Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

BÀI GIẢNG TRIẾT CHI TIẾT - NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.23 KB, 38 trang )

CHỦ ĐỀ

NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT
GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1 . Mục đích, yêu cầu:
-

làm rõ cơ sở của nguyên tắc này
Làm rõ nội dung của nguyên tắc
Nêu lên yêu cầu khi thực hiện nguyên tắc trong nhận thức cũng như
trong hoạt động thực tiễn
ý nghĩa phương pháp luận của nguyên tắc

2 . Nội dung bố cục:
(1). Phạm trù lý luận và phạm trù thực tiễn
(2). Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
(3). Yêu cầu khi vận dụngc nguên tắc đối với công tác lý luận, tư tưởng
trong quân đội
3. Thời gian:

4

tiết

4. Phương pháp:
- Dùng phương pháp thuyết trình, nêu vấn đề, có thể dùng sơ đồ đèn
chiếu,
- Có thể dùng phương pháp po point
5.Tài liệu tham khảo
- Mác- Ăngghen, toàn tập, t.20, Nxb.CTQG, H.1994
- Lênin toàn tập, T.18, Nxb.Tiến bộ, M.1980


- Giáo trình triết học Mác - Lênin, Nxb. CTQG, H.1999
- CNDVBC lý luận và vận dụng, Nxb.SGK, M- LN, H.1985

1

1


Mở đầu:
Nghiên cứu nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm giúp
chúng ta cơ sở phương pháp luận khoa học để giải quyết mọi công việc trong
hoạt động thực tiễn.
Đặc biệt trong hoạt động quân sự khi nắm chắc nguyên tắc này giúp
chúng ta giải quyết tốt công tác tư tưởng, lý luận, đáp ứng được mọi yêu cầu
của nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Giúp chúng ta có cơ sở đấu tranh với những biểu hiện sai trái, nhất là
đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận nhằm chống lại các thế lực đang
chống phá công việc xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng, phát triển và bảo
vệ chủ nghĩa Mác trong tình hình mới.
1.Phạm trù lý luận và phạm trù thực tiễn:
<< Phạm trù lý luận và thực tiễn đã được đề cập dến nhiều trong tư
tưởng nhân loại nói chung và trong triết học nói riêng. Nhưng vì khác nhau về
thế quan và khác nhau về lạp trường giai cáp, khác nhau về nhận thức cho nên
đã lý giải về lý luận và thực tiễn cũng rất khác nhau>>
* CNDT và CNDV trước Mác:
Cả CNDT và CNDV trước Mác chỉ nghiên cứu và đề cao vấn đề lý
luận, không nhìn thấy vai trò của thực tiễn cho nên cho hoạt động thực tiễn là
hoạt động tầm thường.
- Lý luận theo chủ nghĩa duy tâm, họ đồng nhất lý luận với "YN",
"YNTĐ", hoặc do hoàn toàn ý chí chủ quan của con người quyết định

- Như vậy, chủ nghĩa DT mắc phải tuyệt đối hoá tư duy và tuyệt đối
hoá "lực lượng tinh thần" ngoài con người.
- Từ thời Hy Lạp cổ đại những nhà THDV họ cho triết học là nghệ
thuật hùng biện, nghệ thuật tranh cãi. Vì vậy, gọi triết học là "Philosophia"->
Tức là yêu thích sự thông thái.
- Triêt học của Phoiơbắc nhà DV đạt đến đỉnh cao nhất của CNDV
trước Mác, cũng chỉ đề cao vấn đề lý luận chứ không nhìn thấy vai trò của
thực tiễn. Cho thực tiễn là hoạt động cơ bắp, hoạt động tầm thường, hoạt động
như vậy như của con buôn …
Tóm lại:
Cả CNDT và CNDV trước Mác do hạn chế bởi thế giới quan và thiếu
cơ sở khoa học cho nên chưa đưa ra được phạm trù LL và phạm trù T T một
cách đúng đắn kgoa học. Vì vậy, cũng chưa thấy được MQH giữa chúng.
2

2


<< khắc phục những hạn chế của các trào lưu triết học trước MácĂngghen đã đưa ra lý luạn kiểu mới, đặc biệt đưa ra phạm trù thực tiễn, và
mối quan hệ giữa chúng>>
* CNDVBC:
-> Lý luận : là sản phẩm phát triển cao của nhận thức, là hệ thống tri
thức được khái quát hoá, nhằm phản ánh những mối liên hệ bản chất, tất
yếu của hiện thực khách quan.
+ Hạt nhân của lý luận bao gồm: các nguyên lý; phạm trug quy luật
+ Lý luận không hình thành tự phát, mà nó được hình thành và là sự khái
quát từ thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiẹm là đúng đắn, thì lý luận đó
trở thành lý luận khoa học.
Theo TH Mác- Lênin lý luận được ra đời là cả một quá trình biện
chứng của nhận thức con người và hoạt động thực tiễn…

=> Kế thừa chủ nghĩa Mác về lý luận
Hồ Chí Minh cũng đưa ra quan điểm về lý luận cho rằng:" lý luận là
sự tổng kết kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự
nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử"1."Lý luận là đem thực tế
trong lịch sử, trong kinh nghiệm trong các cuộc tranh đấu xem xét, so sánh
thật kỹ lưỡng, rõ ràng, làm thành lý luận, rồi lại đem nó chứng minh trên thực
tế. Đó là lý luận chân chính"( sđtd, t.5, tr.233)
Như vậy, lý luận có được là từ thực tiễn, khái quát từ chính trong mọi hoạt
động của con người, rồi lại đem nó chỉ đạo thực tiễn mới, rồi lại khái quát …
cứ như vậy làm cho lý luận ngày càng hoàn thiện hơn.
" Triết học M-LN không chỉ có đi giải thích thế giới mà cái chính là đi cải
tạo thế giới. Mà muốn cải tạo thế giới thì phải thông qua hoạt động thực tiễn
của con người. Chính vì vậy phạm trù thực tiễn được đề cao "
-> Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có tính lịch sử xã hội
của con người nhằm mục đích cải tạo tự nhiên và xã hội.
+ Theo TH Mác- Lênin: có quan điểm đúng đắn, và chỉ ra vai trò to lớn
của thực tiễn đối với nhận thức.
Thể hiện: quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ
nhất và cơ bản của lý luận nhận thức. Phạm trù thực tiễn không phải chỉ là
phạm trù của lý luận nhận thức Mácxít, mà còn là phạm trù treung tâm của
triết học Mác xít của toàn bộ lý luận chủ nghĩa Mác .
1 .HCM toàn ,t.8, Nxb CTQG, tr.497

3

3


+ Trong hoạt động thực tiễn, con người sử dụng các phương tiện, công
cụ lao động tác động và cải tạo tự nhiên và xã hội. Qua lao động con người

làm biến đổi thế giới khách quan ( biến đổi bản thân các sự vật hiện tượng)
đáp ứng theo mục đích, nhu cầu của bản thân con người-> Cũng từ đó làm
biến đổi hình ảnh, bản chất của sự vật trong nhận thức con người. Do vậy
thực tiễn có tính năng động sáng tạo, là quá trình không ngừng của sự chuyển
hoá giữa tinh thần và vật chất.
2. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn:
A.
Cơ sở của nguyên tắc:
Thứ nhất, trong quá trình phấn đấu để thoả mãn nhu cầu vật chất và
tinh thần cho bản thân, con người không ngừng nâng cao sự hiểu biết, trong
đó có tri thức lý luận, cùng khả năng hoạt đọng vật chất (hoạt động T T) cải
biến tự nhiên.
Con người chúng ta muốn thoả mãn vè vât chát, thì nếu chỉ có sự hiểu
biết(LL) để ở trong đầu thì sẽ không có một tí sản phẩm nào ra đời cả. Do
vậy, từ sự hiểu biét đó phải mang vào chỉ đạo hoạt đọng thì mới có sản phẩm
ra đời.
Giữa hiểu biết và hoạt động vật chất, lý luận và thực tiễn không phải là sự
tách rời mà luôn có mối liên hệ thống nhát hữu cơ với nhau sự thống nhất này
ngày càng cao hơn cùng với quá trình phát triển của loài người.
Nói cách khác, để có hiệu quả trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau
con người không thể "tuỳ thích" chủ quan, cảm tính trong việc định ra phương
hướng, giải pháp và lựa chọn cụ thể…mà cần có lý luận dẫn dắt.
Ngược lại, để có sự hiểu biết ở trình độ lý luận tất yếu phải đi từ sự khái
quát kinh nghiệm thực tiẽn- nếu không thấy rõ điều này sẽ rơi vào tư biện,
duy tâm, duy ý chí.
Hồ Chí Minh đã khẳng định:"Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì
thành thực tiẽn mù quáng.Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận
suông"(H C MINH, toàn,t.8, tr.496, Nxb CTQG, H.1996)
Việc phát hện ra nguyên tắc này trước hết phải kể đến TH Mác-Lênin,
đòng thời chính học thuyết cách mạng khoa học này là sự biểu hiện sự sinh

động và có sức thuyết phục nhất về nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn.
Thứ hai, nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn có ý nghĩa
phương pháp luận rất quan trọng đối với chủ thể nhận thức và cải tạo thế
giới.
Nó là kết quả của nhiều nguyên tắc và cũng từ nguyên tắc này đã chi phối,
chỉ đạo nhiều nguyên tắc cơ bản khác trong triết học Mácxít. Thực hiện
nguyên tắc này cũng là thúc đẩy xã hội phát triển.

4

4


Thứ ba, nguyen tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đã được thể
hiện trong toàn bộ quá trình hình thành lý luận Mác xít cũng như trong thực
tiễn cách mạng của các lực lượng tiến bộ.
C.Mác và Ăngghen là những người trực tiếp hoạt đông trong phong
trào đấu tranh của phong trào công nhân, tổng kết tri thức kinh nghiệm, tri
thức lý luận khoa học hoàn chỉnh.
Lý luận Mác đã phát hiện ra quy luật phát triển của xã hội loài
người, đặc biệt là quy luật của xã hội tư bản, tiên đoán một cách khoa học
CNTB nhất định sẽ bị tiêu vong, CNXH ra đời thay thế cho CNTB, sứ mệnh
lịch sử đó là do giai cấp công nhân thực hiện.
V.I.Lênin đã kế thừa, phát triển và cụ thể hoá lý luận ấy trong thời đại
đế quốc chủ nghĩa để lãnh đạo phong trào công nhân.
Từ khi lý luận Mác ra đời nó đã trở thành vũ khí tư tưởng, ngọn cờ chỉ
đạo, tổ chức, động viên giai cấp công nhân, nhân dân lao động bị áp bức trên
toàn thế giới đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Lý luận Mác - Lênin là cơ sở khoa học cho các Đảng Cộng sản định ra

đường lối chiến lược, sách lược, dẫn dắt phong trào cách mạng đi từ thắng lợi
này tới thắng lợi khác.
Nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn là còn được thể hiện đầy
đủ trong các vấn đề mục đích, đặc điểm, vai trò, khả năng của triết học
mácxít.
Triết học của Mác khác các triết học trước đây ở chỗ, triết học mácxít
không chỉ là giải thích thế giới mà cái chính là cải tạo thế giới.
Hiện nay, cách mạng xã hội xã hội chủ nghĩa đang gặp những khó
khăn, đang trong giai đoạn thoái trào. Nhưng, đó chỉ là sự thất bại của những
mô hình và sự vận dụng thiếu sáng tạo. Sức sống của lý luận Mác – Lênin là
do nó luôn gắn liền với thực tiễn sinh động và được thực tiễn kiểm nghiệm,
bổ sung, phát triển.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ thành công nếu biết nắm bắt bản chất,
linh hồn của lý luận mácxit, biết vận dụng sáng tạo phù hợp với điều kiện,
tình hình cụ thể. Đồng thời, trước yêu cầu thực tiễn mới, muốn bảo đảm
được tính khoa học và cách mạng của lý luận mácxit đòi hỏi nó phải thường
xuyên được bổ sung, phát triển.

5

5


Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thức tiễn còn được thể hiện
trong triét học Mác- Lênin khi bàn về lý luận nhận thức.
Trong khi nghiên cứu về quá trình hình thành phát triển của nhận thức
con người, triết học M-Lnin khẳng định: nhận thức con người là một quá
trình, tuân theo con đường biện chứng đi từ-> TQSĐ đến TDTT từ TDTT
trở về T T kết thúc một vòng khâu của quá trình nhận thức, lại mở ra một
vòng khâu tiếp theo…

Trong quá trình nhận thức như vậy, được thể hiện bằng con đường
biện chứng của nhận thức, chúng ta đã thấy sự thống nhất của lý luận và
thực tiễn.
B. Nội dung của nguyên tắc
Lý luận và thực tiễn trên thực tế là một thể thống nhất giữa hai mặt cơ
bản trong quá trình hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới của con người.
Lý luận và thực tiễn trong một quá trình vừa tác động, ràng buộc, ảnh
hưởng lẫn nhau, vừa đấu tranh với nhau dẫn tới sự vận động, biến đổi và chuyển
hoá. Trong mối quan hệ đó , thực tiễn luôn luôn là tính thứ nhất, giữ vai trò
quyết định lý luận, còn lý luận là tính thứ hai, tác động tích cực trở lại thực tiễn.
-

Lý luận chỉ trở thành khoa học khi xuất phát từ thực tiễn, được thực
tiễn kiểm nghiệm( nói cách khác vai trò của thực tiẽn đối với lý luận)
Vai trò thực tiễn với nhận thức, đối với lý luận trước hết được thể hiện: thực

tiễn là cơ sở, mục đích là động lực chủ yếu, trực tiếp của nhận thức, trong đó thực
tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra chan lý..( T T kiểm tra nhận thức " LL" xem nhận thức
đúng hay sai)
Điều này được V. I. Lênin khẳng định: "Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý
luận), không những của tính phổ biến, mà cả của tính hiện thực trực tiếp"2.
Để đáp ứng nhu cầu của mình, con người phải cải tạo thế giới bằng
hoạt động thực tiễn, trong quá trình đó, con người cũng biến đổi luôn cả bản
thân mình, phát triển năng lực, trí tuệ.

2 V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1984, t. 29, tr. .230.

6

6



Để thoả mãn nhu cầu ngày càng cao con người ngày càng đi sâu vào
nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của thế giới, càng làm phong phú
và sâu sắc hơn tri thức của mình.
Chính thông qua thực tiễn đã xuất hiện nhiều mâu thuẫn mới đòi hỏi
con người phải giải quyết. Vì vậy, nhu cầu, nhiệm vụ, phương hướng của
nhận thức, đòi hỏi phải nghiên cứu để giải quyết các mâu thuẫn đó, sau đó
tiến hành tổng kết kinh nghiệm rút ra tri thức mới, để khái quát thành lý luận
của con người và thúc đẩy sự ra đời, phát triển của các ngành khoa học.
Thực tiễn có khả năng tạo ra công cụ, phương tiện phục vụ cho quá
trình nhận thức mà hoạt động tinh thần không thể có khả năng trực tiếp
về vấn đề đó. Những công cụ, phương tiện hiện đại giúp con người nhận
thức ngày càng nhanh, xa và hiệu quả, dù trong những điều kiện khó
khăn phức tạp hơn.
Đúng như Mác đã nhận định: các công cụ lao động sẽ nối dài các
giác quan của con người giúp chúng ta khám phá tự nhiên. Chúng ta chế
tạo ra những loại kính viễn vọng có thể quan sát được các hành tinh xa
xôi, giúp chúng ta nhận thức về nó. Chế tạo ra tầu vũ trụ bay vào trong
không gian để nghiên cứu về thời tiết, động đất, sóng thần, kết cấu vật
chất, sự sống…Mặt trăng, sao hoả…
Thông qua động thực tiễn con người tác động vào thế giới, buộc thế
giới phải bộc lộ những thuộc tính, những quy luật để con người có điều kiện,
khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc hơn.
V. I. Lênin đã chỉ ra rằng: Thế giới bí ẩn sẽ hoàn toàn bí ẩn với con
người nếu không có sự tác động của con người vào đó. Sự tác động của con
người vào thế giới khách quan diễn ra một quá trình từ việc thu thập những tài
liệu cảm tính, những kinh nghiệm, sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng
hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá… để phát triển thành lý luận và từ lý luận
lại trở về chỉ đạo thực tiễn.

Không có thực tiễn thì không có nhận thức, không có lý luận. Mọi tri
thức dù trực tiếp hay gián tiếp, đối với người này hay người kia, thế hệ này
7

7


hay thế hệ khác, dù ở giai đoạn cảm tính hay lý tính, xét đến cùng, đều bắt
nguồn từ thực tiễn.
Lý luận trở thành khoa học, trở thành chân lý không những nó phải
xuất phát từ thực tiễn mà còn phải được thực tiễn kiểm nghiệm đúng. C. Mác
viết: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đi tới chân lý khách
quan hay không, hoàn toàn không phải là vấn đề nhận thức mà là vấn đề thực
tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”1.
Từ vai trò to lớn của thực tiễn đối với nhận thức, lý luận, đòi hỏi chủ thể
hoạt động phải luôn quán triệt đúng đắn quan điểm thực tiễn. Trong nhận thức,
phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu, đi sát thực tiễn, coi
trọng việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn tới
các sai lầm của bệnh chủ quan, giáo điều, quan liêu và chủ nghĩa xét lại.
- Hoạt động thực tiễn chỉ đạt được mục đích khi được lý luận soi
đường.

Cùng với việc coi trọng vai trò của thực tiễn đối với lý luận thì

vai trò của lý luận đối với thực tiễn không hề bị hạ thấp mà còn thể hiện rõ
hơn tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nó.
Hay nói cách khác, bản thân lý luận, khoa học không có mục đích tự
thân. Lý luận, khoa học ra đời chính vì và chủ yếu vì chúng cần thiết cho hoạt
động thực tiễn của con người.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức, lý luận. Nhận thức lý luận sau khi

ra đời quay về phục vụ thực tiễn, hướng dẫn, chỉ đạo thực tiễn.
Lý luận, khoa học chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào
thực tiễn, cải tạo thực tiễn, phục vụ cho mục tiêu phát triển. Lý luận tác động
trở lại thực tiễn, góp phần làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động của con
người.
Lý luận giúp cho chủ thể hoạt động thực tiễn có những quan niệm
khoa học về thế giới. Lý luận có thể dự kiến được sự vận động, phát triển
của sự vật, chỉ ra những phương hướng mới cho sự phát triển của thực tiễn,
là “kim chỉ nam” soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo cho hành động.
11 C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t. 3, tr.10.

8

8


V. I. Lênin viết: Không có lý luận cách mạng thì cũng không có
phong trào cách mạng, chỉ có đảng nào có lý luận tiên phong hướng dẫn thì
đảng đó mới làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong.
Nhờ có lý luận khoa học mà hoạt động của con người trở lên chủ
động, tự giác, hạn chế tình trạng mò mẫm, tự phát. Như vậy, lý luận một
khi đã thâm nhập vào quần chúng thì biến thành sức mạnh vật chất to lớn.
Lý luận giúp cho chủ thể nhận thức hệ thống nguyên tắc, phương pháp
trong hoạt động nhận thức và thực tiễn; giúp chủ thể hoạt động thực tiễn
những mục tiêu cần đạt được trong tình hình cụ thể. Nhờ có lý luận cách
mạng mà chủ thể hoạt động thực tiễn có cơ sở hình thành, phát triển nhân
cách và nâng cao chất lượng hoạt động thực tiễn.
Như vậy, lý luận có vai trò hết sức to lớn đối với hoạt động thực tiễn.
Tuy nhiên, cùng với nhận thức được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của lý
luận thì chủ thể hoạt động không nên cường điệu vai trò của lý luận, coi

thường thực tiễn, tách lý luận khỏi thực tiễn.
C. Yêu cầu của nguyên tắc
Để thực hiện yêu cầu của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn,
trước hết, phải nắm vững bản chất khoa học và cách mạng chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cơ sở nền tảng tư tưởng và kim nam cho mọi
hoạt động.
Cùng với yêu cầu đó, mỗi chủ thể nhận thức và hoạt động thực tiễn phải
nắm chắc lý luận của các môn khoa học cụ thể cùng các môn khoa học chuyên
ngành, từ đó vận dụng sáng tạo trong điều kiện, tình hình cụ thể.
Phải có quan điểm thực tiễn đúng đắn, tích cực hoạt động trong thực tiễn;
rèn luyện khả năng, trình độ nắm bắt các yêu cầu thực tiễn và nâng cao hiệu quả
hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, từ lý luận trở về thực tiễn phải có ý chí, tình
cảm, có khả năng tổ chức và khả năng vận dụng.
Phải biết kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn. Lý luận cần bám sát
thực tiễn, vận dụng và cụ thể hoá sáng tạo. Đồng thời, trên cơ sở thực tiễn phải

9

9


thường xuyên sơ kết, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, khái quát và bổ sung phát
triển lý luận; luôn có sự kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng và công tác tổ chức.
Khắc phục chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm trong nhận
thức và thực tiễn.
3.Yêu cầu khi vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn
a.. Công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội hiện nay
* Vị trí, vai trò công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội
Công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội là một bộ phận hữu cơ trong
công tác tư tưởng, lý luận của Đảng, là một mặt cơ bản cấu thành hoạt động

công tác đảng, công tác chính trị. Công tác tư tưởng, lý luận có vai trò quyết
định trong việc xây dựng bản chất giai cấp công nhân, tạo nên sức mạnh
chính trị, tinh thần của quân đội, đảm bảo cho quân đội luôn luôn là công cụ
bạo lực sắc bén, là lực lượng chính trị trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà
nước và nhân dân, thật sự là đội quân chiến đấu, đội quân sản xuất và đội
quân công tác, góp phần làm cho các nghị quyết của Đảng trở thành hiện thực
cách mạng sinh động. Thực đã khẳng định vai trò to lớn của công tác tư
tưởng, lý luận đối với sự trưởng thành và chiến thắng của quân đội ta.
* Nhiệm vụ công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội hiện nay
Trước yêu cầu tình hình mới, nhiệm vụ công tác tư tưởng, lý luận trong
quân đội rất nặng nề. Đòi hỏi phải tiếp tục phân tích, đánh giá, dự báo để định
hướng tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ; nâng cao hơn nữa tinh thần chủ động
tiến công, kiên quyết đấu tranh chống lại những quan điểm, tư tưởng, sai
trái… Nhiệm vụ công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội hiên nay được thể
hiện trên một số vấn đề cơ bản.
Thứ nhất, nghiên cứu một cách có hệ thống, có chiều sâu lý luận chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với các quan điểm, tư tưởng
khoa học khác có ý nghĩa là phương pháp luận khoa học đối với cách mạng
Việt Nam, đối với nhiệm vụ xây dựng quân đội hiện nay.

10

10


Đảng ta khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là
nền tảng tư tưởng của Đảng. Nội dung lý luận, giá trị phương pháp luận của
học thuyết khoa học và cách mạng đó luôn luôn là kim chỉ nam cho mọi hoạt
động của quân đội và công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội. Trên thực tế,
việc nghiên cứu cơ sở khoa học cho công tác tư tưởng, lý luận vẫn còn những

hạn chế, bất cập. Vì vậy, công tác tư tưởng, lý luận trước hết và thường xuyên
tập trung nghiên cứu cơ sở khoa học của nó. Các cơ quan chiến lược, các viện
nghiên cứu, các học viện và nhà trường quân đội có vai trò rất quan trọng
trong nhiệm vụ này.
Công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội phải giúp lãnh đạo, chỉ huy
các cấp xác định đúng hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản và cấp bách làm căn
cứ xây dựng, hoạch định các chủ trương, biện pháp liên quan đến xây dựng
các đơn vị, trước hết là nhiệm vụ xây dựng quân đội về chính trị.
Thứ hai, công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội phải tập trung quán
triệt sâu sắc các Nghị quyết của Đảng, của Ban chấp hành Trung ương, của
Đảng bộ quân đội và Đảng uỷ quân sự Trung ương; thực hiện có hiệu quả chỉ
thị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về công tác tư tưởng, lý luận trong quân
đội. Những nội dung đó phải được quán triệt và tổ chức thực hiện tốt ở mọi
cấp, mọi thành phần, lực lượng và phải được cụ thể hoá sáng tạo trong những
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
Thứ ba, công tác tư tưởng, lý luận phải tập trung bồi dưỡng phẩm chất,
đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ. Trong quân đội, công tác tư tưởng, lý
luận phải hướng vào việc xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ thế giới quan MácLênin, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh những phẩm chất chính trị tinh thần,
tâm lý, phẩm chất đạo đức và sức chiến đấu cao kịp thời đáp ứng yêu cầu đòi
hỏi của sự nghiệp xây dựng và chiến đấu của quân đội. Công tác tư tưởng, lý
luận trong quân đội có nhiệm vụ xây dựng bản lĩnh cách mạng, lòng trung
thành tuyệt đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, sẵn sàng chiến đấu hy
sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội.
Thứ tư, công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội phải đẩy mạnh nghiên
cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, đặc biệt là nghiên cứu lý luận quân sự và tổng
11

11



kết thực tiễn quân sự . Đây vừa là những nhiệm vụ cơ bản, vừa là yêu cầu cấp
bách của công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội vào những năm tới. Cần
phải coi trọng công tác lãnh đạo, định hướng tư tưởng cả trong nghiên cứu lý
luận và trong tổng kết thực tiễn để rút ra các bài học kinh nghiệm thiết thực
nhằm phát triển lý luận, nâng cao chất lượng lãnh đạo.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn hướng vào
xây dựng, phát triển đường lối, nghệ thuật quân sự, chiến lược quốc phòng an ninh, phương thức chuẩn bị và động viên chính trị, tinh thần của quân đội
và nhân dân, sẵn sàng đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược bằng vũ khí
công nghệ cao; tham gia có hiệu quả vào cuộc đấu tranh làm thất bại chiến
lược “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng – văn hoá, củng cố và tăng
cường vững chắc trận địa tư tưởng, lý luận của Đảng trong quân đội. Đồng
thời, tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục
lý luận chính trị, giáo dục chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa, bản chất
truyền thống tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức
cách mạng, năng lực nhận thức và hành động sáng tạo cho cán bộ, chiến sĩ,
xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị.
Thứ năm, nâng cao tinh thần và hiệu quả, chủ động, nhạy bén đấu tranh
làm thất bại âm mưu “diễn biến hoà bình” “phi chính trị hoá” quân đội của các
thế lực thù địch. Công tác tư tưởng, lý luận phải đi vào từng đối tượng cán bộ,
chiến sĩ làm cho mỗi người nhận thức đầy đủ và cảnh giác cao độ trước những
âm mưu và thủ đoạn ngày càng tinh vi, thâm độc của kẻ thù.
b. Một số yêu cầu vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn đối với công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận trong
quân đội hiện nay, cần phải quan tâm đến cả mặt lý luận khoa học, mặt thực
tiễn và giải quyết tốt mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn.
* Trước hết, nâng cao tính khoa học (tính lý luận) cho công tác tư tưởng,
lý luận trong quân đội hiện nay.
Nội dung công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội phải có cơ sở khoa
học, phải có chiều sâu về mặt lý luận; phải trên cơ sở nắm vững bản chất cách

12
12


mạng, khoa học và nắm vững các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, phải xuất phát từ quan điểm, đường
lối của Đảng và cụ thể hoá sáng tạo bằng các nội dung cụ thể. Các nội dung
tiến hành công tác tư tưởng, lý luận phải thường xuyên phát triển, theo sát
thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân thế giới, thực tiễn đất
nước và quân đội; theo sát sự phát triển tiến bộ của khoa học - công nghệ hiện
đại, khoa học xã hội và nhân văn…
Nội dung công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội phải thường xuyên
được cập nhật, bổ sung những tri thức mới; có khả năng giải đáp được các vấn
đề mới mà cuộc sống đang đặt ra; không ngừng đổi mới, phát triển, nâng cao
hiệu quả công tác tư tưởng lý luận, đáp ứng yêu cầu phát triển của tình hình.
* Thường xuyên nâng tầm trí tuệ của các cấp ủy đảng và đội ngũ cán
bộ, đảng viên, trước hết và quan trọng nhất là đội ngũ cán bộ chuyên trách
trên mặt trận tư tưởng - văn hoá trong quân đội.
Tư duy khoa học có vai trò to lớn trong tiến hành công tác tư
tưởng lý luận. C. Mác đã nhấn mạnh yêu cầu phát triển lý luận trong đấu
tranh tư tưởng: “… sự phê phán không phải là sự hăng say của lý tính,
mà là lý tính của sự hăng say” 1. Do vậy, hệ thống lãnh đạo, chỉ huy, mà
trực tiếp là đội ngũ cán bộ chuyên trách cần nắm và vận dụng linh hoạt
phương pháp tư duy khoa học, khắc phục phương pháp siêu hình trong
công tác tư tưởng, lý luận.
Đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác tư tưởng – lý luận phải thường
xuyên được bồi dưỡng, nâng tầm trí tuệ, phải có khả năng tốt đảm nhận
công tác tuyên truyền, giáo dục lý luận cho cán bộ, chiến sĩ. Đây là lực
lượng nòng cốt trong nghiên cứu lý luận, góp phần tích cực vào việc bảo vệ
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của
Đảng, củng cố, tăng cường vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong

quân đội. Để làm tròn trách nhiệm người chiến sĩ tiên phong trên mặt trận
tư tưởng, lý luận của Đảng, của quân đội, mỗi cán bộ làm công tác tư
tưởng, lý luận cần phải nỗ lực, phấn đấu học tập, rèn luyện, nâng cao trình
11 C .Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t. 1, tr. 573.

13

13


độ lý luận khoa học, đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Đồng thời, phải thường
xuyên đổi mới hệ thống trường lớp, đổi mới nội dung và phương thức đào
tạo đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác tư tưởng, lý luận, chuyên trách
công tác đảng, công tác chính trị.
* Tập trung nâng cao tính Đảng trong công tác tư tưởng, lý luận
của quân đội hiện nay.
Công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội hiện nay cần tập trung quán
triệt nguyên lý xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân theo quan
điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quán triệt nguyên tắc
Đảng lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt;
quán triệt phương hướng xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại, luôn luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng
lợi. Nâng cao tính Đảng trong công tác tư tưởng, lý luận hiện nay yêu cầu
phải kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn phá hoại của
địch trên mặt trận chính trị, tư tưởng.
* Thường xuyên nâng cao tính thực tiễn cho công tác tư tưởng, lý luận
trong quân đội hiện nay.
Công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội phải tiến hành sát đối tượng;
biết vận dụng sáng tạo quan điểm biện chứng trong nhận thức và tiến hành công
tác tư tưởng, lý luận cho các đối tượng. Công tác tư tưởng, lý luận cần gắn với

từng đối tượng cụ thể, gắn với vị trí xã hội, trình độ học vấn, gắn với nhiệm vụ,
chức năng của mỗi người và quan tâm tới đặc điểm, tâm tư, tình cảm, đặc điểm
tâm lý của các thành phần, đối tượng cụ thể. Từ đó có nội dung, hình thức,
phương pháp và những điều kiện phù hợp cho công tác tư tưởng, lý luận.
Công tác tư tưởng, lý luận cần quan tâm sâu sát, nắm thực trạng nhận
thức, tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ trong quân đội để bảo đảm cho việc vạch ra
những nội dung, hình thức, phương pháp sát thực. Đây là một trong những yêu
cầu cơ bản bảo đảm cho công tác tư tưởng, lý luận đạt chất lượng, hiệu quả. Phải
chú trọng những yêu cầu định hướng chính trị, định hướng khoa học cùng nội
dung, hình thức, phương pháp, bước đi phù hợp trong công tác tuyên truyền,
giáo dục đối với cán bộ, chiến sĩ và nhân dân vùng sâu, vùng xa, vùng tôn giáo.
14

14


Trong điều kiện kinh tế xã hội ngày nay, công tác tư tưởng, lý luận phải
quan tâm tới vấn đề lợi ích. Sự hy sinh, sự cống hiến là vinh dự và nghĩa vụ căn
bản, tối cao của mỗi quân nhân cách mạng. Tuy vậy, trong điều kiện hiện nay
không thể coi nhẹ lợi ích về vật chất và tinh thần của mỗi quân nhân. Tuỳ mỗi đối
tượng, cần phải nắm chắc những đặc điểm chung, riêng, phải quan tâm tới những
vấn đề bức xúc trước sự tác động phức tạp của thực tiễn - xã hội hiện nay.
Công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội phải thường xuyên bám sát
nhiệm vụ chung của quân đội và nhiệm vụ chính trị của từng đơn vị. Công
tác tư tưởng, lý luận phải luôn quán triệt sâu các quan điểm, tư tưởng,
đường lối của Đảng và Đảng uỷ Quân sự Trung ương; quán triệt, nắm vững
nguyên tắc xây dựng quân đội về chính trị, chỉ thị hướng dẫn công tác
đảng, công tác chính trị của cấp trên phù hợp với các đối tượng và nhiệm
vụ cụ thể. Công tác tư tưởng, lý luận cần bám sát diễn biến của đời sống xã
hội và quân đội; bám sát nhiệm vụ, tình hình tư tưởng của bộ đội; bám sát

cơ sở và nhạy bén xử lý những nảy sinh về tư tưởng ở cơ sở, tạo sự chuyển
biến mạnh mẽ về tư tưởng, lý luận ở cơ sở. Công tác tư tưởng, lý luận phải
biết kết hợp giữa xây và chống, lấy xây làm chính. Công tác tư tưởng, lý
luận phải bám sát yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng quân đội trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong bối cảnh tình hình thế giới
có những diễn biến phức tạp.
Các hoạt động của công tác tư tưởng, lý luận cần tập trung phục vụ nhiệm
vụ huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh
chiến đấu của quân đội; cần tập trung cho việc chuẩn bị về tiềm lực chính trị,
tinh thần, phẩm chất đạo đức, ý chí quyết đánh và quyết thắng, sự mưu trí, sáng
tạo, dũng cảm, ngoan cường trong chiến đấu; tập trung trong việc xây dựng niềm
tin vào cách đánh, tin vào trang bị, kỹ thuật và sự thắng lợi trong cuộc chiến đấu
chống chiến tranh xâm lược bằng vũ khí công nghệ cao.
Công tác tư tưởng, lý luận góp phần giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ xác
định rõ kẻ thù, đối tượng tác chiến; đấu tranh giữ vững trận địa tư tưởng, lý
luận của Đảng trong quân đội; đấu tranh chống các quan điểm sai trái phản
động. Công tác tư tưởng, lý luận cần chú trọng xây dựng nội bộ trong sạch,

15

15


vững mạnh, chống mọi biểu hiện “tự diễn biến” của các đối tượng, nhất là đối
với cán bộ cao cấp, cán bộ ở những cơ quan trọng yếu.
Công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội phải tập trung cho nhiệm vụ
cơ bản, chủ yếu. Công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội hiện nay cần tập
trung bồi dưỡng bản chất giai cấp công nhân, tuyên truyền đường lối, chính
sách của Đảng trong quân đội; chủ động triển khai có hiệu quả cuộc đấu tranh
trên mặt trận tư tưởng, lý luận; chống lại những âm mưu của các thế lực thù

địch hòng “phi chính trị hoá” quân đội; chống “diễn biến hoà bình” của các
thế lực thù địch; vạch trần bản chất của những kẻ cơ hội về chính trị... với
những hình thức, biện pháp thích hợp.
Thường xuyên quan tâm tới số lượng, chất lượng của công cụ, phương
tiện vật chất tiến hành công tác tư tưởng, lý luận. Biết kết hợp giữa các công
cụ, phương tiện truyền thống với những công cụ, phương tiện hiện đại; biết
khai thác, tận dụng, sử dụng có hiệu quả các công cụ, phương tiện hiện đại
trong việc đổi mới nội dung, biện pháp, cách thức tiến hành công tác tư
tưởng, lý luận trong quân đội. Qua việc sử dụng tốt các công cụ, phương tiện
sẽ góp phần tích cực tăng sức thuyết phục và sự hấp dẫn của việc truyền bá lý
tưởng cộng sản cho các đối tượng trong quân đội.
Cùng với công cụ, phương tiện vật chất cần phải thường xuyên quan
tâm tới việc đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tiến hành công tác
tư tưởng, lý luận. Các hoạt động này giúp cho cán bộ, chiến sĩ ở các đơn vị
cảm nhận một cách trực tiếp, sinh động những nội dung khoa học của công
tác tư tưởng, lý luận. Tuy nhiên, tính thực tiễn của công tác tư tưởng, lý
luận không có nghĩa là quá trình tiến hành công tác này nằm ngoài sự chỉ
đạo của lý luận khoa học.
* Giải quyết tốt mối quan hệ lý luận và thực tiễn trong công tác tư
tưởng, lý luận trong quân đội hiện nay.
Một là, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận của mọi cấp,
mọi thành phần lực lượng. Qua đó góp phần làm sáng tỏ hơn những vấn đề về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về chiến
tranh quân đội, vấn đề bảo đảm an ninh, quốc phòng của đất nước, nhiệm vụ
16

16


chính trị của quân đội và của từng đơn vị. Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu,

phát triển lý luận có ý nghĩa thiết thực trong việc khắc phục bệnh giáo điều,
kinh nghiệm chủ nghĩa. “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận,
thảo luận dân chủ, sớm làm rõ và kết luận những vấn đề mới, bức xúc nảy
sinh từ thực tiễn”3 Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận phải bám sát đường
lối chính trị, quân sự của Đảng, thực tiễn hoạt động của quân đội, cung cấp
nhiều luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng, bổ sung phát triển
đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng, góp phần quan trọng xây dựng lực
lượng vũ trang, nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội. Qua đó đội ngũ
làm công tác nghiên cứu lý luận có bước trưởng thành và phát triển cả về số
lượng, chất lượng.
Hai là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa công tác tư tưởng với công tác
tổ chức; khắc phục sự tách rời hai nhiệm vụ này, khắc phục tình trạng công
tác lý luận chưa theo kịp yêu cầu của cách mạng; công tác tư tưởng chưa gắn
với công tác tổ chức.
Có thể nói công tác tư tưởng đã tập trung cho mặt lý luận, tinh thần. Công
tác tổ chức – vấn đề cơ bản của nó là hiện thực hoá tinh thần, lý luận khoa học
trong các tổ chức và thực tiễn cách mạng. Như vậy, giải quyết tốt mối quan hệ lý
luận và thực tiễn của công tác tư tưởng, công tác lý luận phải biết kết hợp công
tác tư tưởng và công tác tổ chức. Việc xây dựng lý tưởng, bản lĩnh, tinh thần và
trí tuệ cho cán bộ, chiến sĩ trong quân đội phải trên cơ sở, phải biết kết hợp tốt
với việc xây dựng hệ thống tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ đảng viên…
Ba là, tích cực đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận là một trong các
yêu cầu cơ bản của sự vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong công tác tư tưởng, lý luận hiện nay. Tích cực, chủ động tiến công trên
mặt trận tư tưởng, lý luận làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn của địch. Đồng
thời, đấu tranh khắc phục có hiệu quả các căn bệnh nảy sinh từ mặt trái kinh tế
thi trường như: chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, suy thoái đạo đức, lối
sống… Kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm sai trái, khuynh hướng tự do
tư sản, cơ hội chính trị, nâng cao cảnh giác, làm thất bại chiến lược “diễn biến
3 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 141.


17

17


hoà bình” trên mặt trận tư tưởng – văn hoá và trên các lĩnh vực khác. Nghiên
cứu, xác định các thiết chế, cơ cấu để hình thành phong trào toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân tham gia đấu tranh đẩy lùi các tệ nạn xã hội.
Bốn là, khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và giáo điều trong công
tác tư tưởng, lý luận.
Thực chất của bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa trong công tác tư tưởng, lý
luận là tuyệt đối hoá kinh nghiệm thực tiễn trong nội dung, phương pháp và
cách thức tiến hành công tác tư tưởng, lý luận; đồng thời, coi thường lý luận
khoa học. Đối lập với chủ nghĩa kinh nghiệm là chủ nghĩa giáo điều, quan
điểm này đã tuyệt đối hoá về mặt lý luận, xa rời thực tiễn trong tiến hành
công tác tư tưởng, lý luận. Chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa giáo điều đều
là sự phản khoa học trong vận dụng nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn
trong công tác tư tưởng, lý luận.
Quá trình tiến hành công tác tư tưởng, lý luận phải chú trọng khắc phục
cả hai căn bệnh: kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh giáo điều. Công tác tư tưởng,
lý luận phải xuất phát từ thực tiễn quân đội; mọi hoạt động tư tưởng, lý luận
đều phải có lý luận khoa học dẫn dắt, cán bộ nghiên cứu, cơ quan, học viện,
nhà trường phải bám nắm cơ sở, có kinh nghiệm thực tiễn phong phú. Cần
được kết hợp tốt giữa đào tạo cơ bản và đào tạo lại, thường xuyên được bồi
dưỡng, cập nhật về tri thức, nâng cao trình độ lý luận, trình độ trí tuệ là
phương hướng cấp bách để khắc phục cả bệnh giáo điều và kinh nghiệm chủ
nghĩa cho đội ngũ cán bộ ở các đơn vị cơ sở.
Như vậy, yêu cầu vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn trong công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội hiện nay cần phải tập trung

giải quyết tốt mối quan hệ giữa lý luận khoa học và thực tiễn công tác tư tưởng
lý luận. Đồng thời, phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa hai mặt đó trên cơ sở
tăng cường tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, nghiên cứu phát triển lý luận, kết
hợp tốt công tác tư tưởng và công tác tổ chức, thường xuyên khắc phục bệnh
kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh giáo điều trong công tác tư tưởng, lý luận trong
quân đội hiện nay.
18

18


chủ đề 2
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

1 . Mục đích, yêu cầu:
-

làm rõ định nghĩa của phép biện chứng duy vật
Làm rõ kết cấu của phép biện chứng
Nêu lên hệ thống phương pháp luận của PBCDV
ý nghĩa phương pháp luận và vận dụng PBCDV vào công tác đảng,
công tác chính trị trong quân đội

2 . Nội dung bố cục:
(1). Định nghĩa PBCDV
(2). Kết cấu của PBCDV
(3). Một số nguyên tắc phương pháp luận và sự vận dụng vào công tác
đảng, công tác chính trị trong quân đội
3. Thời gian: 4
tiết

4. Phương pháp:
- Dùng phương pháp thuyết trình, nêu vấn đề, có thể dùng sơ đồ đèn
chiếu,
- Có thể dùng phương pháp po point
5. Tài liệu tham khảo
- Mác- Ăngghen, toàn tập, t.20, Nxb.CTQG, H.1994
- Lênin toàn tập, T.18, Nxb.Tiến bộ, M.1980
- Giáo trình triết học Mác - Lênin, Nxb. CTQG, H.1999
- CNDVBC lý luận và vận dụng, Nxb.SGK, M- LN, H.1985

19

19


1. Định nghĩa phép biện chứng duy vật
<quan trọng của triết học Mác - Lênin. Nó được xác định với hai tư cách: lý
luận biện chứng duy vật và phương pháp biện chứng duy vật >>
->Với tư cách là lý luận biện chứng duy vật, phép biện chứng duy vật
được xác định là hệ thống các quan điểm khái quát tính biện chứng của thế
giới và được phản ánh thông qua hệ thống các nguyên lý, các quy luật và
các cặp phạm trù cơ bản.
->Với tư cách là phương pháp biện chứng duy vật, phép biện chứng duy
vật được xác định là phương pháp luận xem xét, phân tích các sự vật, hiện
tượng của thế giới trong trạng thái liên hệ phổ biến, trong sự vận động, phát
triển không ngừng; là hệ quả tất yếu và thống nhất với lý luận biện chứng, sự
thống nhất giữa thế giới quan và phương pháp luận trong triết học.
* Trong lịch sử triết học, đã xuất hiện nhiều quan niệm về phép biện
chứng khác nhau

- Từ thời triết học cổ đại:
Họ đã đưa ra phép biện chứng song chỉ là phép biện chứng duy vật
tự phát.
Bởi vì:
->bằng quan sát trực tiếp của mọi sự vận động, phát triển mà họ
khái quát thành những tư tưởng biện chứng.
-> Đây là những tư tưởng rời rạc, chưa thành hệ thống, cũng chưa
có hệ thống lý luận về phép biện chứng.
-> PBC Tự phát vừa thể hiện sự tự quan sát trực tiếp các SVHT nó
vận động, phát triển để khái quát nên mà nó còn thể hiện trong khi họ nói về
phép biện chứng mà họ cũng chưa hiểu phép biện chứng là gì.
20

20


Biểu hiện: <có các đại biểu như>
Phương tây: (Hêraclít - Arixtốt )
Phương đông: ( Phật giáo - Thuyết Âm dương- Triết học Lão tử )
- Trong triết học của G.Ph. Hêghen : ( TH cổ điển Đức )
Ông đã xây dựng được phép biện chứng, có cả một hệ thống lý
luận, với hai nguyên lý cơ bản và ba quy luật cơ bản với sáu cặp phạm trù
cơ bản.
-> Lần đầu tiên phép biện chứng trở thành hệ thống lý luận, đây là sự
cống hiến của Hêghen
-> Nhưng là phép biện chứng duy tâm khách quan,
Trong triết học của Hêghen phép biện chứng mâu thuãn với hệ
thống triết học của Ông…đây là mặt hạn chế về TBQ trong triết học của
Hêghen.
- Quan niệm của CNDVBC ( TH Mác- Lênin )

<G. Ph. Hêghen và những tư tưởng tiến bộ về PB Ccủa nhân loại, đồng thời khái
quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên đương thời >>
+ Ăngghen đã đưa ra định nghĩa về phép biện chứng :
Phép biện chứng “là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự
vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”4.
( M- Ăg, T T,T.20, tr.201, Nxb CTQG ST, H.1994 )
Mác và Ph. Ăngghen đã đưa ra những quan niệm mới về phép biện
chứng. Đó là phép biện chứng duy vật.
Phép bịên chứng này được rút ra từ tự nhiên và lịch sử trên cơ sở con
người nhận thức được các quy luật của tự nhiên và xã hội.

4

C. Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1994, t.

20, tr. 201.

21

21


Bản chất của nó là: “... xem xét những sự vật và những phản ánh của
chúng trong tư tưởng trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau giữa chúng, trong sự
ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng”5.
<các góc độ tiếp cận khác nhau >>
+ V. I. Lênin đã đưa ra một số định nghĩa về phép biện chứng.
->Tiếp cận dưới góc độ mâu thuẫn: V. I. Lênin viết: “Phép biện

chứng là học thuyết về sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập” 6
-> Tiếp cận dưới góc độ phát triển: V. I. Lênin quan niệm phép
biện chứng “là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất,
sâu sắc nhất và không phiến diện” 7.
+ Từ quan điểm của các nhà kinh điển về phép biện chứng chúng
ta có thể khái quát:
phép biện chứng duy vật là khoa học về những quy luật chung nhất
của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Cần chú ý:
-> phân biệt phép biện chứng và phép siêu hình
Trong lịch tư tưởng nhân loại nói chung và lịch sử triết học nói riêng
do nhận thức và do lập trường quan điểm, cho nên bên cạnh sự hình thành
phát triển tư duy biện chứng (phép biện chứng), thì cũng xuất hiện tư duy siêu
hình(PSH)
. Nếu phép biện chứng cho rằng mọi SVHT luôn nằm trong MLH
PB luôn có sự liên hệ, tác động lẫn nhau của các SVHT và luôn vận động
phát triển. Nguyên nhân của sự VĐ,PT là nguyên nhân bên trong của chính
bản thân SVHT của TGVC.
5

C. Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1994, t.

20, tr. 38.

6

V.I.Lênin,

toàn


tập,

Nxb

Tiến

bộ,

M.

1981,

t.

29,

tr.

7

V.I.Lênin,

toàn

tập,

Nxb

Tiến


bộ,

M.

1980,

t.

23,

tr.

240.

53.

22

22


.Thì PSH lại cho rằng mọi SVHT không có M L H gì, chúng tồn tại
cô lập tách rời, không vận động, không phát triển.
nếu có thừa nhận sự phát triển thì cho sự phắt triển chỉ là sự thay đổi
về lượng, không có sự thay đổi về chất, nguyên nhân sự liên hệ từ bên ngoài.
->Sự khác nhau giữa phép biện chứng và các khoa học tự nhiên
. phép biện chứng duy vật nghiên cứu những mối liên hệ phổ biến,
những quy luật chung nhất của thế giới khách quan. Đó là những quy
luật bao quát và chi phối toàn bộ thế giới vật chất, cả tự nhiên, xã hội và
tư duy.

. Còn các khoa học cụ thể đi sâu nghiên cứu những hình thức,
những kiểu liên hệ riêng, những quy luật riêng của từng lĩnh vực, từng
bộ phận cụ thể của thế giới.
-> ví như: Vật lý-> đi nghiên cứu kết cấu vật chất
Hoá học -> n/c những thành tố hoá học cáu tạo nên SVHT
Sinh học -> n/c sự tiến hoá giống loài( thuyết tiến hoá…)

2.Kết cấu của phép biện chứng duy vật
( phép biện chứng bao gồm: hai nguyên lý- ba LQ- sáu cặp phạm trù )
a. Hai nguyên lý cơ bản
* Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
MLH PB là phạm trù dùng để chỉ sự tác động qua lại và sự
chuyển hoá lẫn nhau dẫn đến sự vận, động phát của mọi SVHT, hay giữa
các mặt trong cùng một sự vật hiện tượng của TGVC.
Nguyên lý về MLH PB của phép biện chứng duy vật khái quát bức
tranh chằng chịt những mối liên hệ của thế giới vật chất, cả tự nhiên, xã
hội và tư duy.
Mọi SVHT có MLH với nhau mang Ttính KHáCH QUAN- Tính
PB-Ttính đa dạng phong phú.

23

23


Tính chất vô hạn của thế giới, cũng như tính chất có hạn của mỗi sự
vật, hiện tượng,
Quá trình đó chỉ có thể giải thích được trong mối liên hệ phổ biến và
được quy định bởi rất nhiều loại liên hệ có vị trí, vai trò khác nhau.
Biểu hiện:

MLH PB của TG thì không có cái gì sinh ra và không mất đi, tồn tại vô
cùng vô tận, vĩnh viễn
Còn MLH của SVHT thì có sinh ra và có mất đi, tồn tại có giới hạn cả
về không gian và thời gian
MLH thì đa dạng song có thể khái quát thầnh một số loại MLH sau:
M L H bên trong và M L H bên ngoài
M L H bản chất và không bản chất
M L H cái chung và cái riêng
M L H tất nhiên và ngẫu nhiên
=> Đặc trưng phổ quát nhất của thế giới là sự liên hệ phổ biến. Vì vậy,
nguyên tắc phương pháp luận chung nhất chỉ đạo mọi hoạt động và suy
nghĩ của con người được rút ra ở đây là nguyên tắc toàn diện.
Nguyên lý về sự phát triển
Phất triển là một phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình
vận động tiến lên, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn
thiện đến hoàn thiện.
Mọi sự vạt hiện tượng vận động phát triển mang tính khách quan - phổ
bến - phong phú muôn vẻ.
Nguyên lý sự phát triển phản ánh đặc trưng biện chứng phổ quát nhất
của thế giới là:
Mọi sự vật, hiện tượng luôn luôn vận động, biến đổi không ngừng và
về phương diện bản chất của mọi sự vận động, biến đổi của thế giới có xu hướng tiến lên.

24

24


Vì vậy, nguyên tắc chung nhất chỉ đạo mọi suy nghĩ và hành động của
con người được rút ra ở đây là nguyên tắc phát triển và quan điểm lịch sửcụ thể.

<duy vật như là sự cụ thể hoá nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và về sự phát
triển.>>
b. Các quy luật cơ bản:
Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật phản ánh sự phát
triển của thế giới hiện thực trên những phương diện cơ bản nhất.
Chúng có ý nghĩa phương pháp luận chỉ đạo mọi hoạt động của con
người để thực hiện nguyên tắc lịch sử - cụ thể trên các phương diện:
Như :nguồn gốc, động lực; cơ chế, cách thức và xu hướng phát
triển của các sự vật, hiện tượng trong thế giới.
* Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là “hạt
nhân” của phép biện chứng duy vật ; nó vạch ra nguồn gốc, động lực của
sự phát triển.
Là quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn bên trong mỗi sự vật, hiện
tượng.
Vì vậy, khi vận dụng nguyên tắc mâu thuẫn, cần phải xác định được
mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng, phải phân tích các mâu thuẫn và quá trình
đấu tranh giải quyết mâu thuẫn.
Theo V. I. Lênin, “Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các
mặt đối lập”8.
=>Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là cơ sở
phương pháp luận chỉ đạo mọi phương pháp đấu tranh cụ thể của con người
với tự nhiên và xã hội

8

V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, t. 29, tr.

379.


25

25


×