Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Quan hệ việt nam trung quốc từ 1991 đến 2003

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.26 KB, 20 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
39T

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
39T

9
T
3

9
T
3

Phạm Phúc Vĩnh
39T

QUAN HỆ VIỆT NAM - TRUNG QUỐC TỪ
32T

1991 ĐẾN 2003

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ
T
9
3

9
T
3


9
T
3

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2004
39T

9
T
3


2


MỤC LỤC
MỤC LỤC .................................................................................................................... 3
7T

T
7

DẪN LUẬN .................................................................................................................. 5
7T

7T

1. Lí do chọn đề tài.............................................................................................................. 5
T
7


7T

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................................. 6
T
7

7T

3. Giới hạn đề tài ................................................................................................................. 9
T
7

7T

4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 10
T
7

7T

5. Bố cục của luận văn ...................................................................................................... 10
T
7

7T

CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG CỦA MỐI QUAN HỆ VIỆT NAM - TRUNG
QUỐC TỪ 1979 ĐẾN 1991....................................................................................... 11
7T


7T

1.1. Sự bế tắc của quá trình đàm phán trong giai đoạn 1979 - 1986 và nguồn gốc của
nó. ....................................................................................................................................... 11
T
7

T
7

1.2. Từ đấu tranh khôi phục đàm phán đến nối lại quan hệ Việt - Trung (1986 - 1991)
............................................................................................................................................ 19
T
7

T
7

CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH KHÔI PHỤC VÀ CỦNG CỐ QUAN HỆ VIỆT NAM
-TRUNG QUỐC TRONG GIAI ĐOẠN 11/1991 ĐẾN 11/1994............................ 27
7T

T
7

2.1. Quan hệ chính trị - ngoại giao và giải quyết các vấn đề tranh chấp..................... 27
T
7


T
7

2.1.1. Quá trình phục hồi quan hệ và hạn chế tranh chấp .......................................................... 27
T
7

T
7

2.1.2. Tiếp tục giải quyết tranh chấp .......................................................................................... 33
T
7

7T

2.2. Khôi phục và củng cố quan hệ kinh tế ..................................................................... 38
T
7

T
7

2.2.1. Trong lĩnh vực thương mại .............................................................................................. 38
T
7

7T

2.2.2. Trong lĩnh vực hợp tác khoa học kĩ thuật và đầu tư ........................................................ 45

T
7

T
7

2.3. Khôi phục quan hệ hợp tác văn hóa - giáo dục và du lịch ..................................... 48
T
7

T
7

2.3.1. Trong hoạt động hợp tác và giao lưu văn hóa - giáo dục ............................................. 48
T
7

T
7

2.3.2. Trong lĩnh vực quan hệ hợp tác du lịch ........................................................................... 49
T
7

T
7

CHƯƠNG 3: ĐẨY MẠNH GIẢI QUYẾT NHỮNG BẤT ĐỘNG VÀ TĂNG
CƯỜNG HỢP TÁC TRONG GIAI ĐOẠN TỪ 11/1994 ĐẾN 02/1999 ............... 52
7T


T
7

3.1. Thúc đẩy quan hệ chính trị - ngoại giao và tăng cường giải quyết những bất đồng.
............................................................................................................................................ 52
T
7

T
7

3.1.1. Những điều kiện thuận lợi mới ........................................................................................ 52
T
7

T
7

3.1.2. Giải quyết bất đồng, thúc đẩy quan hệ chính trị - ngoại giao. ......................................... 53
T
7

T
7

3.2. Quan hệ kinh tế bước sang giai đoạn phát triển..................................................... 61
T
7


T
7

3.2.1. Trong lĩnh vực thương mại .............................................................................................. 62
T
7

7T

3.2.2. Trong lĩnh vực hợp tác khoa học kĩ thuật và đầu tư ........................................................ 65
T
7

T
7

3.3. Đẩy mạnh hợp tác trên lĩnh vực văn hóa - giáo dục và du lịch ............................. 67
T
7

T
7

3.3.1. Trên lĩnh vực văn hóa - giáo dục ..................................................................................... 67
T
7

T
7


3


3.3.2. Trên lĩnh vực hợp tác du lịch ........................................................................................... 70
T
7

7T

CHƯƠNG 4 : ĐỊNH HÌNH NỀN MÓNG CHO SỰ ỔN ĐỊNH VÀ PHÁT TRIỂN
LÂU DÀI CỦA QUAN HỆ VIỆT – TRUNG TỪ 02/1999 ĐẾN 2013 .................. 72
7T

T
7

4.1. Quan hệ chính trị - ngoại giao và giải quyết các vấn đề tranh chấp..................... 72
T
7

T
7

4.1.1. Thắt chặt quan hệ chính trị, ngoại giao và hoàn thành giải quyết vấn đề biên giới trên bộ và
vịnh Bắc Bộ ................................................................................................................................ 72
T
7

7T


4.1.2. Quan niệm mới về an ninh của Trung Quốc và việc giải quyết tranh chấp trên biển Đông
với Việt Nam .............................................................................................................................. 79
T
7

7T

4.2. Xu hướng phát triển ổn định, lâu dài của quan hệ kinh tế .................................... 83
T
7

T
7

4.2.1. Trong lĩnh vực thương mại .............................................................................................. 83
T
7

7T

4.2.2. Trong lĩnh vực hợp tác khoa học kĩ thuật và đầu tư ........................................................ 87
T
7

T
7

4.3. Quan hệ hợp tác, giao lưu văn hóa - giáo dục và du lịch ....................................... 92
T
7


T
7

4.3.1. Trên lĩnh vực văn hóa - giáo dục ..................................................................................... 92
T
7

T
7

4.3.2. Trên lĩnh vực hợp tác du lịch ........................................................................................... 94
T
7

7T

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 97
7T

7T

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 105
7T

7T

PHỤ LỤC ................................................................................................................. 110
7T


T
7

4


DẪN LUẬN
1. Lí do chọn đề tài
Trong lời tựa cuốn " Nghiên cứu Trung Quốc hiện đại ", giáo sư Vũ Khiêu có viết:
T
9
3

42
39T

2
4
T
9
3

"...Trung Quốc luôn là đối tượng tìm hiểu tất yếu và thường xuyên của ông cha ta. Từ bao đời
nay, sự tồn vong của đất nước, sự thắng bại của nhân dân ta luôn gắn với việc chúng ta có hiểu
biết hay không hiểu biết về Trung Quốc "[69: 7].
Tính từ tháng 1 1 năm 1991 đến nay, Việt Nam đã trải qua hơn 12 năm chung sống hoa
T
9
3


bình, hợp tác hữu nghị với Trung Quốc. Việc tiếp tục duy trì mối quan hệ Việt Nam - Trung
Quốc đang phát triển theo chiều hướng tốt đẹp hiện nay nhằm tạo sự ổn định để xây dựng và
phát triển đất nước là một nhiệm vụ chiến lược quan trọng của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Để thực hiện nhiệm vụ đó, Đảng và Nhà nước Việt Nam cần có một đường lối đối ngoại
T
9
3

thích hợp với Trung Quốc. Muốn vậy, chúng ta phải có những hiểu biết sâu sắc về lịch sử, văn
hóa và đặc biệt là chính sách đối ngoại mang tính truyền thống của nước này đối với Việt Nam
trong lịch sử và hiện tại. Trong cuốn " Thế giới trong hai thập niên đầu thế kỉ XXI ", GS.
Nguyễn Huy Quý cũng đã viết rằng, Việt Nam cần phải " thấu hiểu đối tác Trung Quốc để xác
định chính sách đúng trong quan hệ giao lưu, hợp tác và cạnh tranh kinh tế với Trung Quốc,
khai thác tiềm năng bổ sung lẫn nhau, hạn chế mặt tiêu cực trong cạnh tranh.... "[32: 237].
Từ những yêu cầu đó, chúng tôi cho rằng việc tiến hành nghiên cứu một cách có hệ
T
9
3

thống và toàn diện về mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong giai đoạn từ 1991 đến 2003
là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa sâu sắc. Thông qua nghiên cứu, chúng ta có thể rút ra
được những bài học kinh nghiệm trong quá trình quan hệ với Trung Quốc, thấy được thực chất
của mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc hiện nay. Những kết quả nghiên cứu trên có thể là
những căn cứ để Đảng và Nhà nước Việt Nam tham khảo khi hoạch định đường lối chính sách
xây dựng và phát triển quan hệ với Trung Quốc.
Xuất phát từ những nhiệm vụ trên, chúng tôi thấy vấn đề " Quan hệ Việt Nam - Trung
T
9
3


Quốc từ 1991 đến 2003 " là một đề tài có ý nghĩa về mặt khoa học và thực tiễn đối với công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay. Việc nghiên cứu đề tài này còn nhằm rút ra
những bài học kinh nghiệm sâu sắc về mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, góp phần làm cơ
sở cho việc hoạch định chính sách đối ngoại nói chung và chính sách quan hệ với Trung Quốc
nói riêng và phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy sau này. Hơn thế nữa, những phương

5


thức ứng xử của dân tộc Việt Nam trong quá trình quan hệ với Trung Quốc còn là những bài
học bổ ích trong cuộc sống giao tiếp hàng ngày.
Với ý nghĩa khoa học và thực tiễn to lớn đó, chúng tôi thấy rằng, vấn đề " Quan hệ Việt
T
9
3

Nam - Trung Quốc từ 1991 đến 2003 " là một đề tài đầy lí thú và chắc chắn sẽ đem lại nhiều
kết quả hữu ích. Do đó, chúng tôi đã mạnh dạn chọn vấn đề này làm đề tài nghiên cứu cho luận
văn tốt nghiệp cao học của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong vòng 5 năm trở lại đây, vấn đề quan hệ Việt Nam - Trung Quốc từ sau khi bình
T
9
3

thường hóa (1991) đến nay được nhiều nhà nghiên cứu ở Việt Nam và Trung Quốc quan tâm
nghiên cứu. Trong số những công trình nghiên cứu đã được công bố tại Việt Nam, chúng tôi
xin được điểm qua một số công trình tiêu biểu:
Năm 1988, Nhà xuất bản Công An Nhân Dân đã xuất bản công trình " Năm mươi năm

T
9
3

2
4
T
9
3

ngoại giao Việt Nam " gồm 2 tập của tác giả Lưu Văn Lợi. Trong công trình này, đáng chú ý
42
39T

là tác giả đã dành 27 trang để tái hiện và phân tích tiến trình đàm phán và đi đến bình thường
hóa quan hệ Việt - Trung từ năm 1975 đếnnăm 1995. Trong đó, tác giả đã làm nổi bật lên một
vấn đề là Việt Nam luôn chủ động thúc đẩy tiến trình đàm phán để nhanh chóng đi đến bình
thường hóa quan hệ. Trong khi đó, Trung Quốc thì ngược lại luôn tìm lí do để từ chối hoặc
kéo dài quá trình đàm phán. Tại sao Trung Quốc lại làm như vậy? Và phải chăng việc đi đến
bình thường hóa quan hệ Việt - Trung năm 1991 là kết quả của " sự cố gắng không mệt mỏi
của lãnh đạo cấp cao nhất của hai Đảng hai Nhà nước "[65: 128] như một số nhà nghiên cứu
quan niệm?
Năm 2000, trên Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc số 3 có bài "Mấy suy nghĩ về quan hệ
T
9
3

2
4
T

9
3

Việt - Trung nhân kỉ niệm 50 năm quan hệ ngoại giao Việt Nam -Trung Quốc " của Đỗ Tiến
2
4
T
9
3

Sâm. Bài viết đã trình bày những suy nghĩ của tác giả từ thực tế của mối quan hệ Việt Nam Trung Quốc từ 1950 đến 2000. Trong đó, có một nhận định rất đáng chú ý: " như nhiều học
giả nhận xét và tôi cũng đồng ý như vậy, rõ ràng quan hệ kinh tế giữa hai nước hiện chưa
tương xứng với quan hệ chính trị và tiềm năng kinh tế của hai nước " [33: 19]. Nhận định trên
đã đặt ra hàng loạt các vấn đề: Tại sao lại có sự không tương xứng đó? Rồi thì, tại sao từ 1991
đến nay quan hệ chính trị ngoại giao giữa hai nước lại phát triển nhanh chóng, trong khi đó
quan hệ kinh tế thì lại phát triển chưa tương xứng?. Và liệu trong tương lai, mối quan hệ kinh
tế có phát triển tương xứng với những thuận lợi từ mối quan hệ chính tri ngoại giao giữa hai

6


nước hay không?. Đó là những vấn đề hết sức thú vị đối với những ai đang tìm hiểu về mối
quan hệ Việt - Trung.
Cũng trong năm 2000, tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn - Đại học
T
9
3

Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, Học viên cao học Nguyễn Văn Thành đã bảo vệ thành công luận
văn tốt nghiệp đề tài " Tiến trình lịch sử của mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc từ 1975 đến

42
39T

nay (1999) ". Tác giả luận văn này đã nghiên cứu những thăng trầm của mối quan hệ Việt
42
39T

Nam - Trung Quốc trải dài từ trước công nguyên cho đến năm 1999. Trong đó có 55 trang viết
về tiến trình của quan hệ Việt - Trung từ 1991 đến 1999. ưu điểm của công trình này là đã khôi
phục lại những nét cơ bản nhất của toàn bộ tiến trình lịch sử quan hệ Việt Nam - Trung Quốc,
trong đó có chú trọng đến giai đoạn 1991 - 1999. Tuy nhiên, công trình còn nặng về trình bày
sự kiện hơn là phân tích cấu trúc chiều sâu của các sự kiện và chưa làm nổi bật được sự vận
động nội tại cũng như những tác động của một số nhân tố khách quan đối với sự phát triển của
mối quan hệ Việt - Trung.
Năm 2001, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội đã xuất bản cuốn " Buôn bán qua biên giới
T
9
3

2
4
T
9
3

Việt - Trung: Lịch sử, hiện tại và triển vọng " của tác giả Nguyễn Minh Hằng. Công trình này
2
4
T
9

3

đã khảo cứu và phân tích khá sâu sắc về một lĩnh vực cụ thể trong quan hệ Việt - Trung. Đó là
tình hình buôn bán qua biên giới Việt Nam - Trung Quốc trong lịch sử, đặc biệt là giai đoạn
1991 - 2000. Qua đó, tác giả đã rút ra những quy luật của hoạt động buôn bán qua biên giới
Việt - Trung và những đóng góp cũng như hạn chế, tác động của nó đối với quan hệ Việt Trung trong lịch sử, hiện tại và trong tương lai.
Cũng trong năm 2001, tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc
T
9
3

gia Tp. Hồ Chí Minh, Học viên cao học Nguyễn Văn Hưng đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp
đề tài: " Quan hệ kinh tế Việt - Trung (1991 -2000) ". Đây là một công trình nghiên cứu khá
2
4
T
9
3

2
4
T
9
3

công phu riêng về lĩnh vực quan hệ kinh tế Việt - Trung từ trước công nguyên đến năm 2000.
Trong đó, tác giả đã dành riêng chương 2 để phân tích về quan hệ thương mại và hợp tác đầu
tư giữa Việt Nam và Trung Quốc từ năm 1991 đến năm 2000. Qua đó, tác giả đã bước đầu rút
ra một số đặc điểm mang tính quy luật, những khó khăn, thuận lợi trong quan hệ kinh tế giữa
hai nước. Tuy nhiên, những gì đạt được của luận văn này cũng chỉ dừng lại ở phạm vi của mối

quan hệ kinh tế - một bộ phận trong chỉnh thể quan hệ Việt - Trung mà thôi.
Năm 2002, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội đã xuất bản liên tiếp hai công trình nghiên
T
9
3

cứu về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc:

7


Cuốn " Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc những sự kiện 1991 – 2000 " do Trần Độ chủ
T
9
3

2
4
T
9
3

2
4
T
9
3

biên. Đây là một công trình được biên soạn công phu và nghiêm túc theo lối biên niên sự kiện
với thứ tự thời gian từ năm 1991 đến năm 2000. Theo các tác giả thì công trình này đã thể hiện

được " diện mạo tổng thể sự phát triển liên tục theo chiều hướng đi lên thân thiện và tốt đẹp
của mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc trong 1 0 năm qua (1991 - 2000) "[16: 12].
4
T
9
3

4
T
9
3

Nhưng các tác giả cũng chỉ dừng lại ở việc lựa chọn những sự kiện đơn thuần được sắp xếp
theo thứ tự thời gian mà thôi. Việc phân tích, đánh giá và tìm ra những quy luật...là hoàn toàn
thiếu vắng trong những loại công trình biên niên sử như thế này.
Sau đó là kỉ yếu Hội thảo khoa học " Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc nhìn lại 10 năm và
T
9
3

2
4
T
9
3

triển vọng " do ủy ban Nhân Dân tỉnh Lạng Sơn và Trung Tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn
2
4
T

9
3

Quốc gia tổ chức gồm 39 bài tham luận của nhiều nhà nghiên cứu ở Việt Nam và Trung Quốc.
Các tham luận tập trung phân tích và chứng minh cho sự phát triển của mối quan hệ Việt Nam
- Trung Quốc từ năm 1991 đến 2000, đồng thời đưa ra những dự đoán về một triển vọng tốt
đẹp cũng như một số thách thức của mối quan hệ này trong tương lai. Đặc biệt trong cuốn kỉ
yếu hội thảo này, lần đầu tiên có hai tham luận đề cập đến vấn đề phân chia giai đoạn phát
triển của mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc từ 1991 đến 2000 :
Thứ nhất là cách phân chia của GS. Quách Minh (Trung Quốc). Dựa vào tiến trình phát
T
9
3

triển của mối quan hệ chính trị - ngoại giao, tác giả này cũng chia thành 3 giai đoạn phát triển:
Giai đoạn 1: Cuối 1991 - 7/1995. Giai đoạn 2: 7/1995 – 02/1999. Giai đoạn 3: 02/1999 - nay
(2000).
Thứ hai là cách phân chia của tác giả Nguyễn Phương Hoa (Việt Nam). Xuất phát từ sự
T
9
3

biến đổi của tình hình quốc tế và sự phát triển của mối quan hệ Việt - Trung, tác giả này cũng
chia thành 3 giai đoạn: Giai đoạn 1: 1991 - 1993. Giai đoạn 2: 1994 - 1998. Giai đoạn 3: 1999
- nay (2000).
Một vấn đề đáng chú ý khác trong hội thảo này đó là sự chưa thống nhất trong một số
T
9
3


nhận định, đánh giá về mối quan hệ Việt - Trung của một số nhà nghiên cứu. Chẳn hạn như,
trong tham luận " Nhìn lại 10 năm bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc ", tác giả
42
39T

3
42T

3
42T

2
4
T
9
3

Hoàng Ngọc Bảo cho rằng, những nhân tố quan trọng trong việc tiến tới bình thường hóa và
phát triển mối quan hệ láng giềng hữu nghị, ổn định lâu dài đó là tính tương đồng văn hóa,
cùng thể chế chính trị và vị trí địa lí " núi liền núi, sông liền sông, có chung biên giới, lãnh hải
" của hai nước [Xem thêm:65: 117 - 126]. Nhưng, cũng nhận định về vấn đề này, GS.Quách

8


Minh lại cho rằng " hiện nay nhân tố chủ yếu trong quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc
không phải là hình thái ý thức mà là lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc "[65: 45]. Và trong thực
tế, bên cạnh những tác động tích cực của các nhân tố mà tác giả Hoàng Ngọc Bảo đưa ra, mối
quan hệ Việt - Trung cũng đã và đang phải đối mặt với những thách thức trực tiếp từ chính
những nhân tố đó. Theo chúng tôi, đây là một vấn đề cần phải tiếp tục làm sáng tỏ thêm.

Năm 2002, Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia đã xuất bản công trình " Thế giới trong hai
T
9
3

2
4
T
9
3

thập niên đầu thế kỉ XXI " do Nguyễn Huy Quy chủ biên. Trong công trình này, tác giả đã
42
39T

dành riêng một chương để phân tích và dự báo về những thay đổi trong chiến lược đối ngoại
của Trung Quốc, từ đó đưa ra dự báo rằng " Quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và
Trung Quốc vẫn gắn bó và phát triển... cho tới năm 2020, vấn đề tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải
vẫn chưa thể giải quyết triệt để "[32: 238]
Qua một vài nét mang tính tổng quan như trên cho thấy, vấn đề " Quan hệ Việt Nam T
9
3

Trung Quốc từ khi bình thường hóa đến nay " là một vấn đề hết sức rộng lớn và phức tạp cần
được tiếp tục nghiên cứu.
Hiện tại, phần lớn các công trình nghiên cứu về quan hệ Việt - Trung từ sau khi bình
T
9
3


thường hóa đến nay cũng chỉ dừng lại ở thời điểm năm 2000. Trong khi ba năm qua, mối quan
hệ này có nhiều diễn biến mới vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Mặt khác, từ lịch sử nghiên
cứu vấn đề cho thấy, việc nghiên cứu mối quan hệ Việt - Trung từ 1991 đến 2003 như một
chỉnh thể vận động là một hướng đi mới cần được tiếp tục khai phá.

3. Giới hạn đề tài
Trên cơ sở kế thừa những thành tựu của các nhà nghiên cứu đi trước, trong đề tài này,
T
9
3

chúng tôi sẽ cố gắng nghiên cứu tổng thể mối quan hệ Việt Nam -Trung Quốc trong sự vận
động nội tại của nó dưới tác động của tình hình thế giới và khu vực. Trong đó, các vấn đề như
quan hệ chính trị - ngoại giao và giải quyết các vấn đề tranh chấp, quan hệ kinh tế và mối liên
hệ giữa các lĩnh vực này được đặc biệt chú trọng.
Không gian nghiên cứu của vấn đề chỉ dừng lại ở phạm vi quan hệ giữa Việt Nam và
T
9
3

Trung Quốc (không bao gồm Đài Loan, Hồng Kông và Ma Cao). Thời gian được giới hạn
trong giai đoạn 1991 - 2003. Tuy nhiên, để đảm bảo tính hệ thống, chúng tôi dành chương 1 để
tìm hiểu về thực trạng của quan hệ Việt Nam - Trung Quốc từ 1979 đến 1991.

9


Bên cạnh đó, chúng tôi chú ý đến việc phân tích, so sánh... để góp phần tìm lời giải đáp
T
9

3

cho các vấn đề tồn tại được nêu trong phần lịch sử nghiên cứu vấn đề, đồng thời làm nổi lên
chính sách đối ngoại của cả hai phía..., từ đó thử phân tích để tìm ra những thách thức và triển
vọng của mối quan hệ Việt - Trung trong tương lai.

4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã vận dụng phương pháp lịch sử để tái hiện lại
T
9
3

bức tranh sinh động của mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 12 năm qua (1991 - 2003).
Đồng thời với quá trình đó, chúng tôi kết hợp sử dụng phương pháp lôgic để lí giải một số vấn
đề mang tính phức tạp trong quan hệ giữa hai nước, phát hiện ra bản chất và những đặc điểm
mang tính quy luật đang ẩn mình trong vô vàn sự kiện phức tạp của quan hệ Việt Nam - Trung
Quốc giai đoạn này.
Ngoài ra, chúng tôi còn vận dụng phương pháp liên ngành, thống kê để xử lí các số liệu,
T
9
3

sử dụng phương pháp trao đổi, thảo luận để tranh thủ những ý kiến mang tính phản biện cho
những nhận định, đánh giá...của mình, nhằm làm giảm bớt tính chủ quan trong quá trình
nghiên cứu.

5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn
T
9

3

gồm 116 trang được chia làm 4 chương:
Chương 1: Thực trạng quan hệ Việt Nam - Trung Quốc từ 1979 đến 1991
T
4
5

54
39T

Chương 2: Quá trình khôi phục và củng cố quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong giai
T
4
5

54
39T

đoạn 11/1991 đến 11/1994
Chương 3: Đẩy mạnh quá trình giải quyết những bất đồng và tăng cường hợp tác trong
T
4
5

54
39T

giai đoạn 11/1994 đến 02/1999
Chương 4: Định hình nền móng cho sự phát triển ổn định lâu dài của quan hệ Việt T

4
5

54
39T

Trung từ 02/1999 đến 2003

10


CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG CỦA MỐI QUAN HỆ VIỆT NAM TRUNG QUỐC TỪ 1979 ĐẾN 1991
Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia láng giềng, " núi liền núi, sông liền sông ".
T
9
3

Phong tục tập quán và văn hóa có nhiều nét tương đồng. Hai nước đã từng có truyền thống
hữu nghị trong nhiều thời kì lịch sử. Ngay sau khi nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa
thành lập được chưa đầy bốn tháng, ngày 18 tháng 01 năm 1950, Trung Quốc đã thiết lập quan
hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Từ đó, quan hệ Việt - Trung ngày càng
gắn bó qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mĩ của nhân dân Việt Nam.
Thế nhưng, do những biến đổi của tình hình quốc tế và sự thay đổi trong chính sách đối
T
9
3

ngoại của hai nước, nên quan hệ Việt - Trung bắt đầu xấu đi trong những năm đầu thập kỉ 70
và ngày càng căng thẳng.


1.1. Sự bế tắc của quá trình đàm phán trong giai đoạn 1979 - 1986 và nguồn gốc
của nó.
Sự kiện 60 vạn quân Trung Quốc tấn công 6 tỉnh biên giới phía Bắc của Việt Nam để "
T
9
3

dạy cho Việt Nam một bài học "(?) vào ngày 17 tháng 02 năm 1979, đã làm cho quan hệ Việt
Nam - Trung Quốc vốn đã rạn nứt trước đó chính thức rơi vào tình trạng đổ vỡ hoàn toàn.
Đúng hai tháng sau khi cuộc xung đột diễn ra - ngày 18 tháng 4 năm 1979, vòng 1 của
T
9
3

cuộc đàm phán Việt Nam - Trung Quốc đã diễn ra tại Hà Nội. Và hơn hai tháng sau đó
(28/6/1979), cuộc đàm phán bước vào vòng 2 tại Bắc Kinh. Mục đích của cuộc đàm phán này
là nhằm tìm ra một giải pháp hữu hiệu để cứu vãn tình hình. Song, quan điểm mà hai bên đưa
ra có lẽ như không phải để cùng nhau tìm một giải pháp thật sự cho việc khôi phục trở lại mối
quan hệ giữa hai nước, khi mà chúng có quá nhiều điểm bất đồng gay gắt cả về lợi ích quốc
gia lẫn thực tế chính trị mà hai bên đang theo đuổi hoặc tham gia:
Việt Nam đưa ra đề nghị đối với Trung Quốc là: " Không tập trung quân sát đường biên
T
9
3

giới; cách li lực lượng vũ trang hai bên; chấm dứt mọi hành động khiêu khích chiến tranh,
không bành trướng lãnh thổ dưới bất cứ một hình thức nào. Đã chiếm đoạt đất đai của nước
nào thì phải chấm dứt ngay tình trạng đó. Không xâm lược, không dùng vũ lực để " trừng phạt
" hoặc để " dạy bài học " cho bất cứ một nước nào. Không áp đặt tư tưởng, quan điểm, đường
lối của mình cho nước khác. Không dùng bất kì thủ đoạn nào, kể cả viện trợ kinh tế để ép buộc

nước khác phải từ bỏ đường lối độc lập tự chủ, không can thiệp vào quan hệ của một nước với

11


nước khác. Không dùng những tổ chức chống đối do mình nuôi dưỡng, lực lượng kiều dân của
mình hoặc bất cứ hình thức nào để can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác. Không liên
minh với chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động khác chống lại hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội "[27: 196]
Trung Quốc đã đáp lại bằng cách đưa ra một bản lập trường 8 điểm chứa đựng nhiều nội
T
9
3

dung mà phía Việt Nam cũng khó có thể chấp nhận được: " Bất cứ bên nào đều không mưu
cầu bá quyền ở Đông Dương, Đông Nam Á và các khu vực khác, mỗi bên đều phản đối sự cố
gắng của bất cứ quốc gia hoặc tập đoàn quốc gia nào khác nhằm thiết lập bá quyền đó. Bất cứ
bên nào đều không đóng quân ở nước ngoài, quân đội đã đóng ở nước ngoài thì phải rút về
nước mình. Bất cứ bên nào đều không tham gia tập đoàn quân sự nhằm chống lại bên kia.
Quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và quần đảo Nam Sa (Trường Sa) xưa nay vẫn là một bộ phận
lãnh thổ không thể chia cắt được của Trung Quốc. Phía Việt Nam cần trở lại lập trường cũ
công nhận sự thật đó... tôn trọng chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này và rút
hết tất cả nhân viên trên các hòn đảo thuộc đảo Nam Sa (Trường Sa) mà phía Việt Nam chiếm
đóng "[27: 197, 198]
Với những lập trường như trên, cả hai bên đã không đạt được một thỏa thuận nào ngoài
T
9
3

thỏa thuận trao trả tù binh. Và sau đó, Trung Quốc đã đơn phương từ chối việc tiếp tục vòng 3

của cuộc đàm phán, mặc cho Việt Nam nhiều lần đề nghị. Từ đó, kênh đàm phán chính thức
giữa hai bên hoàn toàn bị tắc nghẽn, tình trạng " đổ vỡ " của mối quan hệ Việt - Trung hoàn
toàn bị " đóng băng ".
Đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng bế tắc của mối quan hệ Việt -Trung như trên?.
T
9
3

Trong cuốn 50 năm ngoại giao Việt Nam, ông Lưu Văn Lợi giải thích rằng: " Dư luận Quốc tế
cho rằng phía Trung Quốc không chịu bàn các vấn đề nhằm ổn định vùng biên giới, ngăn ngừa
chiến tranh trở lại là nhằm làm cho Việt Nam chảy máu thêm trong lúc Việt Nam đang đứng
trước nhiều khó khăn do cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội và tình thế bị cô lập trên trường
quốc tế gây ra. Trung Quốc muốn dùng vấn đề Campuchia để tập hợp lực lượng, hạn chế ảnh
hưởng của Liên Xô ở Đông Nam Á. Đó là lí do vì sao vấn đề bình thường hóa quan hệ Việt Trung bị gắn liền với việc giải quyết vấn đề Campuchia "[27: 199].
Để làm rõ hơn về nguồn gốc sâu xa dẫn đến sự đổ vỡ của quan hệ Việt Nam - Trung
T
9
3

Quốc trong cuối những năm 70 này, chúng ta phải quay trở lại lịch sử Trung Quốc và tình hình
quan hệ quốc tế mấy năm trước đó:

12


Sau khi chính thức trở lại cầm quyền, để đưa Trung Quốc thoát khỏi tình trạng khủng
T
9
3


hoảng, vươn lên trở thành siêu cường ở châu Á, Đặng Tiểu Bình đã đưa ra kế hoạch " Bốn
2
4
T
9
3

2
4
T
9
3

hiện đại hóa " (công nghiệp, nông nghiệp, khoa học kĩ thuật và quốc phòng) với phương châm
thực hiện cải cách mở cửa nhằm tranh thủ vốn, kĩ thuật và thị trường của Mĩ, Tây Âu và Nhật
Bản. Kế hoạch này đã nhanh chóng được Đại hội XI Đảng Cộng Sản Trung Quốc (8/1978)
thông qua và triển khai thực hiện.
Nói về tầm quan trọng của chương trình " Bốn hiện đại hóa ", Đặng Tiểu Bình nhấn
T
9
3

mạnh: " Đường lối chính trị của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay, nói khái quát là một lòng
một dạ thực hiện bốn hiện đại hóa, bất cứ lúc nào cũng không được quấy nhiễu công việc này,
nhất thiết phải kiên quyết không lay chuyển, một lòng một dạ tiếp tục thực hiện. Rất nhiều vấn
đề, nếu không thực hiện được bốn hiện đại hóa thì không giải quyết được. Sự phát triển của
nền kinh tế quốc dân, sự gia tăng của thu nhập quốc dân...việc quốc phòng cần được củng cố
và tăng cường một cách tương ứng đều phải dựa vào bốn hiện đại hóa "[Dần lại: 68: 62]
Để thực hiện " bốn hiện đại hóa ", Trung Quốc không thể tiếp tục phương châm " tự lực
T

9
3

cánh sinh " trước đây được nữa mà phải dựa vào nguồn lực bên ngoài. Và nguồn lực bên ngoài
đó không ai khác đó là Mĩ, Nhật Bản, và Tây Âu. Điều đó đã hoàn toàn công khai khi mà " tại
Đại hội và kì họp Quốc hội tháng 2 và tháng 3 năm 1978, Đặng Tiểu Bình đã đưa ra lời mời
Hoa Kì tham gia mặt trận chung chống Liên Xô mà Đặng đã đề cập không một chút quanh co
hồi đầu tháng 10 năm 1977 "[31: 348]
Mặc dù Trung Quốc đã đánh bài ngửa với Mĩ, nhưng tại thời điểm này, Mĩ vẫn chưa xác
T
9
3

định rõ chính sách đối với Trung Quốc. Bởi vì, theo quan điểm của giới cầm quyền Mĩ qua lời
phát biểu của Kissinger được viết trong cuốn " The history of American Foreign Policy " của
Jerald Combs thì "... gần với Moskva lẫn gần với Bắc Kinh sẽ luôn là điều tốt hơn nếu chỉ
chọn gần với một bên, trừ trường hợp Liên Xô tấn công Trung Quốc " [Dẩn theo:31:344].
Nhưng thái độ trên của Mĩ chỉ được duy trì trong một thời gian ngắn. Khi phương Tây
T
9
3

phát hiện được Liên Xô đã bí mật triển khai hệ thống tên lửa SS-20 mang 3 đầu đạn có thể bắn
tới bất cứ trung tâm chiến lược nào của Tây Âu, chính quyền của tổng thống Carter đã quyết
định đáp lại lời kêu gọi của Đặng Tiểu Bình. Tháng 7 năm 1978, hai bên Trung Mĩ đã " đưa ra
những lời kiêu gọi ồn ào về một chính sách chung chống Liên Xô, không phát triển quan hệ
với Việt Nam và tỏ thái độ thù địch với Cuba "[31: 348].

13



Sau khi Mĩ quyết định cùng với Trung Quốc chống lại Liên Xô, Trung Quốc đã không
T
9
3

mấy khó khăn trong việc cải thiện và thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với Nhật Bản:
Ngày 12 tháng 8 năm 1978, Hiệp ước hòa bình và hữu nghị Trung - Nhật chính thức được kí
kết.
Những hành động này đã chứng tỏ Trung Quốc đang lấy việc chống Liên Xô và các
T
9
3

nước Xã Hội Chủ Nghĩa để xích lại gần và cải thiện quan hệ với Mĩ và thế giới tư bản nhằm
mục tiêu thực hiện " bốn hiện đại hóa " của mình. Điều đó càng được khẳng định hơn khi mà
sau này, tại Hội nghị Trung ương lần III khoa XI (12/1978), Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã ra
4
39T

4
T
9
3

bản thông cáo nêu rõ: " đất nước ta đã đạt được những thắng lợi quan trọng trong việc trong
việc phát triển mặt trận thống nhất quốc tế chống bá quyền... Việc kí Hiệp ước hòa bình và
hữu nghị Trung - Nhật và việc hoàn thành các cuộc thương lượng về việc bình thường hóa
quan hệ giữa Mĩ và Trung Quốc là những đóng góp quan trọng cho hòa bình ở châu Á và thế
giới... Hội nghị cho rằng việc bình thường hóa quan hệ giữa Trung Quốc và Mĩ đã mở ra trước

mắt chúng ta triển vọng đưa Đài Loan - lãnh thổ thiêng liêng của chúng ta trở về với tổ quốc
"[59: 189]
Trước sự câu kết giữa Trung Quốc và Mĩ nhằm mục đích chống lại Liên Xô, Việt Nam
T
9
3

và các nước Xã Hội Chủ Nghĩa khác như trên thì dù muốn hay không, Việt Nam cũng đã bị
Mĩ và Trung Quốc đẩy về phía đối lập với họ. Vốn là một nước nhỏ, Việt Nam đang bị đe dọa
8
4
T
9
3

8
4
T
9
3

trực tiếp từ phía Trung Quốc (giờ đây là đồng minh của Mĩ). Trong tình thế đó, việc thắt chặt
hơn nữa mối quan hệ vốn có với Liên Xô là hành động duy nhất mà Việt Nam có thể làm lúc
này. Ngày 03 tháng 11 năm 1978, Hiệp ước hoa bình hợp tác và hữu nghị Việt Nam - Liên Xô
được kí kết. Trong đó, hiệp ước đặc biệt nhấn mạnh " trong trường hợp một trong hai bên bị
tấn công hoặc bị đe doa tấn công, hai bên sẽ trao đổi với nhau nhằm loại trừ mối đe dọa đó và
áp dụng những biện pháp thích đáng có hiệu lực để đảm bảo hòa bình và an ninh của hai nước
"[8: 212].
Trong hoàn cảnh quan hệ giữa Trung Quốc, Mĩ với Liên Xô đang trong tình trạng đối
T

9
3

đầu căng thẳng như trên, sự ra đời của Hiệp ước hòa bình hợp tác và hữu nghị Việt Nam - Liên
Xô là một hành động tự vệ chính đáng của Việt Nam. Điều đó cũng đã khẳng định chính thức
việc Việt Nam đứng hẳn về phía Liên Xô và các nước Xã Hội Chủ Nghĩa khác, chấp nhận một
cuộc đối đầu với Trung Quốc và Mĩ.

14


Sự liên kết Việt - Xô được Mĩ và Trung Quốc hiểu như là một âm mưu bá quyền của
T
9
3

Liên Xô ở châu Á. Để đáp lại, ngày 16/12/1978, Mĩ và Trung Quốc đã ra thông cáo chung
Trung - Mĩ về việc thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ từ ngày 01 tháng 01 năm 1979. Bản
thông cáo đã chính thức khẳng định sự liên kết Trung - Mĩ nhằm chống lại cái mà lãnh đạo hai
nước này gọi là " bá quyền của Liên Xô ở Châu Á ".
Như vậy, cuộc đối đầu Xô - Mĩ và chính sách chống Liên Xô để cải thiện quan hệ với Mĩ
T
9
3

và thế giới tư bản nhằm thực hiện mục tiêu " bốn hiện đại hóa " của Trung Quốc đã hình thành
nên tình trạng liên kết đối đầu giữa Trung Quốc mà đằng sau đó là Mĩ và thế giới tư bản với
Việt Nam mà đằng sau đó là Liên Xô và các nước Xã Hội Chủ Nghĩa khác. Thế đối đầu này đã
trở nên gay gắt trước năm 1979. Sự kiện Việt Nam đưa quân sang Campuchia đầu năm 1979
chẳng qua là hiện tượng " giọt nước làm tràn ly " trong quan hệ Việt - Trung mà thôi.

Điều đó đã lí giải được tại sao Trung Quốc lại đơn phương từ chối những đề nghị đàm
T
9
3

phán nhằm giải quyết những vấn đề mâu thuẫn giữa hai nước để tiến tới bình thường hóa quan
hệ giữa hai nước mà Việt Nam đưa ra tại thời điểm đó.
Chính sách chống Việt Nam của Trung Quốc còn được thể hiện trực tiếp thông qua việc
T
9
3

câu kết với Mĩ, Thái Lan ủng hộ lực lượng Khmer đỏ chống lại Việt Nam, làm cho Việt Nam
bị sa lầy trong vấn đề Campuchia.
Trước tình thế đó, không còn cách nào khác, đường lối đối ngoại của Việt Nam phải
T
9
3

hướng về các nước Đông Dương, Liên Xô và các nước Xã hội Chủ nghĩa khác. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác định: " đoàn kết, hợp tác toàn
diện với Liên Xô luôn luôn là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Đảng và nhà nước ta
"[10: 153]. Đồng thời coi quan hệ với Lào và Campuchia như " một quy luật phát triển giữa ba
nước là điều có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của ba dân tộc "[10: 153]. Ngược lại,
đường lối chống Trung Quốc của Việt Nam cũng được chính thức đưa vào lời nói đầu của bản
Hiến pháp mới của Việt Nam (Hiến pháp 1980).
Một thực tế là sau khi bị sa vào cục diện đối đầu này và không rút ra khỏi Campuchia
T
9
3


được, Việt Nam lâm vào tình thế hết sức khó khăn: Mĩ cáo buộc Việt Nam xâm lược
Campuchia và thúc đẩy các nước ASEAN ra dự thảo nghị quyết về việc Liên Hiệp Quốc yêu
cầu Việt Nam rút khỏi Campuchia, vận động hầu hết các nước trong nghị viện châu Âu đình
chỉ viện trợ kinh tế, siết chặt cấm vận đối với Việt Nam. Đồng thời lúc này, các nước trong
khu vực Đông Nam Á cũng đơn phương cắt đứt quan hệ đối với Việt Nam...

15


Trong khi đó, Việt Nam lại lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội nghiêm trọng
T
9
3

(lạm phát ngày một gia tăng với tốc độ phi mã: năm 1978: 128%, năm 1981 lên đến 131%).
Trong khi đó, Liên Xô cũng đang lâm vào khủng hoảng làm cho sự giúp đỡ của Liên Xô đối
với Việt Nam giảm đi và chuyển từ viện trợ không hoàn lại sang cơ chế hợp tác hai bên cùng
có lợi... Thực tế đó đòi hỏi Việt Nam phải phá thế bị bao vấy, cô lập, mở rộng quan hệ với các
nước trong khu vực và thế giới để đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng.
Trước những yêu cầu cấp bách như vậy, Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng Sản Việt
T
9
3

Nam lần thứ V (tháng 3 năm 1982) đã có những thay đổi trong chính sách đối ngoại của mình.
Văn kiện Đại hội đã xác định: " Nhân dân Việt Nam chủ trương thiết lập những quan hệ láng
giềng tốt với các nước ASEAN, luôn luôn sẵn sàng phối hợp cố gắng để xây dựng Đông Nam
Á thành một khu vực hòa bình và ổn định "[10: 153]. Đối với các nước khác thì sẵn sàng "
thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường về mặt nhà nước về kinh tế, văn hóa, khoa học kĩ

thuật với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị xã hội, trên cơ sở tôn trọng độc lập
chủ quyền bình đẳng cùng có lợi "[10: 155].
Nhưng, đường lối đối với Trung Quốc thì vẫn không có thay đổi lớn trong kì đại hội này;
T
9
3

Văn kiện đại hội V tiếp tục xác định: " nhân dân Việt Nam kiên quyết đấu tranh làm thất bại
mọi âm mưu thôn tính, xâm lược của giới cầm quyền phản động Trung Quốc đối với nước ta,
nhưng chúng ta vẫn giữ nguyên tình cảm hữu nghị đối với nhân dân Trung Quốc. Chúng ta
chủ trương khôi phục quan hệ bình thường giữa hai nước trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn
tại hoà bình, tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau và giải quyết những
vấn đề tranh chấp bằng con đường thương lượng, chúng ta đã nhiều lần đề nghị nối lại các
cuộc đàm phán đã bị Trung Quốc đơn phương bỏ dỡ, nhưng phía Trung Quốc vẫn một mực
khước từ những đề nghị của chúng ta "[10: 153, 154]
Tuy nhiên, những tuyên bố về đường lối đối ngoại mới của Việt Nam dường như không
T
9
3

được các nước ASEAN và cộng đồng quốc tế đón nhận và ủng hộ. Nguyên nhân của tình
trạng đó không nằm ngoài việc Việt Nam vẫn còn đóng quân trên lãnh thổ Campuchia. Giờ
đây, việc giải quyết vấn đề Campuchia để rút quân khỏi nước này chính là " chìa khóa " để
Việt Nam mở cánh cửa giao lưu tiếp xúc với các nước trong khu vực và trên thế giới, thoát
khỏi sự bao vây cô lập để đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng.
Nhưng, việc giải quyết vấn đề Campuchia lại liên quan đến nhiều nước khác nhau, trong
T
7
4


đó có Trung Quốc. Vì vậy, việc cải thiện quan hệ đối với Trung Quốc sẽ tạo điều kiện cho

16


Việt Nam giải quyết thuận lợi về vấn đề Campuchia. Thông qua Hội nghị ngoại trưởng ba
nước Đông Dương tháng 7 năm 1982, Việt Nam đã đưa ra tuyên bố rằng: " mong muốn có
quan hệ hòa bình hữu nghị và hợp tác với Trung Quốc trong cùng tồn tại hòa bình và nối lại
đàm phán Việt –Trung "[27: 202]. Tiếp sau đó, ngày 17 tháng 7 năm 1982, Việt Nam đã rút
một bộ phận quân tình nguyện ở Campuchia về nước và tuyên bố sẽ tiếp tục rút như vậy hàng
năm. Song, những tín hiệu mà Việt Nam đưa ra đã không được giới lãnh đạo Trung Quốc đáp
lại trực tiếp mà họ lại đưa vấn đề này ra trong vòng 1 của cuộc đàm phán Xô - Trung sau đó
gần 3 tháng (10/1982). Trung Quốc xem đây như là một trong những điều kiện tiên quyết mà
Liên Xô phải thực hiện để tiến tới bình thường hóa quan hệ Xô - Trung.
Tại sao Trung Quốc lại không chấp nhận đàm phán với Việt Nam để góp phần giải quyết
T
7
4

vấn đề Campuchia và bình thường hóa quan hệ Việt - Trung, mặc dù phía Việt Nam đã có
những đề nghị lẫn hành động đầy thiện chí trước đó, mà lại lấy nó làm điều kiện mặc cả với
Liên Xô trong quá trình đàm phán Xô -Trung?
Giải thích về vấn đề này, ông Lưu Văn Lợi viết " rõ ràng là ý đồ của Trung Quốc là dùng
T
7
4

con bài Việt Nam để cải thiện quan hệ Xô - Trung, dùng Liên Xô ép Việt Nam rút quân khỏi
Campuchia, chưa phải là bàn việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam "[27: 202].
Nhận định trên là hoàn toàn có cơ sở thực tế khi mà trong Đại hội XII của Đảng Cộng

T
7
4

7
T
4

7
T
4

Sản Trung Quốc (3/1982) đã bắt đầu có những dấu hiệu muốn cải thiện quan hệ với Liên Xô
mà biểu hiện cụ thể là Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã không còn đánh giá Liên Xô là mối
7
4
T
9
3

nguy hiểm chính của nước này nữa. Sự thay đổi thái độ đối với Liên Xô nhanh chóng như vậy
là có nguyên nhân của nó:
Có thể thấy rằng, khi đề xướng và lôi kéo Mĩ theo đuổi chính sách chống Liên Xô và
T
9
3

Việt Nam, ngoài mục đích tranh thủ phương Tây và Mĩ để thực hiện " bốn hiện đại hóa ",
Trung Quốc còn hy vọng sẽ thu hồi được Đài Loan về Hoa Lục. Song, sau một thời gian hợp
tác với Mĩ, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã nhận ra rằng, Mĩ chưa thể và cũng không muốn

bỏ rơi hẳn Đài Loan. Đổi lại, cái giá mà Trung Quốc phải trả cho mối liên kết trên không phải
là nhỏ khi mà nước này phải tiêu tốn một nguồn kinh phí lớn để " duy trì " sự không ổn định và
thường xuyên căng thẳng trên các vùng biên giới Trung - Xô, Trung - Mông cổ, Trung - Việt
4
T
9
3

4
T
9
3

cùng với sự mất ổn định trong khu vực do các cuộc xung đột ở Campuchia, Afghanistan tạo
ra. Thực tế đó đã tạo nên nhiều bất lợi cho việc thực hiện mục tiêu " bốn hiện đại hóa " của
Trung Quốc. Như vậy, điều mà Trung Quốc muốn đó là giải quyết tình trạng căng thẳng trên

17


vùng biên giới Xô - Trung, Trung -Mông Cổ và hai vấn đề Afghanistan và Campuchia. Nhưng
mong muốn này sẽ khó có thể trở thành hiện thực trong điều kiện quan hệ Xô - Trung căng
thẳng. Đó là lí do của sự thay đổi trên.
Nhưng chắc chắn sẽ " lợi bất cập hại " nếu Trung Quốc nhanh chóng cải thiện quan hệ
T
9
3

với Liên Xô và để giải quyết các vấn đề trên trong khi quan hệ Xô - Mĩ vẫn đang còn rất căng
thẳng. Nỗi trăn trở trước tình thế đầy khó khăn này của các nhà lãnh đạo Trung Quốc sau này

đã được thể hiện đầy đủ trong một tuyên bố của ông Lí Tiên Niệm khi trả lời phỏng vấn của
hãng thông tấn ABC (Mĩ) trong chuyến thăm Mĩ vào ngày 25 tháng 7 năm 1985 rằng: " Hiện
nay, quan quan hệ Trung - Xô đã cải thiện nhiều, nhưng chưa loại bỏ được ba trở ngại lớn thì
quan hệ Trung - Xô khó có thể bình thường hóa. Cho dù có loại bỏ được ba trở ngại lớn, giữa
hai nước cũng không thể khôi phục được mối quan hệ đồng minh như những năm 50 "[Dần
lại: 68: 74]
Cuối cùng, Trung Quốc đã vượt qua những trở ngại đó bằng cách thực hiện chủ trương
T
9
3

lấy việc giải quyết tình trạng căng thẳng trên các vùng biên giới Xô -Trung, Trung Mông Cổ, đặc biệt là yêu cầu Liên Xô giải quyết các vấn đề ở Afghanistan, Campuchia trước
4
T
9
3

4
T
9
3

để làm cơ sở cho việc việc cải thiện quan hệ với Liên Xô và Việt Nam. Bằng chứng là trong
quá trình đàm phán Xô - Trung, Trung Quốc đã luôn đặt ra điều kiện để bình thường hóa quan
hệ với Liên Xô đó là Liên Xô phải giải quyết dứt điểm ba trở ngại: thứ nhất là sự hiện diện của
quân đội Xô Viết trên vùng biên giới Xô - Trung và Trung - Mông Cổ, thứ hai là sự hiện diện
4
T
9
3


4
T
9
3

của quân đội Liên Xô ở Afghanistan, thứ ba là sự ủng hộ mà Liên Xô dành cho Việt Nam
trong vấn đề quân đội Việt Nam ở Campuchia. Và gần như Trung Quốc không quan tâm nhiều
đến các đề nghị của Việt Nam về việc cải thiện quan hệ Việt - Trung. Với cách làm này, Trung
Quốc có thể làm dịu đi tình trạng xung đột với Liên Xô theo hướng có lợi cho sự phát triển của
họ mà không nhất thiết phải bình thường hóa quan hệ với Liên Xô và Việt Nam ngay.
Chính vì chính sách trên, Trung Quốc đã tiếp tục không đáp lại đề nghị nối lại đàm phán
T
9
3

mà phía Việt Nam đưa ra trong tuyên bố chung của Hội nghị cấp cao ba nước Đông Dương
(02/1983), cũng như đề nghị đàm phán bí mật của ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch. Và lời
tuyên bố " Việt Nam sẽ rút hết quân khỏi Campuchia vào năm 1990, hoặc có thể sớm hơn "
[27: 204] được đưa ra trong Hội nghị ngoại trưởng ba nước Đông Dương ngày 12 tháng 8 năm
8
4
T
9
3

8
4
T
9

3

1985 cũng chỉ nhận được từ phía Trung Quốc một lời tuyên bố không một chút thiện chí rằng:
" Trung Quốc yêu cầu Việt Nam rút ngay quân khỏi Campuchia, không kéo đến 1990 " [27:
204].
18


Như vậy, Việt Nam đã không thành công trong nỗ lực tay đôi với Trung Quốc nhằm giải
T
9
3

quyết vấn đề Campuchia trước chính sách đối ngoại của Trung Quốc lúc này. Hy vọng rút ra
khỏi Campuchia và bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc của Việt Nam giờ đây phụ
thuộc vào sự tiến triển của cuộc đàm phán Xô - Trung. Và dường như các nhà lãnh đạo Việt
Nam đã chấp nhận thực tế đó khi đưa ra đề nghị " Việt Nam sẵn sàng đàm phán với Trung
Quốc ở bất cứ đâu và ở bất cứ cấp nào "[27: 204] tại Hội nghị ngoại trưởng ba nước Đông
Dương ngày 08 tháng 6 năm 1986 và kèm theo đó là việc nhờ Liên Xô chuyển cho phía Trung
Quốc lời đề nghị của Việt Nam về nối lại đàm phán Việt - Trung trong vòng 9 của cuộc đàm
phán Xô - Trung. Liên Xô đã thông báo đề nghị này của Việt Nam, nhưng Trung Quốc chưa
chấp nhận và tiếp tục quan điểm đòi Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia vô điều kiện và
cũng lấy điều đó làm một trong ba điều kiện cho việc bình thường hóa quan hệ Xô - Trung.

1.2. Từ đấu tranh khôi phục đàm phán đến nối lại quan hệ Việt - Trung (1986 1991)
Đại hội VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam diễn ra từ ngày 05 đến ngày 18 tháng 12 năm
T
9
3


1986 đã đề ra đường lối đổi mới nhằm đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng. Trong đó,
đường lối đối ngoại cũng có những chuyển biến căn bản. Riêng đối với Trung Quốc, Đại hội
đã xác định: " Việt Nam sẵn sàng đàm phán với Trung Quốc bất cứ lúc nào, bất cứ cấp nào và
bất cứ ở đâu, nhằm bình thường hóa quan hệ giữa hai nước vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì
hòa bình ở Đông Nam Á "[l1: 107].
Để tạo điều kiện cho việc thực hiện đường lối đối ngoại của Đại hội VI, Việt Nam tiếp
T
9
3

tục thực hiện chủ trương rút khỏi Campuchia: ngày 1 1 tháng 10 năm 1987, Bộ Quốc Phòng
Việt Nam và Campuchia đã ra Thông cáo chung về việc rút (đợt 6) quân tình nguyện Việt
Nam ở Campuchia về nước trong tháng 11 năm 1987. Ngày 26 tháng 5 năm 1988, Việt Nam
tiếp tục tuyên bố rút 5 vạn quân và Bộ tư lệnh Việt Nam tại Campuchia.
Bên cạnh việc tích cực giải quyết vấn đề Campuchia, Việt Nam còn tiến hành nhiều
T
9
3

hành động trực tiếp thể hiện thái độ hòa hoãn và mong muốn bình thường hóa với Trung
Quốc: đầu tiên là trong năm 1988, Việt Nam đã bỏ những nội dung chống đối Trung Quốc
trong lời nói đầu của bản Hiến pháp. Sau đó - ngày 15 tháng 7 năm 1988, ngoại trưởng Việt
Nam - Nguyễn Cơ Thạch đã đề nghị một loạt các biện pháp nhằm giảm căng thẳng trong quan
hệ giữa hai nước như chấm dứt hoạt động vũ trang ở biên giới đất liền, hải đảo, giãn quân về
tuyến sau để tránh xung đột, tạo điều kiện cho nhân dân vùng biên giới qua lại thăm viếng lẫn

19


nhau. Đồng thời, phía Việt Nam cũng đơn phương thực hiện những đề nghị này mà không đòi

hỏi phía Trung Quốc đáp lại.
Từ sau đại hội VI (1986) đến cuối năm 1988, chính quyền Bắc Kinh vẫn không trực tiếp
T
9
3

nào đáp lại những cố gắng của Việt Nam. Nhưng đến tháng 11 năm 1988, thứ trưởng ngoại
giao Liên Xô sang Việt Nam đã sang thăm Việt Nam và có trao đổi ý kiến với Bộ ngoại giao
Việt Nam về việc giải quyết vấn đề Campuchia, chuẩn bị cho chuyến thăm của Bộ trưởng bộ
ngoại giao Trung Quốc Tiền Kì Tham. Điều đó cho thấy đã có một sự dàn xếp giữa Liên Xô
và Trung Quốc về vấn đề này.
Với chủ trương bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam đã đề nghị Liên Xô
T
9
3

thông báo cho Trung Quốc biết lập trường của Việt Nam là sẵn sàng bình thường hóa quan hệ
với Trung Quốc, rút hết quân tình nguyện ở Campuchia về nước trong năm 1990 như đã tuyên
bố.
Ngày 0 1 tháng 12 năm 1988, trong chuyến thăm chính thức Liên Xô, Bộ trưởng bộ
T
9
3

ngoại giao Trung Quốc - Tiền Kì Tham đã được phía Liên Xô thông báo lại " lập trường xây
dựng của Việt Nam trong việc tìm giải pháp cho vấn đề Campuchia "[70: 70], đồng thời cũng
cho rằng cuộc đàm thoại giữa Việt Nam và Trung Quốc có vai trò quan trọng đối với vấn đề
Campuchia.
Như vậy, với những thỏa thuận mà Trung Quốc và Liên Xô đã đạt được trong vấn đề
T

9
3

4
T
9
3

4
T
9
3

biên giới Xô - Trung, việc Liên Xô bắt đầu rút quân khỏi Afghanistan từ tháng 6 năm 1988 (sẽ
hoàn thành việc rút quân này trong tháng 2 năm 1989) và đưa ra tuyên bố có tính chất đề nghị
với ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kì Tham rằng " cuộc đối thoại giữa Việt Nam và Trung
Quốc có vai trò quan trọng đối với vấn đề Campuchia " như trên là những bằng chứng cho
thấy, Liên Xô đã cơ bản xóa bỏ ba trở ngại đối với việc bình thường hóa quan hệ Xô -Trung
mà Trung Quốc đưa ra. Đồng thời lời đề nghị đó cũng đã hàm ý rằng: Những vấn đề còn lại ở
Campuchia mà Liên Xô không thể thay thế vai trò của Việt Nam thì Trung Quốc phải giải
quyết thông qua việc đối thoại với Việt Nam.
Trước những chuyển biến thuận lợi đó, ngày 06 tháng 01 năm 1989, tại lễ kỉ niệm 10
T
9
3

năm ngày quốc khánh nước Cộng Hoa Nhân Dân Campuchia, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh
đã đưa ra tuyên bố: " Việt Nam hoàn toàn nhất trí với Cộng Hòa Nhân Dân Campuchia về việc
Việt Nam rút hết quân tình nguyện Việt Nam còn lại ở Campuchia vào tháng 9 năm 1989


20



×