BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ
CHỮ VIẾT TẮT
Chủ nghĩa cộng sản
CNCS
Chủ nghĩa tư bản
CNTB
Chủ nghĩa xã hội
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Chính trị quốc gia
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
Hệ thống chính trị
Hội đồng nhân dân
Hợp tác xã
Kinh tế thị trường
Uỷ ban nhân dân
CNXH
CNH, HĐH
CTQG
CHXHCN
ĐTNCSHCM
HTCT
HĐND
HTX
KTTT
UBND
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Tiếp thu quan điểm chủ nghĩa Mác- Lê nin về vai trò to lớn của nông dân trong cách
mạng vô sản, xuất phát từ thực tiễn cách mạng nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn xác định nông dân là lực lượng cơ bản của cách mạng. Trước sau như một,
Đảng luôn luôn vì lợi ích của nhân dân nói chung và của nông dân mà phấn đấu. Chính vì vậy,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã động viên, tổ chức nông dân hăng hái tham gia giành chính quyền,
góp công, góp của để đấu tranh thống nhất nước nhà, góp phần đưa cả nước đi lên CNXH. Trải
qua mỗi giai đoạn cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ trương, chính sách thiết
thực nhằm giải quyết tốt hơn lợi ích nông dân. Thực tiễn hơn 17 năm thực hiện đường lối đổi
mới, lợi ích nông dân đã được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Từ đó, đời sống xã hội
nông thôn và cuộc sống của người nông dân ngày càng phát triển. Tốc độ đô thị hoá nông thôn
diễn ra nhanh chóng, đã và đang mở ra một triển vọng sớm đưa đất nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp.
Hiện nay, trong cơ cấu dân số nước ta có gần 76% là nông dân, đây là một lực lượng cơ
bản góp phần vào thành công của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Trong
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
lợi ích nông dân về cơ bản thống nhất với lợi ích giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức. Tuy
nhiên, lợi ích nông dân xét về mặt lý luận và thực tiễn còn nhiều vấn đề đòi hỏi Đảng và Nhà
nước cần phải tiếp tục làm sáng tỏ và giải quyết.
Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn
dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Động lực chủ yếu để xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc là “Đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí
thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm
năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội” (Văn kiện ĐH IX, ĐCSVN).
Để tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc, một vấn đề cực kỳ quan trọng là “xây dựng
cơ sở chính trị- xã hội, thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; coi trọng xây dựng thế
trận trên các địa bàn chiến lược trọng yếu; xây dựng lực lượng dân quân, tự vệ và công an, bảo
vệ cơ sở”. Chính vì vậy, giải quyết vấn đề lợi ích nông dân một cách đúng đắn, thoả đáng sẽ trực
tiếp góp phần tăng cường cơ sở chính trị- xã hội của nền quốc phòng toàn dân, sức mạnh bảo
vệ Tổ quốc. Thực tế giải quyết lợi ích nông dân trong thời gian qua ở một số địa phương còn bị
xem nhẹ, chưa thoả đáng, một bộ phận nông dân vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ địa cách mạng
còn chịu nhiều thua thiệt. Vấn đề đó đã ảnh hưởng không nhỏ tới tăng cường cơ sở chính trị- xã
hội nền quốc phòng toàn dân.
Chính vì những lý do chủ yếu trên, tác giả lựa chọn vấn đề: “Giải quyết lợi ích nông dân góp
phần tăng cường cơ sở chính trị- xã hội của nền quốc phòng toàn dân ở Việt Nam hiện nay” (qua
khảo sát ở tỉnh Phú Thọ) làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Giải quyết lợi ích cho người lao động trong đó có lợi ích nông dân đã được C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh đề cập trong nhiều tác phẩm. Đây là cơ sở lý luận và
thực tiễn để Đảng cộng sản Việt Nam vận dụng sáng tạo vào giải quyết lợi ích nông dân trên
thực tế ở nước ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Nghiên cứu lợi ích và lợi ích nông dân đã được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước
quan tâm. Ở nước ta đã có nhiều công trình khoa học có liên quan đến đề tài: “Về sự kết hợp
các lợi ích kinh tế” của tập thể tác giả, Nxb Thông tin lý luận, H.1983; “Lợi ích kinh tế với vấn đề
đổi mới tư duy ở nước ta hiện nay” của Vũ Hữu Ngoạn, Tạp chí lý luận số1+2 năm 1987; “Lợi ích
kinh tế nông dân ở nước ta hiện nay”- luận án tiến sĩ khoa học kinh tế của tác giả Vương Đình
Cường, H.1992; “Lợi ích kinh tế của người lao động và vận dụng vào lực lượng vũ trang trong
thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta”- luận án tiến sĩ quân sự của Chử Văn Tuyên, H.1998; “Lợi
ích với tư cách là động lực phát triển xã hội”- Luận án PTS triết học của Nguyễn Linh Khiếu, Nxb
KHXH, H.1999; Các công trình khoa học và các bài báo khoa học đề cập đến nhiều vấn đề, dưới
các góc độ khác nhau. Song, chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu với tư cách là một đề
tài độc lập giải quyết lợi ích nông dân góp phần tăng cường cơ sở chính trị- xã hội của nền quốc
phòng toàn dân hiện nay (qua khảo sát ở tỉnh Phú Thọ).
Vì vậy, tác giả luận văn kế thừa những kết quả nghiên cứu khoa học đã được công bố,
đồng thời đặt vấn đề nghiên cứu một cách cơ bản đề tài trên.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
*Mục đích: Trên cơ sở làm rõ lý luận và thực tiễn giải quyết lợi ích nông dân góp phần
tăng cường cơ sở chính trị- xã hội của nền quốc phòng toàn dân hiện nay, luận văn đề xuất
những giải pháp cơ bản nhằm giải quyết tốt lợi ích nông dân góp phần tăng cường cơ sở chính
trị- xã hội của nền quốc phòng toàn dân, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN.
*Nhiệm vụ:
- Làm rõ thực chất giải quyết lợi ích nông dân, cơ sở chính trị- xã hội của nền quốc
phòng toàn dân và sự tác động giải quyết lợi ích nông dân đối với việc tăng cường cơ sở chính
trị- xã hội của nền quốc phòng toàn dân.
- Đánh giá khách quan thực trạng giải quyết lợi ích nông dân hiện nay và tác động của
nó đối với cơ sở chính trị- xã hội nền quốc phòng toàn dân ở nước ta (qua khảo sát ở tỉnh Phú
Thọ)
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm giải quyết lợi ích nông dân góp phần tăng
cường cơ sở chính trị- xã hội của nền quốc phòng toàn dân ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
*Đối tượng nghiên cứu: giải quyết lợi ích nông dân góp phần tăng cường cơ sở chính
trị- xã hội của nền quốc phòng toàn dân hiện nay.
*Phạm vi nghiên cứu: Từ góc độ triết học- xã hội, luận văn nghiên cứu giải quyết lợi ích
nông dân góp phần tăng cường cơ sở chính trị- xã hội của nền quốc phòng toàn dân từ năm
1986 đến nay, Các số liệu được khảo sát trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của đề tài là các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, Các văn kiện, nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam; Nghị quyết của Đảng uỷ quân sự
Trung ương về vấn đề nông dân, liên minh công- nông- trí thức, về đại đoàn kết toàn dân, về lợi ích giai
cấp, chính sách xã hội, xây dựng cơ sở chính trị- xã hội của nền quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc.
- Cơ sở thực tiễn: Thực tế giải quyết vấn đề lợi ích nông dân tỉnh Phú Thọ; cơ sở chính
trị- xã hội tỉnh Phú Thọ hiện nay. Luận văn còn dựa vào các tài liệu báo cáo tổng kết của tổ chức
Đảng, Chính quyền, Hội Nông dân tỉnh, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh và các số liệu khảo sát phỏng
vấn trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
- Phương pháp nghiên cứu : luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương
pháp lôgíc và lịch sử để làm sáng tỏ góc độ chính trị- xã hội đề tài nghiên cứu.
6. Ý nghĩa của luận văn: Kết quả nghiên cứu của luận văn là cơ sở khoa học để khẳng
định tính tất yếu giải quyết lợi ích nông dân góp phần tăng cường cơ sở chính trị- xã hội của nền
quốc phòng toàn dân. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu khoa học, giảng
dạy những nội dung có liên quan đến chính sách xã hội, kiến thức quốc phòng ở các học viện nhà
trường trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của luận văn: luận văn gồm phần Mở đầu, 2 chương 4 tiết, Kết luận, Danh mục
tài liệu tham khảo và Phụ lục.
Chương 1
THỰC CHẤT GIẢI QUYẾT LỢI ÍCH NÔNG DÂN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC TĂNG
CƯỜNG CƠ SỞ CHÍNH TRỊ- XÃ HỘI CỦA NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY
1.1. Thực chất giải quyết lợi ích nông dân ở Việt Nam hiện nay
1.1.1. Lợi ích và lợi ích nông dân
Khái niệm lợi ích
Lợi ích tiếng la tinh interest, có nghĩa là sự quan trọng, cần thiết, là nguyên nhân hiện
thực của hành động xã hội, các sự kiện, thành tựu ẩn giấu đằng sau những sự thúc đẩy trực tiếp
động cơ, ý đồ, lý tưởng... của cá nhân, tập đoàn xã hội, giai cấp tham gia vào những hành động
đó. Vấn đề lợi ích đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà triết học ở các giai đoạn lịch sử khác
nhau. Một trong những nhà triết học tiêu biểu nghiên cứu về lợi ích có tính hợp lý hơn là Căng.
Ông viết: “Nếu xét kỹ lịch sử, chúng ta thấy rõ rằng hành động của con người bắt nguồn từ nhu
cầu của họ, từ ham muốn của họ, và chỉ những cái đó mới đóng vai trò chủ yếu. Con người tìm
cách thoả mãn lợi ích của mình, nhưng nhờ vậy mà còn thực hiện được cái xa hơn, cái ẩn giấu
trong các lợi ích nhưng không được họ nhận thức và không nằm trong ý định của họ”[49, tr.319].
Tư tưởng về lợi ích của ông có yếu tố hợp lí nhưng bản chất vẫn mang tính duy tâm, ông chưa
vượt qua được sự hạn chế về tư tưởng mà thời đại ông đang sống. Xanh Xi Mông là nhà XHCN
không tưởng thế kỷ XIX đã gắn nhu cầu với lợi ích và muốn đặt con người vào tình thế như thế
nào để lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội luôn có được sự kết hợp với nhau và mong muốn sự
hoàn thiện dần dần của đạo đức con người để thực hiện kết hợp lợi ích cá nhân với lợi ích xã
hội.
Chủ nghĩa Mác- Lênin đã kế thừa những tinh hoa các nhà triết học trong việc lý giải về
vấn đề lợi ích. Ph.Ăngghen viết: “Những quan hệ kinh tế của một xã hội nhất định nào đó biểu
hiện trước hết dưới hình thức lợi ích”[1, tr.376].
Lênin xác định: Tìm nguồn gốc của những hiện tượng xã hội trong những quan hệ sản
xuất, và phải quy những hiện tượng ấy vào lợi ích của những giai cấp nhất định.
Ở Việt Nam có nhiều tác giả cũng nghiên cứu vấn đề lợi ích dưới góc độ tiếp cạn khác
nhau. Tác giả Lê Hữu Tầng có một sự trình bày khá sâu sắc về vấn đề lợi ích. Theo ông: “Nhu
cầu là những đòi hỏi của con người, của từng cá nhân, của các nhóm xã hội khác nhau, hay của
toàn xã hội muốn có điều kiện tồn tại dể phát triển. Nhu cầu nảy sinh do kết quả tác động qua lại
của hoàn cảnh bên ngoài với trạng thái riêng của từng chủ thể, trong đó hoàn cảnh bên ngoài
đóng vai trò quan trọng và trong phần lớn các trường hợp là quyết định”[42, tr.38]. Lợi ích là cái
đáp ứng nhu cầu, nó chỉ có nghĩa khi đặt trong mối quan hệ giữa các sự vật hiện tượng của thế
giới bên ngoài với nhu cầu của chủ thể; còn về mặt nội dung, lợi ích là cái thoả mãn nhu cầu, đáp
ứng lại nhu cầu. Nhu cầu quyết định cái đối với chủ thể là lợi ích, do đó nó là cơ sở của lợi ích,
còn lợi ích ngược lại xuất phát từ nhu cầu, là sự thể hiện của nhu cầu.
Tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn nhất trí với quan điểm trên và phân tích nhu cầu
con người không chỉ có một mà rất nhiều nhu cầu, từ nhu cầu về vật chất, nhu cầu tinh
thần, nhu cầu hiểu biết thậm chí cả nhu cầu được nổi tiếng. Nhu cầu ở mỗi giai đoạn,
hoàn cảnh khác nhau thì khác nhau. Tuy nhiên, trước sau nhu cầu vẫn là một sức mạnh
thúc đẩy con người hoạt động. Phương tiện để thoả mãn nhu cầu là lợi ích, cho nên lợi
ích quyết định hành vi, quyết định hành động của con người”[7, tr.35]. Tác giả Nguyễn
Linh Khiếu quan niệm lợi ích là biểu hiện mối quan hệ tất yếu của con người: “Lợi ích là
một sự vật hay một hiện tượng khách quan biểu hiện những mối quan hệ tất yếu của con
người và dùng để thoả mãn những nhu cầu cấp bách của họ trong một hoàn cảnh sinh
sống nhất định”[22, tr.50]. Còn tác giả Đinh Quang Tuấn đã trình bày một cách khái quát
về lợi ích: “Lợi ích là các giá trị về vật chất và tinh thần, nhằm thoả mãn những nhu cầu
của con người trong điều kiện kinh tế- xã hội nhất định”[43, tr.18].
Kế thừa những quan niệm phong phú về lợi ích của nhiều tác giả. Tác giả luận văn khái
quát một số nội dung của phạm trù lợi ích như sau:
Thứ nhất, lợi ích là hiện tượng xã hội khách quan tồn tại trong đời sống xã hội, gắn liền
với chủ thể. Trong xã hội có đối kháng giai cấp lợi ích cũng mang tính giai cấp và tính lịch sử cụ
thể.
Thứ hai, cơ sở để hình thành lợi ích là nhu cầu. Ăngghen đã từng chỉ ra rằng “Đáng lẽ
phải giải thích hoạt động của mình từ nhu cầu của mình, thì người ta lại quen giải thích hoạt
động của mình từ tư duy của mình”[2, tr.651]. Nhu cầu là những đòi hỏi của con người, của từng
cá nhân, nhóm xã hội khác nhau hay của toàn xã hội. Vai trò của nhu cầu là rất quan trọng, là
động lực thúc đẩy con người hành động. Khi nhu cầu được thoả mãn là lợi ích, vì vậy, lợi ích là
cái đáp ứng nhu cầu và nó chỉ có ý nghĩa khi lợi ích đặt trong quan hệ với nhu cầu. Ngoài mối
quan hệ đó, cái được coi là lợi ích không còn là lợi ích nữa. Trong mối quan hệ nhu cầu và lợi
ích, nhu cầu quyết định lợi ích. Do đó, nó là cơ sở của lợi ích, còn lợi ích, ngược lại, xuất phát từ
nhu cầu dựa trên nhu cầu là sự thể hiện của nhu cầu.
Thứ ba, lợi ích con người phong phú đa dạng do tính phong phú của nhu cầu quy định.
Hoạt động của con người bao giờ cũng có mục đích. Trong cuộc đấu tranh vì sự sống của mình,
con người có nhu cầu chung phải liên kết với nhau, những nhu cầu chung là cơ sở hình thành lợi
ích chung. Ngoài những lợi ích chung con người lại có những lợi ích riêng nảy sinh từ các nhu
cầu trong một hoàn cảnh cụ thể. Bên cạnh những nhu cầu chung của tập thể, xã hội, còn có nhu
cầu riêng của cá nhân, những nhu cầu này hình thành nên lợi ích chung và lợi ích cá nhân.
Từ đó, tác giả quan niệm lợi ích là hiện tượng xã hội khách quan gắn liền với chủ thể, được
nảy sinh từ nhu cầu nhằm thoả mãn nhu cầu con người trong một điều kiện kinh tế- xã hội
nhất định.
Thực chất lợi ích nông dân
Nông dân là một giai cấp chuyên sản xuất những sản phẩm nông nghiệp trên cơ sở sở
hữu tư nhân hoặc sở hữu hợp tác xã về tư liệu sản xuất và tham gia sản xuất bằng lao động của
chính mình.
Bản chất xã hội và địa vị của nông dân trong xã hội là do phương thức sản xuất thống trị
quy định và được thay đổi cùng với sự thay đổi của hình thái kinh tế- xã hội, và ngay trong sự
phát triển của mỗi hình thái kinh tế xã hội.
Trong CNTB, bản chất nông dân có tính hai mặt, một mặt họ là người lao động, mặt
khác họ là người tư hữu. Do địa vị của họ mà nông dân đi theo giai cấp công nhân hoặc đi
theo giai cấp tư sản, không có con đường trung gian. Trong các xã hội dựa trên chế độ tư
hữu, nông dân là người bị bóc lột nặng nề. Trong CNXH, nông dân là người làm chủ tư liệu
sản xuất, nên vai trò của giai cấp nông dân ngày càng được phát huy trong sự nghiệp xây
dựng CNXH. Quá trình phát triển CNXH, giai cấp nông dân trưởng thành về mọi mặt, trình
độ dân trí ngày càng cao. Quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, xu hướng giai cấp
nông dân giảm tương đối về số lượng bởi có sự dịch chuyển từ nông dân nông nghiệp
sang công nhân công nghiệp. Ở nước ta hiện nay, giai cấp nông dân là một lực lượng lao
động cơ bản trong khối liên minh công nhân- nông dân- trí thức do Đảng cộng sản lãnh
đạo. Trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH, giai cấp nông dân sản xuất kinh doanh trong các
loại hình HTX. Trong luận văn chủ yếu nghiên cứu lợi ích nông dân ở các HTX nông nghiệp và
các hộ ngoài HTX nhưng sản xuất nông nghiệp.
Lợi ích người lao động nói chung, lợi ích nông dân ở nước ta nói riêng rất phong phú, đa
dạng. Dù lợi ích nông dân giữa các vùng miền còn có sự chênh lệch nhau về thu nhập nhưng lợi
ích nông dân xét tổng thể đều gắn liền với đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà
nước trong từng thời kỳ cách mạng. Vậy, thực chất lợi ích nông dân là những nhu cầu về vật
chất và tinh thần của nông dân được thoả mãn trong những điều kiện lịch sử xã hội nhất định. Ở
Việt Nam, lợi ích nông dân nhất trí với lợi ích tập thể, xã hội và thống nhất với lợi ích giai cấp
công nhân, lợi ích dân tộc. Tác giả xin làm rõ một số đặc trưng cơ bản của lợi ích nông dân:
Thứ nhất, lợi ích nông dân thống nhất với lợi ích tập thể, xã hội
Cơ sở khách quan của sự thống nhất các lợi ích này là: Chủ thể của các lợi ích đều tham
gia vào hệ thống kinh tế có bản chất kinh tế- xã hội đồng nhất, đó là quan hệ sản xuất XHCN,
quan hệ làm chủ về kinh tế của người lao động nói chung và nông dân nói riêng.
Mỗi chủ thể lợi ích ở đây đồng thời có mặt trong cả ba lợi ích. Người nông dân xuất
hiện với ba tư cách: vừa là cá nhân người lao động, vừa là thành viên của HTX, vừa là
người chủ xã hội. Các lợi ích này đan xen vào nhau, sự tồn tại của lợi ích này là điều kiện
tồn tại phát triển của lợi ích kia và ngược lại. Các lợi ích này không tồn tại biệt lập với nhau
mà quan hệ thống nhất với nhau. Vì vậy, nếu nhấn mạnh cực đoan, thái quá lợi ích nào đó
thì rốt cuộc sẽ dẫn đến thiệt hại cho ngay chính lợi ích đó. Các lợi ích này đều bắt nguồn
từ một nguồn gốc đó là tư liệu sản xuất thuộc về sở hữu tập thể và sở hữu toàn dân. Xét
về bản chất, cơ sở khách quan trên chính là điều kiện để cho các lợi ích thống nhất với
nhau.
Tuy nhiên, giữa các lợi ích trên đều có một ranh giới nhất định về định tính cũng như
định lượng, bảo đảm tính chính xác của mỗi loại chủ thể mà nếu thu hẹp hay xoá bỏ ranh giới đó
thì không có các chủ thể cụ thể. Ngược lại vượt quá ranh giới đó thì chủ thể lợi ích này sẽ gây
tổn thất cho chủ thể kia. Như vậy mỗi chủ thể có một phạm vi tồn tại tương đối độc lập về lợi ích.
Chính từ đây đã phát sinh một số mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế và chủ thể của chúng. Mâu
thuẫn này thể hiện ở khả năng tách rời tương đối về mặt lợi ích của các chủ thể trong một
khoảng thời gian, không gian nhất định. Lợi ích này có thể trội lên, lợi ích kia có thể bị tụt xuống.
Tuy vậy, những mâu thuẫn này không nảy sinh từ bản chất của chế độ kinh tế, của quan hệ
sản xuất, vì thế có thể khắc phục được trong quá trình phát triển. Vấn đề kết hợp ba lợi ích
đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong dự thảo Hiến pháp năm 1959 “Trong chế độ ta, lợi
ích của nhà nước, của tập thể cùng lợi ích của cá nhân căn bản là nhất trí[37, tr.593].
Trung thành với quan điểm của Hồ Chí Minh, Đảng ta đã sử dụng đúng đắn quan hệ ba lợi
ích để đẩy mạnh sản xuất nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân. Đảng ta
khẳng định “Thực hiện đúng đắn sự thống nhất giữa ba lợi ích, bảo đảm lợi ích toàn xã hội,
bảo đảm lợi ích tập thể, chú ý đúng mức lợi ích thiết thân của người lao động”[10, tr.7980]. Các quan điểm đường lối chính sách của Đảng đề ra trong sự nghiệp đổi mới đất
nước tiếp tục khẳng định tính thống nhất giữa ba lợi ích, nhấn mạnh lợi ích trực tiếp người
lao động trong đó có lợi ích nông dân. Nghị quyết Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế
nông nghiệp ngày 5/4/1988 nhấn mạnh “Giải quyết đúng các mối quan hệ về lợi ích, nhất là
bảo đảm lợi ích chính đáng của người sản xuất, trước hết là đối với người trồng lúa,
không ngừng cải thiện đời sống nhân dân lao động, góp phần tích luỹ cho sự nghiệp xây
dựng CNXH”[11, tr.4]. Đảng ta quan tâm lợi ích của người nông dân nhưng không hạ thấp
các lợi ích khác. Hiện nay, kinh tế hộ nông dân phát triển, lợi ích nông dân được bảo đảm,
nông dân thực hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước và các loại quỹ đối với địa
phương. Xét trong mối quan hệ giữa các lợi ích, nông dân lại được hưởng trực tiếp hay
gián tiếp các nguồn lợi từ xã hội hay tập thể mang lại. Lợi ích nông dân, lợi ích tập thể, lợi
ích xã hội trong chế độ XHCN là thống nhất về căn bản.
Thứ hai, lợi ích nông dân bao gồm lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần.
Cũng như các giai cấp khác, nhu cầu được thoả mãn về vật chất và tinh thần là lợi ích
cơ bản nhất của nông dân hiện nay. Bởi vì nhu cầu vật chất và nhu cầu về tinh thần là điều kiện
cho sự tồn tại và phát triển của con người. Lợi ích với tư cách là các phương thức, phương tiện
hướng vào sự thoả mãn các nhu cầu con người trong đời sống xã hội. Lợi ích vật chất và lợi ích
tinh thần gắn bó với nhau trong mỗi con người.
Lợi ích vật chất là những lợi ích dùng để thoả mãn các nhu cầu vật chất, nhằm duy trì sự
tồn tại và phát triển đời sống sinh học và hoạt động của con người. Trong mối quan hệ giữa lợi
ích vật chất và lợi ích tinh thần thì lợi ích vật chất xét đến cùng là quan trọng hơn lợi ích tinh
thần. C.Mác đã khẳng định “Người ta phải có khả năng sống đã rồi mới làm ra lịch sử. Nhưng
muốn sống được thì trước hết con người cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một
số thứ khác nữa”[26, tr.40]. Từ cách tiếp cận như vậy xem xét nhu cầu lợi ích của nông dân mới
đảm bảo khách quan.
Những biểu hiện lợi ích vật chất cơ bản của nông dân
Một là, nhu cầu về ruộng đất của nông dân:
Nhu cầu lợi ích vật chất của nông dân trước đây và hiện nay vẫn là vấn đề ruộng đất.
Ruộng đất là tư liệu sản xuất cơ bản là điều kiện để nông dân bảo đảm lợi ích cho họ. Thực tế
sau cách mạng tháng Tám năm 1945, hậu quả của chủ nghĩa thực dân và chế độ phong kiến để
lại rất nặng nề, nhất là quan hệ ruộng đất ở nông thôn. Địa chủ chiếm số ít trong dân cư nhưng
chiếm hơn nửa ruộng đất ở nước ta. Nông dân chiếm 97% dân số chỉ được sở hữu ít hơn số
ruộng đất của địa chủ. Hơn 50% nông dân không có ruộng phải đi cày thuê cuốc mướn. Nạn đói
năm 1945 đã làm hai triệu đồng bào ta chết đói chủ yếu là nông dân. Vì vậy sau khi giành được
chính quyền, chính phủ đã giải quyết ruộng đất cho nông dân tạo điều kiện cho họ sản xuất và
bảo đảm cuộc sống. Năm 1953 Chính phủ ban hành luật cải cách ruộng đất đã tạo ra được một
khí thế mới, động lực mới tiếp sức cho hàng triệu hộ nông dân hăng hái tăng gia sản xuất. Mơ
ước ngàn đời “người cày có ruộng” đã trở thành hiện thực ở nhiều vùng nông thôn cả nước. Sau
cải cách ruộng đất nông dân tự nguyện tham gia HTX nông nghiệp, tổ chức sản xuất trồng trọt và
chăn nuôi, từ đó lợi ích của người nông dân ngày càng được đảm bảo. Nhưng tiếc rằng những
yếu kém trong phong trào hợp tác hoá nông nghiệp theo mô hình sản xuất tập thể quản lý tập
trung mang nặng tính chủ quan, nóng vội và bình quân chủ nghĩa đã gây nên những tổn hại nhất
định đến lợi ích nông dân. Tình trạng ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác của nông dân được
tập trung vào HTX bậc cao theo mô hình tập thể hoá triệt để nên đã không được sử dụng hiệu
quả, trong khi đó người nông dân chỉ còn quyền sử dụng đất 5% mà HTX dành cho để làm kinh
tế phụ. Ruộng đất, tư liệu sản xuất thành của chung, bị sử dụng lãng phí kém hiệu quả bởi vì
“Cha chung không ai khóc”. Hậu quả sản xuất bị sa sút, người nông dân làm quần quật suốt
ngày mà vẫn đói.
Sau ngày miền Nam giải phóng, đất nước được độc lập thống nhất, vấn đề cải tạo nông
nghiệp được thực hiện, mô hình HTX ở miền Nam được rập khuôn từ miền Bắc. Thành công
bước đầu không thể phủ nhận nhưng do công tác quản lý yếu kém của HTX đã không làm cho
nông dân mặn mà thiết tha với HTX. Hậu quả là hàng vạn nông dân bỏ ruộng, bán máy móc,
chặt cây lâu năm, đời sống nông dân rơi vào cảnh đói nghèo. Để tháo gỡ khó khăn, chấn chỉnh
tổ chức thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, quan tâm cải thiện đời sống nông dân, năm 1981, Ban Bí
thư TW Đảng ra chỉ thị 100 về khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động. Người
nông dân gắn bó với ruộng đất, khắc phục cơ bản tình trạng “vô chủ” trong cơ chế tập thể hoá
ruộng đất theo mô hình HTX nông nghiệp bậc cao. Khoán 100 đã giải phóng lực lượng sản xuất
tạo ra quan hệ sản xuất mới phù hợp hơn, thúc đẩy sản xuất phát triển. Tuy nhiên do cách khoán
khâu nên động lực cơ chế khoán vẫn còn hạn chế, người nông dân vẫn chưa được quyền sử
dụng đất với tư cách là người chủ. Sự chi phối của HTX vào quá trình sản xuất theo cơ chế quan
liêu vẫn còn lớn nên những năm 1986, 1987 quan hệ ruộng đất lại diễn biến phức tạp, sản xuất
nông nghiệp có dấu hiệu “dậm chân tại chỗ” và từng bước giảm sút. Để khắc phục tình trạng
trên, nhiều địa phương đã thí điểm phương thức khoán hộ. Từ thực tế ở các địa phương, ngày
5/4/1988, Bộ Chính trị ra nghị quyết 10 về đổi mới quản lý nông nghiệp, đó là nghị quyết quan
trọng đánh dấu bước đổi mới toàn diện và sâu sắc trong quan hệ sản xuất, nhất là quan hệ
ruộng đất trong nông nghiệp và nông thôn. Sau nghị quyết 10 một loạt các chính sách của Đảng
về nông nghiệp, nông thôn và nông dân được ban hành. Năm 1993 với Luật đất đai sửa đổi thừa
nhận 5 quyền sử dụng đất (chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế và thế chấp) đã làm
cho nông dân yên tâm trong sản xuất.
Việc khai thác ruộng đất từ khi có khoán 10 đến nay đã khắc phục được những hạn chế
trong cơ chế quan liêu bao cấp, nhờ quyền sử dụng đất nên nông dân đã làm chủ thực sự ruộng
đất. Đất đai canh tác được bảo vệ, sử dụng tiết kiệm. Các hộ gia đình nông dân đã thâm canh
tăng vụ để đạt lợi ích cao. Đất hoang hoá, bãi bồi, thùng đấu được tận dụng một cách triệt để.
Nông dân trồng hết diện tích, đúng thời vụ, áp dụng khoa học công nghệ mới đã làm tăng sản
lượng lương thực, đảm bảo nhu cầu lương thực cho nhân dân và xuất khẩu thu ngoại tệ về cho
đất nước.
Tuy nhiên, giao ruộng đất theo “khoán 10” cũng bộc lộ những mâu thuẫn mới trên con
đường đưa nông nghiệp ra khỏi tự túc tự cấp tiến lên sản xuất hàng hoá. Đất đai canh tác bị xé
lẻ ra thành nhiều mảnh mâu thuẫn với sản xuất tập trung chuyên canh của các hộ nông dân có
điều kiện cơ giới hoá sản xuất nông nghiệp. Mặt khác nhu cầu bức xúc hiện nay của nông dân là
nhà nước phải khẩn trương cụ thể hoá Luật đất đai để bảo đảm quyền lợi cho họ, bảo đảm
quyền bình đẳng trong sử dụng đất giữa nông dân với các chủ thể sử dụng ruộng đất khác. Nông
dân không thể chấp nhận họ phải mua đất để làm kinh tế trang trại trong khi đó nông trường quá
nhiều đất chẳng phải mua mà nghĩa vụ cả hai đều phải thực hiện giống nhau. Nông dân cũng
không thể ngồi yên khi phải “cắt ruột” chuyển nhượng đất cho các chủ sở hữu khác sử dụng sai
mục đích không vì lợi ích xã hội mà buôn bán lòng vòng “trên lưng” họ để kiếm lợi nhuận bất
chính. Lợi ích vật chất của nông dân được bảo đảm từ trước đến nay là gắn liền với quan hệ
ruộng đất và chính sách ruộng đất của Đảng và Nhà nước.
Hai là, lợi ích vật chất của giai cấp nông dân còn được biểu hiện ở nhu cầu về xây dựng
cơ sở hạ tầng ở nông thôn. Cơ sở hạ tầng nông thôn bao gồm đường giao thông, hệ thống điện
thắp sáng, trường học, trạm y tế. .. Nếu như cơ sở kinh tế- kỹ thuật này được bảo đảm sẽ là điều
kiện cho nông dân phát triển nông nghiệp và cải thiện đời sống. Hơn nữa còn là môi trường hấp
dẫn để thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào nông thôn. Vấn đề đó không chỉ có ý nghĩa về phát
triển kinh tế mà nó còn có ý nghĩa phát triển về văn hoá xã hội, củng cố quốc phòng an ninh ở
địa phương.
Lợi ích tinh thần của nông dân hiện nay
Lợi ích tinh thần của nông dân là những nhu cầu tinh thần của nông dân được thoả mãn
nhằm duy trì và phát triển đời sống tinh thần của họ.
Trước đây cả nước tập trung để thực hiện mục tiêu đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm lược, giải
phóng dân tộc và thống nhất đất nước. Mục tiêu đó đã lôi cuốn cả dân tộc hướng vào giải quyết
nhu cầu chính trị tinh thần lúc đó. Thực tế lịch sử đã chứng tỏ đó là nguồn động lực vô cùng
mạnh mẽ, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc. Vào thời kỳ ấy, lẽ sống của mỗi người Việt
Nam là: “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”.
Sau năm 1975 những nhu cầu, lợi ích tinh thần được thoả mãn. Lợi ích vật chất trước
đây ở vị trí thứ yếu thì thời kỳ này lại nổi lên vị trí số một. Thế nhưng toàn xã hội khi đã thoát khỏi
tình trạng đói nghèo thì lợi ích tinh thần sẽ ngày càng quan trọng. Kinh tế thị trường định hướng
XHCN với động lực lợi ích có vai trò kích thích sản xuất nhưng mặt trái của nó đang tác động tiêu
cực trên các lĩnh vực, trong đó có đời sống văn hoá tinh thần xã hội. Những bài học được rút ra
từ thực tiễn các nước trên thế giới và trong nước về giải quyết quan hệ giữa lợi ích kinh tế và lợi
ích tinh thần đã cho chúng ta nhận thức ngày càng sâu sắc hơn vai trò quan trọng của nhân tố
chính trị- tinh thần trong xã hội. Xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực để phát triển đất nước. Với nhận thức đó, nông dân ngày nay
không chỉ quan tâm đến nhu cầu vật chất mà họ quan tâm cả nhu cầu về tinh thần.
Những biểu hiện cơ bản lợi ích tinh thần của nông dân
Một là, nhu cầu xây dựng môi trường dân chủ XHCN ở nông thôn: Nhu cầu dân chủ về
kinh tế. Tức là nhu cầu của nông dân về quyền tự do trong sản xuất kinh doanh những ngành
nghề mà pháp luật không cấm, quyền được định đoạt, sở hữu thành quả lao động, quyền được
hưởng từ các quỹ phúc lợi xã hội, quyền được giám sát tài chính, xây dựng cơ bản, xây dựng kết
cấu hạ tầng và các loại quỹ ở địa phương mà nông dân đóng góp. Dân chủ về chính trị là những
nhu cầu của nông dân đối với nhà nước phải thông tin về đường lối, chính sách, pháp luật để họ
hiểu rõ hơn quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Nông dân được biết, được bàn, được kiểm tra kế
hoạch phát triển kinh tế ở địa phương, quyền được đóng góp về dự thảo nghị quyết của Đảng.
Vấn đề quan trọng dân chủ về chính trị là quyền được lựa chọn dại biểu để bầu cử vào các cơ
quan chính quyền nhà nước. Nhu cầu nông dân hiện nay còn có cả những nhu cầu được thừa
nhận vị thế xã hội của họ, nhu cầu có một cuộc sống tương lai tốt đẹp cho bản thân và gia đình.
Dân chủ về xã hội là những nhu cầu của nông dân được nhà nước giải quyết việc làm, chăm sóc
sức khoẻ khi ốm đau, có chế độ bảo hiểm xã hội khi nông dân không còn sức lao động.
Hai là, lợi ích tinh thần của nông dân biểu hiện ở nhu cầu được nhà nước quan tâm đầu
tư phát triển văn hoá xã hội ở nông thôn. Khi đời sống vật chất nông dân được cải thiện thì đời
sống tinh thần cũng biến đổi theo. Nhu cầu của nông dân về nâng cao dân trí, phát triển giáo dục
đào tạo, nâng cao cơ sở trường lớp. Trong nền KTTT, nhu cầu của nông dân về phát triển khoa
học- công nghệ, đặc biệt những công nghệ mới trong lĩnh vực nông nghiệp. Lợi ích tinh thần của
nông dân còn được biểu hiện ở nhu cầu được hưởng thụ những giá trị thẩm mỹ, những cái mới
cái đẹp trong lĩnh vực văn hoá nghệ thuật, thể thao, vui chơi giải trí. Chỉ lĩnh vực văn hoá cũng có
thể thấy nhu cầu của nông dân là rất lớn, như nhu cầu được bảo tồn trùng tu các di sản văn hoá
vật thể, bảo lưu văn hoá và phát triển những di sản văn hoá phi vật thể, công nhận xếp hạng các
di tích văn hoá. Kinh tế nông thôn những năm gần đây được phát triển, phương thức và nội dung
sinh hoạt đời sống tinh thần phong phú hơn, nhu cầu văn hoá có chiều hướng phát triển.
Thứ ba, lợi ích giai cấp nông dân nhất trí với lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi
ích dân tộc. Sự gắn bó lợi ích nông dân với lợi ích công nhân có cội nguồn từ trong lịch sử đấu
tranh chống kẻ thù phong kiến và đế quốc. Xét về nguồn gốc, giai cấp công nhân và giai cấp
nông dân có quan hệ gắn bó máu thịt. Dưới chế độ phong kiến, giai cấp nông dân là giai cấp bị
bóc lột bằng sưu cao thuế nặng. Nông dân nhiều lần đã vùng lên đấu tranh nhưng tất cả các
cuộc đấu tranh họ đều bị thất bại. Sở dĩ như vậy là vì họ không có tư tưởng độc lập, không đại
diện cho một phương thức sản xuất tiên tiến nên không thể vạch ra được một cương lĩnh đúng
đắn cho cuộc đấu tranh vì lợi ích của mình và của cả dân tộc.
Nông dân Việt Nam trong lịch sử đã bị áp bức hơn một ngàn năm bởi phong kiến
phương Bắc và hơn 80 năm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp. Nông thôn, nông dân Việt Nam
bị chìm ngập trong vòng lạc hậu, không có bước chuyển đáng kể nào, sản xuất tự cung tự cấp là
chủ yếu. Nông dân Việt Nam bị một cổ hai tròng, đời sống vô cùng cực khổ. Nhiều phong trào
nông dân yêu nước đứng lên đấu tranh nhưng đều bị thất bại vì không có đường lối đúng. Tuy
thất bại nhưng đã rèn luyện cho giai cấp nông dân ý thức dân tộc và ý thức đấu tranh cách
mạng. Họ đã tìm thấy người đại diện chân chính cho quyền lợi dân tộc, đó là giai cấp công nhân
Việt Nam. Tuy mới ra đời, song giai cấp công nhân mang trong mình sức mạnh của thời đại và
có mối quan hệ mật thiết với nông dân. Ngay từ khi xuất hiện trên vũ đài chính trị, giai cấp công
nhân Việt Nam đã tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của giai cấp nông dân. Giai cấp công
nhân trở thành người lãnh đạo trong khối liên minh công- nông. Nông dân đi với giai cấp công
nhân thì sức mạnh mới được nhân lên, ước mơ giành độc lập dân tộc, ruộng đất mới được thoả
mãn. Không những thế ý thức dân tộc của nông dân còn được bổ sung thêm ý thức giai cấp
công nhân. Họ hiểu lợi ích trước mắt phải đấu tranh, lợi ích lâu dài phải tiến tới cùng toàn thể
dân tộc chiến thắng kẻ thù xâm lược dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng ta khẳng định: “Cách
mạng phản đế và điền địa là hai cái mấu chốt của cách mạng tư sản dân quyền. Không giải
quyết được cách mạng điền địa thì không giải quyết được cách mạng phản đế. Trái lại, không
giải quyết được cách mạng phản đế thì không giải quyết được cách mạng điền địa”[9, tr.58].
Để giải quyết vấn đề dân tộc phải giải quyết cách mạng điền địa vì lợi ích nông dân gắn
bó với lợi ích giai cấp công nhân, lợi ích dân tộc. Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp sắp
kết thúc, tại Hội nghị Trung ương lần thứ tư khoá II, Hồ Chí Minh còn khẳng định “Nền tảng của
cách mạng dân chủ cũng là vấn đề nông dân”[32, tr.15]. Để thấy được vai trò to lớn của nông
dân đối với cách mạng, Đảng và Chính phủ từng bước cải cách ruộng đất để bồi dưỡng nông
dân hăng hái kháng chiến kiến quốc. Cách mạng dân tộc, dân chủ thành công nhờ đường lối
đúng đắn của Đảng đã tập hợp được tất cả lực lượng lấy liên minh công- nông làm cơ sở. Xét về
quan hệ lợi ích thì rõ ràng lợi ích của nông dân hay lợi ích công nhân đều nhất trí ở một điểm là
độc lập dân tộc, là sự ấm no, tự do, hạnh phúc.
Khi cả nước bước sang giai đoạn mới là xây dựng CNXH, liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức ngày càng được tăng cường. Nội dung liên minh côngnông- trí thức được đề cập toàn diện trên mọi lĩnh vực. Trên lĩnh vực chính trị trước hết thể hiện
sự ủng hộ đường lối chính trị của giai cấp công nhân từ phía nông dân, trí thức cùng nhau hợp
sức thực hiện đường lối. Mặt khác, công nhân, nông dân, trí thức có thể quan hệ với nhau thông
qua các tổ chức đại diện lợi ích của mình trong hệ thống chính trị.
Liên minh trên lĩnh vực kinh tế là nhằm thoả mãn các nhu cầu kinh tế của cả công nhân,
nông dân, trí thức bao gồm các nhu cầu sinh tồn, điều kiện hoạt động. Lợi ích kinh tế của nông
dân thống nhất với lợi ích của giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức. Lợi ích kinh tế là chất keo
kết dính công nhân, nông dân và trí thức. Quá trình kết hợp các lợi ích biểu hiện bằng sự tác
động qua lại giữa công nghiệp, nông nghiệp, khoa học công nghệ, đặc biệt quan hệ giữa nhà
nước và nông dân, trí thức, giữa kinh tế Trung ương với kinh tế địa phương, giữa nghiên cứu và
triển khai các kết quả nghiên cứu khoa học vào hoạt động sản xuất với chăm lo đời sống của
công nhân, nông dân và trí thức.
Liên minh trên lĩnh vực văn hoá xã hội để xoá bỏ sự bất công, bất bình đẳng xã hội, tạo
ra môi trường trong sạch cho hoạt động của họ. Sự hợp tác của công nhân, nông dân, trí thức
tạo ra sự hội nhập để khắc phục dần sự khác biệt giữa các giai cấp, giai tầng trong xã hội, giữa
thành thị và nông thôn, giữa lao động chân tay và lao động trí óc.
Hiện nay, Đảng và nhà nước đề ra đường lối CNH, HĐH đất nước, chú trọng CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn, một mặt tạo môi trường gắn kết công- nông- trí thức, mặt khác bảo đảm
lợi ích vật chất và tinh thần cho giai cấp nông dân được cải thiện hơn, qua đó để nâng cao chất
lượng liên minh giai cấp công- nông- trí thức lên một bước mới. Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp
hành TW Đảng khoá IX đã đề ra một số chính sách có liên quan trực tiếp đến nông dân. Nghị
quyết chỉ rõ: “Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để nông dân thực hiện đầy đủ các quyền về đất
đai và khuyến khích nông dân thực hiện dồn điền đổi thửa trên cơ sở tự nguyện, cho phép nông
dân được sử dụng đất để góp vốn cổ phần tham gia phát triển sản xuất, kinh doanh, liên doanh,
liên kết. .. tạo điều kiện việc chuyển đổi mục đích sử dụng theo quy định được thuận lợi”[18,
tr.106].
Qua những phân tích trên đây có thể khái quát về thực chất giải quyết lợi ích nông dân ở
Việt Nam hiện nay là: Đảng và Nhà nước có cơ chế chính sách để từng bước thoả mãn những
nhu cầu về vật chất và tinh thần cho nông dân; Kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân với lợi ích
tập thể và lợi ích xã hội, tạo nên sự thống nhất chặt chẽ với lợi ích của giai cấp công nhân và lợi
ích dân tộc; Nhằm bồi dưỡng lực lượng cách mạng để phát triển kinh tế- xã hội, ổn định chính trị,
củng cố quốc phòng an ninh và thực hiện chiến lược giải phóng con người, bảo đảm mọi người
đều được ấm no, tự do, bình đẳng, hạnh phúc.
1.1.2.Những nhân tố tác động đến lợi ích nông dân hiện nay
Tình hình nông thôn và nông dân nước ta hiện nay
Theo kết quả điều tra dân số năm 2000, ở nước ta dân số là 77,7 triệu người, trong đó nông
dân là 59,1 triệu người chiếm 76,06% dân số. Như vậy, nông dân nước ta vẫn là lực lượng cơ bản và
chủ yếu thực hiện công cuộc đổi mới đất nước. Sau hơn 17 năm đổi mới, nông nghiệp Việt Nam đã đạt
được những thành tựu toàn diện và to lớn. Từ một nền nông nghiệp tự cung tự cấp lạc hậu, đến nay đã
phát triển thành một nền nông nghiệp hàng hoá bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và nhiều nông
sản xuất khẩu chiếm vị cao trong khu vực và trên thế giới.
Từng vùng và từng địa phương đều có những sản phẩm hàng hoá đặc thù. Đã hình
thành một số vùng sản xuất nông nghiệp tập trung với công nghiệp chế biến như lúa gạo ở đồng
bằng sông Cửu Long, chè ở trung du miền núi phía Bắc, cà phê ở Tây Nguyên, cao su ở Đông
Nam bộ, nuôi, trồng thuỷ sản ở các tỉnh ven biển. Khoa học áp dụng rộng rãi trong nông nghiệp;
công nghiệp, ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn bước đầu được khôi phục và phát triển, đã góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Quan hệ sản xuất từng bước được đổi mới phù hợp theo hướng
xây dựng nền nông nghiệp hàng hoá với nhiều thành phần kinh tế tham gia.
Điều kiện đi lại ở nông thôn cơ bản được thuận lợi, trường lớp đã được xây dựng cơ
bản, 100% số xã đồng bằng đã có trường tiểu học và trung học cơ sở. Điều kiện chữa bệnh
được thuận lợi, trám xá xã nhiều nơi đã bảo đảm số lượng bác sỹ, y sỹ, hộ lý để phục vụ nhân
dân. Đời sống vật chất và tinh thần được cải thiện.
Do kinh tế phát triển nên thu nhập bình quân đầu người khá hơn so với trước đây, bình
quân đạt 10 triệu đồng/hộ/năm; tăng 29,8% so với năm 1993. Hộ đói nghèo giảm từ 29% năm
xuống còn 11% năm 2000. Điều kiện ăn ở, sinh hoạt của nông dân được cải thiện, trình độ dân
trí được nâng lên.
Hệ thống chính trị ở cơ sở từng bước được tăng cường, dân chủ trong nông thôn được
phát huy, an ninh, trật tự an toàn được bảo đảm.
Tuy nhiên, trong nông nghiệp nông thôn nước ta vẫn còn những mặt yếu kém nhất định.
Trình độ kỹ thuật hầu hết còn lạc hậu, các khâu canh tác nông nghiệp vẫn dùng sức người và
sức kéo của gia súc là chủ yếu. Năng suất lao động, năng suất cây trồng vật nuôi còn thấp so với
các nước trong khu vực. Năng suất lúa ở nước ta chỉ bằng 80% Inđônêxia, 60% của Trung
Quốc. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản nhiều hơn Thái Lan nhưng mức xuất khẩu thuỷ sản cũng chỉ
bằng 1/5 của Thái Lan. Khả năng cạnh tranh của hàng hoá nông sản từ nông thôn còn hạn chế.
Tiêu thụ nông sản đang là một thách thức đối với phát triển nông nghiệp. Giá nông sản thấp, giá
hàng hoá công nghiệp cao, điều đó đã gây bất lợi cho nông dân.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, chưa gắn bó với thị trường. Cơ cấu kinh tế nông thôn
còn nặng về nông nghiệp (70%), trong nông nghiệp còn nặng về trồng trọt (80%). Sản xuất nông
nghiệp còn phân tán, quy mô nhỏ lẻ nhất là ở miền núi. Hàng chục năm nay, tỷ lệ giá trị chăn
nuôi trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp chỉ ở mức 20 đến 22%. Dân số trong nông thôn tăng
nhanh số người thiếu việc làm thường xuyên và không có việc làm rất lớn.
Chênh lệch về thu nhập giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng và ngay từng
vùng gia tăng. Nếu năm 1994 mức thu nhập bình quân một nhân khẩu nông thôn là 1 thì
thu nhập 1 nhân khẩu ở thành thị là 2,25, đến năm 1999 tăng lên 3,71. Riêng trong nông
thôn thu nhập của 20% nhóm cao nhất so với 20% nhóm thấp nhất thì năm 1994 chỉ chênh
5,4 lần, đến năm1999 gấp 6,3 lần. Trong nông thôn, nhiều tệ nạn xã hội gia tăng, các thủ
tục cũ khôi phục, phát triển. Tài nguyên bị giảm sút, môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng ở
nhiều địa phương.
Những nhân tố kinh tế- xã hội tác động đến lợi ích nông dân hiện nay
+Thứ nhất, tác động của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Kể từ Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã có sự
chuyển biến và đổi mới sâu sắc. Từ một nền kinh tế thuần nhất về thành phần và chế độ sở hữu
chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần và sở hữu đa dạng. Từ nền kinh tế hiện vật chuyển
sang nền kinh tế hàng hoá. Từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Từ nền kinh tế khép kín chuyển sang nền kinh tế mở
cửa với các nước trên thế giới. Định hướng XHCN trong phát triển kinh tế đòi hỏi phải giải
quyết giữa phát triển lực lượng sản xuất với xây dựng quan hệ sản xuất mới, vừa khắc
phục nguy cơ tụt hậu về kinh tế so với các nước trong khu vực, vừa xây dựng thành công
CNXH. Để giải quyết những mâu thuẫn trên, Đảng ta đã xác định “Nền kinh tế nước ta là
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”[16, tr.86].
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN bao gồm cơ chế thị trường và thể chế kinh tế
thị trường. Cơ chế kinh tế thị trường là chế độ vận hành của nền kinh tế thị trường theo yêu cầu
của các quy luật kinh tế, tức là nguyên lý vận hành của nền kinh tế thị trường mang tính khách
quan. Thể chế KTTT là nói đến các quy tắc, quy định của nhà nước để điều tiết nền kinh tế trên
cơ sở nhận thức các quy luật và nguyên lý vận hành. Do đó, nó là sản phẩm chủ quan của nhà
nước. KTTT luôn gắn với các phạm trù kinh tế, đồng thời phản ánh mối quan hệ giữa con người
trong quá trình sản xuất, trao đổi, tiêu dùng. KTTT định hướng XHCN do bản chất của chế độ
chính trị xã hội quy định cả mục tiêu và đặc điểm. Trong nền KTTT định hướng XHCN các thành
phần kinh tế có sự cạnh tranh và hợp tác để phát triển, trong đó kinh tế nhà nước có vai trò chủ
đạo. Vì vậy, có thể khẳng định rằng cả cơ chế thị trường nói chung và thể chế KTTT do nhà
nước quy định đều tác động đến lợi ích của giai cấp nông dân.
Khi thực hiện cơ chế quản lý kinh tế cũ, sản xuất theo kế hoạch nên ít quan tâm tới nhu
cầu thị trường, chế độ phân phối theo chủ nghĩa bình quân, sự bình đẳng trong phân phối chỉ là
hình thức. Khi xây dựng nền KTTT định hướng XHCN thì lợi ích là động lực thúc đẩy giai cấp
nông dân tích cực sản xuất, cải tiến kỹ thuật để nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản
phẩm.
KTTT định hướng XHCN tạo ra nhiều cơ hội để giai cấp nông dân phát huy mọi khả năng
về vốn, sức lao động, trí tuệ làm giàu cho mình và cho xã hội. Động viên nông dân liên kết với
các giai tầng xã hội khác đặc biệt với công nhân và trí thức để tạo ra năng suất chất lượng cao
trong sản xuất kinh doanh. Do đó, nâng cao đời sống nông dân và phát triển kinh tế nông thôn.
Khi nhu cầu sản xuất kinh doanh được bảo đảm, trong các chủ thể kinh tế có sự bình đẳng tất
yếu sẽ tạo ra sự đồng thuận trong xã hội.
Tuy nhiên, khi thực hiện KTTT định hướng XHCN không tránh khỏi những tác động tiêu
cực đến cơ cấu giai cấp nông dân hiện nay. Trong giai cấp nông dân có nông dân cá thể, nông
dân HTX nông nghiệp, nông dân làm dịch vụ... Sự chênh lệch về mức sống, thu nhập, sự phân
hoá giàu nghèo sẽ ảnh hưởng nhất định đến mối quan hệ giữa nông dân với nhau và giữa nông
dân với công nhân, trí thức. Nông thôn hiện nay không còn bình yên như thời bao cấp nữa, nông
thôn đang cuốn hút vận động trong nền KTTT, bởi thế những sự tác động tiêu cực đến nông thôn
là không thể tránh khỏi. Các hiện tượng cờ bạc, nghiện hút, các sản phẩm văn hoá độc hại đang
lan vào nông thôn.
+Thứ hai, tác động của quá trình CNH, HĐH đất nước:
Đẩy mạnh CNH, HĐH là một quá trình phát triển mới của đất nước. Quá trình đó sẽ đưa
đến những thay đổi to lớn trên mọi lĩnh vực. Trước hết, đó là sự thay đổi mạnh mẽ về cơ cấu
kinh tế. Khi cơ cấu kinh tế thay đổi sẽ làm thay đổi cơ cấu giai cấp- xã hội và quan hệ giữa các
giai tầng trong xã hội. Sự thay đổi cơ cấu kinh tế diễn ra trong tất cả các ngành, các vùng lãnh
thổ. Theo nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII dự báo đến năm 2010, nông nghiệp còn
16 đến 17%; công nghiệp và xây dựng 40% đến 41%; dịch vụ 41% đến 43%. Lao động công
nghiệp và lao động dịch vụ sẽ tăng lên, lao động nông nghiệp sẽ giảm, từ đó một bộ phận khá
lớn nông dân sẽ phải chuyển đổi nghề. Nhưng trên thực tế sự chuyển đổi nghề của nông dân
không theo kịp với sức ép của tốc độ CNH, HĐH, một bộ phận nông dân sẽ thiếu việc làm. Theo
nghị quyết Trung ương lần thứ 9 khoá IX nhận định: “Lao động nông nghiệp chuyển sang các
ngành nghề khác còn rất khó khăn, áp lực dư thừa lao động sẽ tiếp tục gay gắt trong những năm
tới”[20, tr.28].
Đẩy mạnh CNH, HĐH sẽ thúc đẩy nhanh quá trình đô thị hoá, các khu dân cư cao tầng
sẽ được xây dựng, các thị trấn, thị tứ ngày càng nhiều. Các nhà máy xí nghiệp, các trung tâm
dịch vụ sẽ được xây dựng. Điều đó sẽ làm cho đời sống nhân dân ta được cải thiện mà nông
dân là người được hưởng thành quả từ CNH, HĐH. CNH, HĐH không phải chỉ có những thuận
lợi, mà trên thực tế đang đặt ra những mâu thuẫn mới cần phải giải quyết để đảm bảo lợi ích cho
giai cấp nông dân ngày một tốt hơn. Quá trình CNH, HĐH cần rất nhiều đất cho xây dựng mặt
bằng nhà xưởng, điều đó liên quan đến đất nông nghiệp, vấn đề đất đai trở nên phức tạp hơn.
Hiện tượng tranh chấp đất đai, khiếu kiện về đất đai xảy ra ở nhiều địa phương, đặc biệt gần
trung tâm các thành phố, thị xã.
Sự xáo trộn cơ cấu dân cư; sự dịch chuyển từ nông thôn vào thành thị ngày một tăng,
nhu cầu nhà ở nơi tái định cư mới, bảo đảm công ăn việc làm còn rất nan giải.
Phát triển khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo là một quốc sách, là cái gốc để đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước. Sự phát triển đó đòi hỏi giai cấp nông dân phải được nâng cao trình
độ văn hoá để nâng cao trình độ sản xuất nông nghiệp. Sự phát triển khoa học công nghệ giáo
dục- đào tạo không chỉ liên quan đến phát triển kinh tế mà còn tác động đến vấn đề xã hội, đến
sự phát triển giai cấp, quan hệ giai cấp, tầng lớp. Khoa học công nghệ và đào tạo luôn có sự đổi
mới, vì vậy đòi hỏi một sự nỗ lực rất cao của nông dân. Sản phẩm hàng hoá ngày càng được kết
tinh bởi hàm lượng khoa học, sự cạnh tranh theo quy luật mạnh được, yếu thua, cả thị trường
trong nước và ngoài nước. Do vậy, cũng đặt ra cho giai cấp nông dân phải nâng cao hơn nữa
chất lượng sản phẩm bằng sự liên kết hợp tác. Hơn nữa, khi có sự đổi mới về giống cây trồng
vật nuôi, công nghệ trồng trọt và chăn nuôi, bản thân nông dân không thể tự mình giải quyết
được mà phải có sự giúp đỡ của trí thức.
Nhân tố chính trị- xã hội tác động đến lợi ích nông dân
+Quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Thời kỳ 1975-1985:
Sau đại thắng mùa xuân 1975, đất nước ta hoàn toàn độc lập thống nhất, cả nước vững
bước trên con đường XHCN. Ngay sau những ngày kháng chiến thành công, chúng ta bắt tay
vào khôi phục cải tạo và phát triển kinh tế, giữ vững an ninh chính trị và giải quyết vấn đề xã hội.
Bên cạnh những thành tựu to lớn, nền kinh tế nước ta vẫn còn mất cân đối nghiêm trọng. Để
từng bước khắc phục những sai lầm yếu kém nhất là trên lĩnh vực kinh tế, Đảng ta xác định cần
phải tập trung phát triển nông nghiệp đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn XHCN, đẩy mạnh 3
chương trình kinh tế lớn lương thực, thực phẩm hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Việc xác
định vị trí hàng đầu của nông nghiệp có ý nghĩa lớn trong việc nâng cao đời sống của nông
dân và bảo đảm bảo nhu cầu đông đảo nhân dân lao động. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân
khác nhau, nông nghiệp nước ta lúc đó vẫn chưa có những chuyển biến tích cực. Ở nước ta
những năm đầu của thập kỷ 80 thế kỷ XX đã có những biểu hiện của một cuộc khủng hoảng
kinh tế, nhất là trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp. Nếu như mô hình HTX giai đoạn 1970-1980
còn thích hợp thì sang giai đoạn 1980-1985 không còn phù hợp nữa, những dấu hiệu suy thoái
khủng hoảng bộc lộ ngày càng rõ. Tập thể hoá tràn lan, lao động được sắp xếp thành các đội
chuyên bên cạnh các đội cơ bản, áp dụng hình thức khoán việc là chính. Nông dân chỉ quan tâm
tới công điểm mà không biết đến sản phẩm cuối cùng. Cơ chế quản lý mang nặng tính chất quan
liêu bao cấp, kế hoạch dội từ trên xuống không căn cứ vào thực tế, hạch toán giả, sai lệch không
có ý nghĩa kinh tế, vì thế kết quả thua lỗ là phổ biến. Năng suất chất lượng vật nuôi cây trồng
giảm. Cùng với việc hợp tác hoá, thực hiện chính sách phân phối mang tính cào bằng đã làm tổn
hại đến lợi ích chính đáng của người nông dân, gây lãng phí đất đai nghiêm trọng, lợi ích người
nông dân bị vi phạm. Một số chính sách cấm đoán lưu thông lương thực, thực phẩm, ngăn sông
cấm chợ đã làm giảm động lực của quá trình xã hội hoá sản xuất. Thời gian từ 1976 đến 1980
bình quân hàng năm trong sản xuất nông nghiệp chỉ tăng 2%; sản lượng lương thực tăng 1,6%,
trong khi đó dân số tăng 2,2%. Sản lượng lương thực đầu người giảm từ 275kg (1976) xuống
268kg/1người/1năm (1980).
Tuy nhiên, nông dân Việt Nam là những con người chất phác, cần cù lao động thuỷ
chung đã khắc phục gian khổ, tin tưởng ở sự lãnh đạo của Đảng, ra sức tìm tòi sáng tạo, tháo gỡ
khó khăn và khát khao chờ đợi một sự quyết định thay đổi về cơ chế sản xuất và các chính sách
cụ thể của Đảng và Nhà nước có thể tạo nên động lực để phát triển sản xuất nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho họ.
Với quyết tâm đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng tiến lên xây dựng CNXH, từ thực tiễn ở
Hải Phòng và Vĩnh Phú (cũ) đã xuất hiện những tìm tòi sáng tạo mới. Đảng ta đã tổng kết thực
tiễn khái quát cho ra đời chỉ thị 100 với nội dung cơ bản là “khoán sản phẩm”. Chỉ thị 100 nêu rõ:
“Bảo đảm phát triển sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế trên cơ sở lôi cuốn được mọi người
hăng hái lao động, kích thích tăng năng suất lao động, sử dụng tốt đất đai và các cơ sở vật chất
kỹ thuật hiện có, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, tiết kiệm chi phí sản xuất củng cố và tăng cường quan
hệ sản xuất XHCN ở nông thôn, nâng cao thu nhập cho xã viên, tăng tích luỹ HTX, làm tròn
nhiệm vụ và không ngừng tăng khối lượng nông sản cung ứng cho nông nghiệp”[12, tr.10].
Chỉ thị 100 đã tìm lối ra cho phát triển nông nghiệp và cải thiện đời sống nông dân.
Khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động, hình thức này đã giải quyết được một bước
quyền làm chủ của nông dân đối với lao động, với tư liệu sản xuất mở ra một hướng mới cho
nông dân yên tâm sản xuất vì họ thấy được lợi ích chân chính của mình. Sản xuất nông nghiệp
thời kỳ 1980 đến 1985 đã tăng 5%/1năm. Sản lượng lương thực bình quân trên đầu người tăng
từ 268kg (1980) lên 304kg (1985). Tuy nhiên, chế độ khoán mới chưa thể đưa nông nghiệp thoát
khỏi mô hình HTX được xây dựng dựa vào chế độ tập trung quan liêu. Xã viên phải lo tất cả các
khâu, các bước trong sản xuất. Mâu thuẫn giữa sản xuất trong từng gia đình tiến hành với yêu
cầu sản xuất của HTX còn rất gay gắt.
Thời kỳ từ 1986 đến nay:
Để tháo gỡ những ách tắc đó, Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước mà
điểm khởi đầu là đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế. Nông nghiệp được xác định là mặt trận
hàng đầu. Đảng đổi mới đồng bộ từ nhận thức cơ chế, chính sách đến điều hành làm cho kinh tế
nông nghiệp vận hành theo đúng quy luật khách quan nhằm đưa nông nghiệp thoát khỏi tự cấp
tự túc chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá. Ngày 5-4-1988 Bộ Chính trị ra Nghị quyết 10 về đổi
mới công tác quản lý nông nghiệp. Sau nghị quyết 10, hàng loạt cơ chế và chính sách mới của
Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông thôn và nông dân được ban hành. Năm 1993, Luật đất
đai sửa đổi trong đó nổi bật là thừa nhận 5 quyền của người sử dụng đất (chuyển đổi, chuyển
nhượng, cho thuê, thừa kế và thế chấp). Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VII) về chuyển đổi cơ
cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn; Nghị định 64/CP về giao đất nông nghiệp cho hộ; Nghị định
14/CP cho nông dân vay vốn sản xuất; nghị định 13/CP về khuyến nông, nghị định 73/CP về
phân hạng đất và tính thuế sử dụng đất nông nghiệp cùng nhiều chính sách và cơ chế mới thông
thoáng hơn đã đổi mới một cách cơ bản. Tháng 11/1998 nghị quyết 06 của Bộ Chính trị (khoá
VIII) về nông nghiệp và nông thôn ra đời, trong đó có nội dung thừa nhận hình thức kinh tế trang
trại, khuyến khích nông dân làm giàu chính đáng. Nghị quyết ĐH Đảng toàn quốc lần thứ IX
khẳng định tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, trước hết là CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn. Điểm mới của nghị quyết là tích cực ứng dụng khoa học vào sản xuất, thúc đẩy sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, phát huy lợi thế của từng vùng để sản xuất hàng hoá quy mô lớn với chất
lượng hiệu quả cao; Phát triển mạnh kinh tế hộ sản xuất hàng hoá, các loại hình doanh nghiệp
vừa và nhỏ ở nông thôn; CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn chú trọng giải quyết các vấn đề xã
hội, việc làm, xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người nông dân
vùng nông thôn nhất là đồng bào dân tộc ít người. CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn phải kết
hợp với xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, xây dựng
phát triển một nền nông nghiệp phát triển toàn diện.
Nghị quyết ĐH Đảng toàn quốc lần thứ IX chỉ rõ: “Tăng cường sự chỉ đạo và huy động
các nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Tiếp tục phát triển và
đưa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng ứng dụng tiến bộ khoa học và
công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, đẩy mạnh thuỷ lợi hoá, điện khí hoá, quy hoạch sử dụng đất hợp
lý, đổi mới cơ cấu cây trồng vật nuôi, tăng giá trị thu được trên đơn vị diện tích, giải quyết tốt vấn đề tiêu
thụ nông sản hàng hoá, đầu tư nhiều hơn cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội nông thôn. Phát
triển công nghiệp dịch vụ, các ngành nghề đa dạng, chú trọng công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông
nghiệp, các làng nghề, chuyển một bộ phận quan trọng lao động nông nghiệp sang khu vực công nghiệp
dịch vụ, tạo nhiều việc làm mới, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống nông dân và
cư dân nông thôn”[16, tr.93].
Đánh giá kết quả thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nghị quyết lần thứ 5 của Đảng
khoá IX đã đánh giá: “Sau hơn 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh
đạo, nông nghiệp, nông thôn Việt Nam đã đạt được những thành tựu toàn diện và to lớn”[17,
tr.86]. Đời sống nông dân ở hầu hết các vùng được cải thiện. Thu nhập bình quân hộ đạt 10 triệu
đồng/năm, tăng 29,8% so với năm 1993. Hộ đói nghèo nông thôn giảm từ 29% năm 1990 xuống
còn 11% năm 2000. Điều kiện ăn, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh được cải thiện, bộ mặt nông
thôn có nhiều thay đổi, đời sống văn hoá tinh thần, trình độ dân trí được nâng lên.
+Chất lượng hệ thống chính trị cấp cơ sở ở nông thôn
Hệ thống chính trị cấp cơ sở có vai trò quan trọng trong công việc tổ chức nhân dân thực
hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân. Do đó, hệ thống chính trị cơ sở có ảnh hưởng nhất định đến lợi ích nhân dân nói chung và
nông dân nói riêng. Đối với nông thôn, kinh tế- xã hội còn chậm phát triển, trình độ dân trí còn
thấp. Nhiều vùng dân tộc đất rộng, người thưa, công tác quản lý gặp khó khăn. Các tổ chức
Đảng, chính quyền và đoàn thể nhân dân vẫn phải đối mặt với ba vấn đề gay gắt. Kinh tế kém
phát triển; trình độ dân trí còn thấp so với đô thị; các thế lực thù địch đặc biệt là đế quốc Mỹ đang
âm mưu phá hoại từ nông thôn, chủ yếu vùng dân tộc, vùng tôn giáo. Trong nông thôn đã có
bước đột phá vươn lên, hệ thống chính trị thật sự là chỗ dựa nông dân trong việc phát triển kinh
tế- xã hội. Quy chế dân chủ cơ sở ở xã, phường được thực hiện nghiêm túc, những vướng mắc
của nông dân cơ bản đã được giải quyết. Những hiện tượng tham nhũng, quan liêu, thiếu trách
nhiệm đã được Đảng, Nhà nước và nhân dân đấu tranh xử lý, từ đó lợi ích nông dân về vật chất
và tinh thần cơ bản được bảo đảm trong điều kiện cho phép. Nông dân phát huy truyền thống
cách mạng hăng hái phát triển kinh tế, xây dựng chính quyền đoàn thể ở địa phương. Mối quan
hệ Đảng với nhân dân, chính quyền với nhân dân cơ bản là tốt. Trật tự trị an được bảo đảm, các
tổ chức vũ trang ở địa phương hoạt động có hiệu quả, từ đó đã tạo ra môi trường thuận lợi để
nông dân yên tâm sản xuất kinh doanh.
Bên cạnh những tiến bộ đáng ghi nhận, hệ thống chính trị cơ sở nông thôn còn nhiều bất
cập so với yêu cầu phát triển của địa phương trong quá trình phát triển một nền nông nghiệp
toàn diện và quá trình CNH, HĐH nông thôn. Tổ chức Đảng trong vai trò vận động quần chúng
thực hiện nghị quyết của Đảng chưa sâu. Thực tế hiểu biết của nông dân về các chế độ chính
sách của Đảng, Nhà nước còn hạn chế. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân
làm chủ” và quy chế dân chủ ở một số địa phương chưa được thực hiện tốt. Phương châm “dân
biết, dân bàn, dân kiểm tra” đối với bộ phận nông dân vùng sâu vùng xa vẫn chỉ là một khái niệm
mơ hồ. Việc xây dựng hệ thống chính trị giữa miền núi, đồng bằng không tính đến đặc điểm của
đối tượng quản lý có những nét đặc trưng khác nhau. Hoạt động của các cơ sở Đảng cấp xã gặp
nhiều khó khăn, cán bộ phần lớn chưa được đào tạo qua trường lớp. Hội đồng nhân dân cấp xã
hoạt động chưa thật có hiệu quả, chủ yếu thực hiện một số chức năng quản lý hành chính, còn
hoạt động kinh tế có nhiều bỡ ngỡ, nhất là trong việc chỉ đạo xây dựng các dự án. Hoạt động các
đoàn thể xã còn thụ động. Sự phối hợp của cấp uỷ Đảng, UBND với các tổ chức xã hội còn lúng
túng, ranh giới giữa lãnh đạo, tham gia quản lý và quản lý chưa rõ ràng. Tất cả những hạn chế
trên đã ảnh hưởng đến lợi ích của nông dân.
+Các phong trào cách mạng ở nông thôn
Trải qua các thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định tầm quan trọng của nông
nghiệp, nông thôn và nông dân. Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng lấy nông nghiệp làm khâu đột
phá, nông thôn là địa bàn trọng điểm và đã có nhiều chủ trương quyết sách đúng, hợp lòng dân
vì thế đã tạo được động lực mới, khơi dậy các nguồn lực tiềm năng thế mạnh của từng vùng,
từng địa phương, kết quả phong trào thi đua yêu nước của nông dân đã góp phần và thành tựu
chung của đất nước.
Có thể thấy được vai trò to lớn của hội nông dân, của các tổ chức chính trị- xã hội ở địa phương
trong việc khơi dạy truyền thống giai cấp nông dân Việt Nam trước đây vào sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước. Nhận thức và ý thức trách nhiệm của đại bộ phận cán bộ địa phương, của nông dân có sự đổi mới
trong tư duy, cách suy nghĩ, cách làm trong phát triển kinh tế- xã hội, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực để
nâng cao đời sống tinh thần cho nông dân và nông thôn. Niềm tin của nông dân đối với Đảng được củng
cố. Phong trào nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi do hội nông dân Việt Nam và Bộ nông nghiệp và
phát triển nông thôn phát động từ năm 1988 đã trở thành phong trào cách mạng của nông dân trong thời
kỳ đổi mới. Phong trào đã phát triển cả bề rộng và chiều sâu cuốn hút hàng triệu hộ nông dân tham gia trở
thành động lực quan trọng khai thác tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương và nội lực của từng gia
đình. Phong trào đã kích thích nông dân năng động sáng tạo, thích ứng với cơ chế mới, đạt hiệu quả trong
sản xuất và kinh doanh. Bình quân cả nước đã có hơn 6 triệu hộ đạt danh hiệu “sản xuất kinh doanh giỏi’.
Nhiều hộ đã có vốn kinh doanh hàng trăm triệu đồng. Những hộ sản xuất kinh doanh giỏi cũng là những
hộ tích cực tham gia các phong trào xây dựng kết cấu hạ tầng, thực hiện tốt chính sách của Đảng và Nhà
nước ở nông thôn. Nhiều cá nhân điển hình là nông dân đã có những sáng kiến cải tiến kỹ thuật có giá trị
góp phần đưa năng suất lao động lên cao.
Phong trào sản xuất kinh doanh giỏi đã và đang tạo ra những tiền đề và điều kiện cần thiết để
chuyển mạnh nông nghiệp sang sản xuất hàng hoá, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, xây dựng
quan hệ sản xuất mới phù hợp. Nhiều hộ đã vươn lên thành chủ các doanh nghiệp tổ hợp tác và HTX.
Nhiều hộ nông dân sản xuất kinh doanh giỏi đã nhiệt tình giúp đỡ các hộ đói nghèo về kinh nghiệm sản
xuất, cách làm ăn, cho vay vốn, hỗ trợ vật tư nông nghiệp, giống cây trồng, vật nuôi; phong trào nông dân
thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau xoá đói giảm nghèo và làm giàu chính đáng đã được
Đảng và Nhà nước đánh giá rất cao.
Hiện nay, toàn dân đang thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hoá”. Các hoạt động văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao, vệ sinh môi trường xây dựng làng
xã an toàn, tự quản, thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và tổ chức lễ hội,
tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất và đời sống. Các hội thi tiếng hát nông dân, làng vui
chơi, làng ca hát, cúp bóng đá bông lúa vàng, giải vật truyền thống đã góp phần nâng cao đời
sống tinh thần cho nông dân góp phần tích cực xây dựng nông thôn mới.
Quân đội nhân dân cũng đã có sự phối hợp chặt chẽ với Hội nông dân các tỉnh thành
trong cả nước thực hiện cuộc vận động xây dựng cơ sở chính trị ở nông thôn thực hiện nhiệm
vụ quốc phòng. Qua 13 năm thực hiện, cơ quan chính trị các đơn vị trong quân đội đã phối hợp
với các hội nông dân ban ngành toàn thể địa phương triển khai rất tích cực nội dung cuộc vận
động như: tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và nhà nước, xoá đói giảm nghèo, phòng
chống bão lụt thiên tai, thực hiện chính sách hậu phương quân đội, tham gia giải quyết các điểm
nóng góp phần ổn định tình hình chính trị- xã hội ở địa phương.
-Những tác động về văn hoá- xã hội đối với lợi ích của giai cấp nông dân
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin đã giải thích tất cả những biểu hiện, những
hiện tượng tinh thần của xã hội bằng những biến động của đời sống vật chất. C.Mác và
Ph.Ăngghen đã chỉ rõ những phương thức sản xuất vật chất quyết định những quan hệ, những
phương thức sản xuất tinh thần, khi cái thứ nhất thay đổi thì cũng kéo theo sự thay đổi của cái
thứ hai. Trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết “lịch sử chứng
minh gì, nếu không phải là chứng minh rằng sản xuất tinh thần cũng biến đổi theo sản xuất vật
chất”[27, tr.625]. Đời sống tinh thần của xã hội ta chịu sự quy định của đời sống vật chất của xã
hội. Lợi ích tinh thần cũng vậy, thường xuyên chịu sự chi phối của lợi ích vật chất. Sau hơn 17
năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, đời sống vật chất được nâng lên rõ rệt, kéo theo đời
sống tinh thần của xã hội cũng được cải thiện. Vai trò của văn hoá, khoa học có ý nghĩa tích cực
thúc đẩy sản xuất phát triển. Nhu cầu làm chủ khoa học công nghệ đang là vấn đề cấp thiết để
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước của nhân dân ta. Khoa học công nghệ được áp dụng trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong nông nghiệp áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ mới
vào ứng dụng quá trình sản xuất từ việc tạo ra cây, con giống cho đến thu hoạch bảo quản chế
biến. Cùng với khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo được coi trọng và quan tâm đúng mức.
Nông dân đã thấy vai trò to lớn của giáo dục nên rất quan tâm đầu tư cho việc học tập của con
em và coi đó là đầu tư cho tương lai, cho sự phát triển. Các giá trị, truyền thống văn hoá được đề
cao, các lễ hội truyền thống được phục hồi, các di sản văn hoá vật chất được khôi phục và tôn
tạo. Hiện nay, thưởng thức văn hoá trở thành nhu cầu không thể thiếu được của người nông
dân. Những hoạt động thông tin tuyên truyền được đẩy mạnh đã góp phần nâng cao trình độ dân
trí, sự hiểu biết của nông dân về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; cách thức sản
xuất- kinh doanh đạt hiệu quả cao, đồng thời nâng cao ý thức bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ trật tự an
toàn xã hội ở thôn xóm.
Tuy nhiên, những biểu hiện tiêu cực trong đời sống tinh thần xã hội cũng tác động không
nhỏ tới lợi ích nông dân. Lối sống thực dụng, các tệ nạn xã hội, sự phục cổ các hủ tục lạc hậu
đang làm xói mòn truyền thống tốt đẹp trong nông thôn và mối quan hệ của nông dân.
1.2.Vai trò của việc giải quyết tốt lợi ích nông dân góp phần tăng cường cơ sở
chính trị- xã hội của nền quốc phòng toàn dân
1.2.1.Tăng cường cơ sở chính trị- xã hội của nền quốc phòng toàn dân hiện nay
Quốc phòng là công việc giữ nước của một quốc gia, gồm tổng thể hoạt động đối nội và
đối ngoại về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học, tạo nên sức mạnh toàn diện, cân đối
của Nhà nước và nhân dân để phòng thủ đất nước. Trong sức mạnh quốc phòng thì sức mạnh
quân sự là đặc trưng nhằm giữ hoà bình, đẩy lùi, ngăn chặn các hoạt động gây chiến của kẻ thù
và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức và quy mô. Quốc phòng là
hoạt động của cả nước, trong đó lực lượng vũ trang là lực lượng nòng cốt. Kẻ thù xâm lược từ
bên ngoài thường cấu kết với lực lượng phản động bên trong, do đó, quốc phòng phải luôn kết
hợp với an ninh và đối ngoại để bảo vệ đất nước, bảo vệ chế độ. Tổ chức quốc phòng của mỗi
nước phụ thuộc trực tiếp vào chế độ xã hội của nước đó, đồng thời còn phụ thuộc vào truyền
thống của dân tộc và hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước.
Quốc phòng toàn dân là quan điểm cơ bản của Đảng ta chỉ đạo việc xây dựng nền quốc
phòng của nước CHXHCN Việt Nam. Đó là nền quốc phòng mang tính chất vì dân, do dân, của
dân, phát triển theo phương hướng toàn dân, toàn diện, độc lập tự chủ, tự lực, tự cường và ngày
càng hiện đại dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý điều hành của Nhà nước, nhằm giữ
vững hoà bình, ổn định của đất nước, sẵn sàng đánh bại mọi loại hình xâm lược và bạo loạn lật
đổ của các thế lực đế quốc và phản động, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
*Cơ sở chính trị của nền quốc phòng toàn dân:
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thì cơ sở chính trị là
cái làm nền tảng để dựa vào đó hay từ đó mà phát triển của chế độ chính trị, đời sống chính trị
của giai cấp, quốc gia, dân tộc.
Chính trị tức là công việc của nhà nước hay của xã hội có liên quan đến nhà nước, là
phạm vi hoạt động gắn liền với những quan hệ giai cấp, dân tộc và các nhóm xã hội khác nhau.
Theo Lênin, cái quan trọng nhất trong chính trị là “tổ chức chính quyền nhà nước”. Chính trị là
biểu hiện những lợi ích căn bản của các giai cấp và sự quan hệ với nhau giữa các giai cấp, các
cộng đồng xã hội về vấn đề nhà nước, là sự tham gia của nhân dân vào các công việc của nhà
nước, là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, các Đảng phái, các nhà nước để thực hiện đường
lối. Chính trị cũng là biểu hiện quan hệ giữa các dân tộc và giữa các nước.
Là một trong những lĩnh vực hoạt động cơ bản trong đời sống xã hội, chính trị chịu sự
quy định của chế độ kinh tế và đồng thời lại có vai trò nổi bật trong kiến trúc thượng tầng thích
ứng với chế độ kinh tế ấy ở một giai đoạn lịch sử nhất định của một dân tộc. Cơ sở chính trị- xã
hội đến nay đã có một số công trình bàn đến và bước đầu đưa ra được những nội dung của khái
niệm.
Trong chuyên đề 6 “Tăng cường quốc phòng và an ninh” được in trong cuốn sách “Quán
triệt nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX” do Nxb QĐND ấn hành năm 2001; trong mục
III: nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong giai đoạn mới có đoạn “Xây dựng cơ sở chính trị- xã hội,
thế trận và bảo vệ cơ sở”, tác giả đã phân tích: nhân tố quan trọng nhất trong thế trận quốc
phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân ở nước ta là “Thế trận lòng dân” tức là toàn dân
đoàn kết thành một khối vững chắc xung quanh Đảng và Chính phủ, giữ vững niềm tin, quyết
tâm vượt qua mọi khó khăn gian khổ đập tan mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch,
phấn đấu quên mình vì mục tiêu, lý tưởng XHCN. Thế trận ấy chính là phản ánh kết quả xây
dựng cơ sở chính trị- xã hội ở các cấp, các ngành; hay nói cách khác, xây dựng cơ sở chính trịxã hội cốt là để tạo ra thế trận lòng dân của nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Vì
vậy, chúng tôi cho rằng, cơ sở chính trị xã hội của nền quốc phòng toàn dân gồm nhiều vấn đề
rộng lớn, song thể hiện tập trung ở một số nội dung chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, ý thức chính trị của nhân dân về nền quốc phòng toàn dân. Ý thức chính trị là một
hình thái ý thức xã hội nên nó thể hiện ở hai cấp độ: ý thức thông thường là những biểu hiện
của các dạng tâm lý nảy sinh từ hoạt động thực tiễn, từ ảnh hưởng môi trường, từ nhu cầu
bảo vệ để phát triển. Ý thức chính trị thông thường đã phản ánh những chi tiết của đời sống
chính trị xã hội như niềm tin vào đường lối lãnh đạo của Đảng, tin tưởng ở khả năng xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta.
Cấp độ thứ hai: cấp độ tư tưởng lý luận đó là những quan điểm tư tưởng lý luận cách
mạng khoa học thể hiện lợi ích căn bản của giai cấp công nhân, bảo vệ nhân dân lao động. Ở
nước ta, chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội.
Thứ hai, đó là toàn bộ các tổ chức chính trị xã hội bao gồm tổ chức Đảng, chính quyền
nhà nước, các đoàn thể chính trị xã hội như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn, Đoàn thanh
niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam, Hội nông dân
Việt Nam.. .
Thứ ba, đó là khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên minh công nhân với nông
dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, tạo thành phong trào cách mạng thi đua yêu nước xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Như vậy cơ sở chính trị xã hội của nền quốc phòng toàn dân là nền tảng sức mạnh tổng
hợp của toàn dân và cả hệ thống chính trị, thể hiện cả ý thức và hành động của nhân dân quyết
tâm sản xuất và chiến đấu, sẵn sàng chịu đựng gian khổ hy sinh trước mọi khó khăn thử thách
để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN trong mọi tình huống.
Vị trí của cơ sở chính trị- xã hội trong nền quốc phòng toàn dân:
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân là một quan điểm trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc ở
nước ta hiện nay. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân bao gồm nhiều nội dung như: xây dựng
tiềm lực quốc phòng đặc biệt là lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh; xây dựng thế trận quốc
phòng vững chắc; xây dựng nền công nghiệp quốc phòng tiên tiến, hiện đại.. .
Trong xây dựng tiềm lực quốc phòng hiện nay thì xây dựng cơ sở chính trị- xã hội của
nền quốc phòng là một nội dung cơ bản. Giáo sư Trần Xuân Trường khẳng định “Mục tiêu yêu
cầu bảo vệ Tổ quốc hiện nay là phải xây dựng cơ sở chính trị- xã hội, xây dựng thế trận lòng
dân”[45, tr.12].
Trong cơ sở chính trị- xã hội của nền quốc phòng toàn dân, yếu tố nhân dân được giác
ngộ cách mạng, có ý chí và niềm tin cách mạng vững chắc, đoàn kết xung quanh Đảng Cộng sản
Việt Nam có vai trò quyết định của sức mạnh lòng dân.
Nội dung tăng cường cơ sở chính trị- xã hội của nền quốc phòng toàn dân:
Thứ nhất, nhận thức và thái độ của hệ thống chính trị và toàn dân về quan điểm của chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật nhà
nước trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân:
Sau cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi, Lê nin đã nêu rõ quan điểm của giai cấp vô
sản là phải tập hợp lực lượng sẵn sàng đối phó với chính phủ tư sản. Lê nin còn chỉ rõ rằng:
“Một cuộc cách mạng chỉ có ý nghĩa chỉ khi nào nó được bảo vệ”. Người còn khẳng định tính tất
yếu khách quan phải bảo vệ Tổ quốc “Kể từ ngày 25 tháng 10 năm 1917, chúng ta là những
người chủ trương bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta tán thành “bảo vệ Tổ quốc”, những cuộc chiến tranh
giữ nước mà chúng ta đang đi tới, là một cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc XHCN, bảo vệ CNXH
với tính cách là Tổ quốc, bảo vệ nước Cộng hoà Xô viết với tính cách là một đơn vị trong đạo
quân thế giới của CNXH”[23, tr.102]. Và Lê nin khẳng định chúng ta là người chủ trương bảo vệ
Tổ quốc nên chúng ta đòi hỏi phải có một thái độ hết sức nghiêm túc đối với khả năng quốc
phòng và khả năng chuẩn bị chiến đấu của nước nhà. Theo Lênin, củng cố quốc phòng là sứ
mệnh của nhà nước chuyên chính vô sản đồng thời là nghĩa vụ của toàn dân; Nghĩa vụ tuyệt đối
của toàn thể quần chúng lao động là đem hết sức mình ra để khôi phục và tăng cường khả năng
phòng thủ của đất nước. Mọi người phải có thái độ nghiêm túc đối với việc quốc phòng. Trong
xây dựng nền quốc phòng XHCN, Lênin đặc biệt coi trọng phát huy động lực nhân tố chính trịtinh thần trong nhân dân. Kế thừa những luận điểm của Lênin, Hồ Chí Minh coi bảo vệ Tổ quốc
là một tất yếu khách quan. Bảo vệ Tổ quốc thể hiện trước hết ở ý chí quyết tâm rất cao sự gắn
bó giữa mục tiêu bảo vệ Tổ quốc với mục tiêu bảo vệ nền độc lập dân tộc với bảo vệ chế độ
XHCN, là sự thống nhất giữa nội dung dân tộc, nội dung giai cấp, nội dung thời đại trong bảo vệ
Tổ quốc. Bảo vệ Tổ quốc XHCN là trách nhiệm là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi người Việt Nam
yêu nước. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh của toàn dân, của truyền thống, của hiện đại,
sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại. Để bảo vệ Tổ quốc, Hồ Chí Minh chủ trương
xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang nhân dân, kết hợp xây dựng với bảo vệ
Tổ quốc XHCN. Hồ Chí Minh chỉ rõ “Kháng chiến phải đi đôi với kiến quốc. Kháng chiến có thắng
lợi thì kiến quốc mới thành công. Kiến quốc có chắc thành công kháng chiến mới mau thắng
lợi”[28, tr.49]. Năm 1955 khi miền Bắc bước vào xây dựng CNXH, Hồ Chí Minh chỉ rõ “Chúng ta
phải ra sức bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hoà bình, cho nên chúng ta phải củng cố quốc phòng, bộ đội
ta phải thi đua học tập chính trị kỹ thuật, giữ vững kỷ luật và tác phong khắc khổ”[34, tr.429].
Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta đánh thắng thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ, giành độc lập tự do cho dân tộc. Sau thắng lợi trọn vẹn mùa xuân năm 1975, cả nước
bước vào kỷ nguyên độc lập tự do gắn liền với CNXH. Trong khi đặt lên nhiệm vụ hàng đầu là
phát triển kinh tế, xã hội, nhưng nhiệm vụ củng cố quốc phòng không bao giờ Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta lơi lỏng. Từ đại hội lần thứ V của Đảng ta đến nay, Đảng ta đều xác định hai
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta là: xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN, hai
nhiệm vụ đó gắn bó chặt chẽ với nhau. Trên thực tế Đảng ta đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng an ninh, giữa nhiệm vụ xây dựng đất nước và bảo
vệ Tổ quốc. Cương lĩnh xây dựng đất nước năm 1991 xác định: “Trong khi đặt lên hàng đầu
nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta phải luôn luôn cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ thành quả cách mạng” [13, tr.10].
Đại hội đại biểu lần thứ VIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Trong khi đặt trọng tâm vào
nhiệm vụ xây dựng CNXH, chúng ta không một chút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, luôn luôn
coi trọng quốc phòng- an ninh, coi đó là hai nhiệm vụ chiến lược gắn bó chặt chẽ”[14, tr.39-40].
Các quan điểm về bảo vệ Tổ quốc đã được phát triển để phù hợp với giai đoạn cách
mạng mới. Đại hội IX và Hội nghị lần thứ 8 khoá IX của Đảng về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới tiếp tục làm rõ hơn nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc: “Bảo vệ Tổ quốc XHCN là bảo vệ
vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an