Tải bản đầy đủ (.doc) (316 trang)

LUẬN án TIẾN sỹ tư TƯỞNG BIỆN CHỨNG hồ CHÍ MINH TRONG CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (854.02 KB, 316 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp bách của đề tài
Đại hội lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: "Đảng lấy
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động…" [20. Tr.127]. Sự khẳng định đó nói lên vai trò to lớn và
cực kỳ quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng nước ta. Tư
tưởng của người là sự kế thừa tinh hoa trí tuệ của nhân loại được vận dụng sáng
tạo dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta,
đưa cách mạng Việt Nam tới thắng lợi vẻ vang đã trở thành một tài sản tinh thần
quý báu của Đảng và của cả dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh còn sống mãi trong
sự nghiệp của chúng ta và là tài sản quý giá trong kho tàng văn hoá nhân loại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh bao quát nhiều lĩnh vực rộng lớn và phong phú mà nền
tảng là tư tưởng triết học. Tìm hiểu tư tưởng biện chứng của Người trong cách
mạng giải phóng dân tộc là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Bởi vì
để xác định được mục tiêu, đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn thì tư
tưởng biện chứng khoa học có ý nghĩa quan trọng đặc biệt.
Có thể nói, tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong cách mạng giải phóng dân
tộc mang tính cách mạng, khoa học và sáng tạo phù hợp với điều kiện lịch sử - cụ
thể ở Việt Nam - một đất nước thuộc địa nửa phong kiến. Tư tưởng đó có ý nghĩa


rất quan trọng trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam trong
mấy chục năm qua và ngày nay đang tiếp tục soi sáng công cuộc đổi mới đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa của dân tộc ta trên nhiều lĩnh vực như:
xác định đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; xác định rõ bạn thù; phát huy
nội lực kết hợp với chủ động hội nhập quốc tế; xây dựng đội ngũ cán bộ có đức,
có tài; xây dựng đạo đức mới, văn hoá mới; xây dựng Đảng và Nhà nước vững
mạnh v.v… Vì vậy, nghiên cứu tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh không những
cần thiết mà còn là vấn đề cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một lĩnh vực rộng lớn và phong phú. Nó đã được


nhiều tác giả trong nước cũng như ngoài nước dày công nghiên cứu và công bố
nhiều công trình có giá trị lý luận cũng như thực tiễn. Đặc biệt trong dịp kỷ niệm
lần thứ 100 ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều công trình đã nêu những đóng
góp to lớn của Người đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và với nền
văn hoá thế giới (xem: "Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải
phóng dân tộc, nhà văn hoá lớn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990). Gần đây,
nhiều công trình khoa học nghiên cứu về nhiều lĩnh vực khác nhau của Người lần
lượt ra đời. Có thể nêu một số công trình: Góp phần tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí
Minh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991 của PGS, PTS Lê Sĩ Thắng; Góp phần
tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1992; Chương trình nghiên


cứu cấp Nhà nước về tư tưởng Hồ Chí Minh đã công bố tác phẩm: "Nghiên cứu
tư tưởng Hồ Chí Minh" tập 1 và tập 2, Viện Hồ Chí Minh xuất bản, Hà Nội, 1993;
Tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh trong sự tiếp thu có chọn lọc, văn hoá Khổng
giáo, tạp chí thông tin lý luận, số 2 - 1994 của GS Nguyễn Văn Hồng; Tư tưởng
Hồ Chí Minh - Một số nội dung cơ bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995 của
PGS, PTS Nguyễn Bá Linh; Hồ Chí Minh người anh hùng giải phóng dân tộc,
danh nhân văn hoá kiệt xuất, Tạp chí thông tin lý luận, số 5 - 1995 của Đỗ Mười;
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996 của
PGS, PTS Thành Duy; Sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997 của GS Trần Văn Giàu; Một số vấn đề phương
pháp luận và phương pháp nghiên cứu về Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1997 của tập thể các tác giả do PGS Song Thành (chủ biên); Một số
chuyên đề về môn học tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1997 của tập thể các tác giả do PGS, PTS Mạch Quang Thắng (chủ biên).
Cùng với các công trình nêu trên, một số tác giả đã có những công trình nghiên
cứu để làm sáng tỏ sự nghiệp lãnh đạo cách mạng sáng suốt và đúng đắn của Hồ
Chí Minh nhằm đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Trong số đó đáng chú ý là những công trình: Nguyễn Đăng Châu - Vài suy nghĩ

về nguyên tắc "biết thắng từng bước cho đúng" trong phương pháp cách mạng
dân tộc - dân chủ. Tạp chí Triết học, số 1 - 1973; Trần Nhâm - Một số vấn đề


khoa học và nghệ thuật lãnh đạo của cách mạng của Đảng ta trong sự nghiệp
chống Mỹ cứu nước, Tạp chí Triết học, số 7 - 1974; Trần Hữu Tiến - Quan hệ
giữa tuần tự và nhảy vọt trong cách mạng, Tạp chí Triết học, số 9 - 1975; Lê
Ngọc - Những cống hiến lý luận của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vào học
thuyết mác-xít về giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, Tạp chí Thông tin lý
luận, số 11 - 1993; Nguyễn Thế Hinh - Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự chuyển biến
từ cách mạng giải phóng dân tộc lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, Tạp chí Cộng
sản, số 15 - 1997; Đặng Xuân Kỳ (chủ biên) - Phương pháp và phong cách Hồ
Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997; Võ Nguyên Giáp (chủ biên) Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1997; Nguyễn Đức Bình - Giương cao ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí
Minh đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên giành thắng lợi mới, Báo Nhân Dân ngày
17/5/2000; Lê Khả Phiêu - Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường của Đảng
ta và nhân dân ta tiến vào thế kỷ XXI, Báo Nhân Dân ngày 19/5/2000.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực khác nhau
nhưng tư tưởng triết học của Người thì sự nghiên cứu mới chỉ là bước đầu. Có thể
nêu một số công trình đã được công bố như: Tùng Cương - Kế thừa và phát triển
tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, Tạp chí Triết học, số 1-1991; Nguyễn Tài Thư Về mâu thuẫn dân tộc và cách giải quyết chúng trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Tạp
chí Triết học, số 1-1994; Lê Hữu Nghĩa (chủ biên) - Tư tưởng triết học Hồ Chí


Minh, Nxb Lao động, Hà Nội, 1997; Hoàng Chí Bảo - Tìm hiểu tư tưởng triết học
của Hồ Chí Minh, Tạp chí Thông tin lý luận, số 5/1998 v.v…
Những công trình nghiên cứu trên đã gợi mở một số vấn đề về tư tưởng triết
học Hồ Chí Minh như: về nguồn gốc và thế giới quan; về thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn; về mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc v.v… Tuy nhiên, chưa có
một chuyên khảo nào bàn về tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong cách mạng

giải phóng dân tộc ở Việt Nam .
Với những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn bước đầu đi vào nghiên cứu đề tài
này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án:
Trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong cách mạng giải
phóng dân tộc ở Việt Nam, luận án góp phần làm sáng tỏ bản chất cách mạng và
khoa học cùng với những đặc điểm chủ yếu của tư tưởng biện chứng Hồ Chí
Minh. Từ đó rút ra một số quan điểm cơ bản vận dụng tư tưởng biện chứng Hồ
Chí Minh vào công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay.
Để đạt được mục đích trên, luận án cần giải quyết những nhiệm vụ sau:


Một là: Trình bày nguồn gốc tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh.
Hai là: Phân tích nội dung chủ yếu của tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh
trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Ba là: Xác định những quan điểm cơ bản vận dụng tư tưởng biện chứng Hồ
Chí Minh trong công cuộc đổi mới hiện nay.
4. Giới hạn nghiên cứu của luận án
Tuy nghiên cứu tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong cách mạng giải phóng
dân tộc, nhưng tác giả không có tham vọng trình bày tất cả các quan điểm biện
chứng mà chỉ tập trung phân tích những quan điểm biện chứng chủ yếu có vai trò
đặc biệt quan trọng trong chỉ đạo cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí
Minh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận án là lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
những tư tưởng trong các văn kiện của Đảng, trong các tác phẩm viết về Hồ Chí
Minh.
Phương pháp luận chung của luận án là những phương pháp của chủ nghĩa duy

vật biện chứng và duy vật lịch sử. Trong đó, khai thác nhiều sự kết hợp phương
pháp lịch sử với lôgíc, phân tích với tổng hợp.


6. Cái mới của luận án
Luận án góp phần bước đầu hệ thống hoá nguồn gốc lý luận và thực tiễn của tư
tưởng biện chứng Hồ Chí Minh; làm sáng tỏ nội dung chủ yếu của tư tưởng biện
chứng Hồ Chí Minh; rút ra bản chất và những đặc điểm chủ yếu của tư tưởng biện
chứng Hồ Chí Minh trong lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam;
xác định những quan điểm cơ bản vận dụng tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh
trong công cuộc đổi mới đất nước.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Bằng kết quả đạt được trong luận án, tác giả hy vọng góp phần làm sáng tỏ giá
trị của tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong cách mạng giải phóng dân tộc và
trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu giảng dạy và
học tập tư tưởng Hồ Chí Minh.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án gồm 3 chương với 10 tiết và danh mục
tài liệu tham khảo.Chương 1
NGUỒN GỐC TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG HỒ CHÍ MINH TRONG
CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC


Tư tưởng là lĩnh vực được quan tâm hàng đầu do giá trị hướng dẫn hoạt động
thực tiễn của nó quyết định. Một tư tưởng phản ánh không đúng hiện thực, khi
hướng dẫn hoạt động thực tiễn chắc chắn sẽ không đạt được kết quả mong muốn,
thậm chí còn gây hậu quả không nhỏ. Một tư tưởng đúng, phù hợp với hiện thực
hướng dẫn hoạt động thực tiễn thì nhất định sẽ mang lại hiệu quả, thúc đẩy sự
phát triển và tiến bộ xã hội, cải tạo thế giới khách quan.

Dưới góc độ triết học, tư tưởng không đúng, không phù hợp với hiện thực có
thể là tư tưởng duy tâm hoặc siêu hình, còn tư tưởng đúng, phù hợp là tư tưởng
biện chứng. Quan điểm này có thể còn tranh luận, nhưng nhiều người đã nhìn
nhận như vậy.
Tư tưởng biện chứng là kết quản trực tiếp của tư duy biện chứng. Tư duy chỉ
được coi là biện chứng chừng nào nó phản ánh đúng đắn, phù hợp với biện chứng
khách quan, nghĩa là phản ánh đúng đắn những tính chất vốn có của các sự vật
hiện tượng trong thế giới hiện thực như: liên hệ và tác động qua lại lẫn nhau; luôn
vận động, biến đổi phát triển; vận động trong mâu thuẫn nhưng lại không hỗn độn
mà tuân theo những quy luật khách quan v.v… Một tư duy như vậy nhất định sẽ
có những nhận thức đúng đắn, phù hợp với hiện thực đang diễn ra và nắm bắt
được quy luật. Nếu được khái quát thành những nguyên lý, quan điểm, nguyên
tắc để nhận thức thế giới và hướng dẫn hoạt động thực tiễn của con người thì hình
thành nên tư tưởng biện chứng.


Nhận thức là một quá trình luôn có sự kế thừa những tư tưởng đã có gắn chặt
với quá trình phản ánh cái hiện thực. Do đó tư tưởng biện chứng bao giờ cũng là
kết quả tổng hợp của sự kế thừa những tư tưởng biện chứng đã có với quá trình tư
duy, nhận thức biện chứng cái hiện thực đang diễn ra. Trong đó cái kế thừa đóng
vai trò như là cơ sở thực tiễn có tác dụng phê phán, bổ sung cho cái kế thừa và
phát hiện, sáng tạo cái mới. Chính sự kết hợp hài hoà này đã quyết định giá trị to
lớn của tư tưởng biện chứng.
Là lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp
lãnh đạo cách mạng Việt Nam thành công rực rỡ: thắng lợi của Cách mạng tháng
Tám năm 1945; tiếp đến giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống xâm
lược là những minh chứng về vai trò cực kỳ quan trọng của tư tưởng biện chứng
của Người trong chỉ đạo cách mạng giải phóng dân tộc.
Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu trong quá trình tư duy
biện chứng của Người, là sản phẩm tổng hợp của sự kế thừa những tư tưởng biện

chứng trong lịch sử với việc tổng kết những tính chất biện chứng của cách mạng
Việt Nam. Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của tư tưởng biện chứng
Hồ Chí Minh có ý nghĩa quan trọng để hiểu bản chất tư tưởng biện chứng của
Người trong cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta.
1.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN


Cơ sở lý luận góp phần hình thành tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh là những
tư tưởng biện chứng trong truyền thống của dân tộc Việt Nam, những tư tưởng
biện chứng của triết học phương Đông (chủ yếu là tư tưởng biện chứng của triết
học Trung Quốc) và những tư tưởng biện chứng của phương Tây mà tiêu biểu là
phép biện chứng của triết học Mác - Lênin. Phép biện chứng của tư tưởng Mác Lênin không những tham gia vào như là cơ sở lý luận cơ bản, trực tiếp của tư
tưởng biện chứng Hồ Chí Minh mà còn là phương pháp luận giúp Hồ Chí Minh
biết kế thừa, chọn lọc, khai thác và vận dụng sáng tạo những tư tưởng biện chứng
trong truyền thống dân tộc, trong triết học phương Đông và phương Tây vào quá
trình lãnh đạo thành công cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam, góp phần to
lớn vào sự nghiệp giải phóng các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Việt Nam là một quốc gia được hình thành từ rất sớm, trải qua mấy nghìn năm
dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã xây dựng nên những truyền thống văn hoá
tốt đẹp, trong đó nổi bật lên truyền thống yêu nước, gắn bó cộng đồng trong đấu
tranh với thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm. Tư tưởng yêu nước từ thời Hùng
Vương đã nảy nở. Trong thời kỳ Bắc thuộc kéo dài 1117 năm (179 trước công
nguyên - 938), nó không bị tàn lụi vì sự đô hộ của ngoại bang mà vẫn tiếp tục
được củng cố và phát triển. Nhưng phải đến khi đất nước giành được độc lập thì
truyền thống yêu nước mới phát triển rực rỡ gắn liền với những tên tuổi tiêu biểu
như Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi v.v… Truyền


thống yêu nước không chỉ là một tình cảm, một phẩm chất tình thần mà đã phát
triển thành chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là sản phẩm tinh

thần cao quý nhất của dân tộc ta. Nó đã trở thành đạo lý, niềm tự hào và là nhân
tố đứng đầu trong bảng giá trị đạo đức xã hội, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ đời
sống tinh thần của người Việt Nam qua các thế hệ, là động lực to lớn giúp cho
dân tộc ta vượt qua những khó khăn, thử thách và đánh thắng mọi kẻ thù xâm
lược, trong đó có cả những kẻ thù hùng mạnh vào loại bậc nhất trên thế giới. Nội
dung cơ bản của chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam là tình yêu quê
hương đất nước; tinh thần đoàn kết gắn bó cộng đồng; ý thức bảo vệ chủ quyền
quốc gia, độc lập dân tộc và bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam; tinh thần bất
khuất, tự lực tự cường; đạo lý uống nước nhớ nguồn v.v… trên tinh thần nhân văn
sâu sắc và tương thân tương ái với các quốc gia lân cận.
Trong lịch sử phát triển của dân tộc ta, tinh thần yêu nước đã hun đúc nên một
truyền thống vô cùng quý giá, như Bác Hồ đã nói:
Dân tộc ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu
của ta. Từ xưa tới nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi,
nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy
hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước [63, tr.171].


Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam chứa đựng những tư tưởng biện chứng sâu sắc.
Trong đó, một số tư tưởng biện chứng đã ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng biện
chứng Hồ Chí Minh trong cách mạng giải phóng dân tộc:
Một là: tư tưởng đoàn kết gắn bó cộng đồng dân tộc.
Đây là tư tưởng phản ánh mối liên hệ giữa các thành viên trong cộng đồng dân
tộc để tạo nên sức mạnh trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên và chống giặc ngoại
xâm.
Sản xuất nông nghiệp từ lâu nay đã là phương thức sinh tồn chính yếu nhất của
cộng đồng người Việt. Việt Nam là một xứ sở có những điều kiện thuận lợi cho
sự phát triển sản xuất nông nghiệp. Trước hết và chủ yếu phải nói đến tiềm năng
dồi dào của đất đai và độ phì nhiêu của nó. Bên cạnh những thuận lợi, thiên nhiên
Việt Nam cũng đặt cho con người muôn vàn những khó khăn, thách thức. Khí hậu

nhiệt đới gió mùa với những tai biến bất thường (bão tố, lũ lụt và hạn hán v.v…)
đòi hỏi con người phải luôn luôn đoàn kết mới có thể khắc phục được. Do vậy,
nhân dân ta từ rất sớm đã biết tìm ra nhiều cách thức để đấu tranh với thiên nhiên,
tiến hành sản xuất, làm ra của cải để bảo tồn và phát triển cuộc sống của mình.
Lịch sử dựng nước của dân tộc ta gắn liền với truyền thống đoàn kết trong cuộc
đấu tranh chống thiên nhiên từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong ý thức của mỗi
người dân Việt Nam, sự đoàn kết chặt chẽ trong gia đình, cộng đồng làng - xã,


quốc gia, dân tộc v.v… đã trở thành tình cảm sâu sắc, thiêng liêng. Nó chỉ rõ sự
gắn bó bền chặt không tách rời nhau giữa con người với làng xóm, quê hương và
với dân tộc. Tinh thần yêu nước, tinh thần cộng đồng ngày càng được củng cố và
phát triển và đã trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam .
Tư tưởng đoàn kết gắn bó cộng đồng dân tộc ngày càng được thể hiện rõ trong
cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta. Với tài nguyên thiên nhiên
phong phú, đa dạng và vị trí địa lý thuận lợi, Việt Nam trở thành một trung tâm
giao lưu về kinh tế, văn hoá giữa hai vùng Đông và Tây bằng đường biển. Do có
những điều kiện thuận lợi như vậy nên kẻ thù đã tiến hành những cuộc chiến
tranh xâm lược nước ta. Vì vậy, lịch sử Việt Nam còn là lịch sử của những cuộc
chiến tranh chống xâm lược của dân tộc Việt Nam nhằm giữ vững chủ quyền
quốc gia và độc lập dân tộc.
Trong lịch sử chống kẻ thù xâm lược, dân tộc ta thường phải chống lại quân
giặc với một lực lượng lớn, mạnh hơn lực lượng ta gấp nhiều lần. Đứng trước thử
thách to lớn đó, dân tộc ta càng đoàn kết, gắn bó với nhau, tìm mọi kế sách để
đánh giặc giữ nước. Để đánh thắng kẻ thù xâm lược thì cả nước phải chung sức
trong sự nghiệp bảo vệ đất nước. Cả nước chung sức cũng là cả nước đồng lòng,
chung sức, đồng lòng gắn bó với nhau làm một. Với sức mạnh của cả nước một
lòng, toàn dân đánh giặc thì có thể đánh thắng bất cứ kẻ thù nào. Nhà Trần ở thế
kỷ XIII đã ba lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên - Mông. Nguyên nhân cơ



bản của thắng lợi đó như Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã chỉ rõ là do: "Vua
tôi đồng tâm, anh em hoà thuận, cả nước góp sức" [48, tr.215].
Trần Quốc Tuấn đã nêu bật một chân lý sáng ngời của chiến tranh giữ nước là
đoàn kết toàn dân, dựa vào dân để đánh giặc. Dựa vào dân và đoàn kết toàn dân,
đoàn kết trong nội bộ giai cấp thống trị để có sức mạnh chiến thắng kẻ thù đã trở
thành một vấn đề trung tâm trong suy nghĩ của ông. Để có được sự đoàn kết và
huy động được sức mạnh to lớn của dân vào công cuộc giữ nước thì phải tiến
hành "khoan thử sức dân để làm kế bền gốc sâu đó là thượng sách giữ nước" [48,
tr. 215]. Dưới con mắt của ông, nhân dân chính là nơi chứa chất những tiềm lực
về vật chất và tinh thần, ý chí của dân chúng như cội nguồn của sức mạnh bảo
đảm vững chắc cho nền độc lập và chủ quyền của đất nước. Cũng thời kỳ này,
nhà Trần đã xây dựng được những đội quân "phụ tử chi binh". Theo như lời của
Trần Quốc Tuấn: "Có thu được quân lính một lòng như cha con một nhà thì mới
dùng được" [48, tr. 215]. Dưới ánh sáng của nguyên tắc này, quân đội nhà Trần
đã gắn bó chặt chẽ với nhau trong cuộc chiến đấu với quân thù.
Đầu thế kỷ XV, nhà Hồ chuẩn bị kháng chiến chống quân Minh xâm lược, xây
dựng lực lượng quân thường trực khá đông, nhưng không đoàn kết được toàn dân
nên đã thất bại. Đúng như Hồ Nguyên Trừng - con trai Hồ Quý Ly đã nói: "Tôi
không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo mà thôi" [48, tr. 235].


Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh, Nguyễn Trãi đã chỉ
ra nguyên nhân thắng lợi là do tập hợp, đoàn kết được lực lượng dân chúng: "Nêu
hiệu gậy làm cờ, tụ tập khắp bốn phương dân chúng" [48, tr. 259]. Để tạo nên sức
mạnh thì tướng sĩ phải đoàn kết một lòng, gắn bó mật thiết với nhau và những
người lãnh đạo kháng chiến đã từng "thết quân rượu hoà nước, dưới trên đều một
bụng cha con" [48, tr. 259]. Nguyễn Trãi đã nhìn thấy công lao và sức mạnh của
dân, dân là số đông, là cơ sở của xã hội, là lực lượng có vai trò quyết định tới sự
thịnh suy của triều đại.

Kinh nghiệm mấy nghìn năm lịch sử của dân tộc ta cho thấy, đoàn kết toàn dân
luôn là nhân tố quyết định sự thành công của sự nghiệp dựng nước và giữ nước;
một dân tộc nhỏ nhưng biết đoàn kết chặt chẽ thì sẽ tạo ra được một sức mạnh to
lớn có thể đập tan được ách thống trị của một nước lớn, không có sức mạnh cố
kết cộng đồng thì dân tộc Việt Nam không thể tồn tại và phát triển được. Và như
vậy, thời nào coi nhẹ kế sách cả nước chung sức, đồng lòng thì sẽ không có đủ
sức mạnh để chiến thắng kẻ thù.
Hồ Chí Minh là người rất am hiểu lịch sử dân tộc. Tư tưởng đoàn kết, gắn bó
cộng đồng để tạo lên sức mạnh của dân tộc ta chính là cơ sở để hình thành tư
tưởng đại đoàn kết trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa của Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Sử ta dạy cho
ta bài học này: lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập,


tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn" [60, tr.
217]. Vì thế, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn luôn kiên trì tư tưởng đại đoàn kết và Người chính là tượng trưng tiêu
biểu của khối đại đoàn kết dân tộc. Với Hồ Chí Minh, đoàn kết là một trong
những yếu tố cơ bản quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam . Sự đoàn kết
càng mở rộng, càng chặt chẽ thì lực lượng càng mạnh và thành công, thắng lợi
chắc chắn. Người khẳng định:
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công [67, tr. 607].
Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ rằng, để giải phóng dân tộc thì phải tập hợp,
đoàn kết các tầng lớp nhân dân trong một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi,
bởi đó là nơi thể hiện đầy đủ nhất sức mạnh của quần chúng nhân dân. Sự nghiệp
dựng nước và giữ nước là sự nghiệp của cả dân tộc. Sự nghiệp ấy chỉ giành được
thắng lợi khi cả nước đoàn kết một lòng, đồng tâm nhất trí, triệu người như một
đứng lên chống giặc cứu nước. Người khẳng định: "Trong thế giới không có gì
mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân" [65, tr. 276]. Đại đoàn kết theo Hồ

Chí Minh là phải thực hiện đoàn kết một cách rộng rãi, là đoàn kết với tất cả mọi
người Việt Nam yêu nước, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, dân tộc, không
phân biệt già trẻ gái trai. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và


phụng sự nhân dân thì ta đoàn kết với họ. Đoàn kết được mở rộng như vậy nhưng
không phải là sự đoàn kết vô nguyên tắc hay chung chung, trừu tượng. Trong
quan niệm của Hồ Chí Minh, thực hiện đại đoàn kết dân tộc trong mặt trận dân
tộc thống nhất nhưng phải trên nền tảng liên minh công nông, dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản. Không những thế, Người còn chú trọng phát huy cái tương
đồng, khắc phục cái dị biệt của các giai cấp, các cá nhân v.v… để tạo ra đại đoàn
kết. Người đặt lợi ích dân tộc lên trên hết. Đó là nguyên tắc tối thượng của chiến
lược đại đoàn kết cuả Hồ Chí Minh. Có như vậy, cách mạng mới tập hợp được
nhiều lực lượng, phát huy được sức mạnh chung của toàn dân tộc để chiến thắng
kẻ thù.
Tư tưởng đại đoàn kết là nét nổi bật, xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động và
hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Đặc biệt trong cách mạng giải phóng dân tộc, tư
tưởng đại đoàn kết đã trở thành nguồn cổ vũ, động viên, tập hợp mọi tầng lớp,
mọi cá nhân và cả cộng đồng, làm nên sức mạnh vô địch của toàn dân ta. Sức
mạnh đó đã góp phần đưa cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi. Từ đó,
chúng ta cũng thấy những tư tưởng như: đánh địch chỉ bằng một lực lượng nghĩa
quân hạn chế, trong một phạm vi nhỏ hẹp; bạo động bằng cách "ỷ ngoại đột nội",
bằng cách manh động; đi vào con đường cải lương đều là không phù hợp và hoàn
toàn xa lạ với tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh.
Hai là: tư tưởng kết hợp dựng nước và giữ nước.


Thời Hùng Vương, dân ta bắt đầu dựng nước thì cũng phải bắt đầu giữ nước,
chống, mưu đồ xâm lược và thôn tính của phong kiến phương Bắc. Sự kết hợp
này được tiến hành trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc. Dựng nước và giữ

nước có quan hệ biện chứng với nhau, không tách rời nhau, đồng thời luôn tác
động qua lại và thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển. Xây dựng đất nước trên tất cả
các mặt: kinh tế, chính trị, quốc phòng v.v… làm cho đất nước vững mạnh, đủ
sức mạnh vật chất và tinh thần để sự nghiệp giữ nước đạt được thắng lợi; mặt
khác, giữ nước thắng lợi sẽ tạo điều kiện cho công cuộc xây dựng đất nước ngày
một phát triển. Từ sự kết hợp đó, dân tộc ta đã vững bước đi lên, liên tiếp đánh
bại các kẻ thù xâm lược.
Suốt các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, quyền lợi của vua quan về cơ bản thống
nhất với quyền lợi của dân tộc, thế nước được xây dựng cường thịnh, nước giàu,
quân mạnh nên hai lần đánh quân Tống, ba lần đánh quân Nguyên đều toàn
thắng.
Tiếp nối tư tưởng kết hợp giữa dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã phát triển thêm một bước mà tiêu biểu là đề ra chủ trương
"kháng chiến, kiến quốc". Hai nhiệm vụ đó quan hệ chặt chẽ, tác động ảnh hưởng
lẫn nhau. Kháng chiến để hoàn thành giải phóng dân tộc, kiến quốc nhằm xây
dựng chế độ mới - chế độ dân chủ nhân dân. Có như vậy mới phát triển được sản
xuất trong kháng chiến, mới huy động được sức người, sức của cho kháng chiến


thắng lợi. Trong điều kiện vừa mới giành được chính quyền, đất nước còn nhiều
khó khăn, bên cạnh đó kẻ thù bao vây, chống phá, chỉ có đồng thời thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược là: quyết tâm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và
ra sức xây dựng chế độ mới, nhân dân ta mới có thể bảo vệ, củng cố chính quyền
cách mạng vừa mới giành được, mới có thể tăng cường thực lực cách mạng, tiếp
tục đưa cách mạng Việt Nam vững bước đi lên.
Sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã toàn thắng, khi nói chuyện
với cán bộ và chiến sĩ trong lực lượng vũ trang nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã căn dặn: "Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau
giữ lấy nước" [48, tr. 9].
Dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong cuộc

kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhân dân ta vừa sản xuất, xây dựng, vừa chiến
đấu. Nhờ sự kết hợp đó, nhân dân ta đã tạo nên được sức mạnh to lớn cho sự
nghiệp cách mạng.
Có thể nói, tư tưởng kết hợp dựng nước và giữ nước là nhất quán trong tư
tưởng Hồ Chí Minh. Trong cách mạng giải phóng dân tộc, tư tưởng đó đã đảm
bảo cho cách mạng nước ta phát triển đi lên một cách vững chắc, đã góp phần đưa
cách mạng nước ta đến thắng lợi.


Ba là: tư tưởng kết hợp giữa kiên định mục tiêu của cuộc kháng chiến với linh
hoạt, sáng tạo trong việc vận dụng các hình thức và phương pháp tiến hành chiến
tranh giữ nước.
Trong các cuộc chiến tranh giữ nước trước đây, ông cha ta đã kết hợp rất linh
hoạt giữa mục đích của cuộc kháng chiến với nghệ thuật tiến hành chiến tranh giữ
nước. Sự kết hợp đó đã có vai trò rất quan trọng trong quá trình dựng nước và giữ
nước của dân tộc ta. Để đánh thắng kẻ thù có ưu thế hơn ta về nhiều mặt, ông cha
ta đã sáng tạo ra nhiều hình thức và phương pháp tiến hành chiến tranh phù hợp
với điều kiện thực tế ở nước ta, giải quyết thành công vấn đề lấy nhỏ thắng lớn,
"lấy ít địch nhiều", tuỳ thời thế mà vận dụng mưu lược để thắng địch. Tiêu biểu là
Trần Quốc Tuấn đã nêu ra những nhận định có tính chất tổng kết kinh nghiệm của
những cuộc chiến tranh giữ nước suốt từ thời Bắc thuộc cho đến cuộc kháng
chiến chống Nguyên - Mông:
Tóm lại, giặc cậy trường trận, ta cậy đoản binh, lấy đoản chế trường là việc
thường của binh pháp. Nếu thấy quân giặc đến ồ ạt như lửa cháy, gió thổi thì thế
dễ chế ngự. Nếu chúng đi chậm như cách tầm ăn, không cần của dân, không cần
được chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến như đánh cờ vậy,
tuỳ thời mà làm [48, tr. 215].


Để đạt được mục đích của cuộc kháng chiến là đánh thắng kẻ thù, Trần Quốc

Tuấn luôn bám sát thực tế diễn biến của chiến tranh, từ đó đề ra phương pháp tác
chiến và nhiều cách đánh sáng tạo: đó là tạo nên một thế trận mà quân xâm lược
bị đánh ở khắp mọi nơi, cả phía trước mặt lẫn sau lưng; khi thì đánh du kích, lẻ tẻ
phân tán, lúc tập trung binh lực lớn, có lúc lại rút lui chiến lược để bảo toàn lực
lượng; khi thì đánh địch ở khắp mọi nơi bằng mọi phương tiện, mọi hình thức và
quy mô, khéo lợi dụng địa hình địa vật, đánh vào chỗ hiểm yếu của địch và lừa
địch vào thế trận đã bày sẵn, biết chọn thời cơ để đánh những trận quyết định. Có
thể nói, giữa mục đích của cuộc kháng chiến là đánh thắng quân xâm lược với
phương pháp tiến hành chiến tranh giữ nước, tư tưởng biện chứng của Trần Quốc
Tuấn thể hiện rất rõ ràng.
Đến thế kỷ XV, dân tộc ta tiếp tục phát huy phương châm chỉ đạo tác chiến
"lấy ít địch nhiều", không thể là một chọi một, không thể bày thế trận như bên
địch để đánh. Do đó phương pháp đánh địch thời kỳ này cũng rất độc đáo. Đó là
tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, phát huy tất cả chỗ mạnh của ta đánh vào mọi chỗ
sơ hở của địch, đánh vào chỗ mà địch không ngờ tới, là tạo điều kiện để chỗ
mạnh của địch không thể phát huy, còn chỗ yếu của ta thì được bù đắp, không
những thế còn chuyển thành thế mạnh, ít có thể địch được nhiều, yếu có thể thắng
được mạnh. Từ thực tế đánh giặc giữ nước, Nguyễn Trãi đã khái quát thành


những điều có giá trị như là quy luật chung của công cuộc dựng nước và giữ
nước:
Lấy ít địch nhiều, thường dùng mai phục
Lấy yếu chống mạnh, hay đánh bất ngờ [48, tr. 259].
Trong lịch sử chống ngoại xâm, dân tộc ta đánh giặc bằng quân sự kết hợp với
chính trị và ngoại giao v.v… Đây là yêu cầu khách quan của chiến tranh giữ
nước. Khẳng định tính chất hoàn toàn chính nghĩa của một quốc gia, dân tộc có
chủ quyền tiến hành chiến tranh chống xâm lược nhằm cố kết lực lượng trong cả
nước, thức tỉnh lương tâm của những ai trong hàng ngũ kẻ thù có thể thức tỉnh
được; mở lối thoát cho quân giặc khi chúng lâm vào cảnh khốn cùng. Sự kết hợp

đó đã tạo cho dân tộc ta một sức mạnh tổng hợp để chiến thắng mọi kẻ thù xâm
lược. Trong các cuộc chiến tranh giữ nước trước đây, tổ tiên ta đã làm tốt sự kết
hợp này. Tiêu biểu là Lý Thường Kiệt- người chỉ huy các trận đánh quyết định số
phận quân xâm lược nhà Tống. Khi quân giặc lâm vào tình thế quẫn bách, ông đã
chủ động điều đình để mở lối thoát cho quân giặc nhằm chấm dứt chiến tranh
trong điều kiện có lợi nhất cho dân tộc.
Cùng với đánh địch bằng quân sự và ngoại giao, Lý Thường Kiệt đã đánh địch
bằng cả chính trị thể hiện ở bài thơ bất hủ của ông:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,


Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư [48, tr. 181].
Lý Thường Kiệt đã nhân danh cả dân tộc ta khẳng định nước Đại Việt là một
nước độc lập có lãnh thổ, chủ quyền của mình và địa vị của nước Đại Việt không
kém bất kỳ một nước nào. Bởi vì người đứng đầu của nước Đại Việt là "Nam đế"
ngang hàng với hoàng đế của các quốc gia phong kiến khác. Lý Thường Kiệt
khẳng định danh hiệu "Nam đế" nhằm củng cố niềm tin và niềm tự hào của dân
tộc ta về đất nước, đồng thời cũng chống lại tư tưởng nước lớn của bọn phong
kiến phương Bắc. Và một khi nền độc lập và chủ quyền của nước ta được định
phận ở thiên thư nghĩa là mang tính tất nhiên, thì nó sẽ tồn tại vững chắc và bất
khả xâm phạm. Bài thơ của Lý Thường Kiệt là sự cảnh báo nghiêm khắc quân
xâm lược, đồng thời biểu thị một niềm tin tất thắng của dân tộc ta trong sự nghiệp
giữ nước và bảo vệ nền độc lập của mình. Bài thơ đẫ được ghi vào lịch sử như
bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc ta sau hơn một nghìn năm bị phong
kiến nước ngoài đô hộ.
Đến Nguyễn Trãi, sự kết hợp giữa đánh giặc bằng quân sự, chính trị và ngoại
giao đã đạt đến trình độ mới. Một mặt, ông cùng với Lê Lợi hoạch định quân
mưu, mặt khác ông đấu tranh với kẻ thù trên lĩnh vực tư tưởng và lý luận. Với



ông, đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận cũng là nhằm để đưa cuộc kháng
chiến đến thắng lợi.
Bằng lý luận sắc bén của mình, Nguyễn Trãi khẳng định nước Đại Việt đã từng
là quốc gia độc lập. Tư tưởng về quốc gia độc lập được ông trình bày ở nhiều nơi
nhưng phải đến "Bình Ngô đại cáo" thì tư tưởng đó mới được trình bày cô đọng
và đầy đủ:
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Cõi bờ sông núi đã riêng,
Phong tục Bắc - Nam cũng khác.
Trải… Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đều chủ một phương.
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Mà hào kiệt không bao giờ thiếu [48, tr. 257].
Bình Ngô đại cáo đã khẳng định Đại Việt là một quốc gia riêng biệt, có lãnh
thổ, văn hóa phong tục và lịch sử riêng của mình. Điều đó cho thấy, Nguyễn Trãi
đã có một quan niệm rất rõ ràng về quốc gia dân tộc, về các yếu tố tạo thành quốc
gia dân tộc. Dựa trên các yếu tố: lãnh thổ (sông núi, bờ cõi), văn hoá (văn hiến),


phong tục và lịch sử, ông đã so sánh với quốc gia phong kiến phương Bắc trên
từng điểm để thấy sự ngang hàng của hai bên về mọi mặt. Và như vậy thì nước
Đại Việt phải được độc lập. Không những thế, Bình Ngô đại cáo còn khẳng định
quyết tâm bảo vệ chủ quyền đất nước của dân tộc ta. Cũng vì không tôn trọng chủ
quyền đó mà quân xâm lược đã hoàn toàn bị thất bại. Bình Ngô đại cáo thực sự là
một bản tuyên ngôn độc lập hào hùng của dân tộc ta ở thế kỷ XV.
Từ đó có thể thấy rằng, trong các cuộc kháng chiến trước đây, ông cha ta đã
kết hợp giữa mục tiêu của cuộc kháng chiến với những phương pháp đánh giặc

linh hoạt và sáng tạo. Không những thế, còn đánh giặc bằng sự kết hợp quân sự
với chính trị và ngoại giao nên đã tạo được một sức mạnh to lớn để chiến thắng
các kẻ thù xâm lược.
Nghiên cứu sâu sắc tư tưởng đánh giặc trên đây của dân tộc, Hồ Chí Minh đã
vận dụng sáng tạo và phát triển nguyên tắc "dĩ bất biến ứng vạn biến". Cái bất
biến ở đây là độc lập thống nhất của Tổ quốc, tự do hạnh phúc của nhân dân. Đó
cũng là mục đích duy nhất và cũng là ham muốn tột bậc của Người. Để đạt được
mục tiêu trên thì phải ứng vạn biến. Đó là mềm dẻo về sách lược, nhạy bén để
thay đổi cách thức đấu tranh cho thích hợp với điều kiện lịch sử cụ thể. Chính vì
vậy, trong chỉ đạo cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã đề ra phương
pháp tác chiến rất sáng tạo. Người nói: "Dụ quân giặc vào bẫy để đánh" [60, tr.
475]. Điều đó cho thấy, để đạt được hiệu suất chiến đấu cao thì phải khôn khéo


×