Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

LUẬN án TIẾN sỹ vận DỤNG tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về BÌNH ĐẲNG dân tộc TRONG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH dân tộc địa bàn tây nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (506.29 KB, 114 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bình đẳng dân tộc là một trong những tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là nội dung
quan trọng trong chủ trương, CSDT của Đảng và Nhà nước ta. Tư tưởng chỉ đạo nhất quán
CSDT của Đảng và Nhà nước ta được Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X khẳng định: “Các
dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng
nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[16, tr.121]. Thực hiện tốt vấn đề BĐDT sẽ góp phần
xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trong các thời kỳ cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn
trung thành và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về BĐDT, đề ra nhiều chủ trương,
CSDT đúng đắn và tổ chức thực hiện tốt, nên “Quyền bình đẳng giữa các dân tộc cơ bản đã
được Hiến pháp xác định và được thể hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”[18, tr.30].
Vì vậy, trong giai đoạn cách mạng mới, đòi hỏi Đảng, Nhà nước, HTCT cần tiếp tục vận dụng
sáng tạo hơn nữa tư tưởng Hồ Chí Minh về BĐDT trong thực hiện CSDT, nhất là ở Tây
Nguyên hiện nay.
Tây Nguyên là một trong những vùng chiến lược về kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh
của cả nước; nơi có 45 dân tộc anh em sinh sống. Tại đây, kẻ thù đang ra sức lợi dụng vấn đề
dân tộc, tôn giáo khoét sâu mâu thuẫn nhằm chia rẽ sự đoàn kết giữa các tộc người, làm cho
tình hình an ninh, chính trị trên địa bàn mất ổn định, gây khó khăn cho sự nghiệp đổi mới và
phát triển đất nước của nhân dân ta. Do đó, thực hiện BĐDT là vấn đề vừa cấp bách, vừa cơ
bản lâu dài nhằm góp phần xây dựng Tây Nguyên vững mạnh về mọi mặt, phát triển theo kịp
cả nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách phát
triển Tây Nguyên về nhiều mặt nhằm phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng - an


ninh, giải quyết tốt quan hệ tộc người, nâng cao đời sống vật chất - tinh thần của đại bộ phận
đồng bào, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, đời sống xã hội ở Tây Nguyên vẫn
tồn tại những vấn đề phức tạp, tiềm ẩn nhiều nguy cơ xuất hiện “điểm nóng” trên địa bàn, đòi
hỏi Đảng, Nhà nước ta phải tiếp tục có nhiều chủ trương và thực hiện tốt CSDT, nhằm từng


bước khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc và giải quyết các vấn đề
xã hội khác, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn mới.
Những hạn chế, yếu kém trong thực hiện CSDT ở Tây Nguyên hiện nay do nhiều nguyên
nhân, trong đó có nguyên nhân rất cơ bản là việc nhận thức và vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về BĐDT trong thực hiện CSDT ở một số địa phương trên địa bàn còn hạn chế. Chính
vì vậy, để thực hiện tốt hơn nữa sự BĐDT trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay, đòi hỏi chúng ta
phải tiếp tục nghiên cứu, vận dụng sáng tạo hơn nữa tư tưởng Hồ Chí Minh về BĐDT cả
trong hoạch định và thực hiện CSDT trên thực tế.
Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng
dân tộc trong thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta trên địa bàn Tây
Nguyên hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học,
vừa có tính lý luận vừa có tính thực tiễn cấp thiết trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Từ khi ra đời đến nay, Đảng và Nhà nước ta thường xuyên quan tâm nghiên cứu chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc nói chung, BĐDT nói riêng làm cơ sở
đề ra quan điểm, CSDT đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn cách mạng. Chính vì lẽ đó, các
dân tộc sống trên đất nước Việt Nam luôn đoàn kết, tôn trọng giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, tạo
sức mạnh to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như cách mạng XHCN. Đặc biệt, tại
Hội nghị Trung ương lần thứ Bảy (Khoá IX) tháng 3 năm 2003, lần đầu tiên Đảng ta ra nghị
quyết chuyên đề Về công tác dân tộc, nhằm khẳng định vị trí vai trò chiến lược cơ bản, lâu dài
của vấn đề dân tộc, đoàn kết dân tộc, thành tựu, hạn chế của công tác dân tộc trong thời gian


qua, đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân của thực trạng đó; đồng thời, xác định
những quan điểm, nguyên tắc, mục tiêu, nội dung, giải pháp thực hiện công tác dân tộc trong
thời gian tới. Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các nhà khoa học cũng đặc biệt quan
tâm, nghiên cứu về vấn đề này. Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh có bài: “Mấy vấn đề bức thiết
đối với các vùng dân tộc thiểu số hiện nay”, Tạp chí Cộng sản tháng 8/1992; TS. Hoàng
Trang - TS. Phạm Ngọc Anh: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội”, Nxb CTQG, H. 2000...

Về quan điểm, chính sách dân tộc, bình đẳng dân tộc cũng đã được các nhà khoa học trong
và ngoài Quân đội luôn quan tâm nghiên cứu. Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh - Viện Thông tin khoa học: “Đổi mới chính sách dân tộc - quan điểm,
chính sách và thành quả”, H. 1996; GS. TS. Trịnh Quốc Tuấn: “Bình đẳng dân tộc ở nước ta
hiện nay - vấn về và giải pháp”, Nxb CTQG, H. 1996; GS. TS. Phan Hữu Dật: “Góp phần
nghiên cứu về dân tộc Việt Nam”, Nxb CTQG, H. 2004; TS. Bùi Thị Ngọc Lan: “Quan niệm
về công bằng, bình đẳng và tương trợ cùng phát triển giữa các tộc người ở Việt Nam”, Thông
tin CNXH khoa học - Lý luận và thực tiễn, số 6/2005; Phạm Hoàng Giang: “Quan điểm,
chính sách của Đảng và Nhà nước về bình đẳng dân tộc và việc thực hiện chính sách bình
đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết học, H. 2006...
Về tổ chức thực hiện CSDT của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới, cũng có nhiều
công trình nghiên cứu: Hoàng Đức Nghi: “Xoá đói giảm nghèo ở miền núi, vùng sâu, vùng
xa, vùng đặc biệt khó khăn”, Tạp chí Dân vận, tháng 01/2000; Hà Quế Lâm: “Xoá đói giảm
nghèo ở vùng dân tộc thiểu số nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp”, Nxb CTQG, H.
2002; TS. Mẫn Văn Mai (chủ nhiệm): “Quân đội nhân dân Việt Nam thực hiện chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước trong tình hình mới”, Đề tài cấp Tổng cục Chính trị, H. 2002;
Đinh Văn Hưng: “Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc từ năm 1986
đến năm 2003”, Luận văn thạc sĩ Lịch sử H. 2004...


Chính sách dân tộc và thực hiện CSDT của Đảng và Nhà nước ta trên địa bàn Tây Nguyên
trong những năm qua đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. PGS. TS. Nguyễn
Quốc Phẩm: “Thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo ở Tây Nguyên”, Tạp chí
Lý luận chính trị - Học viện CTQG Hồ Chí Minh, tháng 2/2003; PGS. TS. Nguyễn Hữu Tri
(chủ nhiệm): “Củng cố và tăng cường hệ thống chính trị cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu số
theo đạo Tin Lành ở các tỉnh Tây Nguyên”, Đề tài khoa học cấp Bộ, H. 2004; PGS. TS.
Trương Minh Dục: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Tây
Nguyên”, Nxb CTQG, H. 2005...
Các công trình khoa học trên đã đề cập đến những khía cạnh, với những đối tượng, ở phạm
vi khác nhau, là những tài liệu quan trọng để tác giả tham khảo, kế thừa trong nghiên cứu luận

văn này. Nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu dưới góc độ chính trị - xã hội một cách cơ
bản về vấn đề: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng dân tộc trong thực hiện
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay”. Vì vậy,
đề tài luận văn không trùng lặp với các công trình đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích:
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về BĐDT; đánh giá thực trạng vận dụng tư tưởng của
Người trong thực hiện CSDT của Đảng và Nhà nước ta; từ đó đề xuất những giải pháp nhằm
thực hiện tốt hơn sự BĐDT trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh,
góp phần phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng thành công CNXH và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Nhiệm vụ:
- Làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về BĐDT và sự vận dụng của Đảng, Nhà nước ta trong
các thời kỳ cách mạng theo tư tưởng của Người.


- Đánh giá thực trạng sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về BĐDT trong thực hiện CSDT
của Đảng, Nhà nước ta trên địa bàn Tây Nguyên và nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm thực hiện tốt hơn nữa CSDT của Đảng và Nhà
nước ta trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng:
Nghiên cứu sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về BĐDT trong thực hiện CSDT của Đảng
và Nhà nước ta trên địa bàn Tây Nguyên trong thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay).
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn chủ yếu đề cập BĐDT trong quan hệ giữa các dân tộc trên địa bàn Tây Nguyên
và ở Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận:
Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà

nước ta về vấn đề dân tộc, giải quyết vấn đề dân tộc, BĐDT.
- Cơ sở thực tiễn:
Thực trạng thực hiện CSDT trên địa bàn Tây Nguyên từ năm 1986 đến nay thông qua các
số liệu tổng kết, đánh giá trong các văn kiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng, số liệu đánh giá của
Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, Ban Dân tộc; các nghị quyết, chỉ thị của tỉnh uỷ, ủy ban nhân dân
các tỉnh ở Tây Nguyên, và kết quả khảo sát, điều tra của tác giả.
- Phương pháp nghiên cứu:


Luận văn dựa vào phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử; kết hợp với sử dụng các phương pháp lô gíc - lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống
kê, so sánh, tổng kết thực tiễn, điều tra xã hội học và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về
BĐDT và thực hiện chính sách CSDT ở nước ta nói chung, trên địa bàn Tây Nguyên nói
riêng.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho lãnh đạo, chính quyền, các tổ chức chính trị xã hội ở các tỉnh trên địa bàn Tây Nguyên trong thực hiện CSDT của Đảng và Nhà nước ta
hiện nay. Đồng thời, có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy những nội
dung có liên quan ở các nhà trường trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của luận văn
Gồm phần mở đầu, 2 chương, 4 tiết, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BÌNH ĐẲNG DÂN TỘC VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA
ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA TRONG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC QUA CÁC
THỜI KỲ CÁCH MẠNG
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng dân tộc
Bàn về bình đẳng, Từ điển Bách khoa Việt Nam viết: “Bình đẳng là sự được đối xử như
nhau về các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá... không phân biệt thành phần và địa vị xã hội,
trong đó trước tiên là bình đẳng trước pháp luật”[74, tr.232]. Trong mỗi giai đoạn phát triển
của lịch sử, người ta có những quan niệm và đánh giá khác nhau về bình đẳng, nó phụ thuộc

vào địa vị, lợi ích của từng giai cấp, tầng lớp và trình độ phát triển của giai đoạn lịch sử ấy.


Dưới chế độ công xã nguyên thủy, trong điều kiện kinh tế - xã hội còn còn thấp, bình đẳng
mang tính tự phát và đồng nhất với công bằng giữa các thành viên trong xã hội. Trong xã hội
chiếm hữu nô lệ, vấn đề bình đẳng và bất bình đẳng tồn tại song song với nhau, bình đẳng
thuộc về giai cấp chủ nô và bất bình đẳng thuộc về giai cấp nô lệ. Dưới xã hội phong kiến, về
cơ bản không có sự bình đẳng giữa người với người vì mọi quyền hành đều tập trung trong
tay vua chúa phong kiến.
Dưới xã hội tư bản, tư tưởng “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” là một giá trị văn minh tiến bộ
của nhân loại đã bị giai cấp tư sản lợi dụng làm phương tiện để lừa bịp quần chúng nhân dân.
Họ cho rằng, bình đẳng là ai cũng có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu tài sản riêng.
Quan niệm đó không bao hàm sự cần thiết phải thủ tiêu giai cấp bóc lột, chế độ bóc lột và sự
bất bình đẳng. Cho nên, trong xã hội tư bản, không thể có bình đẳng triệt để vì còn tồn tại tình
trạng không bình đẳng trong quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất - cơ sở của sự bóc lột giai
cấp, áp bức dân tộc, đặc quyền, đặc lợi và bất bình đẳng trong xã hội.
Chủ nghĩa Mác cho rằng, bình đẳng là một sản phẩm mang tính lịch sử, phụ thuộc vào điều
kiện xã hội - lịch sử nhất định. Không thể có sự bình đẳng thật sự nếu không thủ tiêu chế độ
chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và xoá bỏ các giai cấp bóc lột. Theo đó, bình đẳng thật
sự, hoàn toàn chỉ được tạo ra và thực hiện dưới chủ nghĩa cộng sản.
Bình đẳng xã hội là một khái niệm có nội dung toàn diện cả về kinh tế, chính trị, văn hoá,
xã hội; bình đẳng giữa con người với con người, dân tộc với dân tộc, bình đẳng về quyền lợi
và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ. Trong đó, BĐDT là một mặt, một bộ phận rất cơ bản
của bình đẳng xã hội.
Từ những vấn đề trên, có thể khái quát: Bình đẳng dân tộc là một mặt của bình đẳng xã
hội, đó là sự ngang nhau về nghĩa vụ và quyền lợi; về cơ hội và điều kiện phát triển giữa các
dân tộc trong một quốc gia đa dân tộc, giữa các quốc gia - dân tộc trong quan hệ quốc tế,


diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, không phân biệt trình độ phát triển, chế

độ chính trị, dân tộc đa số hay thiểu số, quốc gia lớn hay nhỏ.
Bình đẳng dân tộc cần được hiểu một cách đầy đủ cả ở phạm vi quốc gia - dân tộc và phạm
vi quốc tế. Trên phạm vi quan hệ quốc tế, BĐDT là sự ngang nhau về quyền lợi và nghĩa vụ
giữa các quốc gia - dân tộc, không phân biệt quốc gia - dân tộc lớn hay nhỏ, văn minh hay lạc
hậu, phát triển hay đang phát triển. Trong phạm vi quốc gia, BĐDT là sự ngang nhau giữa các
tộc người trong cộng đồng dân tộc trên tất cả các lĩnh vực, cả cơ hội và điều kiện để phát
triển, không phân biệt dân tộc đa số hay dân tộc thiểu số, miền núi hay miền xuôi.
Mặt khác, BĐDT trong quốc gia đa dân tộc là một giá trị định hướng xã hội nhằm đảm
bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của mỗi tộc người hoàn toàn bình đẳng trong tham gia vào
các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong quan hệ gắn bó hữu cơ với các tộc người khác trong
một quốc gia đa dân tộc, luôn phụ thuộc vào điều kiện của quốc gia dân tộc đó[29, tr.23].
1.1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về BĐDT được hình thành trên cơ sở kế thừa, tiếp thu những giá
trị tinh thần, truyền thống yêu nước, đoàn kết, tương thân, tương ái của dân tộc Việt Nam; tư
tưởng bình đẳng của nhân loại và được nâng lên một trình độ mới - BĐDT mác xít khi tiếp
thu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân tộc, vấn đề dân tộc và BĐDT.
* Từ giá trị tinh thần, truyền thống yêu nước, đoàn kết, tương thân, tương ái, nhân nghĩa
của dân tộc Việt Nam
Yêu chuộng hoà bình, độc lập, tự do vươn đến bình đẳng xã hội là giá trị văn hoá của dân
tộc ta được đúc kết trong quá trình dựng nước và giữ nước, trở thành truyền thống quý báu
của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó được kết tinh từ cái “cốt nhân dân” sâu sắc, bao hàm
cả những tư tưởng về đoàn kết, tương thân, tương ái, nhân nghĩa, vị tha, tự trọng; cả lý tưởng
về dân chủ và công bằng xã hội. Do đó, nó được phát huy trong suốt chiều dài lịch sử, trở
thành động lực tinh thần chủ yếu thúc đẩy Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước giải


phóng dân tộc, đem lại tự do, bình đẳng cho nhân dân Việt Nam vào đầu thế kỷ XX. Người
đúc kết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa
đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng
vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán

nước và lũ cướp nước”[46, tr.171].
Lòng vị tha, tinh thần tương thân, tương ái, tinh thần tự tôn, tính tự lực, tự cường của dân
tộc ta là truyền thống tốt đẹp, được biểu hiện rõ trong cách ứng xử tình nghĩa, tinh thần đoàn
kết gắn bó “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống những chung một giàn”, “gà cùng
một mẹ chớ hoài đá nhau, ở nghĩa cử cao đẹp “lá lành đùm lá rách”, “một miếng khi đói bằng
một gói khi no”... Những giá trị tinh thần, truyền thống tốt đẹp đó là cơ sở cho sự hình thành
tư tưởng Hồ Chí Minh về BĐDT.
* Từ tinh hoa văn hoá và thực tiễn đấu tranh cho bình đẳng của nhân loại
Tư tưởng bình đẳng của nhân loại tiến bộ trên thế giới là những “chất liệu” được Hồ Chí
Minh tiếp biến phù hợp với ý chí và nguyện vọng của toàn thể dân tộc Việt Nam. Đó là, tư
tưởng mong muốn về một cuộc sống công bằng, bình đẳng, ấm no, hạnh phúc, từ bi, hỷ xả
trong Phật giáo; tinh thần nhân ái, mong muốn xây dựng một thế giới đại đồng của Khổng Tử
nói riêng và trong Nho giáo nói chung, được Hồ Chí Minh chọn lọc những yếu tố hợp lý, hoà
quyện với tư tưởng giải phóng dân tộc của Người.
Tư tưởng “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” là kết quả trực tiếp của cuộc cách mạng tư sản, là giá
trị văn minh, tiến bộ của nhân loại. Đây là cơ sở để Hồ Chí Minh tiếp thu, lựa chọn hướng đi
tìm con đường giải phóng cho dân tộc Việt Nam. Khi mới mười ba tuổi, Người đã nghe và rất
muốn làm quen với nền văn minh Pháp, nơi khởi nguồn những tư tưởng “Tự do, Bình đẳng,
Bác ái”. Khi là một đảng viên của Đảng Xã hội Pháp, Người nhận thấy rằng chỉ có Đảng Xã
hội Pháp là tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” và Người đã đấu
tranh thực hiện lý tưởng ấy cho dân tộc Việt Nam.


Thực tiễn đấu tranh cho tự do, bình đẳng của nhân loại tiến bộ trên thế giới là những cơ sở
rất quan trọng trong sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về BĐDT. Người đã nghiên cứu lịch
sử thế giới cũng như cuộc đấu tranh cho tự do, bình đẳng của nhân loại từ khởi nghĩa của
Spác-ta quýt, cuộc đấu tranh của nhân dân Bắc Mỹ (từ 1776 đến 1785), Công xã Pari (1871)
đến cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Ấn Độ, Cao Ly, Philíppin, Inđônêxia,
Tàu... đều chống lại cường quyền, áp bức, giành quyền tự do, bình đẳng cho con người. Đây
là những kinh nghiệm thực tiễn phong phú cho Hồ Chí Minh tiếp thu từng bước hình thành tư

tưởng về BĐDT.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 là thực tiễn đầy đủ và sinh động nhất về đấu tranh
cho BĐDT của nhân loại tiến bộ trên thế giới. Hồ Chí Minh nhận xét: “Trong thế giới bây giờ
chỉ có cách mạng Nga là đã thành công và thành công đến nơi. Nghĩa là dân chúng được
hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật. Không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế
quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam”[39, tr.280]. Sau Cách mạng XHCN tháng
Mười Nga, phong trào giải phóng dân tộc, đòi quyền tự do bình đẳng của các dân tộc thuộc
địa và phụ thuộc trên thế giới phát triển mạnh mẽ. Thực tiễn đấu tranh cho tự do, bình đẳng
của nhân loại tiến bộ trên thế giới là thực tiễn phong phú để Hồ Chí Minh khái quát những tư
tưởng về BĐDT.
* Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bình đẳng dân tộc
Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc và BĐDT là nhân tố quyết định
đến bản chất khoa học, cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về BĐDT.
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, chỉ có giai cấp công nhân lãnh đạo, thông qua cuộc
cách mạng XHCN mới có thể giải quyết triệt để vấn đề BĐDT, BĐDT là một mặt của bình
đẳng xã hội.
Từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu những
quan điểm cơ bản của C.Mác và Ph.Ăngghen về bản chất cách mạng triệt để của giai cấp công


nhân. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, các Ông đã chỉ ra rằng: cuộc đấu tranh của giai
cấp vô sản nhằm lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản, thực chất là xoá bỏ tình trạng người
bóc lột người, dân tộc này áp bức dân tộc khác, từ đó xoá bỏ tình trạng dân tộc này có đặc
quyền đặc lợi hơn so với dân tộc khác: “Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ
dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc đồng thời cũng mất theo”[36, tr.624].
Như vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra “cái gốc” của sự bất BĐDT là do bất bình đẳng giai
cấp; việc giải quyết vấn đề BĐDT là một bộ phận không thể thiếu trong cương lĩnh cách
mạng của giai cấp vô sản nhằm thực hiện bình đẳng xã hội nói chung. Theo đó, thực hiện bình
đẳng xã hội nói chung là mục tiêu bao trùm, có ý nghĩa quyết định đến bình đẳng giữa các dân
tộc. Ngược lại, BĐDT được thực hiện là một trong những nhân tố thúc đẩy bình đẳng xã hội

trở thành hiện thực. Không xoá bỏ sự bất bình đẳng giữa người với người thì không xoá được
bất BĐDT và không xoá bỏ bất BĐDT thì cũng không có bình đẳng xã hội thật sự. Cho nên,
giải phóng dân tộc và thực hiện BĐDT một cách triệt để chỉ có thể là sự nghiệp của giai cấp
công nhân thế giới.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, BĐDT trước hết phải thủ tiêu tình trạng giai cấp này áp bức
giai cấp khác, trên cơ sở đó xoá bỏ tình trạng dân tộc này nô dịch, áp bức dân tộc khác. Tiếp
đó, phải từng bước khắc phục tình trạng chênh lệch trong sự phát triển giữa các dân tộc, tạo
điều kiện thuận lợi cho các dân tộc còn ở trình độ lạc hậu tiến đến trình độ văn minh, tiến bộ.
Chỉ có cuộc cách mạng của giai cấp vô sản mới có khả năng xoá bỏ tận gốc cơ sở của sự bất
bình đẳng, đó là chế độ tư hữu và giai cấp. V.I.Lênin cũng khẳng định, xoá bỏ giai cấp là xoá
bỏ tận gốc sự bất công và bất bình đẳng, là điều kiện để phát triển bình đẳng xã hội lên một
bước mới - bình đẳng thật sự cho mọi cá nhân và mọi dân tộc. Chỉ có chế độ Xô viết là chế độ
có thể thật sự bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc ở Liên bang Nga và Liên bang Xô
viết.
Chủ nghĩa Mác - Lê nin khẳng định, BĐDT là quyền cơ bản, thiêng liêng của các dân tộc.


Trong Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa, V.I.Lênin đã chỉ ra rằng “các dân tộc
hoàn toàn bình đẳng”. Đây là nội dung cơ bản trong Cương lĩnh dân tộc của đảng cộng sản,
đồng thời là một trong những tiêu chí căn bản khẳng định tính mác xít chân chính của những
người cộng sản. Theo V.I.Lênin, BĐDT là quyền như nhau (ngang nhau) về nghĩa vụ và
quyền lợi của các dân tộc không phân biệt chủng tộc, màu da. Quyền bình đẳng giữa các dân
tộc là kết quả đấu tranh của nhân dân lao động, là quyền cơ bản, thiêng liêng của các dân tộc.
Người kết luận: “Nguyên tắc bình đẳng hoàn toàn gắn liền chặt chẽ với việc bảo đảm quyền
lợi của các dân tộc thiểu số... bất cứ một thứ đặc quyền nào dành riêng cho một dân tộc, và bất
cứ một sự vi phạm nào tới quyền lợi của một dân tộc thiểu số đều bị bác bỏ”[31, tr.179].
Quyền BĐDT gắn bó chặt chẽ với quyền tự quyết và liên hiệp giai cấp công nhân ở các
dân tộc. Theo V.I.Lênin, BĐDT còn được biểu hiện trong ý thức dân tộc, sự thức tỉnh và vùng
lên đấu tranh giành độc lập dân tộc, bảo đảm quyền quyết định sự phát triển cho dân tộc mình
và xu hướng các dân tộc xích lại gần nhau trên cơ sở tự nguyện. Trong thời đại hiện nay - thời

đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới, quyền tự quyết đó là
quyền tự quyết định vận mệnh, lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát triển của dân tộc
mà các dân tộc khác không được can thiệp. Do đó, vấn đề độc lập dân tộc và BĐDT luôn đặt
ra cấp thiết, là quyền cơ bản, thiêng liêng của các dân tộc.
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, quyền BĐDT phải được ghi nhận về mặt pháp lý và
được thực hiện toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trung thành với quan điểm của Mác - Ăngghen, V.I.Lênin khẳng định: “Những công dân
thuộc tất cả các dân tộc cư trú ở Nga đều bình đẳng trước pháp luật”[33, tr.21]. Người còn
nhấn mạnh, giai cấp vô sản phải coi BĐDT là một trong những mục tiêu quan trọng nhất
trong sự nghiệp cách mạng của mình. “Giai cấp công nhân phải tỏ rõ lòng tin của mình vào sự
cần thiết phải có được quyền bình đẳng hoàn toàn, phải bãi bỏ hoàn toàn và triệt để bất cứ đặc
quyền của bất cứ dân tộc nào”[34, tr.100]. Phải coi trọng hơn hết quyền BĐDT một cách toàn
diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội không kể dân tộc lớn hay dân tộc nhỏ. V.I. Lênin


đặc biệt chú ý đến tác hại của sự bất công - tức là không bình đẳng, vì nó kìm hãm sự phát
triển và củng cố khối đại đoàn kết giai cấp, đoàn kết dân tộc. Cho nên, “công nhân tất cả các
dân tộc Nga hãy đoàn kết lại, vì chỉ có sự đoàn kết đó mới có khả năng bảo đảm quyền bình
đẳng của các dân tộc, quyền tự do của nhân dân và lợi ích của chủ nghĩa xã hội”[34, tr.85].
Bình đẳng dân tộc phải được thực hiện trên thực tế, phải xoá bỏ sự bất bình đẳng. Thực
hiện BĐDT đòi hỏi phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ các dân tộc theo tinh thần xích lại
gần nhau, hoà hợp với nhau; phải có sự nỗ lực, tự vươn lên của từng dân tộc. Nghĩa là phải
kết hợp “nội lực” và “ngoại lực” mới có thể xoá bỏ sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa
các dân tộc.
Để thực hiện BĐDT phải đấu tranh khắc phục chủ nghĩa dân tộc sô vanh nước lớn, chủ
nghĩa dân tộc hẹp hòi, tự ti dân tộc.
Đấu tranh khắc phục chủ nghĩa dân tộc cực đoan dưới mọi hình thức là yếu tố không thể
thiếu và luôn gắn liền với thực hiện BĐDT. V.I.Lênin cho rằng: “Cần phải phân biệt chủ
nghĩa dân tộc của dân tộc đi áp bức với chủ nghĩa dân tộc của dân tộc bị áp bức, chủ nghĩa
dân tộc của một dân tộc lớn và chủ nghĩa dân tộc của một dân tộc nhỏ”[35, tr.410]. Muốn

thực hiện BĐDT phải kiên quyết chống chủ nghĩa dân tộc cực đoan dưới mọi hình thức. Vì
thứ chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ dẫn đến thiếu tôn trọng hoặc đối xử không bình đẳng với các dân
tộc khác, làm nảy sinh những mâu thuẫn, xích mích, thậm chí xung đột giữa các dân tộc.
Đồng thời, phải chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, xu hướng khép kín, đóng cửa, biệt lập,
bài xích một cách mù quáng, không giữ mối quan hệ giao lưu, hợp tác giữa các dân tộc,
không muốn tiếp thu những những tinh hoa văn hoá, những mặt tích cực của các dân tộc anh
em. Chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi làm cản bước tiến của các dân tộc còn ở trình độ phát triển
thấp trong quá trình vươn lên thực hiện bình đẳng với dân tộc khác.


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về BĐDT là nhân tố cơ bản quyết
định sự hình thành, bản chất và đã nâng tư tưởng Hồ Chí Minh về BĐDT lên trình độ mới bình đẳng dân tộc mác xít chân chính.
* Từ những phẩm chất đặc biệt của Hồ Chí Minh
Yêu nước, thương dân, ý chí khát khao độc lập là động lực lớn thúc đẩy Nguyễn Tất
Thành ra đi tìm đường cứu nước và giải phóng cho dân tộc Việt Nam. Điều đó được kết tinh
trong mục đích và cuộc đời hoạt động cách mạng của Người là: làm cho nước ta hoàn toàn
độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học
hành.
Trí tuệ uyên bác, tư duy sáng tạo, nhạy bén, nghị lực phi thường, ham hiểu biết là hành
trang giúp Hồ Chí Minh tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, nắm bắt bản chất cách
mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, hình thành phương pháp khoa học trong hoạt động thực
tiễn. Người không chỉ hiểu biết nhiều thứ tiếng, mà còn tiếp thu được nhiều nền văn hoá trên
thế giới; ở Người đã hội tụ đầy đủ tinh hoa văn hoá Đông - Tây - Kim - Cổ. Trí tuệ và con
người Hồ Chí Minh đã được UNESCO công nhận là nhà văn hoá lớn thế giới; Ôsíp
Manđenxtam nhận xét: Từ Nguyễn Ái Quốc toả ra một nền văn hoá không phải là văn hoá
châu Âu mà là nền văn hoá tương lai. Đây là một trong những phẩm chất đặc biệt, giúp Người
vượt qua mọi khó khăn, thách thức để thực hiện mục đích giải phóng cho dân tộc, đem lại tự
do, hạnh phúc, bình đẳng cho dân tộc Việt Nam.
Hoạt động nghiên cứu lý luận và thực tiễn phong phú là cơ sở quyết định sự ra đời tư
tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng về BĐDT nói riêng. Là người Việt Nam yêu nước

đầu tiên tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện Việt Nam. Người
đã tìm thấy “cái cẩm nang” cho con đường giải phóng dân tộc Việt Nam trong Cương lĩnh
dân tộc của V.I.Lênin. Gần 30 năm hoạt động ở nhiều nước, hầu khắp các châu lục, trọn đời


dành cho cách mạng Việt Nam, là cơ sở thực tiễn phong phú cho Người luận giải, khái quát
những tư tưởng về giải phóng dân tộc và BĐDT.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về BĐDT hình thành là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa những điều
kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong thời đại mới. Trong đó, những phẩm chất đặc biệt
đã giúp cho Hồ Chí Minh có khả năng tiếp biến giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam, tư
tưởng và thực tiễn đấu tranh cho BĐDT của nhân loại tiến bộ, quan điểm chủ nghĩa Mác Lênin về vấn đề dân tộc và BĐDT, từ đó hình thành những luận điểm khoa học về BĐDT.
Đây là cơ sở cho Đảng và Nhà nước ta đề ra quan điểm, CSDT đúng đắn và thực hiện bình
đẳng thật sự cho dân tộc Việt Nam.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về BĐDT:
Bình đẳng dân tộc, đó là quyền được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền
giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc mình, quyền độc lập, tự do cho dân tộc, ấm no,
hạnh phúc cho đồng bào các dân tộc trong đại gia đình dân tộc Việt Nam và quyền ngang
nhau về mọi mặt giữa các quốc gia - dân tộc trong cộng đồng quốc tế. Theo nghĩa bao trùm
nhất, BĐDT theo Hồ Chí Minh là khẳng định và thực hiện quyền được sống và được đối xử
như nhau giữa dân tộc Việt Nam với tất cả các quốc gia - dân tộc khác trên thế giới trong
quan hệ quốc tế và trên mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội giữa các tộc người
trên đất nước Việt Nam thống nhất.
Trong quan hệ quốc tế, đó là bình đẳng giữa dân tộc Việt Nam với các dân tộc khác trên
thế giới. Đây là tư tưởng hình thành rất sớm, ngày 18-6-1919, thay mặt Hội những người Việt
Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã gửi đến Hội nghị Véc-xây Bản yêu sách của
nhân dân An Nam, đòi chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do bình đẳng và dân chủ
cho dân tộc ta. Khi Cách mạng tháng Tám thành công, trong Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã tuyên bố quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam với toàn thế giới. Khi quyền
bình đẳng đó bị xâm phạm, Người khẳng định quyết tâm phải giữ gìn và thực hiện quyền bình



đẳng đó: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không
chịu làm nô lệ”[45, tr.480]. Không có gì quí hơn độc lập, tự do là quan niệm hết sức độc đáo
của Hồ Chí Minh về BĐDT trên phạm vi quốc tế.
Trong quan hệ giữa các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh quan
niệm BĐDT là sự được đối xử ngang nhau trên mọi lĩnh vực giữa các dân tộc trong đại gia
đình dân tộc Việt Nam. Đó là sự tôn trọng quyền bình đẳng giữa các tộc người, xoá bỏ sự áp
bức, bất bình đẳng tộc người. “Bây giờ chúng ta, tất cả các dân tộc Kinh, Thái, Mường, Mẹo,
Mán, Xá, Puộc, v.v. đều là anh em ruột thịt một nhà chứ không phải Kinh ăn hiếp Thái, Thái
ăn hiếp Xá, Puộc như trước nữa”[51, tr.443].
Như vậy, quan niệm của Hồ Chí Minh về BĐDT có nội hàm rất rộng, với những mối quan
hệ xác định, tạo thành một thể thống nhất, gắn bó chặt chẽ với mục tiêu độc lập dân tộc và
CNXH ở nước ta. Trong luận văn này, vấn đề BĐDT được tác giả đề cập chủ yếu ở quan hệ
giữa các tộc người trên đất nước Việt Nam, trực tiếp là giữa các tộc người trên địa bàn Tây
Nguyên.
1.1.2. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về BĐDT có nội hàm rộng lớn, phong phú, sinh động, nhiều góc
độ, có thể khái quát một số nội dung cơ bản sau:
Một là, BĐDT là quyền tất yếu được hưởng của các dân tộc trên phạm vi quốc tế, cũng
như giữa các dân tộc trong một quốc gia đa tộc người.
Theo Hồ Chí Minh, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng về mọi mặt là một tất yếu khách quan
trong sự phát triển của lịch sử xã hội loài người. Trong Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà, ngày 2-9-1945, Người khẳng định: Tất cả mọi người đều sinh ra
có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong
những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. “Suy rộng ra
câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra có quyền bình đẳng, dân tộc nào


cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Đó là những lẽ phải không ai có thể
chối cãi được”[41, tr.1]. Sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đã nâng quyền bình đẳng của

con người lên thành quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Quyền bình đẳng ấy là lẽ tự nhiên của
tất cả các dân tộc chứ không phải do một đấng siêu nhiên nào ban tặng. Do đó, dân tộc Việt
Nam cũng tất yếu được hưởng quyền độc lập, tự do, bình đẳng với các dân tộc khác. Nhân
dân ta quyết đem hết tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để bảo vệ, gìn giữ quyền
độc lập, tự do, bình đẳng ấy.
Trong phạm vi quốc gia - dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn tôn trọng và khẳng định
các tộc người hoàn toàn bình đẳng về mọi mặt. Theo Người, nước ta là một nước thống nhất
gồm nhiều dân tộc. Các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và
nghĩa vụ, gắn bó máu thịt với nhau trên một lãnh thổ chung và trải qua một lịch sử lâu đời
cùng nhau lao động và đấu tranh để xây dựng, bảo vệ Tổ quốc tươi đẹp. Như vậy, bình đẳng
giữa các tộc người ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh luôn gắn với đoàn kết, tôn trọng,
giúp đỡ nhau vì mục tiêu chung: xây dựng một nước Việt Nam độc lập thống nhất, xây dựng
xã hội mới, một xã hội không có chế độ người bóc lột người, một xã hội bình đẳng, đoàn kết
giữa các dân tộc, cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bình đẳng dân tộc trong quốc gia đa tộc theo Hồ Chí Minh, trước hết là bình đẳng giữa các
dân tộc thiểu số với dân tộc đa số và giữa tất cả các dân tộc với nhau. Người đặc biệt quan
tâm đến đồng bào các dân tộc thiểu số, trong Lời phát biểu tại Hội nghị đại biểu các dân tộc
thiểu số Việt Nam ngày 3-12-1945, Người nói: “Anh em dân tộc thiểu số của chúng ta sẽ
được: Dân tộc bình đẳng, Chính phủ sẽ bãi bỏ hết những điều hủ tệ cũ, bao nhiêu bất bình
đẳng trước sẽ sửa chữa đi”[42, tr.110].
Trong Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá I nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà ngày 18-12-1959, Người nêu rõ: “Nước ta là một nước thống nhất
gồm nhiều dân tộc. Các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và
nghĩa vụ”[52, tr.587].


Hai là, BĐDT thực sự chỉ có thể xác lập bằng con đường cách mạng vô sản, gắn với độc
lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân và công bằng xã hội.
Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh khẳng định, BĐDT không chỉ nêu
thành một khẩu hiệu mà phải được thực hiện trên thực tế. Muốn có bình đẳng trên thực tế chỉ

có con đường duy nhất là thông qua con đường cách mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc với
CNXH. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản”[50, tr.314].
Thực chất, luận điểm trên Hồ Chí Minh đã giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa quyền
BĐDT với nền độc lập thực sự, hoàn toàn của mỗi dân tộc. Muốn có BĐDT trước hết dân tộc
đó phải được độc lập và nền độc lập đó phải là nền độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn. Theo
Người, nếu nước mà không giành được độc lập thì dân cũng không được hưởng hạnh phúc, tự
do, bình đẳng; quyền lợi giai cấp vạn năm cũng không đòi lại được và như thế dân tộc ta phải
chịu mãi kiếp ngựa trâu. Nhưng nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc,
tự do thì độc lập ấy chẳng có nghĩa lý gì. Cho nên, “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách
nô lệ”[53, tr.128], mới thực hiện bình đẳng tộc người trong một quốc gia đa tộc một cách triệt
để. Theo Người, lộ trình để thực hiện quyền BĐDT, trước hết là làm cách mạng tư sản dân
quyền để dân tộc được độc lập, sau đó “phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa mới
giành thắng lợi hoàn toàn”[61, tr.305]. Có như vậy, các dân tộc thiểu số được bình đẳng với
dân tộc đa số, tất cả đều như anh em một nhà, không có sự phân biệt về nòi giống, tiếng nói.
Nói tóm lại, muốn thực hiện BĐDT phải thông qua con đường cách mạng XHCN.
Ba là, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được xác định trong Hiến pháp, pháp luật
và được thực hiện trên thực tế; thể hiện toàn diện trên mọi lĩnh vực; bình đẳng cả về quyền
và nghĩa vụ; gắn với trình độ phát triển của đất nước; là quá trình phấn đấu lâu dài.


Theo Hồ Chí Minh, quyền BĐDT trước hết phải được bảo đảm về mặt pháp lý. Bởi một xã
hội văn minh là một xã hội sống theo pháp luật “trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Cho
nên, khi giành được chính quyền về tay nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo ngay và
tổ chức càng sớm càng tốt cuộc Tổng tuyển cử trong cả nước theo chế độ phổ thông đầu
phiếu. Vì “Tổng tuyển cử tức là tự do, bình đẳng, tức là dân chủ, đoàn kết’’[43, tr.133], mọi
người dân thuộc các dân tộc khác nhau nếu không vi phạm pháp luật, đều có quyền làm chủ
đất nước. Ngày 6 tháng 01 năm 1946, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, nhân dân các dân tộc
Việt Nam được đi bỏ phiếu bầu ra Quốc hội, sau đó đã ra bản Hiến pháp đầu tiên của nước

Việt Nam dân chủ cộng hoà. Đây là cơ sở pháp lý bảo đảm cho thực hiện quyền BĐDT ở
nước ta.
Trên cơ sở phê phán sự BĐDT giả hiệu bó hẹp của giai cấp tư sản, tiếp thu tư tưởng
BĐDT mác xít, từ thành quả, kinh nghiệm của Cách mạng XHCN tháng Mười Nga và từ thực
trạng đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số, Hồ Chí Minh cho rằng thực hiện BĐDT
phải làm cho đồng bào các dân tộc ít người được hưởng ngày càng đầy đủ hơn những quyền
lợi về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, miền núi tiến kịp miền xuôi.
Theo Hồ Chí Minh, BĐDT phải được thể hiện một cách toàn diện trên mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội, trước hết là về kinh tế. BĐDT về kinh tế đóng vai trò quan trọng, làm nền
tảng, tạo cơ sở vật chất và xét đến cùng quyết định đến thực hiện BĐDT trên các lĩnh vực
khác. Cách tiếp cận trên thực sự khoa học, thể hiện sự trung thành với quan điểm của các nhà
kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin: đời sống vật chất quyết định đời sống tinh thần, có bình
đẳng về kinh tế mới có bình đẳng về chính trị, văn hoá, xã hội. Đồng thời, đó là sự tiếp thu tư
tưởng Việt Nam: “có thực mới vực được đạo”, “dĩ thực vi tiên”.
Muốn thực hiện BĐDT về kinh tế, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng và Nhà nước ta phải tạo
điều kiện, cơ hội cho các dân tộc thiểu số có sự phát triển đồng đều về trình độ kinh tế, về
phương thức, cách thức sản xuất, thu nhập, điều kiện ăn, mặc, ở, đi lại; làm cho đời sống và
sự sinh tồn của đồng bào các dân tộc được bảo đảm và miền núi tiến kịp miền xuôi. Chừng


nào còn tồn tại sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế giữa các tộc người, thì chừng ấy
vẫn còn sự bất bình đẳng. Cho nên, phải từng bước thu hẹp và tiến tới xoá bỏ sự chênh lệch,
sự bất bình đẳng giữa các dân tộc. Khi giải quyết các mối quan hệ tộc người, phải quan tâm
và giải quyết tốt quan hệ kinh tế, lợi ích kinh tế. Bất kỳ đặc quyền kinh tế nào dành riêng cho
một dân tộc, đều có thể vi phạm lợi ích kinh tế của các dân tộc khác, dẫn đến sự bất BĐDT.
Mặt khác, trong quốc gia đa tộc người, sự thấp kém về trình độ phát triển kinh tế của một tộc
người không chỉ cản trở sự phát triển của bản thân tộc người ấy, mà còn là lực cản tiến trình
phát triển chung của cả cộng đồng dân tộc - quốc gia. Người viết: “Chủ nghĩa xã hội nghĩa là
tất cả mọi người các dân tộc ngày càng ấm no, con cháu ngày càng sung sướng”[55, tr.317].
Đồng thời, Hồ Chí Minh yêu cầu, Đảng và Nhà nước phải quan tâm giúp đỡ đồng bào các

dân tộc thiểu số phát triển về kinh tế: vận động đồng bào định canh, định cư; săn sóc, hướng
dẫn cho đồng bào thực hành tiết kiệm, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp,
xây dựng hệ thống thuỷ lợi, mở mang đường sá; kết hợp chặt chẽ công nghiệp địa phương,
thủ công nghiệp và nông nghiệp; đẩy mạnh sản xuất và chế biến... nhằm phát triển sản xuất,
nâng cao đời sống đồng bào. Với Hồ Chí Minh, đánh thắng “giặc đói, giặc nghèo” và lạc hậu
đối với toàn thể dân tộc nói chung và nâng cao đời sống cho đồng bào dân tộc thiểu số nói
riêng là mục đích trong CSDT của Đảng và Nhà nước ta. Vì thế, Người yêu cầu các cơ quan
Trung ương phải có kế hoạch đẩy mạnh phong trào miền núi phát triển về kinh tế cũng như về
văn hoá và tất cả các mặt. Cho nên, từng bước khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển
kinh tế giữa các tộc người, giữa các vùng, miền được xem là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
trong thực hiện BĐDT của Hồ Chí Minh.
Bình đẳng dân tộc về chính trị cũng được Hồ Chí Minh đề cập trên hai phạm vi. Trên
phạm vi quan hệ quốc tế, đó là quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam với các dân tộc khác
trên thế giới trong việc quyết định vận mệnh, lựa chọn chế độ chính trị, không một thế lực nào
có thể áp đặt hoặc cản trở con đường đi lên CNXH của dân tộc Việt Nam. Theo Người, ở
nước ta quyền lợi dân tộc, quyền lợi giai cấp công nhân, nhân dân lao động và quyền lợi Tổ


quốc là thống nhất. Nếu quyền lợi dân tộc chưa đòi được thì quyền lợi giai cấp đến vạn năm
cũng không đòi được. Theo đó, độc lập dân tộc và CNXH là nội dung cơ bản cốt lõi nhất
BĐDT về chính trị của các dân tộc ở Việt Nam.
Trong phạm vi quốc gia - dân tộc Việt Nam, theo Hồ Chí Minh, bình đẳng về chính trị đó
là “mọi công dân của nước Việt Nam không phân biệt dân tộc đều bình đẳng trước pháp luật”.
Các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam đều cùng có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau,
cùng chung lưng đấu cật đấu tranh chống thực dân, phong kiến thực hiện mục tiêu giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc
lập, thống nhất và CNXH. Đó là bình đẳng về quyền làm chủ Nhà nước, về quyền bầu cử và
ứng cử vào các cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến địa phương của mọi công dân thuộc các
dân tộc, hễ là công dân Việt Nam thì đều có quyền “tham chính” ngang nhau theo pháp luật,
không phân biệt dân tộc đa số hay thiểu số, tôn giáo, đảng phái, giàu nghèo. Người chỉ rõ,

quyền bình đẳng giữa các dân tộc về chính trị không chỉ được qui định trong Hiến pháp và
pháp luật mà quan trọng hơn là phải được thực hiện trên thực tế. Người khẳng định: “Từ khi
hoà bình lập lại đến nay, miền núi và trung du có nhiều tiến bộ lớn. Về chính trị các dân tộc
đều bình đẳng, dân chủ, đoàn kết”[59, tr.197].
Bình đẳng dân tộc về văn hoá, theo Hồ Chí Minh, trước hết là bình đẳng trong cơ hội phát
triển, nâng cao dân trí, trình độ học vấn và văn hoá của mỗi dân tộc; là việc thừa nhận và
khẳng định quyền được tôn trọng, bảo vệ, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá, ngôn ngữ,
phong tục, tập quán; quyền được học tập, được hưởng chế độ giáo dục như nhau giữa các dân
tộc. Theo Người, một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, nên muốn làm cách mạng thì phải học
văn hoá và đồng bào bây giờ phải biết chữ hết, để trả lời cho thế giới biết: nước ta là một
nước văn minh. Không thừa nhận, không tôn trọng nền văn hoá của các tộc người tức là
không thừa nhận, không tôn trọng tộc người đó - tức là không bình đẳng. Mọi quan điểm,
chính sách, thái độ, hành vi biểu hiện sự kỳ thị, cưỡng bức, đồng hoá văn hoá đều phải bị lên
án và bài trừ.


Bình đẳng dân tộc về văn hoá theo Hồ Chí Minh, thực chất là quyền được sống trong nền
văn hoá cũng như toàn bộ sinh hoạt xã hội và đời sống văn hoá của mình; quyền được sử
dụng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, được tiếp thụ và nâng cao trình độ hiểu biết tri
thức nhân loại phục vụ cho đời sống và sự phát triển nền, vốn văn hoá của các dân tộc; nâng
cao trình độ dân trí, quyền được hưởng thụ cũng như xây dựng nền văn hoá Việt Nam thống
nhất trong đa dạng của văn hoá tộc người; quyền được thực hành những phong tục, tập quán,
tín ngưỡng, tôn giáo đã trở thành biểu trưng và giá trị tinh thần - văn hoá của mỗi dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, để thực hiện BĐDT về văn hoá, cần phải tiến hành tốt công tác xoá
nạn mù chữ, làm cho phần đông trẻ em được cắp sách tới trường, mở mang hệ thống giáo dục
cho các dân tộc thiểu số, xoá bỏ hủ tục, tập quán lạc hậu, mê tín, dị đoan...
Do vậy, việc giữ gìn, phát huy các giá trị văn hoá, tiếng nói và chữ viết của các dân tộc
thiểu số là một vấn đề có tính nguyên tắc để bảo tồn văn hoá các dân tộc ở nước ta nói chung
và thực hiện BĐDT về văn hoá nói riêng. Ngay sau khi đất nước giành được độc lập, Người
đã đề nghị Chính phủ thành lập “Nha bình dân học vụ”, phát động phong trào toàn dân học

chữ, kiên quyết diệt trừ “giặc dốt” cũng như diệt giặc đói và giặc ngoại xâm. Trong chỉ đạo ra
Chính sách dân tộc thiểu số, Người luôn nhắc nhở phải tôn trọng tiếng nói và chữ viết của các
dân tộc, dân tộc thiểu số nào có sẵn chữ viết rồi thì dùng chữ viết ấy mà dạy trong các trường
cấp 1 phổ thông. Đối với dân tộc không có chữ viết thì dùng chữ quốc ngữ phiên âm tiếng địa
phương để dạy học; đồng thời cũng cần dạy kèm tiếng phổ thông và tiếng các dân tộc thiểu
số. Những tư tưởng trên thể hiện sự quan tâm của Hồ Chí Minh đến BĐDT về văn hoá, coi đó
là một trong những động lực thực hiện BĐDT trên các lĩnh vực khác.
Bình đẳng dân tộc về mặt xã hội, đó là quan hệ bình đẳng giữa những thiết chế xã hội của
các tộc người, thể hiện ở sự tôn trọng, không phân biệt tộc người đa số hay thiểu số, không
phân biệt trình độ phát triển cao hay thấp. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, bình đẳng về xã hội
là tạo điều kiện, cơ hội như nhau để những yếu tố thiết chế xã hội truyền thống tích cực của
các dân tộc đều được phát triển. Đồng thời, khắc phục, loại trừ những yếu tố xã hội lạc hậu,


tiêu cực trong các thiết chế xã hội truyền thống của các tộc người trong quan hệ nội bộ dòng
họ, thân tộc, cũng như trong quan hệ với các dòng họ khác cùng cư trú trên một địa bàn.
Bình đẳng xã hội giữa các tộc người ở nước ta theo Hồ Chí Minh còn là quá trình kết hợp
đúng đắn, hài hoà lợi ích của các tộc người thống nhất với lợi ích của quốc gia. Do đó, BĐDT
về xã hội còn thể hiện trong việc thực hiện các chính sách xã hội, giải quyết những vấn đề bức
xúc đặt ra trong các dân tộc như: xoá đói, giảm nghèo, tạo việc làm, bảo hiểm y tế, bảo hiểm
xã hội, phòng chống các tệ nạn xã hội, các bệnh hiểm nghèo ở các vùng dân tộc thiểu số và
miền núi; giao thông được thông suốt giữa miền núi và miền xuôi...
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đặc biệt quan tâm giải quyết vấn đề bình đẳng giới - một nội
dung rất quan trọng trong bình đẳng về xã hội. Do ở nước ta còn ảnh hưởng khá nặng nề tư
tưởng trọng nam, khinh nữ của xã hội phong kiến, nên phải thực hiện bình đẳng giữa nam và
nữ trên tất cả các lĩnh vực: “Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền bình đẳng với
nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình”[60, tr.214].
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, các dân tộc ở nước ta đều có quyền bình đẳng toàn diện cả về
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Các lĩnh vực đó liên quan chặt chẽ với nhau, tạo tiền đề cho
nhau, trong đó BĐDT về kinh tế suy cho cùng có vai trò quyết định bình đẳng trên các lĩnh

vực khác. Do đó, thực hiện BĐDT đòi hỏi phải thực hiện tổng hợp các chính sách, nhằm khắc
phục sự chênh lệch, làm cho các dân tộc thiểu số được hưởng ngày càng đầy đủ hơn những
quyền lợi về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội trên thực tế.
Bốn là, BĐDT phải luôn gắn với đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ giữa các
dân tộc.
Đoàn kết là giá trị tinh thần truyền thống, là quy luật trong dựng nước và giữ nước của dân
tộc Việt Nam. Với Hồ Chí Minh, đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố cơ bản quyết định thắng
lợi trong đấu tranh giành và giữ độc lập, xây dựng xã hội mới, trong đó có thực hiện BĐDT ở
nước ta. Người khẳng định: “phải tăng cường đoàn kết dân tộc, các dân tộc miền núi đoàn kết


chặt chẽ, các dân tộc thiểu số đoàn kết với các dân tộc đa số”[57, tr.418]. Trong Bài nói
chuyện với đồng bào cán bộ tỉnh Cao Bằng ngày 23 tháng 2 năm 1961, Người nhắc nhở:
“Đồng bào các dân tộc không phân biệt lớn nhỏ phải thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, phải đoàn
kết chặt chẽ như anh em một nhà để cùng nhau xây dựng tổ quốc chung”[54, tr.282].
Trên thực tế, các tộc người ở nước ta có trình độ phát triển rất khác nhau, sinh sống ở
những vùng, miền có những thuận lợi và khó khăn không giống nhau. Cho nên, cần phải tôn
trọng, giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, giữa dân tộc đông người với dân tộc ít người, nhằm làm
cho miền núi tiến kịp miền xuôi, đoàn kết với đồng bào miền xuôi để phát triển kinh tế miền
núi. Người viết: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Giarai hay Êđê, Xêđăng hay
Bana và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng
ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau”[44, tr.217-218]. Tộc người đa
số do có trình độ phát triển cao hơn, với tinh thần giúp đỡ bạn cũng chính là tự giúp mình, cần
tương trợ, giúp đỡ các dân tộc thiểu số cùng tiến bộ về mọi mặt. Hiến pháp năm 1946, do Chủ
tịch Hồ Chí Minh làm trưởng Ban soạn thảo đã khẳng định: ngoài sự bình đẳng về quyền lợi,
những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để chóng tiến kịp trình độ chung.
Muốn bình đẳng, đoàn kết, Người yêu cầu phải có thái độ tôn trọng lẫn nhau giữa các dân tộc;
phải tôn trọng phong tục, tập quán, và lợi ích của các dân tộc; tôn trọng văn hoá, tín ngưỡng,
tiếng nói, chữ viết của các dân tộc; tránh thái độ miệt thị, coi thường văn hoá của tộc người
khác.

Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, muốn thực hiện được BĐDT, phải quán triệt tốt
nguyên tắc đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Đồng thời khắc phục những tư
tưởng kỳ thị dân tộc, dân tộc lớn làm tổn hại đến khối đại đoàn kết dân tộc.
Năm là, thực hiện BĐDT phải luôn nêu cao ý thức độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, tự
vươn lên của các dân tộc; khắc phục những nguy cơ gây bất bình đẳng.


Theo Hồ Chí Minh, một dân tộc mà cứ ngồi chờ để có độc lập, thì dân tộc đó không xứng
đáng được hưởng độc lập. Theo Người, muốn có độc lập dân tộc, phải đem sức ta mà tự giải
phóng cho ta, phải dựa vào sức mình là chính trong sự nghiệp kháng chiến cứu nước. Trong
quan hệ giữa các tộc người trong quốc gia đa tộc, muốn thực hiện BĐDT, một trong những
vấn đề có tính quyết định là phải phát huy sự nỗ lực, tự vươn lên của bản thân các tộc người
đang còn ở trình độ thấp, phải đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nên thực hiện BĐDT phải
nêu cao tính tự lực, tự cường, tự vươn lên của mỗi dân tộc. Có như vậy mới phát huy có hiệu
quả sự giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc trong thực hiện quyền bình đẳng cho dân tộc mình.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện BĐDT phải luôn gắn với đấu tranh khắc phục
những nguy cơ gây bất bình đẳng. Những nguy cơ gây bất bình đẳng xuất phát từ nhiều phía.
Trước hết là tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc thường có ở các dân tộc thiểu số. Theo Người
các dân tộc thiểu số rất tốt, rất thật thà nhưng hay có tư tưởng tự ti cần phải khắc phục; vì tự ti
dân tộc sẽ tự kìm chân mình, không phát triển được. Đồng thời, nguy cơ đó cũng biểu hiện ở
tộc người đa số, đó là tư tưởng dân tộc lớn, tự cao, tự đại, ban ơn, áp đặt, coi thường tộc
người khác... cũng cần phải khắc phục. Ngày 31-8-1963, trong Bài nói tại Hội nghị Tuyên
giáo miền núi, Người nhấn mạnh: “Phải khắc phục những tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp
hòi, người dân tộc lớn dễ mắc bệnh kiêu ngạo. Cán bộ địa phương, nhân dân địa phương lại
dễ cho mình là dân tộc bé nhỏ, tự ti, cái gì cũng cho là mình không làm được, rồi không cố
gắng. Đó là những điểm phải tránh”[58, tr.136]. Đó còn là sự kỳ thị, hiềm khích dân tộc, phân
biệt đối xử trong quan hệ dân tộc và các quan hệ xã hội khác.
Nguy cơ gây bất bình đẳng còn do kẻ thù dùng mọi âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt để phá
hoại sự đoàn kết và bình đẳng giữa các dân tộc: “Đế quốc và phong kiến cố tình phá hoại tình
đoàn kết và sự bình đẳng giữa các dân tộc, gây thù hằn giữa các dân tộc, thi hành chính sách

“chia để trị”. Đảng và Chính phủ luôn kêu gọi các dân tộc “xoá bỏ xích mích do đế quốc và
phong kiến gây ra, cùng nhau đoàn kết chặt chẽ trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa
vụ”[52, tr.587].


×