Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

BÀI GIẢNG TRIẾT CHI TIẾT NGUYÊN tắc THỐNG NHẤT GIỮA lý LUẬN và THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.73 KB, 10 trang )

CHỦ ĐỀ

NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT
GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1 . Mục đích, yêu cầu:
-

làm rõ cơ sở của nguyên tắc này
Làm rõ nội dung của nguyên tắc
Nêu lên yêu cầu khi thực hiện nguyên tắc trong nhận thức cũng như
trong hoạt động thực tiễn
ý nghĩa phương pháp luận của nguyên tắc

2 . Nội dung bố cục:
(1). Phạm trù lý luận và phạm trù thực tiễn
(2). Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
(3). Yêu cầu khi vận dụngc nguên tắc đối với công tác lý luận, tư tưởng
hiện nay
3. Thời gian:

4

tiết

4. Phương pháp:
- Dùng phương pháp thuyết trình, nêu vấn đề, có thể dùng sơ đồ đèn
chiếu,
- Có thể dùng phương pháp power point
5.Tài liệu tham khảo
- Mác- Ăngghen, toàn tập, t.20, Nxb.CTQG, H.1994
- Lênin toàn tập, T.18, Nxb.Tiến bộ, M.1980


- Giáo trình triết học Mác - Lênin, Nxb. CTQG, H.1999
- CNDVBC lý luận và vận dụng, Nxb.SGK, M- LN, H.1985

1

1


Mở đầu:
Nghiên cứu nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm giúp
chúng ta cơ sở phương pháp luận khoa học để giải quyết mọi công việc trong
hoạt động thực tiễn.
Giúp chúng ta có cơ sở đấu tranh với những biểu hiện sai trái, nhất là
đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận nhằm chống lại các thế lực đang
chống phá công việc xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng, phát triển và bảo
vệ chủ nghĩa Mác trong tình hình mới.
1.Phạm trù lý luận và phạm trù thực tiễn:
<< Phạm trù lý luận và thực tiễn đã được đề cập dến nhiều trong tư
tưởng nhân loại nói chung và trong triết học nói riêng. Nhưng vì khác nhau về
thế quan và khác nhau về lạp trường giai cáp, khác nhau về nhận thức cho nên
đã lý giải về lý luận và thực tiễn cũng rất khác nhau>>
* CNDT và CNDV trước Mác:
Cả CNDT và CNDV trước Mác chỉ nghiên cứu và đề cao vấn đề lý
luận, không nhìn thấy vai trò của thực tiễn cho nên cho hoạt động thực tiễn là
hoạt động tầm thường.
- Lý luận theo chủ nghĩa duy tâm, họ đồng nhất lý luận với "YN",
"YNTĐ", hoặc do hoàn toàn ý chí chủ quan của con người quyết định
- Như vậy, chủ nghĩa DT mắc phải tuyệt đối hoá tư duy và tuyệt đối
hoá "lực lượng tinh thần" ngoài con người.
- Từ thời Hy Lạp cổ đại những nhà THDV họ cho triết học là nghệ

thuật hùng biện, nghệ thuật tranh cãi. Vì vậy, gọi triết học là "Philosophia"->
Tức là yêu thích sự thông thái.
- Triêt học của Phoiơbắc nhà DV đạt đến đỉnh cao nhất của CNDV
trước Mác, cũng chỉ đề cao vấn đề lý luận chứ không nhìn thấy vai trò của
thực tiễn. Cho thực tiễn là hoạt động cơ bắp, hoạt động tầm thường, hoạt động
như vậy như của con buôn …
Tóm lại:
Cả CNDT và CNDV trước Mác do hạn chế bởi thế giới quan và thiếu
cơ sở khoa học cho nên chưa đưa ra được phạm trù LL và phạm trù T T một
cách đúng đắn kgoa học. Vì vậy, cũng chưa thấy được MQH giữa chúng.
<< khắc phục những hạn chế của các trào lưu triết học trước MácĂngghen đã đưa ra lý luạn kiểu mới, đặc biệt đưa ra phạm trù thực tiễn, và
mối quan hệ giữa chúng>>
* CNDVBC:
2

2


-> Lý luận : là sản phẩm phát triển cao của nhận thức, là hệ thống tri
thức được khái quát hoá, nhằm phản ánh những mối liên hệ bản chất, tất
yếu của hiện thực khách quan.
+ Hạt nhân của lý luận bao gồm: các nguyên lý; phạm trug quy luật
+ Lý luận không hình thành tự phát, mà nó được hình thành và là sự khái
quát từ thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiẹm là đúng đắn, thì lý luận đó
trở thành lý luận khoa học.
Theo TH Mác- Lênin lý luận được ra đời là cả một quá trình biện
chứng của nhận thức con người và hoạt động thực tiễn…
=> Kế thừa chủ nghĩa Mác về lý luận
Hồ Chí Minh cũng đưa ra quan điểm về lý luận cho rằng:" lý luận là
sự tổng kết kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự

nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử"1."Lý luận là đem thực tế
trong lịch sử, trong kinh nghiệm trong các cuộc tranh đấu xem xét, so sánh
thật kỹ lưỡng, rõ ràng, làm thành lý luận, rồi lại đem nó chứng minh trên thực
tế. Đó là lý luận chân chính"( sđtd, t.5, tr.233)
Như vậy, lý luận có được là từ thực tiễn, khái quát từ chính trong mọi hoạt
động của con người, rồi lại đem nó chỉ đạo thực tiễn mới, rồi lại khái quát …
cứ như vậy làm cho lý luận ngày càng hoàn thiện hơn.
" Triết học M-LN không chỉ có đi giải thích thế giới mà cái chính là đi cải
tạo thế giới. Mà muốn cải tạo thế giới thì phải thông qua hoạt động thực tiễn
của con người. Chính vì vậy phạm trù thực tiễn được đề cao "
-> Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có tính lịch sử xã hội
của con người nhằm mục đích cải tạo tự nhiên và xã hội.
+ Theo TH Mác- Lênin: có quan điểm đúng đắn, và chỉ ra vai trò to lớn
của thực tiễn đối với nhận thức.
Thể hiện: quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ
nhất và cơ bản của lý luận nhận thức. Phạm trù thực tiễn không phải chỉ là
phạm trù của lý luận nhận thức Mácxít, mà còn là phạm trù treung tâm của
triết học Mác xít của toàn bộ lý luận chủ nghĩa Mác .
+ Trong hoạt động thực tiễn, con người sử dụng các phương tiện, công
cụ lao động tác động và cải tạo tự nhiên và xã hội. Qua lao động con người
làm biến đổi thế giới khách quan ( biến đổi bản thân các sự vật hiện tượng)
đáp ứng theo mục đích, nhu cầu của bản thân con người-> Cũng từ đó làm
biến đổi hình ảnh, bản chất của sự vật trong nhận thức con người. Do vậy
1 .HCM toàn ,t.8, Nxb CTQG, tr.497

3

3



thực tiễn có tính năng động sáng tạo, là quá trình không ngừng của sự chuyển
hoá giữa tinh thần và vật chất.
2. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn:
A.
Cơ sở của nguyên tắc:
Thứ nhất, trong quá trình phấn đấu để thoả mãn nhu cầu vật chất và
tinh thần cho bản thân, con người không ngừng nâng cao sự hiểu biết, trong
đó có tri thức lý luận, cùng khả năng hoạt đọng vật chất (hoạt động T T) cải
biến tự nhiên.
Con người chúng ta muốn thoả mãn vè vât chát, thì nếu chỉ có sự hiểu
biết(LL) để ở trong đầu thì sẽ không có một tí sản phẩm nào ra đời cả. Do
vậy, từ sự hiểu biét đó phải mang vào chỉ đạo hoạt đọng thì mới có sản phẩm
ra đời.
Giữa hiểu biết và hoạt động vật chất, lý luận và thực tiễn không phải là sự
tách rời mà luôn có mối liên hệ thống nhát hữu cơ với nhau sự thống nhất này
ngày càng cao hơn cùng với quá trình phát triển của loài người.
Nói cách khác, để có hiệu quả trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau
con người không thể "tuỳ thích" chủ quan, cảm tính trong việc định ra phương
hướng, giải pháp và lựa chọn cụ thể…mà cần có lý luận dẫn dắt.
Ngược lại, để có sự hiểu biết ở trình độ lý luận tất yếu phải đi từ sự khái
quát kinh nghiệm thực tiẽn- nếu không thấy rõ điều này sẽ rơi vào tư biện,
duy tâm, duy ý chí.
Hồ Chí Minh đã khẳng định:"Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì
thành thực tiẽn mù quáng.Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận
suông"(H C MINH, toàn,t.8, tr.496, Nxb CTQG, H.1996)
Việc phát hện ra nguyên tắc này trước hết phải kể đến TH Mác-Lênin,
đòng thời chính học thuyết cách mạng khoa học này là sự biểu hiện sự sinh
động và có sức thuyết phục nhất về nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn.
Thứ hai, nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn có ý nghĩa

phương pháp luận rất quan trọng đối với chủ thể nhận thức và cải tạo thế
giới.
Nó là kết quả của nhiều nguyên tắc và cũng từ nguyên tắc này đã chi phối,
chỉ đạo nhiều nguyên tắc cơ bản khác trong triết học Mácxít. Thực hiện
nguyên tắc này cũng là thúc đẩy xã hội phát triển.
Thứ ba, nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đã được thể
hiện trong toàn bộ quá trình hình thành lý luận Mác xít cũng như trong thực
tiễn cách mạng của các lực lượng tiến bộ.
C.Mác và Ăngghen là những người trực tiếp hoạt đông trong phong
trào đấu tranh của phong trào công nhân, tổng kết tri thức kinh nghiệm, tri
thức lý luận khoa học hoàn chỉnh.
4

4


Lý luận Mác đã phát hiện ra quy luật phát triển của xã hội loài
người, đặc biệt là quy luật của xã hội tư bản, tiên đoán một cách khoa học
CNTB nhất định sẽ bị tiêu vong, CNXH ra đời thay thế cho CNTB, sứ mệnh
lịch sử đó là do giai cấp công nhân thực hiện.
V.I.Lênin đã kế thừa, phát triển và cụ thể hoá lý luận ấy trong thời đại
đế quốc chủ nghĩa để lãnh đạo phong trào công nhân.
Từ khi lý luận Mác ra đời nó đã trở thành vũ khí tư tưởng, ngọn cờ chỉ
đạo, tổ chức, động viên giai cấp công nhân, nhân dân lao động bị áp bức trên
toàn thế giới đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Lý luận Mác - Lênin là cơ sở khoa học cho các Đảng Cộng sản định ra
đường lối chiến lược, sách lược, dẫn dắt phong trào cách mạng đi từ thắng lợi
này tới thắng lợi khác.
Nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn là còn được thể hiện đầy
đủ trong các vấn đề mục đích, đặc điểm, vai trò, khả năng của triết học

mácxít.
Triết học của Mác khác các triết học trước đây ở chỗ, triết học mácxít
không chỉ là giải thích thế giới mà cái chính là cải tạo thế giới.
Hiện nay, cách mạng xã hội xã hội chủ nghĩa đang gặp những khó
khăn, đang trong giai đoạn thoái trào. Nhưng, đó chỉ là sự thất bại của những
mô hình và sự vận dụng thiếu sáng tạo. Sức sống của lý luận Mác – Lênin là
do nó luôn gắn liền với thực tiễn sinh động và được thực tiễn kiểm nghiệm,
bổ sung, phát triển.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ thành công nếu biết nắm bắt bản chất,
linh hồn của lý luận mácxit, biết vận dụng sáng tạo phù hợp với điều kiện,
tình hình cụ thể. Đồng thời, trước yêu cầu thực tiễn mới, muốn bảo đảm
được tính khoa học và cách mạng của lý luận mácxit đòi hỏi nó phải thường
xuyên được bổ sung, phát triển.
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thức tiễn còn được thể hiện
trong triét học Mác- Lênin khi bàn về lý luận nhận thức.
Trong khi nghiên cứu về quá trình hình thành phát triển của nhận thức
con người, triết học M-Lnin khẳng định: nhận thức con người là một quá
trình, tuân theo con đường biện chứng đi từ-> TQSĐ đến TDTT từ TDTT
5

5


trở về T T kết thúc một vòng khâu của quá trình nhận thức, lại mở ra một
vòng khâu tiếp theo…
Trong quá trình nhận thức như vậy, được thể hiện bằng con đường
biện chứng của nhận thức, chúng ta đã thấy sự thống nhất của lý luận và
thực tiễn.
B. Nội dung của nguyên tắc
Lý luận và thực tiễn trên thực tế là một thể thống nhất giữa hai mặt cơ

bản trong quá trình hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới của con người.
Lý luận và thực tiễn trong một quá trình vừa tác động, ràng buộc, ảnh
hưởng lẫn nhau, vừa đấu tranh với nhau dẫn tới sự vận động, biến đổi và chuyển
hoá. Trong mối quan hệ đó , thực tiễn luôn luôn là tính thứ nhất, giữ vai trò
quyết định lý luận, còn lý luận là tính thứ hai, tác động tích cực trở lại thực tiễn.
-

Lý luận chỉ trở thành khoa học khi xuất phát từ thực tiễn, được thực
tiễn kiểm nghiệm( nói cách khác vai trò của thực tiẽn đối với lý luận)
Vai trò thực tiễn với nhận thức, đối với lý luận trước hết được thể hiện: thực

tiễn là cơ sở, mục đích là động lực chủ yếu, trực tiếp của nhận thức, trong đó thực
tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra chan lý..( T T kiểm tra nhận thức " LL" xem nhận thức
đúng hay sai)
Điều này được V. I. Lênin khẳng định: "Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý
luận), không những của tính phổ biến, mà cả của tính hiện thực trực tiếp"2.
Để đáp ứng nhu cầu của mình, con người phải cải tạo thế giới bằng
hoạt động thực tiễn, trong quá trình đó, con người cũng biến đổi luôn cả bản
thân mình, phát triển năng lực, trí tuệ.
Để thoả mãn nhu cầu ngày càng cao con người ngày càng đi sâu vào
nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của thế giới, càng làm phong phú
và sâu sắc hơn tri thức của mình.
Chính thông qua thực tiễn đã xuất hiện nhiều mâu thuẫn mới đòi hỏi
con người phải giải quyết. Vì vậy, nhu cầu, nhiệm vụ, phương hướng của
nhận thức, đòi hỏi phải nghiên cứu để giải quyết các mâu thuẫn đó, sau đó
2 V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1984, t. 29, tr. .230.

6

6



tiến hành tổng kết kinh nghiệm rút ra tri thức mới, để khái quát thành lý luận
của con người và thúc đẩy sự ra đời, phát triển của các ngành khoa học.
Thực tiễn có khả năng tạo ra công cụ, phương tiện phục vụ cho quá
trình nhận thức mà hoạt động tinh thần không thể có khả năng trực tiếp
về vấn đề đó. Những công cụ, phương tiện hiện đại giúp con người nhận
thức ngày càng nhanh, xa và hiệu quả, dù trong những điều kiện khó
khăn phức tạp hơn.
Đúng như Mác đã nhận định: các công cụ lao động sẽ nối dài các
giác quan của con người giúp chúng ta khám phá tự nhiên. Chúng ta chế
tạo ra những loại kính viễn vọng có thể quan sát được các hành tinh xa
xôi, giúp chúng ta nhận thức về nó. Chế tạo ra tầu vũ trụ bay vào trong
không gian để nghiên cứu về thời tiết, động đất, sóng thần, kết cấu vật
chất, sự sống…Mặt trăng, sao hoả…
Thông qua động thực tiễn con người tác động vào thế giới, buộc thế
giới phải bộc lộ những thuộc tính, những quy luật để con người có điều kiện,
khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc hơn.
V. I. Lênin đã chỉ ra rằng: Thế giới bí ẩn sẽ hoàn toàn bí ẩn với con
người nếu không có sự tác động của con người vào đó. Sự tác động của con
người vào thế giới khách quan diễn ra một quá trình từ việc thu thập những tài
liệu cảm tính, những kinh nghiệm, sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng
hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá… để phát triển thành lý luận và từ lý luận
lại trở về chỉ đạo thực tiễn.
Không có thực tiễn thì không có nhận thức, không có lý luận. Mọi tri
thức dù trực tiếp hay gián tiếp, đối với người này hay người kia, thế hệ này
hay thế hệ khác, dù ở giai đoạn cảm tính hay lý tính, xét đến cùng, đều bắt
nguồn từ thực tiễn.
Lý luận trở thành khoa học, trở thành chân lý không những nó phải
xuất phát từ thực tiễn mà còn phải được thực tiễn kiểm nghiệm đúng. C. Mác

viết: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đi tới chân lý khách

7

7


quan hay không, hoàn toàn không phải là vấn đề nhận thức mà là vấn đề thực
tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”1.
Từ vai trò to lớn của thực tiễn đối với nhận thức, lý luận, đòi hỏi chủ thể
hoạt động phải luôn quán triệt đúng đắn quan điểm thực tiễn. Trong nhận thức,
phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu, đi sát thực tiễn, coi
trọng việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn tới
các sai lầm của bệnh chủ quan, giáo điều, quan liêu và chủ nghĩa xét lại.
- Hoạt động thực tiễn chỉ đạt được mục đích khi được lý luận soi
đường.

Cùng với việc coi trọng vai trò của thực tiễn đối với lý luận thì

vai trò của lý luận đối với thực tiễn không hề bị hạ thấp mà còn thể hiện rõ
hơn tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nó.
Hay nói cách khác, bản thân lý luận, khoa học không có mục đích tự
thân. Lý luận, khoa học ra đời chính vì và chủ yếu vì chúng cần thiết cho hoạt
động thực tiễn của con người.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức, lý luận. Nhận thức lý luận sau khi
ra đời quay về phục vụ thực tiễn, hướng dẫn, chỉ đạo thực tiễn.
Lý luận, khoa học chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào
thực tiễn, cải tạo thực tiễn, phục vụ cho mục tiêu phát triển. Lý luận tác động
trở lại thực tiễn, góp phần làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động của con
người.

Lý luận giúp cho chủ thể hoạt động thực tiễn có những quan niệm
khoa học về thế giới. Lý luận có thể dự kiến được sự vận động, phát triển
của sự vật, chỉ ra những phương hướng mới cho sự phát triển của thực tiễn,
là “kim chỉ nam” soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo cho hành động.
V. I. Lênin viết: Không có lý luận cách mạng thì cũng không có
phong trào cách mạng, chỉ có đảng nào có lý luận tiên phong hướng dẫn thì
đảng đó mới làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong.

11 C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t. 3, tr.10.

8

8


Nhờ có lý luận khoa học mà hoạt động của con người trở lên chủ
động, tự giác, hạn chế tình trạng mò mẫm, tự phát. Như vậy, lý luận một
khi đã thâm nhập vào quần chúng thì biến thành sức mạnh vật chất to lớn.
Lý luận giúp cho chủ thể nhận thức hệ thống nguyên tắc, phương pháp
trong hoạt động nhận thức và thực tiễn; giúp chủ thể hoạt động thực tiễn
những mục tiêu cần đạt được trong tình hình cụ thể. Nhờ có lý luận cách
mạng mà chủ thể hoạt động thực tiễn có cơ sở hình thành, phát triển nhân
cách và nâng cao chất lượng hoạt động thực tiễn.
Như vậy, lý luận có vai trò hết sức to lớn đối với hoạt động thực tiễn.
Tuy nhiên, cùng với nhận thức được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của lý
luận thì chủ thể hoạt động không nên cường điệu vai trò của lý luận, coi
thường thực tiễn, tách lý luận khỏi thực tiễn.
C. Yêu cầu của nguyên tắc
Để thực hiện yêu cầu của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn,
trước hết, phải nắm vững bản chất khoa học và cách mạng chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cơ sở nền tảng tư tưởng và kim nam cho mọi

hoạt động.
Cùng với yêu cầu đó, mỗi chủ thể nhận thức và hoạt động thực tiễn phải
nắm chắc lý luận của các môn khoa học cụ thể cùng các môn khoa học chuyên
ngành, từ đó vận dụng sáng tạo trong điều kiện, tình hình cụ thể.
Phải có quan điểm thực tiễn đúng đắn, tích cực hoạt động trong thực tiễn;
rèn luyện khả năng, trình độ nắm bắt các yêu cầu thực tiễn và nâng cao hiệu quả
hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, từ lý luận trở về thực tiễn phải có ý chí, tình
cảm, có khả năng tổ chức và khả năng vận dụng.
Phải biết kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn. Lý luận cần bám sát
thực tiễn, vận dụng và cụ thể hoá sáng tạo. Đồng thời, trên cơ sở thực tiễn phải
thường xuyên sơ kết, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, khái quát và bổ sung phát
triển lý luận; luôn có sự kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng và công tác tổ chức.
Khắc phục chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm trong nhận
thức và thực tiễn.
9

9


10

10



×