Tải bản đầy đủ (.doc) (129 trang)

LUẬN văn phát huy vai trò của hệ thống chính trị cơ sở trong thực hiện chính sách tôn giáo ở tỉnh đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (685.55 KB, 129 trang )

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ

CHỮ VIẾT TẮT

Đời sống tinh thần

ĐSTT

Chính trị quốc gia

CTQG

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Hệ thống chính trị

HTCT

Nhà xuất bản

Nxb

Xã hội chủ nghĩa

XHCN

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài




Tôn giáo là vấn đề thuộc về đời sống tâm linh liên quan đến một bộ phận không nhỏ
dân cư trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Các thế lực thù địch coi đây là một trong
những mũi nhọn xung kích trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ chế độ
XHCN ở nước ta. Cho nên, tôn giáo là một trong những vấn đề khá nhạy cảm và phức
tạp, đang có ảnh hưởng nhất định đến cuộc sống của một bộ phận nhân dân và xã hội.
Đồng Nai là một tỉnh có nhiều tôn giáo như: Phật giáo, Công giáo, đạo Tin Lành, đạo
Cao Đài, đạo Hồi, đạo Hòa Hảo. Tín đồ các tôn giáo chiếm tới 63,34% dân số toàn tỉnh,
cá biệt có một số xã, phường, thị trấn tôn giáo toàn tòng. Mấy năm gần đây, các tôn giáo
ở địa bàn tỉnh hoạt động có phần sôi nổi hơn, tình trạng phát triển tín đồ không bình
thường ở Công giáo, Tin Lành; hiện tượng đòi lại đất đai cùng những cơ sở vật chất nơi
thờ tự, cùng với các hoạt động lễ hội, từ thiện xã hội đang gia tăng… ảnh hưởng nhất
định đến mọi mặt của đời sống xã hội; các thế lực thù địch luôn lợi dụng tôn giáo chống
phá cách mạng đã làm cho vấn đề tôn giáo càng thêm phức tạp.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn có quan điểm,
chính sách giải quyết vấn đề tôn giáo đúng đắn: thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của nhân dân, quan tâm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào tín đồ
các tôn giáo, thực hiện đoàn kết lương - giáo, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, trước những yêu cầu và nhiệm vụ mới của sự
nghiệp cách mạng, đòi hỏi phát huy hơn nữa sức mạnh của cả cộng đồng quốc gia dân
tộc, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong đó có đoàn kết lương - giáo và đoàn
kết giữa các tôn giáo.


Đảng ta xác định cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng; làm tốt
công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả HTCT dưới sự lãnh đạo của Đảng. HTCTCS là
cấp thấp nhất, cấp gần dân nhất trong HTCT nước ta, có một vị trí vai trò quan trọng
trong tổ chức thực thi quan điểm, chính sách chung, trong đó có CSTG.

Nhận rõ vai trò và tầm quan trọng đó, thời gian qua HTCTCS tỉnh Đồng Nai đã triển
khai và thực hiện khá tốt CSTG của Đảng và Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định tình
hình chính trị - xã hội trên địa bàn, tạo bước phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần của nhân dân cũng như đồng bào tín đồ các tôn giáo.
Tuy nhiên, ở một số nơi trên địa bàn, HTCTCS chưa phát huy tốt vai trò của mình
trong thực hiện CSTG. Công tác tôn giáo còn bộc lộ những yếu kém nhất định, những
mâu thuẫn, những bất đồng trong nhân dân, trong đồng bào tín đồ các tôn giáo vẫn có lúc
bộc lộ rõ. Thậm chí có những địa phương còn để sảy ra những điểm nóng vì lý do tôn
giáo, gây ra những hậu quả xấu, tạo ra những kẽ hở cho các thế lực thù địch lợi dụng kích
động, vu khống.
Vì vậy, nghiên cứu việc “phát huy vai trò HTCTCS tỉnh Đồng Nai trong thực hiện
CSTG của Đảng và Nhà nước ta hiện nay” là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, vừa cấp bách,
vừa lâu dài. Đó là lý do tác giả chọn đề tài này làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
HTCT nói chung, HTCTCS nói riêng và vai trò của nó là vấn đề đã được Đảng, Nhà
nước và các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Đảng ta đã đề cập vấn đề này trong các
văn kiện Đại hội Đảng. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành trung ương khóa
IX, (2002), lần đầu tiên Đảng ta đã ra một nghị quyết chuyên đề về HTCTCS. Các nhà
khoa học đã đề cập tới những vấn đề này ở các góc độ khác nhau như: Bộ Nội vụ, Viện


Nghiên cứu khoa học tổ chức Nhà nước, Hệ thống chính trị cơ sở thực trạng và một số
giải pháp đổi mới, do tiến sỹ Chu Văn Thành (chủ biên), Nxb CTQG, Hà Nội. 2004; Vũ
Hoàng Công (2002), Hệ thống chính trị cơ sở đặc điểm, xu hướng và giải pháp, Nxb
CTQG, Hà Nội; Nguyễn Quốc Phẩm (chủ biên), Hệ thống chính trị cấp cơ sở và dân chủ
hóa đời sống xã hội nông dân miền núi vùng dân tộc thiểu số, của Nxb CTQG, Hà Nội.
2002.
Chính sách tôn giáo cũng luôn được Đảng, Nhà nước ta xác định rõ và ngày càng hoàn
thiện, thể hiện nhất quán trong các văn kiện của Đảng. Trong thời kỳ đổi mới, Bộ Chính
trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (1990) đã ra nghị quyết chuyên đề: Nghị

quyết về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới, Số 24 - NQ/TW, ngày
16/10/1990. Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VI (1990), đã cụ thể hoá bằng Chỉ thị về
tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới, Số 66 CT/TW ngày 26/10/1990. Bộ
Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chỉ thị về công tác tôn giáo trong tình hình
mới, Số 37 - CTTW, Hà Nội. 1998; Các quan điểm cơ bản đó được pháp luật hóa trong
“Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo”, năm 2004.
Nhiều nhà khoa học, nhà quản lý xã hội cũng đã quan tâm đến lĩnh vực này: “Thực
hiện tốt chính sách tôn giáo của Đảng nhằm củng cố tăng cường khối đại đoàn kết toàn
dân” của Nguyễn Văn Ngọc, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 9 năm 2001; “Nghiên cứu
tôn giáo trong bối cảnh thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân và công tác tôn giáo ở
thời kỳ mới” của Trịnh Xuân Giới, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 4 năm 2004;
“Những âm mưu lợi dụng tôn giáo và vấn đề dân tộc chống lại sự nghiệp cách mạng nước
ta hiện nay” của Lê Bỉnh, Tạp chí Cộng sản, số 10, tháng 5 năm 2004.


Những công trình khoa học trên đã phân tích khá sâu sắc về đặc điểm, cấu trúc, vai trò
của từng thành tố trong HTCTCS; xu hướng vận động, giải pháp xây dựng HTCTCS; đề
cập dưới nhiều góc độ khác nhau tới việc thực hiện CSTG của Đảng và Nhà nước ta, xây
dựng khối đoàn kết lương - giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân, khơi dậy và phát huy
vai trò của đồng bào tín đồ các tôn giáo, nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nhưng đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện và có hệ
thống về phát huy vai trò của HTCTCS trong việc thực hiện CSTG của Đảng và Nhà
nước ở tỉnh Đồng Nai hiện nay. Vì vậy, đề tài luận văn không trùng lặp với các công
trình khoa học đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của HTCTCS trong thực
hiện CSTG của Đảng và Nhà nước ta, từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát
huy vai trò đó trên địa bàn tỉnh Đồng Nai hiện nay.

* Nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận về vai trò, nhiệm vụ HTCTCS tỉnh Đồng Nai trong thực hiện
CSTG của Đảng và Nhà nước.
- Phân tích thực trạng thực hiện vai trò HTCTCS tỉnh Đồng Nai trong thực hiện CSTG
của Đảng và Nhà nước hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò HTCTCS trong thực hiện
CSTG của Đảng và Nhà nước ta ở tinh Đồng Nai hiện nay.


4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Vai trò và phát huy vai trò HTCTCS tỉnh Đồng Nai trong việc thực hiện CSTG của
Đảng, Nhà nước hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu khảo sát thực trạng vai trò HTCTCS trong thực hiện CSTG của Đảng và
Nhà nước ở một số xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ khi bắt đầu sự
nghiệp đổi mới đất nước của Đảng ta (năm 1986) đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về HTCT; vai trò của HTCTCS; về tôn giáo;
vai trò của HTCTCS đối với việc thực hiện CSTG của Đảng, Nhà nước.
* Cơ sở thực tiễn:
Thực tiễn thực hiện CSTG của HTCTCS tỉnh Đồng Nai từ 1986 đến nay qua nghiên
cứu, điều tra của tác giả và qua kế thừa các tư liệu, kết quả khảo sát, điều tra của các tác
giả khác liên quan đến vấn đề này.
* Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản như: phương pháp hệ thống,
phân tích, tổng hợp, lôgíc kết hợp với lịch sử, thống kê, so sánh, khảo sát thực tiễn, và
phương pháp chuyên gia.



6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn về vai trò của HTCTCS tỉnh
Đồng Nai trong thực hiện CSTG của Đảng, Nhà nước nhằm phát huy vai trò đó trong giai
đoạn hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu,
giảng dạy ở các trường trong và ngoài quân đội; làm tài liệu tham khảo cho đội ngũ cán
bộ cơ sở hiện nay.
7. Kết cấu luận văn
Luận văn gồm: phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo
và phụ lục.
Chương 1
CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO VÀ VAI TRÒ CỦA CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ
SỞ TỈNH ĐỒNG NAI TRONG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA
ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. Chính sách tôn giáo và thực chất thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà
nước ta hiện nay
1.1.1. Chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta hiện nay
CSTG của Đảng, Nhà nước ta là một hệ thống các chủ trương, sách lược, kế hoạch và
biện pháp cụ thể của Đảng và Nhà nước nhằm chỉ đạo toàn bộ HTCT, cũng như mỗi công
dân trong giải quyết, xử lý vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo phục vụ cho sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN một cách khoa học, đạt hiệu quả cao.


CSTG của Đảng, Nhà nước ta là kết quả của sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo và công tác tôn giáo, phù
hợp với điều kiện lịch sử cụ thể ở nước ta.
Nội dung cơ bản của CSTG được thể hiện trong các văn kiện của Đảng, được Nhà
nước thể chế hóa trong Hiến pháp, pháp luật, mà gần đây nhất là trong Pháp lệnh tín

ngưỡng, tôn giáo, ban hành năm 2004, với các nội dung cơ bản sau:
Một là, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín
ngưỡng, tôn giáo của công dân. Mọi công dân đều bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi
trước pháp luật, không phân biệt giữa người theo đạo và người không theo đạo, cũng
như giữa những người theo các tôn giáo khác nhau.
Đây là quan điểm nhất quán của Đảng ta, chi phối các chủ trương, chính sách cụ thể của
Đảng, Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo. Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
năm 1946, Điều 10 năm 1959 và Điều 68 năm 1980 quy định: “Công dân có quyền tự do
tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, không ai được lợi dụng tôn giáo để
làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước [17, tr.10, 39].
Điều 1 Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo quy định rõ hơn: “Công dân có quyền tự do tín
ngưỡng tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước bảo đảm quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Không ai được xâm phạm quyền tự do ấy. Các tôn
giáo đều bình đẳng trước pháp luật, công dân có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau phải tôn
trọng lẫn nhau” [26, tr. 59].
Nội dung cơ bản của tự do tín ngưỡng, tôn giáo thể hiện trên những vấn đề chủ yếu đó
là:


- công dân có quyền tự do theo hoặc không theo một tôn giáo nào
Đây là nội dung cơ bản nhất của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo đó mọi người
đều có quyền lựa chọn theo một tôn giáo cụ thể nào đó, quyền thay đổi tôn giáo và quyền
không theo hoặc từ bỏ tôn giáo mà mình theo. Công dân có quyền tự do hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo như thờ cúng tổ tiên, tưởng niệm và tôn vinh những người có công với
đất nước với dân tộc, với cộng đồng, thờ cúng thần thánh, những biểu tượng có tính
truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân gian khác.
Mọi công dân theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo đều bình đẳng trước pháp
luật, được hưởng đầy đủ các quyền công dân và phải làm tròn nghĩa vụ đối với Tổ quốc.
Các tổ chức, các cơ sở tôn giáo, các tín đồ, chức sắc các tôn giáo có quyền sinh hoạt tôn
giáo theo giáo lý, giáo luật và lễ nghi tôn giáo mà mình theo. Công dân thực hiện quyền

tự do tín ngưỡng, tôn giáo nhưng không cản trở việc thực hiện nghĩa vụ công dân đối với
Tổ quốc; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phải theo đúng quy định của pháp luật. Không
được lợi dụng tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo
đạo,
Tự do tín ngưỡng, tôn giáo không có nghĩa là hoạt động tôn giáo nằm ngoài khuôn khổ
pháp luật, đi ngược lại lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân; cũng không có nghĩa là lợi
dụng tôn giáo phá hoại cách mạng. Đây là một quyền cơ bản của con người, cần phải
được tôn trọng và bảo vệ không chỉ trong Hiến pháp, mà cả trong thực tiễn cuộc sống. Vì
vậy, trong khi thực hiện nhất quán chính sách “tự do tín ngưỡng và tự do không tín
ngưỡng” phải kiên quyết đấu tranh chống mọi sự lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo phá hoại
cách mạng. Người có tín ngưỡng, tôn giáo và người không có tín ngưỡng, tôn giáo phải
tôn trọng lẫn nhau, không ai được quyền xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.


Tín đồ và các chức sắc tôn giáo không tuyên truyền lôi kéo, công kích chống đối lẫn
nhau. Mọi người đều phải tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người khác; nghiêm
cấm mọi biểu hiện lôi kéo, áp đặt, vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân
dân. “Trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, người có tín ngưỡng, tín đồ có trách nhiệm
tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo
của người khác” [17, tr. 15 - 16].
- Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo Pháp luật.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân phải được Nhà nước bảo đảm bằng
pháp luật. Vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo để gây rối làm mất ổn định xã hội, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
chống phá cách mạng, chống đối chế độ là vi phạm pháp luật phải bị pháp luật xử lý.
Điều 70 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, quy định:
“Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tôn giáo được
pháp luật bảo hộ. Không ai xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và
chính sách của Nhà nước” [17, tr. 159].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX nêu rõ:

“Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật... nghiêm
cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tôn giáo” [14, tr. 48].
Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật là một chính sách cơ bản của Đảng, Nhà
nước ta về tôn giáo và đối với vấn đề về tôn giáo trong một đất nước đang trong quá trình
xây dựng CNXH, có nhiều tôn giáo và nhiều người có tín ngưỡng, tôn giáo.
Hai là, đoàn kết gắn bó đồng bào theo các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân.


Đây là quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước ta. Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan
tâm, không ngừng vun đắp, củng cố, tăng cường sự đoàn kết giữa đồng bào theo các tôn
giáo và đồng bào không theo tôn giáo, giữa đồng bào theo các tôn giáo khác nhau. Hội
nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành trung ương khóa IX Đảng ta chỉ ra: Đảng, Nhà nước
thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết đồng bào theo tôn
giáo và đồng bào không theo tôn giáo, đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau.
Trong giai đoạn hiện nay khối đại đoàn kết ấy là động lực chủ yếu của sự nghiệp đổi mới
đất nước, của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đoàn kết phải trên cơ sở lợi ích quốc gia dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng
nêu rõ: “Trong khi thực dân Pháp và can thiệp Mỹ tìm mọi cách chia rẽ lương giáo, hòng
cướp nước ta, thì việc đoàn kết toàn dân, đoàn kết lương giáo để cứu nước, cứu dân là vô
cùng cần thiết” [23, tr. 559]. Hiện nay trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, đoàn kết lương - giáo phải lấy mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh” làm điểm tương đồng.
Đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo cũng như đồng bào không có tín ngưỡng, tôn giáo
đều phải tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của
dân tộc; xóa bỏ những mặc cảm, tự ti, định kiến hoặc phân biệt đối xử; xây dựng tinh
thần cởi mở, tin tưởng lẫn nhau, có trách nhiệm chung sức, chung lòng đoàn kết gắn bó
với nhau, ra sức củng cố, xây dựng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân phải đi đôi với việc đấu tranh chống những
hành động chia rẽ, làm suy yếu khối đoàn kết dân tộc. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc
trong quan điểm CSTG của Đảng và Nhà nước ta. Cần phân biệt rõ hoạt động tín ngưỡng,

tôn giáo lành mạnh của nhân dân với thủ đoạn lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống


phá CNXH… Mọi biểu hiện nóng vội, chủ quan hoặc giản đơn trong giải quyết vấn đề tín
ngưỡng, tôn giáo đều có thể dẫn đến nguy cơ chia rẽ, làm rạn nứt khối đoàn kết thống
nhất dân tộc, suy yếu sức mạnh quốc gia.
Vì vậy, phải thường xuyên tuyên truyền, giáo dục cho chức sắc, tín đồ các tôn giáo hiểu
rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, góp phần nâng cao cảnh giác cách mạng,
tạo ra khả năng miễn dịch cho đồng bào đồng thời tích cực đấu tranh làm thất bại âm
mưu phá hoại của chúng.
Ba là, mọi tín đồ được tự do tham gia các hình thức sinh hoạt theo lễ nghi tôn giáo
nhưng phải làm tròn nghĩa vụ công dân
Mọi tín đồ và chức sắc tôn giáo thực hiện tốt những yêu cầu về giáo lý, giáo luật, lễ
nghi và những quy định của các tổ chức tôn giáo mà mình theo đã được Nhà nước công
nhận và cho phép hoạt động. Người tham gia hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phải tôn
trọng những quy định của cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo, của lễ hội và hương ước, quy ước
của cộng đồng. Nhưng tự do tín ngưỡng, tôn giáo cũng không có nghĩa là hoạt động của
tôn giáo nằm ngoài khuôn khổ pháp luật, đi ngược lại lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân;
không có nghĩa là lợi dụng tôn giáo để phá hoại cách mạng. “Đồng bào theo đạo và các vị
chức sắc tôn giáo có nghĩa vụ làm tròn trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc, (sống tốt
đời, đẹp đạo)” [3, tr. 12].
Với tư cách là một công dân, đồng bào tín đồ, chức sắc các tôn giáo phải thực hiện tốt
trách nhiệm, nghĩa vụ của một công dân đối với đất nước. “Tốt đời đẹp đạo” phải là
phương châm cơ bản, chi phối các hoạt động của tất cả tổ chức, chức sắc và tín đồ các
tôn giáo. Chừng nào tín đồ các tôn giáo còn đứng ngoài cuộc, thờ ơ, thiếu trách nhiệm
với đất nước, còn coi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ riêng của chính


quyền, của những người không tín ngưỡng, tôn giáo, thì chừng đó người có tín ngưỡng,
tôn giáo còn chưa làm tròn bổn phận của một công dân đối với đất nước.

Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã chỉ rõ nhiệm vụ của
công tác tôn giáo là phải: đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, xây dựng cuộc sống
“tốt đời, đẹp đạo” trong quần chúng tín đồ, chức sắc, nhà tu hành; động viên đồng bào
thực hiện tốt yêu cầu của một tín đồ đối với tôn giáo và đồng thời phải làm tròn bổn phận
của một công dân đối với đất nước; làm cho các tôn giáo gắn bó với dân tộc, với đất nước
và CNXH hăng hái thi đua xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, những hoạt động tôn giáo ích nước, lợi dân phù hợp với nguyện vọng và lợi
ích chính đáng, hợp pháp của các tín đồ được bảo đảm; những giá trị văn hóa, đạo đức
tốt đẹp của các tôn giáo được tôn trọng và khuyến khích phát huy.
Đó là quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước ta. Xét về mặt lịch sử, các đức tin tôn
giáo xuất hiện đều có mục tiêu hướng tới những mong muốn tốt đẹp về con người có thể
sống hòa đồng với nhau, cùng nhau xây dựng cuộc sống hạnh phúc. Trong giáo lý, giáo
luật của các tôn giáo đều có những nội dung giới răn hướng thiện, trị ác có những giá trị
nhân văn vì cuộc sống của cá nhân, của cộng đồng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận xét:
Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo của chúa
Giêsu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp biện
chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện
nước ta. Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải có những ưu điểm chung đó
sao. Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội, nếu hôm
nay họ còn sống trên đời này, nếu họ họp lại một chỗ, tôi tin chắc rằng nhất định họ sẽ
chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết.


Thực tế trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng cho thấy
đồng bào các tôn giáo đã có những đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Nhìn chung, các tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận đã hoạt động theo
pháp luật, xây dựng được đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc, “sống phúc âm giữa
lòng dân tộc”; “đạo pháp, dân tộc và CNXH”, tập hợp được đông đảo tín đồ, chức sắc các
tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân.
Đảng, Nhà nước ta thực hiện nhất quán chính sách giữ gìn và phát huy những giá trị

tích cực về đạo đức, văn hóa của tôn giáo; khuyến khích những hoạt động xã hội - từ
thiện của tín đồ, chức sắc và các tổ chức tôn giáo như các hoạt động: xóa đói, giảm
nghèo, đền ơn đáp nghĩa, cứu trợ cứu hộ thiên tai, khám, chữa bệnh miễn phí, mở các lớp
học tình thương... là đúng đắn, hợp lòng dân, đem lại sự đồng thuận trong xã hội.
Năm là, chống mọi hành vi lợi dụng tôn giáo để phá hoại chính sách đại đoàn kết dân
tộc, làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân
Đi đôi với tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, Đảng và Nhà nước ta
khẳng định: Nghiêm cấm những hoạt động “lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để
phá hoại hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước, kích động bạo lực, hoặc tuyên truyền trái
với pháp luật, chủ trương chính sách của Nhà nước, chia rẽ nhân dân, chia rẽ dân tộc, gây
rối trật tự công cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe nhân dân, danh dự, tài sản của
người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân, hoạt động mê tín dị
đoan” [26, tr. 9,10].
Thực tế vẫn còn một số tín đồ, chức sắc các tôn giáo, do nhẹ dạ cả tin, mất cảnh giác
nên bị các thế lực thù địch lợi dụng hòng gây chia rẽ, làm mất đoàn kết; ở một số nơi,
nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, một số người đã lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để


tiến hành những hoạt động chống đối, kích động tín đồ, chức sắc nhằm phá hoại khối đại
đoàn kết toàn dân, gây mất ổn định chính trị. Tình hình đó không những ảnh hưởng tiêu
cực đến sự nghiệp cách mạng, đến sinh hoạt tôn giáo lành mạnh của nhân dân.
Vì vậy, đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo chia rẽ khối đoàn kết toàn dân, chống phá
cách mạng là một nhiệm vụ thường xuyên không thể coi thường của cả HTCT và của
đồng bào tín đồ các tôn giáo.
1.1.2. Thực chất thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta hiện nay
Thực hiện CSTG của Đảng, Nhà nước là quá trình hiện thực hoá chính sách đó vào
trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội; trong đó HTCT có vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức
nhân dân thực hiện. Như vậy, thực hiện CSTG của Đảng và Nhà nước là toàn bộ hoạt
động của HTCT lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức nhân dân quán triệt và thực thi quan điểm,
chính sách tôn giáo nhằm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo góp phần tăng

cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện
thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ nhất, thực chất thực hiện CSTG của Đảng, Nhà nước ta được thể hiện thông qua
vai trò chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức nhân dân thực hiện CSTG đó là toàn bộ HTCT.
“Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả HTCT do Đảng lãnh đạo” [3, tr. 123].
Tổ chức Đảng các cấp: thường xuyên có những chủ trương, chính sách đúng đắn về tôn
giáo và công tác tôn giáo, đồng thời phải xác định rõ những giải pháp khả thi để giải
quyết phù hợp những nhu cầu tự do tín ngưỡng, tôn giáo của một bộ phận quần chúng
nhân dân, lãnh đạo, kiểm tra việc tổ chức thực hiện những chủ trương chính sách đó đạt
hiệu quả.


Có kế hoạch lãnh đạo, chỉ đạo, đề ra các quan điểm, chủ trương, biện pháp cụ thể, thích
hợp và đồng thời tổ chức tuyên truyền, giáo dục sâu rộng, liên tục trong toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân, nhất là những cơ quan, những cán bộ chuyên trách làm công tác tôn
giáo và đồng bào tín đồ, chức sắc các tôn giáo về những chủ trương chính sách của Đảng,
Nhà nước ta. Làm cho mọi người có nhận thức đầy đủ, đúng đắn về CSTG của Đảng,
Nhà nước.
Chính quyền các cấp: cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng
thành hệ thống pháp luật nhằm tổ chức thực hiện đạt hiệu quả những quan điểm, chủ
trương, chính sách đó, và đồng thời quản lý tốt mọi hoạt động của tôn giáo trên địa bàn
theo pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho tín đồ, chức sắc các tôn giáo hoạt động; kiên
quyết xử lý mọi hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm mất trật tự an toàn xã hội,
làm phương hại đến độc lập dân tộc, phá hoại chính sách đại đoàn kết toàn dân, chống lại
Nhà nước, gây tổn hại đến đạo đức, lối sống, truyền thống văn hóa của dân tộc, ngăn cản
tín đồ, chức sắc các tôn giáo thực hiện nghĩa vụ công dân.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trực tiếp tuyên truyền vận động quần
chúng nhân dân, cũng như đồng bào tín đồ, chức sắc các tôn giáo thực hiện đúng đường
lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân, trong đó có đoàn kết lương - giáo, và đoàn kết giữa các tôn giáo. Động viên tinh

thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, phát huy những mặt tương đồng, những truyền thống
tốt đẹp của các tôn giáo, cùng toàn dân phấn đấu thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Thứ hai, thực chất thực hiện CSTG của Đảng, Nhà nước ta hiện nay là nhằm đạt tới
mục tiêu: tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân


tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Đoàn kết là truyền thống quý báu, là động lực chủ yếu sự phát triển của dân tộc ta.
Đồng bào có tôn giáo trước hết là người Việt Nam, ở họ có tình yêu quê hương, yêu đất
nước, lòng tự hào và ý thức dân tộc sâu sắc. Đó là nền tảng để tập hợp lực lượng, xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Vì thế, tăng cường đoàn kết và phát huy vai trò của
đồng bào các tôn giáo trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là mục tiêu xuyên suốt của việc
thực hiện chính sách tôn giáo ở nước ta hện nay.
Thứ ba, Thực chất thiện hiện chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta tuân thủ
những quan điểm cơ bản là: tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và
quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân quan tâm giải quyết hợp lý nhu cầu
tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, kịp thời đấu tranh chống lại sự lợi dụng tự do tín
ngưỡng, tôn giáo chống phá cách mạng.
Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại
lâu dài trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta. Nhu cầu đó phải được bảo đảm.
Nhưng các thế lực thù địch lại luôn tìm cách lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá
cách mạng, vì vậy đi đôi với việc tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo phải thường
xuyên nêu cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng
tôn giáo của các thế lực thù địch.
Thứ tư, thực chất thực hiện CSTG của Đảng, Nhà nước ta hiện nay là phải thực hiện
tốt nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo.



Công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng, công tác đối với con người, thực
chất đây là công tác vận động quần chúng cách mạng của Đảng, công tác đối với đồng
bào có tín ngưỡng, tôn giáo, là sự thể hiện mối quan hệ giữa Đảng với một bộ phận quần
chúng trong tiến trình cách mạng XHCN. Mọi hoạt động quản lý nhà nước đối với tôn
giáo và công tác đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo chỉ thành công nếu thực hiện tốt công
tác vận động quần chúng.
Công tác tôn giáo nhằm bảo đảm vận động đồng bào theo đạo thực hiện tốt nghĩa vụ và
quyền lợi công dân, sống “tốt đời, đẹp đạo”, góp phần tăng cường và phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng. Chỉ
có làm tốt công tác vận động quần chúng mới tập hợp và khai thác được tiềm năng, thế
mạnh trong đồng bào các tôn giáo để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, làm thất bại mọi âm
mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch.
Thứ năm, thực hiện CSTG của Đảng, Nhà nước ta hiện nay là thực hiện tốt 6 nhiệm vụ
cơ bản mà Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) đã đề ra:
Một, thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách, và các chương trình phát triển kinh
tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, trong đó có đồng bào tín
đồ các tôn giáo.
Đây là nhiệm vụ cơ bản nhất, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với nhân
dân, trong đó có đồng bào theo tôn giáo. Lợi ích chính đáng của đồng bào các tôn giáo
được bảo đảm, đời sống vật chất, tinh thần không ngừng được cải thiện và nâng cao là
điều kiện căn bản để thực hiện tốt tôn giáo và đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo.
Thực tế sau gần 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu quan
trọng, tạo cơ sở để cải thiện và nâng cao một bước đời sống vật chất và tinh thần của các


tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, ở nhiều địa phương nhất là ở những vùng sâu, vùng xa...
đời sống của một bộ phận nhân dân vẫn còn gặp nhiều khó khăn, trong đó có đồng bào là
tín đồ các tôn giáo. Vì vậy, cần phải tạo ra những điều kiện thuận lợi để giúp cho đồng
bào nâng cao đời sống vừa làm tốt việc đời, vừa chăm lo việc đạo là nội dung quan trọng

của công tác tôn giáo hiện nay.
Hai, tạo điều kiện cho các sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo được hoạt động bình thường
theo đúng chính sách và luật pháp của Nhà nước.
Nhiệm vụ này thể hiện chính sách tôn trọng và bảo đảm tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Trên cơ sở coi hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân, Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tạo điều
kiện cho các tôn giáo hoạt động trên cơ sở các quy định của pháp luật, để đồng bào vừa
tự do chăm lo phần hồn theo lễ nghi tôn giáo, vừa làm tròn nghĩa vụ của công dân. Đây là
trách nhiệm của chính quyền các địa phương nơi có đồng bào tín ngưỡng, tôn giáo sinh
sống.
Tăng cường quản lý Nhà nước về tôn giáo, đảm bảo cho tôn giáo được hoạt bình
thường theo đúng pháp luật, chính là Nhà nước bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo,
đồng thời thực hiện tốt sự bảo trợ của mình đối với các hoạt động tôn giáo đúng pháp
luật, ngăn chặn các hành động lợi dụng tôn giáo, vi phạm pháp luật chống phá cách mạng
của các thế lực thù địch.
Ba, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, xây dựng cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo”
trong quần chúng tín đồ, chức sắc tôn giáo nhằm xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc,
thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, hầu hết là
những người lao động, cần cù, chất phác có lòng yêu nước và ý thức tự hào, tự tôn dân
tộc. Phát huy tinh thần yêu nước của họ, động viên họ sống “tốt đời, đẹp đạo”, gắn bó với
dân tộc là một nhiệm vụ cơ bản trong thực hiện CSTG. Nhiệm vụ này đòi hỏi quá trình
thực hiện CSTG phải có chủ trương, giải pháp để tập hợp, khai thác tiềm năng sáng tạo
của đồng bào tôn giáo thực hiện thắng lợi các phong trào hành động cách mạng ở địa
phương, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
theo định hướng XHCN.
Bốn, phát huy tinh thần yêu nước của đồng bào có đạo, tự giác và phối hợp đấu tranh
làm thất bại âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch.

Đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo là một hoạt động đặc biệt, chỉ thắng lợi khi quần
chúng nhận thức rõ được bản chất, âm mưu, thủ đoạn của địch, tự giác ủng hộ và cùng
tham gia với các cơ quan Nhà nước để đấu tranh. Bởi vậy, cần phải phát huy tinh thần
yêu nước của đồng bào, làm cho đồng bào nhận thức rõ mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng
tôn giáo của các thế lực thù địch để phá hoại đoàn kết dân tộc, chống đối chế độ.
Năm, hướng dẫn các tôn giáo thực hiện quan hệ đối ngoại phù hợp với đường lối đối
ngoại của Đảng, Nhà nước, đẩy mạnh thông tin tuyên truyền về CSTG, đấu tranh làm
thất bại các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, vu khống của các thế lực thù địch đối với
CSTG ở nước ta.
Các tôn giáo ngoại nhập như: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo có quan hệ khá
chặt chẽ với các tổ chức cùng tôn giáo ở bên ngoài. Bởi vậy, công tác tôn giáo có nhiệm
vụ hướng dẫn hoạt động đối ngoại của các tôn giáo phù hợp với chủ trương, CSTG không


làm ảnh hưởng đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta, không làm
tổn hại đến quan hệ quốc tế của Đảng, Nhà nước ta.
Cùng với việc bảo đảm cho quan hệ đối ngoại tôn giáo thực hiện đúng pháp luật, tôn
chỉ, đường hướng của các tôn giáo, cần đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền, đấu tranh làm
thất bại các luận điệu xuyên tạc, vu khống của kẻ địch về vấn đề tôn giáo và CSTG ở
nước ta.
Sáu, tổng kết việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác tôn giáo.
Tăng cường nghiên cứu cơ bản, tổng kết thực tiễn, góp phần cung cấp luận cứ khoa học
trong việc xây dựng và thực hiện các chủ trương, CSTG trước mắt và lâu dài.
Thực tiễn luôn biến đổi, việc quán triệt và thực hiện quan điểm, chính sách về tín
ngưỡng, tôn giáo đạt hiệu quả ngày càng cao, nhưng không thể tránh khỏi thiếu sót,
khuyết điểm. Do vậy, kịp thời sơ, tổng kết rút kinh nghiệm để phát huy ưu điểm, khắc
phục hạn chế, điều chỉnh, bổ sung các chủ trương, giải pháp là một yêu cầu khách quan
trong thực hiện CSTG của Đảng, Nhà nước.
Sáu nhiệm vụ đó quan hệ chặt chẽ với nhau, thực hiện tốt sáu nhiệm vụ là trách nhiệm
của cả HTCT, của mọi cấp, mọi ngành, trong mọi lĩnh vực, của mọi cán bộ, đảng viên và

của toàn dân. Trong đó, tổ chức và đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo có
vai trò trực tiếp đề xuất, tham mưu để toàn bộ HTCT tổ chức nhân dân thực hiện.
1.2. Vai trò hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Đồng Nai trong việc thực hiện chính sách
tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta hiện nay
1.2.1 Khái niệm, chức năng của hệ thống chính tri cơ sở
Thứ nhất, Khái niệm hệ thống chính trị cơ sở


Để có khái niệm HTCTCS một cách hoàn chỉnh cần nghiên cứu khái niệm HTCT:
HTCT là một bộ phận của cấu trúc thượng tầng xã hội, bao gồm các tổ chức, các thiết
chế hợp pháp, có quan hệ về mục đích, chức năng thực hiện hoặc tham gia thực hiện
quyền lực chính trị.
HTCT là tổ chức và thiết chế tồn tại dưới hình thức vật chất, có bộ máy, có tính hợp
pháp. Tuy nhiên có những tổ chức không được hiến định, pháp định nhưng được xã hội
thừa nhận, và không đối lập với chế độ Nhà nước - pháp luật hiện hành vẫn được coi là
thành tố của HTCT. HTCT có mục đích, chức năng thực hiện hoặc trực tiếp tham gia
thực hiện quyền lực chính trị, nghĩa là thường xuyên hoặc tham gia lãnh đạo, điều hành
đất nước.
Với cách hiểu đó, có thể thấy thành phần của HTCT không chỉ bao gồm các bộ phận cơ
bản là nhà nước, các đảng phái chính trị, các tổ chức chính trị xã hội, mà có cả các tổ
chức khác tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia [12, tr. 9-10].
Từ quan niệm HTCT chung, với phương pháp hạn định khái niệm có thể quan niệm:
HTCTCS là một bộ phận của cấu trúc thượng tầng xã hội ở cơ sở, bao gồm các tổ chức,
các thiết chế hợp pháp, có quan hệ về mục đích, chức năng thực hiện hoặc tham gia thực
hiện quyền lực chính trị ở cơ sở.
Hiện nay bộ máy hành chính nước ta có 4 cấp. Trong đó, cấp xã (phường, thị trấn) là
cấp cơ sở, gồm các tổ chức thiết chế chính trị như tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc
nhất định và gắn bó hữu cơ với nhau. Mỗi bộ phận hợp thành trong HTCTCS có vị trí,
vai trò, chức năng khác nhau, song đều vận hành theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước

quản lý, nhân dân lao động làm chủ.


Thứ hai, Chức năng của hệ thống chính trị cơ sở
Chức năng của HTCTCS được thể hiện ở chức năng, nhiệm vụ của các thành tố cấu
thành HTCTCS đó là:
* Tổ chức cơ sở đảng
Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân
chính trị ở cơ sở. Đảng bộ xã bao gồm nhiều chi bộ; thông thường mỗi thôn, xóm, ấp có
một chi bộ. Tổ chức cơ sở Đảng có các chức năng chủ yếu sau:
- Chức năng lãnh đạo thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước ở cơ sở, trong đó có CSTG.
- Xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, và tổ chức;
thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, thực
hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong
Đảng, thường xuyên giáo dục, rèn luyện, quản lý cán bộ, đảng viên không ngừng nâng
cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu, trình độ kiến thức, năng lực công tác,
làm công tác phát triển đảng viên.
- Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự nghiệp, quốc
phòng, an ninh và các đoàn thể chính trị - xã hội trong sạch, vững mạnh; chấp hành
nghiêm pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
- Liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ lợi
ích chính đáng của nhân dân; lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng, thực hiện đường
lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.


- Kiểm tra việc thực hiện, bảo đảm các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của
Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh; kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên chấp hành
Điều lệ Đảng.
* Chính quyền cơ sở (xã, phường, thị trấn)

Chính quyền cơ sở bao gồm Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân xã, phường, thị
trấn.
Hội đồng nhân dân xã là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách
nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân thực
hiện những nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm sự
lãnh đạo thống nhất của Trung ương đồng thời phát huy quyền chủ động sáng tạo của địa
phương.
Hội đồng nhân dân xã có hai chức năng cơ bản là quyết định và giám sát trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội ở cơ sở. Trong thực hiện CSTG, hội đồng nhân dân quyết định
các chủ trương, biện pháp chủ yếu thực hiện CSTG theo quy định của pháp luật.
Uỷ ban nhân dân xã là cơ quan chấp hành của hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính
nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, pháp luật và các văn bản
của cơ quan Nhà nước cấp trên, nghị quyết của hội đồng nhân dân cùng cấp. ủy ban nhân
dân có chức năng nhiệm vụ là thực hiện quản lý Nhà nước toàn diện trên địa bàn xã, tổ
chức thực hiện những nghị quyết và quyết định của hội đồng nhân dân cùng cấp.
Trong thực hiện CSTG, Uỷ ban nhân dân dưới sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng có
nhiệm vụ tổ chức thực hiện các chủ trương, biện pháp chủ yếu do hội đồng nhân dân đề


ra nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp
luật; quản lý mọi hoạt động của tôn giáo theo pháp luật.
Về cơ bản tổ chức hoạt động, chức năng, nhiệm vụ chính quyền phường, thị trấn cơ bản
như chính quyền cấp xã, chỉ khác một số nhiệm vụ cụ thể như Nghị quyết Trung ương 5
khóa IX quy định.
* Các tổ chức chính trị - xã hội:
Các tổ chức chính trị - xã hội trong HTCTCS bao gồm: Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc,
Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh... ở cơ sở, có chức
năng chủ yếu là:
Tập hợp, củng cố, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tạo sự nhất trí về chính trị, tinh

thần của nhân dân; tuyên truyền vận động nhân dân phát huy quyền làm chủ thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước trên địa
bàn; giám sát mọi hoạt động của cơ quan Nhà nước ở cơ sở, các đại biểu dân cử, và cán
bộ công chức; tập hợp những ý kiến và kiến nghị của nhân dân để phản ánh với Đảng và
Nhà nước cấp trên; tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân ở địa phương;
chăm lo bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ chính đáng của nhân dân.
Trong thực hiện CSTG, chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân là: tập hợp đồng bào các tôn giáo và đồng bào không có tín ngưỡng,
tôn giáo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phản ánh
kịp thời ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị của nhân dân về các vấn đề liện quan đến tín
ngưỡng, tôn giáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; tham gia tuyên truyền vận động
chức sắc, nhà tu hành, tín đồ, các tổ chức tôn giáo và nhân dân thực hiện CSTG, tham gia
xây dựng và giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo [26].


×