Quan hệ Việt - Trung từ 1986 đến nay
Mai Thị Hơng
Lời cảm ơn
Trong quá trình tìm hiểu và thực hiện luận văn này, bản
thân tôi đà nhận đợc sự hớng dẫn, giúp đỡ tận tình chu đáo và
khoa học về mọi mặt nh phơng pháp, kiến thức, tài liệu của thầy
giáo hớng dẫn TS Phạm Ngọc Tân cùng các thầy cô giáo
trong khoa Lịch Sử; các cô, các bác, các chú ở th viện trờng Đại
học Vinh, th viện khoa Lịch sử, th viện Quân khu 4 và các bạn bè
đồng nghiệp đà góp ý kiến cho tôi trong quá trình thực hiện đề
tài.
Nhân dịp này, tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý
báu và hiệu quả của thầy giáo hớng dẫn TS Phạm Ngọc
Tân và các quý cô, thầy cùng các cô chú và bạn bè đà giúp tôi
hoàn thành luận văn của mình.
Tháng 5/ 2002
Sinh viên: Mai Thị Hơng
1
Quan hệ Việt - Trung từ 1986 đến nay
Mai Thị Hơng
Việt trung hữu nghị
Vạn cổ trờng thành
(Hồ Chí Minh – Xu©n 1968)
2
Quan hệ Việt - Trung từ 1986 đến nay
Mai Thị Hơng
Mục lục
Trang
A
I
II
III
1
2
IV
V
B
Chơng 1
Dẫn luận
Lý do chọn đề tài
Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Mục đích, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài
Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Phơng pháp nghiên cứu
Bố cục luận văn
Nội dung
1.1
1.2
Chơng 2
Bèi c¶nh quan hƯ ViƯt Nam – Trung Qc tõ năm 1950 đến năm 1986
Quan hệ Việt Nam Trung Quốc từ năm 1950 đến năm 1986
2.1
2.1.1
Những yếu tố tác động đến quá trình bình thờng hoá quan hệ Việt Trung
Tác động của tình hình thế giới và khu vực đến quan hệ Việt Trung cuối những
năm 80 đầu những năm 90
Tác động của tình hình Việt Nam và Trung Quốc tới quan hệ Việt Trung
Tình hình Việt Nam
Tình hình Trung Quốc
Quá trình bình thờng hoá và ph¸t triĨn quan hƯ ViƯt – Trung (1986 – 2001)
Qu¸ trình bình thờng hoá quan hệ Việt Trung (1986 – 1991)
Quan hÖ ViÖt – Trung tõ 1991 – 2001: Sự phát triển của tầm cao mới
ý nghĩa của việc việc bình thờng hoá và phát triển quan hệ Việt - Trung
Với Việt Nam
Với Trung Quốc
Đối với khu vực và thế giới
2.1.2
2.1.2.1
2.1.2.2
2.2
2.2.1
2.2.2
2.2.3
2.2.3.1
2.2.3.2
2.2.3.3
Chơng 3
3.1
3.1.1
3.1.2
3.2
3.2.1
3.2.2
3.3.
C
Khái quát về mối quan hệ Việt Nam Trung Quốc từ Trung Quốc từ
năm 1950 đến năm 1986
Quan hệ Việt Trung Quốc từ Trung: Mời lăm năm khôi phục và phát
triển (1986 Trung Quốc từ 2001)
TriĨn väng cđa quan hƯ ViƯt – Trung Qc tõ Trung
Những yếu tố thuận lợi đối với sự phát triển quan hệ Việt Trung trong
những năm đầu thế kỷ XXI
Những tác động thuận chiều của tình hình quốc tế và khu vực đối với quan hệ Việt
Trung
Tác động của tình hình bên trong đến quan hệ Việt Trung
Những khó khăn và thách thức đối với sự phát triĨn quan hƯ ViƯt Nam vµ
Trung Qc trong thËp kû đầu của thế kỷ XXI
Những vấn đề tồn tại trong quan hệ Việt Trung
Những tác động ngợc chiều của tình hình quốc tế và trong nớc đối với quan hƯ ViƯt
– Trung
TriĨn väng cđa sù ph¸t triĨn quan hƯ Việt Trung trong thập kỷ đầu của thế
kỷ XXI
Kết luận
Phụ lục
Tài liệu tham khảo
3
5
5
7
8
8
9
9
10
11
11
11
14
29
29
29
31
31
33
36
36
41
51
51
54
57
59
59
59
61
63
63
66
67
71
74
77
Quan hệ Việt - Trung từ 1986 đến nay
Mai Thị Hơng
A- Dẫn luận
I Lý do chọn đề tài:
Từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX quan hệ Xô - Mü, hai cêng qc lín
nhÊt thÕ giíi chun tõ đối đầu sang đối thoại. Đặc biệt, đến năm 1989 hai bên
tuyên bố xoá bỏ cuộc chiến tranh lạnh kéo dài hơn 40 năm. Điều này có tác dụng
lớn đến sù biÕn chun cđa t×nh h×nh thÕ giíi. Quan hƯ của nhiều nớc trên thế giới
từ chỗ thờng xuyên căng thẳng đà bắt đầu trở lại bình thờng. Xu thế đối đầu
không còn nữa, xu thế đối thoại, hoà bình, hợp tác đang trở thành xu thế chủ yếu,
đóng vai trò chủ đạo chi phối quan hệ quốc tế từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế
kỷ XX trở lại đây. Mặt khác, trong bối cảnh mới của thế giới, xu thế toàn cầu hoá,
khu vực hoá đang trở thành xu thế vận động chính của nền kinh tế tất cả các nớc.
Tất cả các quốc gia trên thế giới đều đang nỗ lực phấn đấu để xây dựng nªn mét
“trËt tù thÕ giíi” míi – mét “trËt tù thế giới, không có sự phân biệt chế độ chính
trị, hình thái kinh tế hay tôn giáo, sắc tộc, cùng nhau hợp tác chung sống hoà bình
trên mọi phơng diện, lĩnh vực với phơng châm cùng có lợi, cùng chung sống hoà
bình, giải quyết mọi vấn đề bằng thơng lợng và đối thoại. Đó cũng chính là xu thế
Đa phơng hoá - đa dạng hoá toàn cầu, góp phần cho sự thúc đẩy mối quan hệ hợp
tác và liên kết giữa các quốc gia, lÃnh thổ trong một mái nhà chung.
Chính trong bối cảnh thế giới đó, mọi quốc gia đều có ý tởng xích lại gần
nhau hơn, nhằm phát triển và nâng cao vị trí quốc tế của mình. Muốn vậy, các nớc
cần phải mở rộng giao lu và hội nhập, phát triển mối quan hệ hợp tác chính trị, kinh
tế, văn hoá
Trên cơ sở nhận thức vấn đề đó, ngày nay nhiều quốc gia, dân tộc,
đà gạt bỏ mọi mâu thuẫn, hiềm khích, xung đột, thù địch
để cùng nhau hợp tác,
giao lu phát triển cùng có lợi, chung sống hoà bình và hữu nghị. Trên tinh thần đó,
Trung Quốc đà tiến hành bình thờng hoá quan hệ với Liên Xô, ấn Độ, Inđônêxia,
Mông Cổ và chủ trơng xúc tiến bình thờng hoá quan hệ với Việt Nam. ở khu vực
Đông Nam á, với việc Việt Nam tuyên bố rút quân đội của mình ra khỏi lÃnh thổ
Campuchia năm 1985 và rút hết hoàn toàn vào năm 1989, quan hệ Việt Nam với
các nớc ASEAN bắt đầu đợc cải thiện và có xu hớng xích lại gần nhau hơn.
Trong một thế giới mà mức độ tuỳ thuộc lẫn nhau ngày càng lớn, nhu cầu
phát triển, giao lu, kinh tế, văn hoá nhằm tăng cờng sự hiểu biết lẫn nhau để hợp
tác vì lợi ích chung của dân tộc đang trở nên cấp thiết. Cũng nh mọi quốc gia khác
quan hệ giữa hai nớc Việt Nam - Trung Quốc không nằm ngoài xu thế trên của thế
giới. Trong một môi trêng qc tÕ thn lỵi nh hiƯn nay, quan hƯ ViƯt Nam - Trung
Qc cã ®iỊu kiƯn chun sang giai đoạn phát triển mới.
Trung Quốc là một cờng quốc, có diện tích bằng 1/4 châu á, chiếm gần 1/5
dân số thế giới, lại có bề dày lịch sử hàng nghìn năm, là cái nôi của nền văn minh
nhân loại thời cổ. Ngày nay, Trung Quốc lại là nớc đang phát triển theo con đờng
xà hội chủ nghĩa, đang tiến hành công cuộc cải cách và mở cửa, đà và đang thu đợc
những thành tựu hết sức to lớn trên mọi lĩnh vực, vị thế của Trung Quốc trên thế
4
Quan hệ Việt - Trung từ 1986 đến nay
Mai Thị Hơng
giới ngày càng đợc nâng cao. Việt Nam là nớc nằm ở khu vực Đông Nam á, với
nguồn nhân lực dồi dào, tài nguyên thiên nhiên phong phú và có vị trí địa lý thuận
lợi cho giao lu kinh tế. Trong quá trình phát triển kinh tế, cả hai nớc đều cần đến
nhau với t cách là đối tác không thể thiếu.
Cả Việt Nam và Trung Quốc đều có một vị trí chiến lợc vô cùng quan trọng
về địa lý, chính trị, an ninh, quốc phòng lẫn kinh tế, là cửa ngõ của các nút giao
thông yết hầu trên cả ba tuyến đờng bộ, đờng thuỷ, đờng hàng không của khu vực
châu á - Thái Bình Dơng và cả thế giới; Lại là hai nớc láng giềng núi liền núi,
sông liền sông, cùng tồn tại bên nhau qua hàng ngàn năm lịch sử và có quan hệ
hữu nghị truyền thống lâu đời.
Do vậy, xuất phát từ nhận thức về vị trí và vai trò của nhau trong khu vực và
trên trờng quốc tế, cũng nh lợi ích của hai dân tộc, việc bình thờng hoá quan hệ hai
nớc Việt - Trung, cùng nhau hợp tác và phát triển đi lên trở thành điều rất cần thiết.
Dới sự tác động của tình hình khu vực và thế giới, với phơng châm khép lại quá
khứ, mở ra tơng lai, hớng về đại cục dựa trên cơ sở năm nguyên tắc chung sống
hoà bình, đáp ứng nguyện vọng, lòng mong mỏi của nhân dân hai nớc cũng nh lợi
ích chính đáng của hai nớc, góp phần vào sự nghiệp hoà bình, ổn định, hợp tác và
phát triển ở khu vực và trên thế giới, Đảng và Chính phủ Việt Nam - Trung Quốc
đà cùng nhau bình thờng hoá và phát triển quan hệ giữa hai nớc lên một tầm cao
mới.
Tuy nhiên mọi sự hợp tác đều phải dựa trên cơ sở hiểu biết lẫn nhau. Do vậy
nghiên cứu một cách có hệ thống quan hƯ hai níc trong bèi c¶nh qc tÕ sau chiến
tranh sẽ góp phần tìm hiểu chính sách đối ngoại cđa ViƯt Nam vµ Trung Qc
trong thêi gian qua, vỊ chính sách của Trung Quốc ở khu vực Đông Nam á, đặc
biệt với Việt Nam, đồng thời hiểu rõ hơn vị trí của Việt Nam trong chiến lợc của
Trung Quốc. Nghiªn cøu “quan hƯ ViƯt Nam - Trung Qc tõ 1986 đến nay (tháng
11- 2001) sẽ góp phần khẳng định sự đúng đắn của đờng lối đối ngoại của nớc ta
trong thời gian qua, cũng nh hiểu thêm những thăng trầm trong quan hệ hai nớc,
vạch ra nguyên nhân cùng các nhân tố chi phối, tác động đến quan hệ, ảnh hởng
của quan hệ đến lợi ích của từng nớc và khu vực; Đồng thời rút ra một số nhận xÐt
vỊ mèi quan hƯ ViƯt - Trung, tõ ®ã gãp phần nhỏ vào việc dự đoán triển vọng của
mối quan hƯ hai níc ViƯt Nam - Trung Qc trong thiªn niên kỷ này.
Nh chúng ta đà biết, trong chơng trình học tập ở Đại học, phần lịch sử Trung
Quốc có vị trí đáng kể, nhng cha đáp ứng đợc yêu cầu nghiên cứu, tìm hiểu về lịch
sử nớc này cũng nh quan hệ giữa Trung Quốc và các nớc láng giềng (trong đó có
Việt Nam), bởi vậy đà lôi cuốn chúng tôi đi sâu tìm hiểu nhằm bổ sung những chi
tiết mới. Đồng thời cũng là nguyên nhân khiến chúng tôi chọn đề tài Tìm hiểu
quan hệ Việt Nam - Trung Quốc từ 1986 đến nay cho luận văn tốt nghiệp của
mình.
II- Lịch sử nghiên cứu vấn đề :
5
Quan hệ Việt - Trung từ 1986 đến nay
Mai Thị Hơng
Trong bối cảnh mới của thế giới từ đầu thập kỷ 90 trở lại đây đặc biệt là do
sự phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực,
nên đà lôi cuốn sự quan tâm của nhiều nhà khoa học Việt Nam. Trên cơ sở đó, để
đáp ứng yêu cầu nghiên cứu về Trung Quốc, Trung tâm khoa học xà hội và nhân
văn quốc gia đà thành lập Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc. Từ Trung tâm này đÃ
ra đời nhiều công trình nghiên cøu vỊ ®Êt níc Trung Qc cịng nh mèi quan hệ
Việt - Trung. Bên cạnh đó, còn có nhiều tạp chí chuyên ngành khác nh tạp chí
nghiên cứu Quốc tế, nghiên cứu Đông Nam á, nghiên cứu kinh tế thế giới, tạp chí
cộng sản, báo nhân dân, báo quân đội
th ờng xuyên có những bài nghiên cứu về
Trung Quốc và quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trên tất cả các mặt. Những bài viết
nh: Nhìn lại quan hệ Trung Quốc - Đông Nam á từ sau chiến tranh lạnh đến nay
(Tạp chí nghiên cứu Đông Nam á số 1/1999); “Mèc míi trong quan hƯ ViƯt Trung” cđa Vị Khoan (Tạp chí cộng sản số 6, 3/1999); Quan hệ hữu nghị Việt
Trung tiến tới tầm cao mới của Trờng Lu (Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc số 2
(24) - 1999); 50 năm quan hệ Việt - Trung của Bùi Thanh Sơn (Tạp chí nghiên
cứu Quốc tế số 01, 2/2000); “Mïa xu©n míi cđa quan hƯ ViƯt - Trung” cđa Nguyễn
Huy Quý (Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc số 1 (29) - 2000); Củng cố lòng tin và
hợp tác lâu dài của Xuân Thông (Tuần báo Quốc tế từ 6 - 12/12/1990)
®· ®Ị
cËp tíi quan hƯ ViƯt Nam – Trung Quốc, đánh giá khách quan, khoa học mối
quan hệ hai nớc.
Bên cạnh đó, có một số cuốn sách đà đợc xuất bản nghiên cứu về mối quan
hệ Việt - Trung. Nh cn: “Sù thËt vỊ quan hƯ ViƯt Nam – Trung Quốc trong 30
năm qua (NXB Sự thật Hà Nội 1981); Sự thật về những lần xuất quân của Trung
Quốc và quan hệ Việt Nam Trung Quốc (NXB Đà Nẵng 1996)
Trong các
cuốn sách này đà trình bày khá rõ nét quan hệ chính trị Việt Trung từ năm 1945
đến trớc khi hai nớc bình thờng hoá quan hệ. Song do hoàn cảnh lịch sử, các tác
phẩm này nhìn chung có cách đánh giá và nhìn nhận có phần khắt khe, không còn
phù hợp với xu thế hiện nay trong quan hệ giữa hai nớc. Trong luận văn này, chúng
tôi tự đặt cho mình nhiệm vụ hệ thống hoá, sắp xếp lại những vấn đề đà đợc công
bố trên các sách, tạp chí, báo nhằm có một cái nhìn tỉng thĨ vỊ mèi quan hƯ ViƯt
– Trung trong 16 năm qua.
III- Mục đích, phạm vi nghiên cứu của đề tài:
1. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Để tìm hiểu thêm về Trung Quốc cũng nh chính sách đối ngoại của Trung
Quốc và Việt Nam trong thời kỳ hiện đại, đặc biệt mối quan hệ Việt - Trung, nên
chúng tôi chọn đề tài Tìm hiểu quan hệ Trung Quốc Việt Nam từ 1986 đến
nay (tháng 11 - 2001).
Trong đề tài này chúng tôi đặt ra những mục đích sau:
6
Quan hệ Việt - Trung từ 1986 đến nay
Mai Thị Hơng
- Tìm hiểu một cách khái quát về mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trớc
năm 1986 (giới hạn thêi gian tõ 1950 - 1986).
- T×m hiĨu quan hƯ ViƯt Nam - Trung Qc tõ 1986 ®Õn 2001, trong đó
nhằm giải quyết những vấn đề cơ bản:
+ Quá trình bình thờng hoá quan hệ Việt Nam - Trung Quốc từ 1986 1991.
+ Tiến trình khôi phục và phát triĨn cđa quan hƯ ViƯt - Trung tõ 1991 –
2001.
- Dự đoán triển vọng của quan hệ Việt - Trung trong những năm đầu thế kỷ
XXI, trong đó vạch ra những nhân tố chi phối thuận chiều và ngợc chiều
tới sự phát triển quan hệ Việt Trung trong tơng lai.
2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi không có tham vọng tìm hiểu sâu, kỹ về
mối quan hệ Việt - Trung trên tất cả các lĩnh vực, mà mục đích của đề tài chỉ nhằm
tìm hiểu mối quan hệ Việt - Trung trên lĩnh vực chính trị từ năm 1986 đến tháng 11
- 2001. Nếu đề tài hoàn thành tốt sẽ góp phần nhỏ bé vào việc hiểu hơn mối quan
hệ của hai nớc Việt Nam - Trung Quốc. Với những tài liệu có đợc cha phải là nhiều
và việc thu thập t liệu còn gặp nhiều khó khăn và do trình độ còn hạn chế nên trong
một thời gian ngắn cha thể nắm đợc các nguồn t liệu cần thiết nhất là những t liệu
từ phía Trung Quốc. Nghiên cứu mối quan hệ chính trị là một lĩnh vực có phần tế
nhị, phức tạp và khó, trong khi nội dung đợc trình bày còn đang trong quá trình
phát triển, do đó là một sinh viên, lại là lần đầu tiên nghiên cứu một đề tài lớn nh
vậy, nên cách viết, cách đánh giá vấn đề còn nhiều hạn chế. Chắc chắn rằng những
kết quả đạt đợc ở đây mới chỉ là bớc đầu và không thể tránh khỏi những thiếu sót.
Chúng tôi rất mong muốn nhận đợc sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô, các bạn
quan tâm tới vấn đề này, nhằm mục đích cuối cùng làm cho luận văn có chất lợng
và hoàn thiện hơn.
IV- Phơng pháp nghiên cứu:
Trớc hết, đây là một đề tài nghiên cứu về khoa học xà hội, là một trong
những mảng của công tác nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên mỗi loại đề tài bao giờ
cũng đặt ra những vấn đề cụ thể của nó, do vậy phơng pháp chúng ta sẽ dùng để
nghiên cứu cũng phải tùy thuộc vào vấn đề đà đợc đặt ra. Với t cách là một ngời
nghiên cứu lịch sử, xét về mặt quan điểm phải đứng trên lập trờng chủ nghĩa duy
vật lịch sử; phải lấy chủ nghĩa Mác- Lênin làm phơng pháp luận cho vấn đề nghiên
cứu. Vì lẽ đó, với đề tài đà chọn, phơng pháp nghiên cứu tối u nhất mà chúng tôi sử
dụng trong luận văn là phơng pháp bộ môn, phơng pháp lịch sử và phơng pháp
lôgíc.
Lịch sử cần phải tái hiện một cách chân thực nhất, những sự kiện diễn ra bao
giờ cũng phải rút ra đợc quy luật lịch sử của nó. Đồng thời cần phải đặt sự kiện đó
7
Quan hệ Việt - Trung từ 1986 đến nay
Mai Thị Hơng
trong bối cảnh thế giới cũng nh trong nớc lúc đó. Qua phân tích cần sử dụng phơng
pháp so sánh, thống kê xà hội học để đi đến những kết luận cụ thể. Vì vậy, để hoàn
thành tốt, cần phải tập hợp đợc nhiều t liệu, qua đó để so sánh, đối chiếu rồi tổng
hợp những nét cơ bản của quan hệ Việt - Trung, của sự thăng trầm và ph¸t triĨn
mèi quan hƯ hai níc.
V – Bè cơc ln văn:
A - Dẫn luận
ILý do chọn đề tài
II- Lịch sử nghiên cứu đề tài
III- Mục đích, phạm vi nghiên cứu đề tài
IV- Phơng pháp nghiên cứu
V- Bố cục đề tài.
B- Nội dung:
Chơng 1: Khái quát về mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc
từ năm 1950 đến 1986
Chơng 2: Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc: Mời lăm năm khôi
phục và phát triển (1986 - 2001)
Chơng 3: Triển vọng của quan hệ Việt Trung.
C- Kết Luận:
Phụ lục
Tài liệu tham khảo
8
Quan hệ Việt - Trung từ 1986 đến nay
Mai Thị Hơng
B- Nội dung
Chơng 1: Khái quát về mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc
từ năm 1950 đến năm 1986
1.1. Bèi c¶nh quan hƯ ViƯt Nam - Trung Qc tõ năm 1950 đến năm 1986
Việt Nam và Trung Quốc là hai nớc láng giềng Núi liền núi, sông liền
sông đều có lịch sử lâu đời và đà tồn tại bên nhau qua hàng ngàn năm lịch sử. Hai
dân tộc đà có nhiều nét tơng đồng về văn hoá và từ xa xa đà có mối quan hệ bang
giao. Trải qua các thời kỳ lịch sử, Việt Nam và Trung Quốc đà từng có mối quan hệ
chặt chẽ trên nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá v.v Mối quan hệ truyền
thống này càng đợc củng cố và phát triển hơn trong thời kỳ hiện đại, đặc biệt là
trong thập kỷ gần đây.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945), hoàn cảnh lịch sử thế giới có nhiều
thay đổi có lợi cho nhiều quốc gia, lÃnh thổ đang bị ách áp bức bóc lột của chế độ
thực dân. Trớc thời cơ thuận lợi đó, nhiều quốc gia và lÃnh thổ đà giải phóng đất nớc và giành đợc chính quyền, Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hớng đó. Mùa
thu năm 1945, với tinh thần quật khởi, nhân dân Việt Nam đà làm nên cuộc cách
mạng tháng Tám thành công, giành chính quyền về tay nhân dân. Ngày 2 91945, tại quảng trờng Ba Đình lịch sử, với cờ đỏ ngợp trời, Chủ tịch Hồ Chí Minh
thay mặt cho toàn thể đồng bào cả nớc, đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nớc
Việt Nam dân chủ cộng hoà, nhà nớc công nông đầu tiên ở Đông Nam á. kể từ
đây, nớc Việt Nam bớc vào một kỷ nguyên mới: Độc lập, Tự do. Song trên thực tế
nhân dân Việt Nam đà không đợc hởng trọn vẹn nền độc lập, tự do ấy. Với âm mu
biến Việt Nam thành thuộc địa, Pháp trở lại xâm lợc Việt Nam lần thứ hai, nhân
dân Việt Nam đà phải bớc vào một cuộc kháng chiến chín năm trờng kỳ gian khổ
chống thực dân Pháp (1946 - 1954). Bắt đầu từ năm 1950, cuộc kháng chiến của
nhân dân Việt Nam đà có những chuyển biến đáng kể, chuyển dần từ thế phòng
ngự sang thế phản công chiến lợc liên tục trên các chiến trờng. Đỉnh cao của sự
chuyển biến này là chiến dịch Điện Biên Phủ, diễn ra từ ngày 13 3 đến ngày 7 5 1954 và giành đợc thắng lợi to lớn, có tính chất quyết định toàn bộ tiến trình
của cuộc kháng chiến. Thực dân Pháp phải ký hiệp định Giơnevơ (21 - 7 - 1954),
rút quân về nớc, lập lại hoà bình trên cơ sở thừa nhận chủ quyền dân tộc của ba nớc
Đông Dơng. Nhân dân Việt Nam kết thúc thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lợc.
Do so sánh lực lợng và tình hình chính trị thế giới phức tạp lúc đó, Việt Nam
tạm thời bị chia cắt làm hai miền: miền Bắc hoàn toàn giải phóng và đi lên chủ
nghĩa xà hội, còn miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và lực lợng tay sai thống trị.
Sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nớc còn cha hoàn thành.
Nhân dân miền Bắc Việt Nam vừa phải lo hàn gắn vết thơng chiến tranh, khôi phục
kinh tế, đa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xà hội, vừa phải tiếp tục ủng hộ cuộc cách
9
Quan hệ Việt - Trung từ 1986 đến nay
Mai Thị Hơng
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới thực hiện hoà bình thống nhất
đất nớc. Cuối cùng, cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam kéo dài
hơn 20 năm ròng (1954 - 1975) đà kết thúc và giành thắng lợi với Đại thắng mùa
xuân năm 1975 đa non sông thu về một mối và từ đây dân tộc Việt Nam, nhân dân
Việt Nam bớc vào thời kỳ hoà bình, độc lập thực sự, xây dựng đất nớc, tiến lên chủ
nghĩa xà hội.
Do những điều kiện khách quan và chủ quan, nên công cuộc giành lại chính
quyền của nhân dân Trung Quốc diễn ra có muộn hơn so với Việt Nam. Ngày 1
10 1949 là sự kiện lịch sử trọng đại của nhân dân Trung Quốc, tại Quảng trờng
Thiên An Môn, Chủ tịch Mao Trạch Đông đà tuyên bố trớc toàn thế giới, sự ra đời
của nớc Cộng hoà nhân dân Trung Hoa Nhà nớc dân chủ nhân dân lớn nhất châu
á. kể từ đây nhân dân Trung Quốc bớc vào công cuộc xây dựng đất nớc trong điều
kiện lịch sử mới.
Sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ, Trung Quốc bớc vào thời kỳ
đầu xây dựng cơ sở vật chất chủ nghĩa xà hội trong vòng 10 năm (1949 - 1959) và
đà gặt hái đợc những thành tựu quan trọng. Lần đầu tiên ở Trung Quốc đà xuất hiện
một chế ®é x· héi míi tèt ®Đp víi sù ph¸t triĨn tơng đối nhanh chóng trên mọi lĩnh
vực.
Tuy nhiên, từ năm 1959, Trung Quốc bớc vào thời kỳ dài không ổn ®Þnh vỊ
kinh tÕ, chÝnh trÞ – x· héi (1959 - 1978). Đầu năm 1958, Mao Trạch Đông triệu
tập Hội nghị trung ơng Đảng cộng sản Trung Quốc đề ra đờng lối Đại nhảy vọt
với phơng châm xây dựng chủ nghĩa xà hội nhanh, nhiều, tốt, rẻ, tiếp đó đề ra đờng
lối Ba ngọn cờ hồng: Đờng lối chung, Đại nhạy vọt và Công xà nhân dân. Những
nhiệm vụ đợc đề ra trong thời điểm này đều là quá sức và do vậy, Trung Quốc rơi
vào khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Năm 1958 có 30 triệu ngời chết đói, đồng
ruộng bị bỏ hoang, sản xuất bị đình đốn, nền kinh tế giảm sút nghiêm trọng. Nhận
thấy tình hình đất nớc hết sức nguy ngập, Đảng cộng sản Trung Quốc đà khẩn cấp
thay thế một số nhân vật đứng đầu và lập ra tổ sữa chữa sai lầm của đờng lối đại
nhảy vọt và ba ngọn cờ hồng (Mao Trạch Đông không còn giữ chủ tịch nớc, Lu
Thiếu Kỳ thay thế). Từ đây, Trung Quốc từ sự khủng hoảng về kinh tế dẫn đến sự
khủng hoảng về chính trị hết sức trầm trọng. Nội bộ Đảng cộng sản Trung Quốc
diễn ra sự bất đồng tranh chấp quyền lực giữa các cá nhân, đảng phái hết sức quyết
liệt mà đỉnh cao là cuộc Đại cách mạng văn hoá vô sản. Trớc tình hình đất nớc
lâm vào tình trạng bi đát về mọi mặt đó, Trung Quốc thấy cần phải có một cuộc
cách mạng để đổi mới đất nớc phát triển kịp các nớc tiên tiến. Trong bối cảnh đó,
Hội nghị Ban chấp hành Trung ơng Đảng cộng sản Trung Quốc họp (tháng 12
1978), quyết định đa ra đờng lối cải cách kinh tÕ – x· héi cđa Trung Qc. §Êt níc Trung Quốc bớc vào thời kỳ mới: ổn định xây dựng đất nớc. Cải cách mở cửa,
xây dựng chủ nghĩa xà hội mang màu sắc Trung Quốc.
Nh vậy, với việc hai nớc Việt - Trung giành lại độc lập, thì việc khôi phục
mối quan hệ bang giao lâu đời trở thành một yếu tố khách quan tất yếu.
10
Quan hệ Việt - Trung từ 1986 đến nay
Mai Thị Hơng
Tuy nhiên, mối quan hệ Việt - Trung bên cạnh chịu sự tác động của tình hình
trong nớc, thì còn chịu sự ảnh hởng của tình hình khu vực và quốc tế. Đến năm
1957, hầu hết các nớc ở Đông Nam á thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực
dân kiểu cũ. Các nớc này bớc vào thời kỳ mới thời kỳ xây dựng và phát triển đất
nớc, với những bớc đi khác nhau phù hợp với điều kiện lịch sử của mình. Tuy
nhiên, hầu hết các nớc Đông Nam á đều có nền kinh tế phát triển yếu ớt, lạc hậu.
Do vậy, trong quá trình xây dựng ®Êt níc, nhiỊu níc trong khu vùc ®· chÞu sù chi
phối của các cờng quốc bên ngoài nh Anh, Pháp, đặc biệt là Mỹ.
Bên cạnh đó từ năm 1950, với việc các nớc Đông Âu hoàn thành căn bản
cuộc cách mạng dân chủ nhân dân và cùng với thắng lợi của cách mạng dân tộc,
dân chủ ở Trung Quốc, hệ thống xà hội chủ nghĩa đợc hình thành trên phạm vi toàn
thế giới. Trong tình hình đó, với âm mu bá chủ toàn cầu đồng thời chống lại Liên
Xô và c¸c níc x· héi chđ nghÜa. Mü chÝnh thøc ph¸t động cuộc chiến tranh lạnh
(tháng 3 1947), làm cho tình hình thế giới trở nên thờng xuyên căng thẳng. Mối
quan hệ quốc tế lúc này là quan hệ đối đầu giữa hai cực Xô - Mỹ, hai khối Đông
Tây. Cuộc chiến tranh lạnh do Mỹ phát động đà lôi kéo hầu hết các quốc gia, các
khu vực trên thế giới vào vòng xoáy của nó và lẽ đơng nhiên Việt Nam, Trung
Quốc đặc biệt là Trung Quốc cũng không nằm ngoài vòng xoáy đó.
Chính trong bối cảnh quốc tế và khu vực, cùng với tình hình nội tại cđa hai
níc ViƯt Nam - Trung Qc, mèi quan hƯ giữa hai nớc Việt Nam - Trung Quốc đÃ
đợc thiết lËp. Ngµy 18 –1 – 1950, hai níc ViƯt Nam - Trung Quốc đà chính thức
thiết lập quan hệ ngoại giao song phơng. Sự kiện này đợc ghi nhận nh là một mốc
son trong lịch sử quan hệ hai nớc. Kể từ đây, mối quan hệ hữu nghị Việt Trung
bớc sang giai đoạn mới, tầm cao mới, khác hẳn về chất lẫn lợng so với những
thời kỳ trớc đó. Tuy rằng mối quan hệ này trong giai đoạn mới không phải lúc nào
cùng suôn sẻ.
1. 2. Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc từ năm 1950 đến năm 1986
Sau ngày cách mạng Trung Quốc thành công (tháng 10 - 1949) trong bối
cảnh tình hình quốc tế có những chuyển biến thuận lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng
Đảng và Chính phủ Việt Nam chủ trơng đẩy mạnh hơn nữa công tác ngoại giao và
tuyên truyền quốc tế, nhằm làm cho nhân dân thế giới trớc hết là nhân dân các nớc
xà hội chủ nghĩa hiểu rõ, ủng hộ và giúp đỡ Việt Nam toàn diện hơn trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp. Với lý do đó, Đảng và Chính phủ Việt Nam đÃ
đề nghị Trung Quốc, Liên Xô và Đông Âu giúp đỡ sự nghiệp kháng chiến của nhân
dân Việt Nam.
Nớc cộng hoà nhân dân Trung Hoa trong thời kỳ đầu sau khi giành độc lập,
những ngời lÃnh ®¹o Trung Qc víi mong mn tranh thđ ®iỊu kiƯn hoà bình để
nhanh chóng khôi phục và phát triển kinh tế, tăng cờng tiềm lực quốc phòng cũng
nh nâng cao vị thế của Trung Quốc trên trờng quốc tế, nên đà tích cực ủng hộ, và
giúp đỡ nhân dân Việt Nam giành độc lập. Vì nớc Việt Nam độc lập có nghĩa là
Trung Quốc không bị sự uy hiếp của chủ nghĩa đế quốc ở phía Nam và ngợc lại
11
Quan hệ Việt - Trung từ 1986 đến nay
Mai Thị Hơng
Trung Quốc đợc giải phóng có nghĩa là Việt Nam không bị sự uy hiếp của chủ
nghĩa đế quốc từ phơng Bắc. Với tinh thần đó, đầu năm 1950, những ngời lÃnh đạo
hai nớc Việt - Trung đà xúc tiến việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nớc.
Nh đà nói ở trên, đề nghị của Đảng, Chính phủ Việt Nam đợc Đảng, Chính
phủ và nhân dân Trung Quốc nhanh chóng đáp ứng. Ngay cuối năm 1949, đồng chí
La Quý Ba đợc cử làm đại diện Trung ơng Đảng cộng sản Trung Quốc bên cạnh
Trung ơng Đảng cộng sản Đông Dơng với nhiệm vụ: chuyển cho Trung ơng Đảng
cộng sản Trung Quốc các đề nghị viện trợ của Việt Nam. Ngµy 5 – 1 – 1950, khi
lµm viƯc víi đại diện Việt Nam tại Bắc Kinh, đồng chí Lu Thiếu Kỳ nói: Cuộc
kháng chiến ở Việt Nam do Đảng Việt Nam lÃnh đạo rất đúng và rất hay. Đảng
Trung Quốc hết sức giúp Đảng Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ đó. Các Đảng bạn
khác nhất là Đảng cộng sản Liên Xô cũng cùng một quan điểm nh Đảng Trung
Quốc và Việt Nam, trong cuộc kháng chiến phải tự lực cánh sinh là chính. Sự giúp
đỡ bên ngoài chỉ là sự giúp đỡ chung [61; 29 - 30]. Theo thoả thuận giữa Chủ tịch
Hồ Chí Minh với các nhà lÃnh đạo Trung Quốc và Liên Xô, trớc mắt Liên Xô trang
bị cho Việt Nam một trung đoàn pháo cao xạ 37 ly, một số xe vận tải Môlôtôva và
thuốc quân y; Trung Quốc còn trang bị vũ khí cho một số đại đoàn bộ binh và một
đơn vị pháo binh, đồng thời đảm nhận vận chuyển hàng viện trợ của Liên Xô cho
Việt Nam. Trung Quốc sẽ cử một đoàn cố vấn quân sự, sang giới thiệu những kinh
nghiệm chiến đấu của giải phóng quân và đồng ý cho Việt Nam đa Trờng Lục quân
sang Vân Nam để đào tạo và bổ túc cán bộ [61; 31]. Từ đây, Trung Quốc trở thành
cầu nối giữa Việt Nam với các nớc xà hội chủ nghĩa và các lực lợng tiến bộ trên thế
giới, đảm nhiệm vai trò chủ yếu viện trợ cho Việt Nam kháng chiến.
Theo thoả thuận giữa lÃnh đạo hai nớc, Trung Quốc cử một đoàn cố vấn quân
sự gồm 79 cán bộ u tú do đồng chí Vi Quốc Thanh phụ trách sang giúp cơ quan Bộ
Tổng t lệnh và một số đại đoàn chủ lực Việt Nam trên chiến trờng chính Bắc Bộ.
Tại buổi gặp mặt các thành viên trong đoàn đợc tổ chức vào cuối tháng 6 1950 ở
Bắc Kinh trớc khi lên đờng sang Việt Nam, Chủ tịch Mao Trạch Đông nói: Hồ
Chí Minh và nhiều ngời Việt Nam đà từng tham gia và giúp đỡ cho cuộc đấu tranh
cách mạng của Trung Quốc, có ngời còn đổ máu hy sinh. Bây giờ các ®ång chÝ
sang gióp ®ì cc ®Êu tranh chèng Ph¸p cđa họ là hoàn toàn nên [61; 30]. Và
trên thực tế, đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc sang Việt Nam đà không chỉ làm
nhiệm vụ cố vấn, mà còn tham gia vào các chiến dịch của Việt Nam. Trong tổng số
50 chiến dịch lớn nhỏ, đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc tham gia bảy chiến dịch
(Biên giới, Trung du, Đờng 18, Hà - Nam Ninh, Tây Bắc, Thợng Lào, Điện Biên
Phủ). Các đồng chí cố vấn đà đề xuất nhiều ý kiến hay và trực tiếp chỉ đạo một số
đơn vị chủ lực Việt Nam trên chiến trờng chính Bắc Bộ.
Bên cạnh sự ủng hộ lớn lao về mặt chính trị và tinh thần kể cả sức ngời,
Chính phủ và nhân dân Trung Quốc còn hết lòng chi viện về vật chất cho cuộc
kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Chỉ riêng trong năm 1950, Việt Nam đà nhận
đợc 3.983 tấn hàng viện trợ của Trung Quốc, trong ®ã cã 1.020 tÊn sóng ®¹n, 161
12
Quan hệ Việt - Trung từ 1986 đến nay
Mai Thị Hơng
tấn quân trang, 30 xe vận tải Môlôtôva, 2.634 tấn gạo [40; 21]. Số hàng viện trợ đó
tuy chỉ chiếm 18,5% tổng số vật chất mà bộ đội Việt Nam sử dụng năm 1950, song
có giá trị cực kỳ quý báu và quan trọng. Trang bị và sức mạnh chiến đấu của một
số đơn vị chủ lực Quân đội nhân dân Việt Nam trên chiến trờng chính Bắc Bộ đợc
nâng cao rõ rệt. Đặc biệt là trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, Việt Nam gặp
rất nhiều khó khăn về khâu hậu cần. Chính phủ Việt Nam, bên cạnh sự huy động
sức đóng góp của toàn dân, đặc biệt là nhân dân các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Việt
Nam còn nhận đợc sự chi viện của Trung Quốc. Số gạo viện trợ của Trung Quốc
cho Việt Nam là 1.700 tấn bằng 6,8% tổng số huy động. Sau gạo là đạn, Trung
Quốc chi viện cho chiến dịch Điện Biên Phủ 3.600 viên đạn pháo, đó là cơ số đạn
đi theo 24 khẩu pháo viện trợ đa về Việt Nam từ cuối năm 1953, chiếm 18% tổng
số đạn pháo sử dụng trong chiến dịch. Ngoài số lợng đạn và pháo nói trên, Trung
Quốc còn giúp trang bị cho Việt Nam một tiểu đoàn DKZ 75 ly và một tiểu đoàn
hoả tiễn sáu nòng (Ca-chiu-sa). Hai tiểu đoàn này đà kịp thời tham gia đợt tổng
công kích cuối cùng diễn ra chiều ngày 6 5 1954 và đà sử dụng 1.136 viên
đạn [40; ]. Những viện trợ đó, góp phần tăng cờng cho sức mạnh của Việt Nam
trong chiến dịch lịch sử này.
Nh vậy, từ năm 1950, Việt Nam đà nhận đợc sự đồng tình ủng hộ, giúp đỡ
của bạn bè quốc tế đặc biệt là của nhân dân Trung Quốc. Số vũ khí, đạn, pháo,
quân trang và lơng thực mà Chính phủ Trung Quốc đà viện trợ cho Việt Nam chiếm
khoảng 20% tổng số vật chất bộ đội chủ lực Việt Nam sử dụng trên chiến trờng
chính Bắc Bộ trong những năm 1950 1954. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng,
trong hoàn cảnh và điều kiện của Việt Nam lúc đó.
Trong những năm kháng chiến gian khổ và về sau, nhân dân Việt Nam biết
rõ Trung Quốc vừa mới giành chính quyền, đất nớc còn nhiều khó khăn lại phải
dốc sức Viện Triều chống Mỹ. Song Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc đÃ
luôn đứng về phÝa ViƯt Nam. Ngoµi sù đng hé lín nhÊt, cã ý nghĩa nhất là ủng hộ
về chính trị và tinh thần, Trung Quốc còn hết lòng chi viện cho Việt Nam về vật
chất trong kháng chiến. Viện trợ của Trung Quốc đà giúp Việt Nam giải quyết đợc
nhiều khó khăn, nhất là về vũ khí và phơng tiện vận chuyển để mở các chiến dịch
lớn
đồng thời nhiều kinh nghiệm quý báu về tác chiến và xây dựng của Quân
giải phóng Trung Quốc đà đợc bộ đội Việt Nam tiếp thu và vận dụng có hiệu quả
trên chiến trờng Việt Nam. Tất cả đà góp phần quan trọng cho cuộc kháng chiến
của nhân dân Việt Nam giành thắng lợi.
Sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, đáng lẽ ra
nhân dân Việt Nam đợc hởng một nền hoà bình, độc lập. Song thực tế đà không nh
vậy, với âm mu mới của kẻ thù mới - đế quốc Mỹ, Việt Nam lại bớc vào cuộc
kháng chiến hơn 20 năm ròng (1954 - 1975) để giành lấy độc lập, toàn vẹn lÃnh thổ
và bảo vệ thành qủa mà cách mạng tháng Tám đà gây dựng nên. Sau 21 năm chiến
đấu vô cùng anh dũng và hy sinh, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nớc của nhân
dân Việt Nam đà giành đợc thắng lợi. Sự giúp đỡ nhiệt tình quý báu của nhân dân
13
Quan hệ Việt - Trung từ 1986 đến nay
Mai Thị Hơng
và Chính phủ các nớc trên thế giới trong đó có sự giúp đỡ to lớn của Đảng,
Chính phủ, nhân dân Trung Quốc anh em đà góp phần làm nên thắng lợi đó.
Sự giúp đỡ của Trung Quốc trong những năm tháng nhân dân Việt Nam
chống Mỹ thực sự rất to lớn và có hiệu quả, những cũng phải trải qua bớc phát
triển có thử thách.
Khi đế quốc Mỹ xâm lợc Việt Nam, Trung Quốc là một trong những nớc đÃ
lên tiếng phản đối mạnh mẽ cuộc chiến tranh xâm lợc phi nghĩa này. Đến khi Mỹ
mở rộng chiến tranh sang miền Bắc mở đầu bằng sự kiện Vịnh Bắc Bộ ngày 5 8 - 1964 thì ngày 6 - 8 - 1964, ChÝnh phđ níc céng hoµ nhân dân Trung Hoa đà ra
tuyên bố lên án hành động xâm lợc của Mỹ và khẳng định tình đoàn kết và trách
nhiệm cao đối với Việt Nam, Trung Quốc cho rằng: Đế quốc Mỹ tấn công nớc Việt
Nam dân chủ cộng hoà tức là tấn công nớc cộng hoà nhân dân Trung Hoa, do vậy
Trung Quốc phải có trách nhiệm cùng với Việt Nam đánh Mỹ. Trong tiến trình của
cuộc chiến tranh, với bất kỳ hành động leo thang nào của đế quốc Mỹ, Chính phủ,
nhân dân Trung Quốc đều lên tiếng phản đối. Điều đó đợc thể hiện qua các sự kiện
nh: ngày 9 - 2 - 1965, khi Mỹ dùng không quân và tàu chiến đánh phá dữ dội thị
xà Đồng Hới và một số mục tiêu thuộc tỉnh Quảng Bình, Vĩnh Linh và đảo Cồn Cỏ,
thì một ngày sau đó, ngày 10 - 2 1965, nhân dân thủ đô Bắc Kinh đà tổ chức
cuộc mít tinh tại Quảng trờng Thiên An Môn với hơn một triệu ngời tham dự và sự
tham gia của các nhà lÃnh đạo Đảng và Nhà nớc Cộng hoà nhân dân Trung Hoa:
Mao Trạch Đông, Lu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình Tại cuộc mít tinh,
Trung Quốc đà lên tiếng phản đối tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ và tỏ rõ quyết
tâm ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Tiếp đó, khi Chủ
tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn dân chống Mỹ, cứu nớc (17 7 - 1966), thì
ngày 22 – 7 – 1966 Trung Qc ®· tỉ chøc một cuộc mít tinh lớn tại Thiên An
Môn để tỏ lòng ủng hộ Việt Nam. Trong dịp này, Chủ tịch nớc cộng hoà nhân dân
Trung Hoa Lu Thiếu Kỳ đọc bản tuyên bố nhấn mạnh: Chính phủ Trung Quốc
nhắc lại rằng, đế quốc Mỹ xâm lợc Việt Nam tức là xâm lợc Trung Quốc. 700 triệu
nhân dân Trung Quốc là hậu phơng vững chắc của nhân dân Việt Nam. Đất đai
rộng lớn của Trung Quốc là hậu phơng đáng tin cậy của nhân dân Việt Nam.
Nhân dân Trung Quốc hạ quyết tâm, đà chuẩn bị sẵn sàng về mọi mặt, sẽ có
những hành động bất cứ lúc nào và ở đâu mà nhân dân hai nớc Việt Trung cho
là cần thiết để cùng nhau đánh bọn xâm lợc Mỹ v.v [40; 60]. Những lời tuyên
bố đó thể hiện tình đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong những lúc khó khăn của hai
dân tộc Việt Trung, thể hiện đậm nét tinh thần vừa là đồng chí vừa là anh em
nh lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đà nói. Từ ngày 24 - 25/4/1970 nhân dịp Hội nghị cấp
cao ba nớc Đông Dơng ra tuyên bố chung cùng nhau đoàn kết, gắn bó chống kẻ thù
chung là đế quốc Mỹ, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc đà ra tuyên bố bày tỏ sự
ủng hộ kiên quyết nhất đối với bản tuyên bố chung của Hội nghị. Đối với cuộc
kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam, tuyên bố nêu rõ: Chính phủ và
nhân dân Trung Quốc kiên quyết ủng hộ nhân dân Việt Nam tiến hành đến cùng
14
Quan hệ Việt - Trung từ 1986 đến nay
Mai Thị Hơng
cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nớc, để thực hiện mục tiêu thiêng liêng là giải
phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất đất nớc. Quân xâm lợc Mỹ
và quân ch hầu phải lập tức rút khỏi miền Nam hoàn toàn và không điều kiện để
nhân dân Việt Nam có thể tự giải quyết vấn đề của mình, không có bất cứ sự can
thiệp nào của nớc ngoài [40; 61]. Để nhấn mạnh hơn nữa sự ủng hộ tuyệt đối về
mặt chính trị của nhân dân Trung Quốc đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ba
nớc Đông Dơng trong đó có Việt Nam, Thủ tớng Chu Ân Lai nói rằng: Nhân
dân ba nớc Đông Dơng anh em có thể tin chắc rằng, trong cuộc đấu tranh chống
đế quốc Mỹ, nhân dân Trung Quốc mÃi mÃi đoàn kết sát cánh cùng chiến đấu để
cùng nhau giành lấy thắng lợi [40; 61]. Rõ ràng, đối với nhân dân Việt Nam sự
ủng hộ về chính trị, tinh thần của Đảng, Chính phủ và 700 triệu nhân dân Trung
Quốc là rất quý báu và cần thiết.
Bên cạnh sự ủng hộ tuyệt đối về mặt chính trị, Trung Quốc còn giúp đỡ, viện
trợ về vật chất cho nhân dân Việt Nam. Trung Quốc là một trong những nớc đà viện
trợ cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nớc của nhân dân Việt Nam một khối lợng hàng hoá, vũ khí, kỹ thuật, phơng tiện chiến tranh, quân trang, quân dụng khá
lớn, kéo dài trong nhiều năm (mặc dù trong khoảng thời gian trên, Trung Quốc còn
gặp nhiều khó khăn về kinh tế, mức thu nhập bình quân tính theo đầu ngời còn rất
thấp). Lấy đồng rúp của Liên Xô làm đơn vị để tính toán thì giá trị hàng hoá của
các nớc viện trợ cả về quân sự và kinh tế cho nhân dân Việt Nam từ năm 1954
1975 là 7.067 triệu rúp (riêng 10 năm từ 1965 1975 là 6.561 triệu rúp) [45; 317].
Số lợng trên chủ yếu là của nhân dân hai nớc Liên Xô và Trung Quốc. Chính phủ
và nhân dân Trung Quốc chủ yếu viện trợ cho Việt Nam vũ khí bộ binh, quân
trang, quân dụng, lơng thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, một phần nhiên liệu, phơng tiện vận tải và một số xe quân sự, pháo và đạn pháo. Chỉ tính trong vòng 11
năm (1965 - 1975), Trung Quốc đà viện trợ cho ViƯt Nam 4,847 triƯu tÊn l¬ng
thùc, 262 triƯu mÐt vải, 89,1 nghìn tấn bông, 81,05 nghìn tấn sợi, 625,67 nghìn tấn
sắt thép các loại, 1,573 triệu tấn than mỡ, 760 nghìn tấn xi măng, 1,774 triệu tấn
xăng, dầu, mỡ nhờn các loại, 500 nghìn tấn phân urê, 2.510 toa xe lửa, 32.496
chiếc ô tô, 1.400 chiêc máy ủi, 1.000 chiếc máy kéo lớn và 3.300 chiếc máy kéo
nhỏ [38]. Sự viện trợ đó của Trung Quốc đà có ý nghĩa thiết thực đối với cuộc
kháng chiến gian khổ của nhân dân Việt Nam .
Ngoài việc giúp đỡ vật chất, vũ khí, phơng tiện chiến tranh cho nhân dân
Việt Nam đánh Mỹ, Trung Quốc còn đảm nhiệm một công việc rất quan trọng là
vận chuyển quá cảnh số lợng hàng hoá, vũ khí, đạn dợc mà các nớc khác giành cho
ViƯt Nam. Thùc tÕ, mét sè c¶ng biĨn cđa Trung Quốc đà trở thành nơi tiếp nhận vũ
khí đa xuống tàu biển vận chuyển sang Việt Nam. Đồng thời, trong thời kỳ chiến
đấu chống lại cuộc chiến tranh phá hoại và phong toả lần thứ hai của đế quốc Mỹ,
Trung Quốc đà giúp Việt Nam xây dựng các kho chứa xăng dầu ở Đồng Đăng
(Lạng Sơn), Quảng Ninh và chi viện cho Việt Nam hàng trăm kilômét đờng ống dÃ
chiến, cùng một số máy móc thiết bị. Hoặc nh khi Mỹ tiến hành thả thuỷ lôi phong
15
Quan hệ Việt - Trung từ 1986 đến nay
Mai Thị Hơng
toả các cảng sông, biển, ngăn không cho tàu thuyền các nớc chuyên chở hàng hoá,
vũ khí vào giúp Việt Nam (1972), các thuỷ thủ Trung Quốc đà dùng tàu vận tải
Hồng Kỳ neo đậu ở phao số 0 hoặc trong các cảng của Việt Nam, lợi dụng nớc
thuỷ triều thả hàng hoá (chủ yếu là lơng thực, thực phẩm, thuốc chữa bênh) giải
quyết nhu cầu cấp thiết cho Việt Nam .
Tất cả những khối lợng vật chất phục vụ chiến tranh mà Trung Quốc đÃ
giành cho cuộc kháng chiến chèng Mü cđa nh©n d©n ViƯt Nam , thùc sù là biểu tợng tốt đẹp của tình đoàn kết và tinh thần quốc tế xà hội chủ nghĩa. Nguồn sức
mạnh vật chất này đà đợc nhân dân Việt Nam sử dụng có hiệu quả trên chiến trờng,
từng bớc đa cuộc kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng.
Trung Quốc không những giúp đỡ Việt Nam về vật chất, kỹ thuật mà đợc sự
thoả thuận giữa Đảng và Chính phủ hai nớc, một số đơn vị công binh và bộ đội
phòng không Trung Quốc đà sang giúp Việt Nam nâng cấp, sữa chữa và mở rộng
thêm các tuyến đờng giao thông trên bộ thuộc các tỉnh biên giới giáp với Trung
Quốc. Một số trận địa phòng không của Trung Quốc đà triển khai để bảo vệ cho lực
lợng làm đờng, bảo vệ cho việc vận chuyển bằng đờng sắt và đờng ô tô từ vùng
biên giới Trung Quốc xuống Lạng Sơn Kép (Hà Bắc), Lào Cai - Yên Bái. Ngay
từ cuối tháng 5 1965, bộ đội công binh Trung Quốc đợc cử sang giúp đỡ Việt
Nam, đà ổn định nơi ăn chốn ở và bắt đầu triển khai công việc đợc giao, đến cuối
năm 1969 công việc sữa chữa, nâng cấp quốc lộ 3 đà cơ bản hoàn thành và đa vào
sử dụng. Những việc làm trên đà góp phần thúc đẩy tốc độ vận chuyển khối lợng
hàng hoá cho chiến trờng nhiều hơn những năm trớc đó. Mồ hôi, công sức và cả
máu của bộ đội công binh Trung Qc trong thêi gian gióp ViƯt Nam sưa ®êng, më
®êng thực sự là những đóng góp quan trọng có hiệu quả đối với sự nghiệp chống
Mỹ cứu nớc của nhân dân Việt Nam.
Chính phủ và nhân dân Trung Quốc không những giúp đỡ cuộc kháng chiến
của nhân dân Việt Nam về vật chất, tinh thần mà lớn lao hơn, Trung Qc cïng
tham gia chiÕn ®Êu chèng Mü víi ViƯt Nam. Cụ thể khi Mỹ mở rộng chiến tranh
phá hoại miền Bắc, việc bảo vệ lực lợng công binh đang mở đờng và bảo vệ hành
lang biên giới vào các cửa khẩu, nơi tập kết, chuyên chở hàng hoá trở nên rất cần
thiết. Trớc yêu cầu đó, đợc sự thỏa thuận của hai Đảng, hai Nhà nớc bắt đầu từ cuối
năm 1966, một số chi đội phòng không Trung Quốc đà luân phiên nhau sang tham
gia chiến đấu chống máy bay Mü mét sè khu vùc thc biªn giíi ViƯt – Trung.
ĐÃ có những chiến sỹ Trung Quốc chiến đấu anh dũng và hy sinh tại chiến trờng
Việt Nam. Trân trọng và ghi nhớ công ơn của các chiến sỹ quân ®éi Trung Quèc ®·
chiÕn ®Êu, hy sinh trong cuéc kh¸ng chiến chống chiến tranh phá hoại của đế quốc
Mỹ trên miền Bắc Việt Nam, Chính phủ Việt Nam đà tuyên dơng công trạng, tặng
thởng nhiều huân chơng, huy chơng cao quý cho các cán bộ, chiến sỹ của bạn,
đồng thời xây dựng nghĩa trang và khắc bia ghi nhận công lao của các chiến sỹ
Trung Quốc đối với sự nghiệp chèng Mü, cøu níc cđa nh©n d©n ViƯt Nam .
16
Quan hệ Việt - Trung từ 1986 đến nay
Mai Thị Hơng
Tất cả sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn mà Chính phủ và nhân dân Trung Quốc
giành cho nhân dân ViƯt Nam trong cc kh¸ng chiÕn chèng Mü thËt sù có ý nghĩa
lớn lao, góp phần tạo nên chiến thắng trong cuộc kháng chiến của nhân dân Việt
Nam. Điều đó nói lên rằng: Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, khi nhân dân Việt Nam
gặp khó khăn thì đều có sự ủng hộ, giúp đỡ của Chính phủ và nhân dân Trung Quốc
anh em. Điều đó đợc minh chứng qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
và chống Mỹ cøu níc cđa d©n téc ViƯt Nam. Chøng tá r»ng mối quan hệ hữu nghị
Việt - Trung đà luôn luôn đợc vun đắp và ngày một tốt đẹp, bền vững cùng với
chiều dài của thời gian. Mối bang giao đó thắm đợm tinh thần anh em, đồng chí và
tinh thần quốc tế vô sản. Sự giúp đỡ nhiệt thành của Trung Quốc với Việt Nam vô
cùng quý giá và nhân dân Việt Nam mÃi mÃi không bao giờ quên.
Tuy nhiên, bên cạnh sự giúp đỡ nhiệt tình, có hiệu quả về mặt vật chất và
tinh thần kể trên, ở một số thời điểm trớc những thử thách nghiêm trọng, Trung
Quốc cũng đà gây nên những trở ngại cho tiến trình kháng chiến của quân và dân
Việt Nam. Điều đó, trên thực tế đà làm cho mối quan hệ Việt - Trung từ những năm
1954 đến 1975 không phải không có sự thăng trầm, rạn nứt.
Với chiến thắng Điện Biên Phủ cđa nh©n d©n ViƯt Nam (7 – 5 - 1954) đÃ
buộc thực dân Pháp vào ngồi vào bàn đàm phán, để tìm giải pháp thơng lợng cho
vấn đề Đông Dơng. Tại Hội nghị Giơnevơ, lập trờng của những ngời lÃnh đạo
Trung Quốc và Việt Nam đà có sự khác nhau trong việc giải quyết vấn đề Đông Dơng. Trung Quốc muốn chấm dứt cuộc chiến tranh Đông Dơng bằng một giải pháp
theo kiểu Triều Tiên, nghĩa là đình chỉ chiến sự mà không có giải pháp chính trị.
Trung Quốc chủ trơng giải quyết riêng rẽ ba vấn đề Việt Nam, Lào, Campuchia,
trong đó nớc Việt Nam sẽ bị chia cắt bëi vÜ tun 17, Trung Qc nhiỊu lÇn Ðp ViƯt
Nam nhân nhợng để ký Hiệp định Giơnevơ. Sở dĩ nh vậy bởi vì, lúc này Trung
Quốc trên cơ sở tính toán lợi ích của mình không muốn Việt Nam đợc thống nhất
cả hai miền Nam Bắc, vì sợ Việt Nam mạnh lên sẽ là mối nguy hại cho Trung
Quốc. Hơn nữa, Trung Quốc chỉ cần Bắc Việt Nam đợc giải phóng và là khu đệm
an toàn, còn miền Nam Việt Nam có thể lệ thuộc vào Pháp hay Mỹ đều có lợi cho
Trung Quốc. Sự thay đổi trong thái độ của những ngời lÃnh đạo Trung Quốc đối với
Việt Nam - là một điều đáng phê phán. Bởi lẽ ra, qua thăng trầm của lịch sử, giờ
đây hai nớc đà ®i theo mét híng, mét lý tëng cao ®Đp lµ: cùng xây dựng đất nớc
theo con đờng xà hội chủ nghĩa, thì quan hệ phải là sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau
trên tinh thần quốc tế vô sản. Cũng từ đây quan hệ hai nớc Trung Việt chứa
đựng những mâu thuẫn song cha trở thành gay gắt, bởi vì Việt Nam có nhiệm vụ
nặng nề hơn phải hoàn thành là thống nhất đất nớc và Trung Quốc cũng nhận thấy
trong bối cảnh đó Việt Nam cha phải là mối đe doạ chính của họ.
Khi nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiên chống Mỹ, một mặt
Trung Quốc vẫn giúp đỡ nhiệt tình cho Việt Nam, mặt khác, có những thay đổi
trong đờng lối, hành động với Việt Nam. Đặc biệt là việc Trung Quốc từng bớc tiến
hành thiết lập quan hệ với Mỹ đà gây nên những ảnh hởng không nhỏ đến sự
17
Quan hệ Việt - Trung từ 1986 đến nay
Mai Thị Hơng
nghiệp kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Trớc tiên, Trung Qc cè thut phơc
ViƯt Nam chÊp nhËn chđ tr¬ng: Trờng kỳ mai phục, không dùng lực lợng vũ
trang đánh Mỹ. Tháng 11 1956, chủ tịch Mao Trạch Đông nói với những ngời
lÃnh đạo Việt Nam rằng: Việc chia cắt Việt Nam không thể giải quyết trong mộtViệc chia cắt Việt Nam không thể giải quyết trong một
thời gian ngắn mà cần phải trờng kỳ Nếu mời năm cha đợc thì phải trăm năm
[40; 32]. Khi Mỹ thăm dò thái độ của Trung Quốc với việc Mỹ mở réng chiÕn tranh
ë ViƯt Nam, Trung Qc tuyªn bè: “Ngêi (Mỹ) không đụng đến ta (Trung Quốc)
thì ta không đụng đến ngời mà trên thực tế là bật đèn xanh cho Mỹ. Đến năm
1968, khi ta giành thắng lợi trong cuộc tổng tiến công mùa xuân năm 1968, buộc
Mỹ phải ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam và chấp nhận ngồi đàm phán với
Việt Nam tại Pari (Pháp). Trung Quốc cho rằng: Việc chia cắt Việt Nam không thể giải quyết trong mộtLúc này Việt Nam chấp nhận
đàm phán cha phải là thời cơ và trên t thế cao, ta (Việt Nam ) đà nhân nhợng một
cách vội và [40; 73] và rằng: Việc chia cắt Việt Nam không thể gi¶i qut trong métViƯc Mü chÊm døt nÐm bom miỊn Bắc Việt Nam là
một sự thoả hiệp của Việt Nam víi Mü” [40; 74]. Khi biÕt nh©n d©n ViƯt Nam vẫn
kiên định thực hiện đờng lối của mình, Trung Quốc đà giảm viện trợ quân sự: năm
1969 xuống còn 40%, năm 1970 xuống hơn 50% so với 1968, đồng thời ®Èy nhanh
mèi quan hƯ víi Mü vµ tiÕn hµnh ®µm phán với Mỹ về các vấn đề liên quan đến
cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Cũng kể từ năm 1973, những ngời lÃnh đạo Trung
Quốc đà thực hiện những hành động khiêu khích công khai, bằng việc lấn chiếm
đất đai ở những tỉnh biên giới phía Bắc nhằm làm suy yếu những cố gắng của nhân
dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng hoàn toàn miền Nam. Trung Quốc
bắt đầu quay lại, tỏ rõ thái độ nớc lớn, khi Việt Nam yêu cầu mở đàm phán để
phân định ranh giới Vịnh Bắc Bộ, ngăn cản Việt Nam thăm dò, khai thác tài
nguyên thiên nhiên trên vùng biển của Việt Nam. Chính vì lẽ đó, cuộc đàm phán về
đờng biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc trong Vịnh Bắc Bộ (tháng 11 - 1974)
đà không đi tới kết quả tích cực nào. Cũng từ năm 1974, khi hai bên còn đàm phán
về ranh giới biển thì Trung Quốc đà đa lực lợng hải quân và không quân chiếm đảo
Hoàng Sa của Việt Nam, nhằm tạo ra cái gọi là sự đà rồi cho dù rằng sau đó một
năm (1975) Đặng Tiểu Bình, trong cuộc hội đàm với những nhà lÃnh đạo Việt Nam
đà nói rằng Hoàng Sa và Trờng Sa cần đợc bàn bạc để giải quyết. Tất cả những
hành động đó của Trung Quốc cũng không ngăn cản đợc chiến thắng hoàn toàn
trọn vẹn của nhân dân Việt Nam giải phóng miền Nam và thống nhất đất nớc.
Sau khi Việt Nam thắng Mỹ, các nớc anh em, bè bạn trong đó có Trung
Quốc đà gửi điện chúc mừng. Ngày 1 5 1975, các nhà lÃnh Trung Qc ®·
gưi ®iƯn chóc mõng víi néi dung: “ViƯc chia cắt Việt Nam không thể giải quyết trong một Thắng lợi của các đồng chí đà mở ra thời
đại mới của nớc Việt Nam đà đợc giải phóng, có ý nghĩa lịch sử và ý nghĩa quốc tế
trọng đại. Thắng lợi của các đồng chí đà cổ vũ hết sức mạnh mẽ tất cả các dân tộc
và nhân dân bị áp bức đang đấu tranh, nêu tấm gơng sáng chói cho sự nghiệp cách
mạng chống đế quốc của nhân dân toàn thế giới. Thắng lợi của nhân dân Việt Nam
một lần nữa chứng minh hùng hồn rằng nhân dân một nớc, dù là nhân dân một nớc
nhỏ miễn là dám vùng dậy đấu tranh, dám cầm vũ khí, lấy chiến tranh chÝnh nghÜa
18
Quan hệ Việt - Trung từ 1986 đến nay
Mai Thị Hơng
chống lại chiến tranh phi nghĩa không sợ khó khăn, không sợ hy sinh, không sợ vấp
váp, kiên trì bền bỉ thì có thể đánh bại đợc bất kỳ kẻ thù nào tởng chừng nh hùng
mạnh và giành đợc thắng lợi cuối cùng trong cuộc đấu tranh cho sự nghiệp chính
nghĩa nhằm bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc, giải phóng cho dân tộc [43; 35].
Và khẳng định Trung Quốc: Sẽ tiếp tục làm tròn nghĩa vụ quốc tế của mình,
kiên quyết ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa nhằm cũng cố thành qủa thắng lợi, thống
nhất và x©y dùng Tỉ qc cđa nh©n d©n ViƯt Nam” [43; 35].
Nhng trên thực tế, Trung Quốc đà không thực hiện những lời hứa hẹn với
nhân dân Việt Nam. Trong lúc nh©n d©n ViƯt Nam võa ra khái cc chiÕn tranh,
kinh tế, xà hội đang gặp rất nhiều khó khăn, đang rất cần sự giúp đỡ của các nớc,
thì cũng là lúc Trung Quốc tuyên bố cắt hoàn toàn viện trợ, rút hết chuyên gia kỹ
thuật về nớc, làm cho một số hạng mục công trình công nghiệp, giao thông , của
Việt Nam buộc phải ngừng lại, trong đó có không ít công trình buộc phải huỷ bỏ vì
không có vật t, máy móc, kỹ thuật. Hơn thế nữa, Trung Quốc còn yêu cầu Việt
Nam nhanh chóng thu xếp hoàn trả số lợng ngoại tệ mạnh đợc quy đổi từ những
hàng hoá quân sự mà Trung Quốc đà cho Việt Nam vay theo quy chế viện trợ
hoàn lại, thanh toán sau chiến tranh. Nh vậy, những ngời lÃnh đạo Trung Quốc đÃ
không giữ đúng nh lời hứa vào năm 1975.
Nhìn lại, quan hệ hai nớc Việt - Trung từ năm 1950 1978, thì chúng ta
thấy rằng: Mối quan hệ đó diễn ra không thật sự suôn sẻ và có phần phức tạp. Thực
chất Trung Quốc cha bao giờ có thái ®é c«ng b»ng v« t trong quan hƯ víi ViƯt
Nam. Song nhân dân Việt Nam sẵn sàng bỏ qua quá khứ, hy vọng vào mối quan hệ
hữu nghị tốt đẹp giữa hai nớc đà đợc vun đắp qua nhiều thế hệ sẽ phát triển tốt đẹp.
Tháng 12 1978, Đảng cộng sản Trung Quốc tiến hành Hội nghị Trung ơng III, khoá XI, mở ra thời kỳ mới cho đất nớc Trung Quốc: Thời kỳ cải cách mở
cửa. Cùng với những cải cách về kinh tế, đờng lối đối ngoại của Trung Quốc có
những điều chỉnh mới nh là làm bạn với nhiều nớc, thêm bạn bớt thù, phục vụ cho
phát triển đất nớc, nâng cao vị trí của Trung Quốc trên trờng quốc tế. Còn Việt
Nam sau khi chiến tranh kết thúc, công cuộc thống nhất đất nớc đợc hoàn thành, thì
điều hết sức cần thiết lúc này, là có hoà bình để khôi phục, củng cố và phát triển
đất nớc sau hàng chục năm chiến tranh. Vì vậy, Việt Nam sẵn sàng đặt quan hệ với
các nớc, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ, viện trợ về kinh tế. Đó chính là điều kiện
thuận lợi cho việc cải thiƯn mèi quan hƯ hai níc ViƯt – Trung. Song trªn thùc tÕ
quan hƯ ViƯt Nam - Trung Qc tõ sau 1975 đến 1986 đà diễn ra ngày càng xấu đi.
Trong sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Trung Qc, th× quan hƯ cđa
Trung Qc víi ViƯt Nam cịng không nằm ngoài sự điều chỉnh đó. Tuy nhiên, sự
điều chỉnh trên không phải theo chiều hớng tích cực mà ngợc lại, Trung Quốc vẫn
dùng chính sách thù địch với Việt Nam bằng nhiều cách. Nh liên tục trong những
năm 70, Trung Quốc tiến hành nhiều lần những vụ khiêu khích ở biên giới Việt
Trung; Đầu năm 1978 dựng lên cái gọi là Vấn đề nạn Kiều, trong đó đa ra luận
điệu Vu cáo Việt Nam là xua đuổi, bài xích, khủng bố ngời Hoa. Đồng thời dụ
19
Quan hệ Việt - Trung từ 1986 đến nay
Mai Thị Hơng
dỗ, tổ chức cho Hoa kiều tiến hành di c gây nên tình trạng hỗn loạn, lộn xộn ở Việt
Nam. Chỉ trong vòng mấy tháng đầu năm 1978 đà có tới 17 vạn ngời Hoa di c sang
Trung Quốc. Bên cạnh đó, để cô lập Việt Nam và ngăn cản công cuộc khôi phục,
xây dựng đất nớc ở Việt Nam, Trung Quốc đà vận động các nớc, các tổ chức quốc
tế ngừng viện trợ cho Việt Nam, kêu gọi các níc ASEAN lËp “mỈt trËn chung víi
Trung Qc” chèng ViƯt Nam. Những hành động của Trung Quốc trái với phơng
châm ngoại giao mà Trung Quốc đà thực hiện với các nớc khác, trái với năm
nguyên tắc chung sống hoà bình mà Trung Quốc là tác giả, đồng thời vi phạm luật
pháp quốc tế. Tất cả những điều đó làm cho quan hệ hai nớc Việt Trung đà bị
tổn thơng và đi vào một khúc quanh nghiêm trọng. Đặc biệt, ngày 17 2 1979,
Trung Quốc sử dụng 60 vạn quân có pháo binh, xe tăng yểm trợ tiến công vào Việt
Nam trên toàn tuyến biên giới dài hơn 1.000km. Đây thực sự là đỉnh cao của hành
động Trung Quốc chống Việt Nam. Cuộc chiến tranh biên giới đà làm cho mối
quan hệ hữu nghị truyền thống giữa hai nớc bị tổn thơng nghiêm trọng. Cuộc chiến
tranh mà Trung Quốc chủ động tổ chức, đợc tiến hành theo hai hớng nhng cuối
cùng đà thất bại, bị nhân dân thế giới và một bộ phận nhân dân Trung Quốc lên án.
Ngày 5 3- 1979 họ buộc phải tuyên bố rút quân và đàm phán với Việt Nam. Sự
kiện ngày 17 2 1979, đánh dấu một thời kỳ đen tối trong lịch sử quan hệ hai
nớc mà báo chí phơng Tây gọi sự kiện này là Anh em ®á chiÕn tranh víi nhau”.
ThÊt b¹i trong cc chiÕn tranh với Việt Nam nhằm Đánh sập huyền thoại
về tài bách chiến, bách thắng của quân đội Việt Nam, Trung Quốc đà buộc phải
ngồi vào bàn đàm phán với Việt Nam. Tuy nhiên, trải qua các vòng đàm phán tại
Hà Nội cũng nh Bắc Kinh, Trung Quốc vẫn giữ thái độ nớc lớn với Việt Nam, lẩn
tránh những đề nghị của phía Việt Nam về những biện pháp cấp bách nhằm chấm
dứt các hoạt động khiêu khích ở biên giới hai nớc. Đồng thời Trung Quốc còn đa ra
yêu sách vô lý đòi Việt Nam từ bỏ chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trờng Sa của Việt Nam.
Trong suốt thập kỷ 80 những ngời lÃnh đạo Trung Quốc, vẫn cha từ bỏ thái
độ thù địch với Việt Nam, nhiều lần lên tiếng dọa dạy cho Việt Nam bài học thứ
hai thậm chí nhiều bài học nữa. Rõ ràng, trong quan hệ với Việt Nam, Trung
Quốc đà tự phép cho mình là nớc lớn thì mới có thể tuyên bố nh vậy. Điều đáng
nói ở đây là sau thất bại trong cuộc chiến tranh năm 1979 cũng nh những mu đồ
khác, lẽ ra nhà cầm quyền Trung Quốc phải rút kinh nghiệm và bài học cho mình.
Song trên thực tế, Trung Quốc đà không thay đổi chính sách trong quan hệ với Việt
Nam. Đờng lối đối ngoại với Việt Nam đà đợc các nhà cầm quyền Trung Quốc tái
khẳng định trong Đại hội lần thứ XII Đảng cộng sản Trung Quốc. Năm 1982, trong
báo cáo của mình, Tổng bí th Đảng cộng sản Trung Quốc Hồ Diệu Bang vẫn tái
diễn luận điệu vu cáo Việt Nam là xâm lợc Campuchia, có Tham vọng bá
quyền, Bành trớng ở Đông Dơng và Đông Nam á, để nhằm thành lập Liên
bang Đông Dơng, gây tình hình mất ổn định ở khu vực. Từ năm 1979 trở đi Vấn
đề Campuchia là một trong những vấn đề nan giải làm cho mối quan hƯ hai níc
20