ta có khả năng bảo đảm sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân với lợi ích
tập thể và lợi ích xã hội, giải quyết kòp thời những mâu thuẫn nội bộ trong nhân


dân, tạo những điều kiện thuận lợi để mỗi cá nhân có điều kiện phát triển toàn
diện. Bên cạnh đó, việc xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thò trường đi đôi với việc tăng cường vai trò quản lý của nhà
nước theo đònh hướng xã hội chủ nghóa luôn đảm bảo công bằng về quyền lợi
và nghóa vụ của mọi công dân, chống đặc quyền đặc lợi: phát huy yếu tố con
người là mục đích cao nhất trong mọi hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội là một
yêu cầu trong việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội ở
nước ta hiện nay. *Kết cấu quan hệ sản xuất bao gồm ba mặt quan hệ cơ bản
sau: -Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Xét vềmặt lòch sử quan hệ sở hữu về
tư liệu sản xuất đã được thể hiện dưới hai hình thức cơ bản, đó là sở hữu tư nhân
và sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất. Sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là hình
thức sở hữu mà các tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội (không phải tất cả)
thuộc về các chủ thể xã hội là cá nhân, hay một lực lượng xã hội nhất đònh,
Điều đó có nghóa là tư liệu sản xuất không thuộc về chung, của toàn xã hội. Xét
về mặt bản chất hình thức sở hữu này là nguồn gốc của những quan hệ bóc lột,
bất bình đẳng xã hội, là quan hệ người bóc lột người. Còn quan hệ sở hữu xã
hội là hình thức tất cả các tư liệu sản xuất (chủ yếu) của xã hội thuộc về của
chung, của toàn xã hội. Xét về mặt bản chất quan hệ sở hữu này là cơ sở cho
quá trình xây dựng quan hệ bình đẳng và nó có khả năng xóa bỏ quan hệ bóc
lột người.... -Quan hệ tổ chức quản lý sản xuất. Quan hệ này thể hiện sự giống
nhau và khác nhau của các chủ thể xã hội về vai trò, vò trí, về quyền tổ chức
quản lý sản xuất. Quan hệ này hoàn toàn phụ thuộc vào quan hệ sở hữu đối với
tư liệu sản xuất, Bởi vì, những chủ thể xã hội nào nắm tư liệu sản xuất chủ yếu
của xã hội thì họ sẽ là người nắm vai trò tổ chức và quản lý sản xuất vật chất
của xã hội.
-Quan hệ phân phối sản phẩm lao động. Quan hệ này thể hiện sự khác nhau và

giống nhau của các chủ thể xã hội về mức hưởng thụ đối với sản phẩm vật chất
của xã hội, cũng như quyền phân phối sản phẩm vật chất của xã hội. Quan hệ
này hoàn toàn phụ thuộc vào quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Bởi vì,
chủ thể xã hội nào nắm giữ tư liệu sản xuất thì đồng thời họ có mức hưởng thụ
nhiều hơn, và là người có quyền quyết đònh phân phối sản phẩm vật chất của xã
hội. *Trong ba mặt quan hệ của quan hệ sản xuất đều có sự tác động qua lại lẫn
nhau. Nhưng quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất là quan hệ giữ vai trò quyết đònh
trong quan hệ sản xuất. -Quan hệ phân phối sản phẩm lao động thể hiện sự
khác nhau và giống nhau của các chủ thể xã hội về mức hưởng thụ đối với sản


phẩm vật chất của xã hội. Quan hệ này hoàn toàn phụ thuộc vào quan hệ sở
hữu đối với tư liệu sản xuất. Bởi vì, chủ thể xã hội nào nắm tư liệu sản xuất thì
đồng thời họ là người có mức hưởng thụ nhiều hơn, và là người có quyền quyết
đònh phân phối sản phẩm vật chất của xã hội. -Qui luật quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một qui luật
chung nhất của sự phát triển xã hội. Sự tác động của qui luật này đã khẳng đònh
tính tất yếu khách quan của sự phát triển xã hội từ phương thức sản xuất xã hội
Nguyên thủy, Chiếm hữu nô lệ, Phong kiến, Tư bản chủ nghóa và phương thức
Cộng sản chủ nghóa tương lai
Câu 8: Phân Tích Vai Trò Của Quần Chúng Nhân Dân Trong Lòch Sử Và
Việc Đảng Ta Chủ Trương Cách Mạng Và Sự Nghiệp Của Quần Chúng ?
Vai Trò Của Quần Chúng Nhân Dân Trong Lòch Sử
*Khái niệm quần chúng nhân dân thay đổi và phát triển có tính chất lòch sử.
Bởi nó gắn liền với những hình thái kinh tế-xã hội và điều kiện lòch sử nhất
đònh. Nhưng dù thay đổi và phát triển như thế nào thì nội dung khái niệm quần
chúng nhân dân luôn được xác đònh bởi những nội dung sau đây: -Quần chúng
nhân dân trước hết là những người lao động. Đó là những lực lượng lao động xã
hội trực tiếp tạo ra mọi của cải vật chất cho xã hội. -Quần chúng nhân dân,
được thể hiện là những bộ phận dân cư có khuynh hướng luôn chống lại những

giai cấp thống trò áp bức bóc lột mà lợi ích căn bản của những giai cấp ấy đối
kháng với lợi ích đông đảo của nhân dân lao động. -Quần chúng nhân dân còn
bao gồm các giai cấp và các tầng lớp xã hội có ý nghóa thúc đẩy sự phát triển
của xã hội. Như vậy, nội dung khái niệm quần chúng nhân dân là rất rộng bao
gồm nhiều lực lượng xã hội và hoạt động của họ trong nhiều lónh vực khác
nhau. Nhưng hiểu theo nghóa chung nhất là những lực lượng có ý nghóa quyết
đònh đi với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Quần chúng nhân dân là những
lực lượng xã hội có ý nghóa quyết đònh đối với sự phát triển của xã hội, được
thể hiện trong hoạt động sản xuất vật chất, trong đấu tranh xã hội và trong lónh
vực tinh thần của xã hội. *Mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân và vó nhân,
lãnh tụ đối với sự phát triển của lòch sử, là sự khẳng đònh quần chúng nhân dân
bao giờ cũng là người sáng tạo chân chính ra lòch sử còn vó nhân, lãnh tụ chỉ có
ý nghóa quan trọng. Nhưng ở trong những điều kiện lòch sử nhất đònh vó nhân,
lãnh tụ có thể giữa vai trò “quyết đònh” đối với sự phát triển của lòch sử với ý
nghóa là người tạo ra những bước ngoặt vó đại của sự phát triển lòch sử, Nhưng


xét cho cùng về lâu dài quần chúng nhân dân vẫn là người quyết đònh đối sự
phát triển của lòch sử *Vai trò của quần chúng nhân dân bao giờ cũng là người
sáng tạo chân chính ra lòch sử. *Xuất phát từ nguyên lý cơ bản của chủ nghóa
duy vật lòch sử khẳng đònh rằng quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân
chính ra lòch sử, được thể hiện với ba nội dung sau: -Vai trò của quần chúng
nhân dân trong hoạt động sản xuất vật chất của xã hội. Xuất phát từ nguyên lý
cơ bản của chủ nghóa duy vật lòch sử cho rằng sản xuất vật chất là cơ sở cho sự
tồn tại và phát triển của xã hội trong đó hoạt động của quần chúng nhân dân là
lực lượng trực tiếp tạo ra mọi của cải vật chất cho xã hội. Hoạt động tạo ra của
cải vật chất cho xã hội của quần chúng nhân dân đồng thời cũng có ý nghóa
quyết đònh cho việc tạo ra những giá trò tinh thần của xã hội. Đó là quá trình
hình thành phong tục tập quán, truyền thống và nền văn hóa dân tộc....đồng
thời hoạt động của quần chúng nhân dân còn là đối tượng phục vụ của hoạt

động văn hóa và tinh thần nói chung của xã hội. -Vai trò của quần chúng nhân
dân trong hoạt động đấu tranh xã hội với tính cách họ là chủ thể của hoạt động
cải tạo các quá trình kinh tế, chính trò và xã hội. Trong lónh vực này vai trò của
quần chúng là lực lượng cơ bản của cuộc cách mạng xã hội, bởi vì Lênin đã
từng khẳng đònh rằng sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Mặt
khác, trong hoạt động đấu tranh xã hội vai trò của quần chúng nhân dân còn
được thể hiện đối với quá trình hình thành và phát triển của các dân tộc và cộng
đồng dân tộc. -Lợi ích của quần chúng nhân dân vừa là điểm khởi đầu vừa là
mục đích cuối cùng của sự nghiệp cách mạng. Điều này có ý nghóa là lợi ích
chung của toàn bộ xã hội luôn là lợi ích chung của quần chúng nhân dân. Cho
nên, lòch sử phát triển của xã hội và tiến bộ xã hội là việc nâng cao đời sống
của quần chúng nhân dân, khẳng đònh vai trò của quần chúng nhân dân là người
sáng tạo chân chính ra lòch sử.
Phân Tích Việc Đảng Chủ Trương Cách Mạng Và Sự Nghiệp Của Quần Chúng
*Một trong những nguyên lý cơ bản của chủ nghóa duy vật lòch sử khẵng đònh
rằng quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính ra lòch sử, được thể
hiện với ba nội dung sau đây: -Vai trò của quần chúng nhân dân trong hoạt
động sản xuất vật chất của xã hội. Xuất phát những nguyên lý cơ bản của chủ
nghóa duy vật lòch sử cho rằng sản xuất vật chất là cơ sở cho sự tồn tại và phát
triển của xã hội và trong đó hoạt động của quần chúng nhân dân là lực lượng
trực tiếp tạo ra mọi của cải vật chất cho xã hội. Hoạt động tạo ra của cải vật
chất cho xã hội của quần chúng nhân dân đồng thời cũng có ý nghóa quyết đònh


cho việc tạo ra nhng giá trò tinh thần của xã hội. Đó là quá trình hình thành
phong tục tập quán, truyền thống và nền văn hóa dân tộc....đồng thời hoạt động
của quần chúng nhân dân còn là đối tượng phục vụ của hoạt động văn hóa và
tinh thần nói chung của xã hội. -Vai trò của quần chúng nhân dân trong hoạt
động đấu tranh xã hội với tính cách họ là chủ thể của hoạt động cải tạo các quá
trình kinh tế, chính trò và xã hội. Trong lónh vực này vai trò của quần chúng là

lực lượng cơ bản của các cuộc cách mạng xã hội, bởi vì Lênin khẳng đònh rằng
sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Mặt khác, trong hoạt động
đấu tranh xã hội vai trò quần chúng nhân dân còn được thể hiện đối với quá
trình hình thành và phát triển của các dân tộc và cộng đồng dân tộc. -Lợi ích
của quần chúng nhân dân vừa là điểm khởi đầu vừa là mục đích cuối cùng của
sự nghiệp cách mạng. Điều này có nghóa là lợi ích chung của toàn bộ xã hội
luôn là lợi ích chung của quần chúng nhân dân. Cho nên, lòch sử phát triển của
xã hội và tiến bộ xã hội là việc nâng cao đời sống của quần chúng nhân dân,
khẳng đònh vai trò của quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính ra
lòch sử. *Nội dung khái niệm quần chúng nhân dân là rất rộng bao gồm nhiều
lực lượng xã hội và hoạt động của họ trong nhiều lónh vực khác nhau. Nhưng
hiểu thao nghóa chung nhất là những lực lượng có ý nghóa quyết đònh đi với sự
tồn tại và phát triển xã hội. *Quần chúng nhân dân là những lực lượng xã hội
có ý nghóa quyết đònh đối với sự phát triển của xã hội, được thể hiện trong hoạt
động sản xuất vật chất, trong đấu tranh xã hội và trong lónh vực tinh thần của xã
hội. -Nghiên cứu lòch sử đấu tranh xã hội, những nhà kinh điển của chủ nghóa
Mác-Lênin cho rằng: bạo lực là điều kiện tiên quyết, tất yếu của các cuộc cách
mạng xã hội. Một trong những điều kiện khách quan cho một cuộc cách mạng
nổ ra và thành công đó là tính tích cực của quần chúng nhân dân được nâng
cao...thấy phải tiến hành cách mạng và sẳn sàng hy sinh cho sự nghiệp cách
mạng đó.Việc Đảng chủ trương cách mạng gắn liền với quần chúng nhân dân là
một chủ trương đúng đắn mang đậm tính dân tộc Ỉ động lực cho công cuộc cách
mạng thành công.
Câu 9: Vai Trò Và Kết Cấu Của Thức Xã Hội Và Việc Đảng Ta Chủ
Trương Lấy Chủ Nghóa Mác-Lênin Làm Kim Chỉ Nan Mọi Hoạt Động Cách
Mạng Miền Nam ?
Vai Trò Và Kết Cấu Của Thức Xã Hội
*Khái niệm ý thức xã hội: -Toàn bộ đời sống xã hội được chia thành hai lónh



vực lớn: lónh vực vật chất và lónh vực tinh thần, đó là tồn tại xã hội và ý thức xã
hội. Cho nên ý thức xã hội có vai trò là lónh vực tinh thần của đời sống xã hội.
Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển
khác nhau, bao gồm tình cảm, tập quán, truyền thống, quan điểm, tư tưởng lý
luận, hoặc tồn tại thông qua các hình thái ý thức xã hội cụ thể khác nhau như: ý
thức chính trò, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức... Như vậy, ý thức xã hội trước
hết là lónh vực tinh thần của xã hội. Ý thức xã hội chỉ là sự phản ánh tồn tại xã
hội, nó là cái có sau, cái phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Về mặt kết cấu ý thức
thể hiện dưới nhiều cấp độ phản ánh khác nhau đối với tồn tại xã hội
*Kết cấu của ý thức xã hội
*Ý thức xã hội bao gồm nhiều cấp độ khác nhau: ý thức sinh hoạt đời thường và
ý thức lý luận, tâm lý xã hội và hệ tư tưởng *Ý thức sinh hoạt đời thường và ý
thức lý luận: -Sự phân chia ý thức xã hội thành ý thức sinh hoạt đời thường và ý
thức lý luận đó là sự đối lập giữa một bên là nhân sinh quan trong thực tiển
cuộc sống chưa được hệ thống hóa, với bên kia là tập họp xã hội đã được
nghiên cứu một cách sáng tạo, hệ thống thành lý luận thành các học thuyết. -Ý
thức sinh hoạt đời thường là tính đầy đủ, toàn vẹn của cảm giác sống, nó gần và
trực tiếp hơn với hiện thực cuộc sống, phản ánh tính chi tiết đa dạng và phong
phú của cuộc sống hiện thực. Vì vậy, kinh nghiệm của ý thức sinh hoạt đời
thường là kho tàng mà trong đó các khoa học cụ thể, triết học và nghệ thuật có
thể tìm kiếm, khai thác theo những nội dung nhất đònh của mình. -Ý thức lý
luận là toàn bộ những tư tưởng xã hội đã được khái quát hóa thành lý luận,
thành các học thuyết về mọi lónh vực khác nhau trong cuộc sống xã hội một
cách hợp lý, thành chỉnh thể trong những khoa học cụ thể, triết học, nghệ thuật,
đạo đức, trong các học thuyết chính trò ....
-Sự giống nhau của ý thức sinh hoạt đời thường và ý thức lý luận ở chổâ đều là
lónh vực tinh thần của đời sống xã hội, thể hiện sự tồn tại vận động và phát
triển của ý thức xã hội, Nhưng giữa chúng lại có sự khác nhau về tính chất,
trình độ phản ánh và cấp độ về mặt kết cấu. Ý thức đời thường bao gồm nội
dung rộng lớn của cuộc sống. Nhưng nó phản ánh tồn tại xã hội có tính chất tự

phát hơn, nó chưa có tính hệ thống, tính hợp lý và khoa học. Còn ý thức lý luận
là sự phản ánh mang tính hệ thống, tính hợp lý, tính bản chất và qui luật về
hiện thực một cách trừu tượng, khái quát bằng các phạm trù và khái niệm khoa
học. *Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng: -Tâm lý xã hội là một bộ phận ở cấp độ ý
thức sinh hoạt đời thường, trong đó xuất hiện những quan niệm về sự đánh giá


đa dạng các hiện tượng xã hội, những thò hiếu và tư tưởng thẩm mỹ, phong tục
và truyền thống, những thiên hướng và sự hứng thú, sự mơ ước.....Như vậy, tâm
lý xã hội cũng là sự phản ánh trực tiếp điều kiện sinh sống hàng ngày, nó
không có khả năng phản ánh bản chất và qui luật của hiện thực. Những quan
niệm của con người ở trình độ tâm lý còn mang tính chất kinh nghiệm, cảm tính
và cụ thể. -Hệ tư tưởng là một bộ phận ở cấp độ ý thức lý luận, bao gồm sự
đánh giá có hệ thống về hiện thực xã hội trên lập trường quan điểm của một
giai cấp, một chính đảng nhất đònh nêu ra nhiệm vụ và mục đích chính trò xã
hội, xây dựng hệ thống những quan điểm về uy quyền của giai cấp, của đảng
phái đó. Hệ tư tưởng có thể là hệ tư tưởng khoa học, cũng có thể là hệ tư tưởng
phản khoa học. -Giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng có mối quan hệ tác động qua
lại lẩn nhau vì chúng đều có chung một nguồn gốc là sự phản ánh tồn tại xã
hội. Nhưng lại phản ánh dưới các bộ phận trong các cấp độ khác nhau của ý
thức xã hội. Hệ tư tưởng phản ánh sâu sắc hơn về điều kiện sinh hoạt vật chất
của xã hội, nếu tâm lý xã hội hình thành một cách trực tiếp, tự phát thì hệ tư
tưởng cũng không thể hình thành một cách tự phát từ tâm lý xã hội. Nhưng tâm
lý, tình cảm giai cấp tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu hệ tư tưởng của
giai cấp, ngược lại, hệ tư tưởng lại có ý nghóa củng cố phát triển tâm lý, tình
cảm giai cấp. *Tính giai cấp của ý thức xã hội: -Trong xã hội có giai cấp ý thức
xã hội mang tính giai cấp, bởi vì nó đều phản ánh những quan hệ giai cấp, đấu
tranh giai cấp cũng như ý thức của mổi một giai cấp nhất đònh cũng khác nhau
thậm chí đối lập nhau. Tính giai cấp của ý thức xã hội thể hiện trong tất cả các
mặt của đời sống tinh thần xã hội, ở ý thức sinh hoạt đời thường và ý thức lý

luận, ở tâm lý xã hội và hệ tư tưởng. -Tính giai cấp của ý thức xã hội không phủ
nhận ý thức cá nhân, mà chi phối ý thức cá nhân. Nhưng ý thức cá nhân và ý
thức xã hội là không thống nhất. Mỗi cá nhân đều có những điều kiện gia đình,
nghề nghiệp, nhân cách, kinh nghiệm cuộc sống....Vì vậy, trong cùng một giai
cấp ý thức cá nhân lại biểu hiện ý thức giai cấp ở dưới các mức độ và hình thức
khác nhau, thậm chí có thể đối lập nhau. Nhưng tất cả mọi ý thức cá nhân trong
cùng một giai cấp vẩn bò chi phối bởi tính giai cấp của hệ tư tưởng của giai cấp
mình. -Trong các hình thái của ý thức xã hội mổi một hình thái đều phản ánh
tính giai cấp của xã hội khác nhau, có những hình thái phản ánh trực tiếp và
đồng thời là nội dung cơ bản của nó, ngược lại có những hình thái phản ánh
gián tiếp nhưng hệ tư tưởng của những giai cấp thống trò luôn có mot vò trí quan
trọng trong đời sống tinh thần của con người.


×