Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

môn quan điểm đổi mới thành tựu và thời cơ, thác thức của sự nghiệp đổi mới tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.97 KB, 18 trang )

MỞ ĐẦU
Năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu bước ngoặt của
cách mạng Việt Nam. Kể từ đó đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân
ta đã giành được những thắng lợi vĩ đại. Cách mạng tháng 8 - 1945 thành
công khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (nay là Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam), thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ
cứu nước đem lại độc lập tự do và thống nhất đất nước, đưa nước ta bước vào
sự nghiệp đổi mới và từng bước quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
Với những thắng lợi giành được trong thế kỷ XX, nước ta từ một nước
thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển
theo con đường Xã Hội Chủ Nghĩa có quan hệ rộng rãi, có vị thế ngày càng
quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã
trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền
kinh tế nghèo nàn, lạc hậu bước vào thời kỳ đổi mới công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
Trên một chặng đường dài có bao nhiêu biến cố, sự kiện phức tạp của
tình hình trong nước và quốc tế, đất nước phải đương đầu với đủ loại kẻ thù
với bao khó khăn thử thách có những lúc ở trong tình thế “ngàn cân treo sợi
tóc” nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ Tịch Hồ Chí Minh,
con thuyền cách mạng Việt Nam vẫn cập bến vinh quang. Thực tế lịch sử đã
chứng minh hùng hồn một điều không thể phủ nhận, đó là sự lãnh đạo của
Đảng - nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Bên cạnh việc chỉ đạo chiến lược để xây dựng lực lượng cách mạng,chĩa
mũi nhọn đấu tranh vào đế quốc tay sai, giành độc lập, chính quyền cho nhân
dân, Đảng cũng có những chuyển hướng trong chủ trương đường lối và có sự
đổi mới tư duy, biện pháp để phát triển toàn diện mọi lĩnh vực.
Nghiên cứu vấn đề này sẽ giúp chúng ta nhận thức được rõ hơn về hệ thống
quan điểm đổi mới của Đảng ta. Qua đó có thể hiểu được sự đúng đắn, sáng tạo
trong đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam trong từng giai đoạn để
có thêm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Chính vì vậy em chọn đề tài
“Thành tựu và thời cơ, thác thức của sự nghiệp đổi mới” làm đề tài tiểu luận


cho môn Hệ thống quan điểm đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam.

1


NỘI DUNG
Chương I: Quá trình hình thành và phát triển đường lối đổi mới
I: Hoàn cảnh lịch sử
Cuối thập kỷ 70 đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX.
Thế giới có sự biến đổi to lớn:
+Âm mưu diễn biến hòa bình của Chủ nghĩa đế quốc. Cùng với đó là tác
động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, xu thế toàn cầu hóa
kinh tế, chạy đua về kinh tế, cuộc đấu tranh giữa CNXH và CNTB có nhiều
diễn biến phức tạp.
CNXH đứng trước những thách thức mới đòi hỏi phải vượt qua.
Trong khi đó hầu hết các nước XHCN lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã
hội trầm trọng. CNTB cũng phải đối phó với các nguy cơ mới. Nhưng do có
sự điều chỉnh cần thiết, đặc biệt là đã sử dụng được những thành quả của cuộc
cách mạng KHCN, đã vượt qua được khó khăn, kinh tế có bước tăng trưởng
đáng kể.
Để thoát khỏi Ttrạng khhoảng: TQ thực hiện cải cách, mở cửa 12/1978) ;
Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu tiến hành cải tổ, cải cách. Trong khi
Trung Quốc có sự vươn lên mạnh mẽ những sai lầm về đường lối và cách làm đã
khiến công cuộc cải tổ, cải cách ở Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu ngày
càng khó khăn. Sự khủng hoảng toàn diện dần dần xuất hiện ở các nước này.
Việt Nam, sau giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, bên cạnh
thuận lợi và những thành tựu đã giành được trong giai đoạn đầu xây dựng đất
nước, chúng ta cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới.
Tư tưởng chủ quan, say sưa với thắng lợi, nóng vội muốn tiến nhanh lên
CNXH trong một thời gian ngắn, việc bố trí sai cơ cấu kinh tế, cộng với

những khuyết điểm của mô h́ình kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp bộc
lộ ngày càng rõ làm cho t́ình h́ình kinh tế xã hội rơi vào trì trệ, khủng hoảng.
Nước ta lại bị các thế lực thù địch bao vây cấm vận; chiến tranh biên giới
phía tây Nam và biên giới phía Bắc xảy ra…

2


Để đưa nước ta thoát khỏi t́ình trạng đó, vấn đề có ý nghĩa quyết định là
phải đổi mới mạnh mẽ, cơ bản cách nghĩ, cách làm.
Cuối những năm 70, ở một số địa phương bắt đầu có những tìm tòi, thử
nghiệm cách làm ăn mới, đưa ra những lời giải đáp cho những vấn đề thực
tiễn đặt ra.
Qua những thành công bước đầu đạt được trong quá trình tìm tòi, thử
nghiệm đó, Đảng và nhân dân ta càng nhận thấy sự cần thiết phải đổi mới.
Trước hết là đổi mới tư duy, đổi mới cách làm nhằm xây dựng CNXH một
cách có hiệu quả hơn.
Những khó khăn cả trong nước và quốc tế đòi hỏi Đảng ta phải bắt tay
vào công cuộc đổi mới đất nước. Trước hết là đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào
sự thật, đánh giá đúng tình hình của nước ta lúc này để có thể đề ra những
biện pháp chính xác, kịp thời, khắc phục khó khăn. Và công cuộc đổi mới
phải được thực hiện toàn diện và sâu sắc cả trong tư tưởng nhân dân và đường
lối xây dựng chủ nghĩa xã hội khi nước ta đang bước vào thời kỳ quá độ. Vì
vậy việc hình thành đường lối đổi mới của Đảng ta là tất yếu lịch sử.
II: Quá trình hình thành và phát triển đường lối
Trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận, nhận thức rõ hơn về Chủ Nghĩa Xã Hội
và về thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội, dựa vào những kết quả bước đầu
của sự đổi mới từng phần, lắng nghe, tổng kết sáng kiến, kinh nghiệm của nhân
dân, của các địa phương và cơ sở, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng
Cộng sản Việt Nam (12-1986) đã hoạch định đường lối đổi mới đất nước. Trong

quá trình tổ chức thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra, nhiều Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và đặc biệt Đại hội VII (6-1991)
với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
Đại hội VIII (6-1996) và Đại hội IX (4-2001) đã không ngừng bổ sung, phát
triển, hoàn thiện đường lối đổi mới, làm rõ hơn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn
của công cuộc đổi mới và xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Có thể thấy rõ những nội dung đổi mới quan trọng và chủ yếu cả về nhận
thức, tư duy lý luận và cả về lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn suốt 20 năm qua.
3


Trước hết, đó là đổi mới tư duy lý luận mà thực chất là nắm vững và vận
dụng đúng đắn quy luật khách quan, khắc phục căn bệnh nóng vội, chủ quan,
duy ý chí. Ngay từ Đại hội VI, Đảng ta đã nhận thức rằng, từ Chủ nghĩa tư
bản lên Chủ nghĩa xã hội phải trải qua một thời kỳ quá độ là một tất yếu
khách quan và độ dài của thời kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế
xã hội của mỗi nước. “Thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên chủ nghĩa
xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa,
đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn”.
Đại hội IX (4-2001) tổng kết 15 năm đổi mới, khẳng định: “Xây dựng
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất
của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho
nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều
hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ”.
Trong hàng loạt các quy luật khách quan, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
nhận thức rõ hơn quy luật về quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất, sửa chữa sai lầm trước đó là đã đưa quan hệ
sản xuất đi quá nhanh, quá xa trong khi lực lượng sản xuất còn rất lạc hậu, tập
trung phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất thông qua thực hiện cách mạng

khoa học - công nghệ, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa, từ đó điều
chỉnh quan hệ sản xuất cho phù hợp. Các quy luật vận động trong thời kỳ quá
độ lên Chủ nghĩa xã hội, nhất là các quy luật kinh tế đã từng bước nhận thức
và vận dụng đúng đắn và có hiệu quả hơn. Khi quyết định đường lối đổi mới
ở Đại hội VI Đảng ta đã nghiêm túc chỉ ra rằng, cuộc sống cho ta một bài học
thấm thía là không thể nóng vội làm trái quy luật.
Thứ hai, từ nhận thức đúng đắn về thời kỳ quá độ, Đảng quyết định đổi
mới cơ cấu kinh tế, coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc
trưng của thời kỳ quá độ. Đại hội VI đã vận dụng đúng đắn quan điểm của
Lênin về kinh tế nhiều thành phần. Chính Lênin cũng cho rằng tên nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa là để khẳng định hướng tiến lên chứ điều đó chưa có
4


nghĩa là nền kinh tế của ta đã hoàn toàn là kinh tế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, ở
nước ta cần thiết phải có nhiều thành phần kinh tế phát triển bình đẳng trước
pháp luật, đó là yêu cầu khách quan.
Đại hội VI khẳng định nước ta có các thành phần: Kinh tế xã hội chủ
nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể; Kinh tế tiểu sản xuất
hàng hóa; Kinh tế tư bản tư nhân; Kinh tế tư bản nhà nước; Kinh tế tự nhiên,
tự túc tự cấp. Đại hội IX bổ sung thêm một thành phần nữa là Kinh tế 100%
vốn nước ngoài. Trong quá trình đổi mới, 20 năm qua, Đảng và Nhà nước ta
chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần. Thực tiễn đổi mới cũng cho thấy nhiều thành
phần kinh tế đương nhiên là có nhiều hình thức sở hữu, trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng
trở thành nền tảng vững chắc.
Cùng với đổi mới cơ cấu kinh tế, Đảng chủ trương đổi mới cơ chế quản
lý dứt khoát bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp
chuyển sang hạch toán, kinh doanh và từng bước đưa nền kinh tế vận động

theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển
lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản
xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba
mặt sở hữu, quản lý, phân phối.
Thứ ba, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng và vai trò,
chức năng quản lý điều hành của Nhà nước. Nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước theo hướng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Củng cố sức mạnh của hệ thống chính trị.
Đại hội VI của Đảng đặt ra yêu cầu xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính
trị của một Đảng cầm quyền, tăng cường sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo và
năng lực tổ chức thực tiễn, đổi mới phong cách làm việc, đi sâu, đi sát thực tế,
5


sát cơ sở, gắn bó với nhân dân. Nâng cao trình độ trí tuệ, nắm bắt và vận dụng
đúng đắn quy luật khách quan, hiểu biết sâu sắc những vấn đề kinh tế, xã hội. Từ
Hội Nghị Trung ương 3 khoá VII (6-1992), đặc biệt từ Hội Nghị Trung ương 6
(lần 2) khóa VIII (1-1999) Đảng đẩy mạnh nhiệm vụ xây dựng chỉnh đốn Đảng,
học tập và làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đại hội VI của Đảng đã xác định rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh
tế - xã hội của bộ máy Nhà nước, nghĩa là, Nhà nước thông qua hệ thống pháp
luật và chính sách để điều hành, quản lý nền kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô. Từ
sau Đại hội VII, đặc biệt là Hội Nghị Trung ương 8 khoá VII (1-1995), Hội
Nghị Trung ương 3 khoá VIII (6-1997) đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Quan điểm cơ
bản là: Quyền lực Nhà nước là thống nhất, song có sự phân công và phối hợp
chặt chẽ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp dưới sự lãnh đạo

của Đảng. Từ Quốc hội khoá VIII (1987), khoá IX (1992), khoá X (1997) và
khoá XI (2002) hoạt động của Quốc hội ngày càng đổi mới và thực hiện có
hiệu quả các chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất
nước và quyền giám sát tối cao. Từng bước đẩy mạnh công cuộc cải cách nền
hành chính nhà nước cả về chức năng, cơ chế vận hành, quản lý, tổ chức bộ
máy và đội ngũ công chức. Bộ máy và hoạt động tư pháp được củng cố và
tăng cường.
Cùng với việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhiệm vụ xây dựng hoàn thiện
Nhà nước là những nội dung quan trọng về đổi mới hệ thống chính trị và có ý
nghĩa quyết định đến toàn bộ tiến trình của sự nghiệp đổi mới.
Thứ tư, thật sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tăng cường và đổi mới công tác vận
động quần chúng nhân dân và thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đại
hội VI của Đảng đã rút ra bài học là trong toàn bộ hoạt động, Đảng phải quán
triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân lao động. Chính lợi ích sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình
thành đường lối đổi mới... Một trong những nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi
6


mới mà Hội Nghị Trung ương 6 - khoá VI (3-1989) nêu ra là phải thực hiện
tốt hơn dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhưng dân chủ luôn luôn gắn liền với tập
trung, gắn liền với nghĩa vụ, trách nhiệm công dân, với kỷ cương, kỷ luật
pháp luật, dân chủ phải có lãnh đạo và lãnh đạo bằng phương pháp dân chủ.
Trong Nghị quyết Trung ương 8B - khoá VI (3-1990) về đổi mới công
tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân,
Đảng nhấn mạnh các quan điểm: Cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và
vì dân; động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực
của nhân dân và kết hợp hài hòa các lợi ích, thống nhất quyền lợi với nghĩa vụ
công dân; các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng; công tác vận động

quần chúng là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể.
Đảng cũng chủ trương đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Mặt trận và các tổ chức thành viên
là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Cùng với Đảng, Nhà nước, tổ
chức Mặt trận và đoàn thể nhân dân như Tổng liên đoàn lao động, Hội nông
dân, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu
chiến binh hợp thành hệ thống chính trị. Công tác vận động quần chúng là
trách nhiệm của cả hệ thống chính trị ở tất cả các cấp.
Đảng chú trọng xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, tăng cường sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong công cuộc đổi mới. Đoàn kết các
giai cấp, các thành phần kinh tế, đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo, mọi tầng
lớp, cá nhân yêu nước, đoàn kết người Việt Nam ở trong nước và người Việt
Nam ở nước ngoài nhằm phát huy nội lực của dân tộc Việt Nam.
Thứ năm, đổi mới chính sách đối ngoại, thực hiện đa phương hóa, đa dạng
hoá, Việt Nam muốn là bạn và là đối tác tin cậy của các nước trên thế giới trên
cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Xây dựng chiến
lược bảo vệ Tổ quốc phù hợp với tình hình mới. Tại Đại hội VI (12-1986), Đảng
ta đã nêu rõ chủ trương: khuyến khích nước ngoài đầu tư vào nước ta dưới nhiều
hình thức, nhất là đối với các ngành và cơ sở đòi hỏi kỹ thuật cao. Đi đôi với
công bố luật đầu tư, cần có các chính sách và biện pháp tạo điều kiện thuận lợi
7


cho người nước ngoài và Việt kiều vào nước ta để hợp tác kinh doanh. Luật đầu
tư nước ngoài là luật sớm nhất của thời kỳ đổi mới, được Quốc hội khoá VIII
thông qua ngày 29-12-1987 và có hiệu lực từ 1-1-1988.
Đại hội VII của Đảng tuyên bố chính sách đối ngoại rộng mở, Việt Nam
muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa
bình độc lập và phát triển. Đại hội VIII của Đảng nhấn mạnh sự hợp tác nhiều
mặt, song phương và đa phương với các nước và các tổ chức quốc tế. Tích

cực đóng góp cho hoạt động ở các diễn đàn quốc tế, tham gia giải quyết các
vấn đề toàn cầu. Mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ
chức phi chính phủ. Đại hội IX của Đảng tiếp tục chủ trương mở rộng quan
hệ đối ngoại chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, Việt
Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế.
Đảng ta luôn luôn xác định, nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững
môi trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi
mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất
nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu
tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội.

8


Chương II: Thành quả, thời cơ và hạn chế, thách thức của công cuộc
đổi mới thời kỳ 1986 đến nay
I: Những thành quả đã đạt được và thời cơ của công cuộc đổi mới
Với những nội dung rất căn bản và chủ yếu trong đường lối đổi mới
cùng với bản lĩnh chính trị vững vàng và trách nhiệm trước đất nước, giai cấp
và dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa đất nước vượt qua những khó
khăn, thách thức, kể cả tác động tiêu cực do sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ
nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô đưa lại, không ngừng đẩy mạnh sự
nghiệp đổi mới theo con đường của Chủ nghĩa xã hội và qua 20 năm đã đạt
được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, làm thay đổi rõ rệt bộ mặt
của đất nước, cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân, như các văn kiện trình
Đại hội X của Đảng đã khẳng định.
Có thể thấy rõ thành tựu của 20 năm đổi mới cả về thực tiễn và nhận thức
lý luận để vững tin vào con đường đã lựa chọn và sự phát triển của đất nước.
Về thực tiễn, nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội từ 1996,

kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá nhanh (GDP bình quân trong giai đoạn 19861990 là 3,9%, 1991-1995 là 8,2%, 1996-2000 là 7% và 2001-2005 là 7,5%),
nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa bước đầu được xây dựng,
công nghiệp hoá, hiện đại hóa được đẩy mạnh, cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội tăng lên đáng kể. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc
mà nền tảng là liên minh công nhân - nông dân - trí thức do Đảng lãnh đạo
ngày càng được tăng cường và củng cố. Nền quốc phòng toàn dân và an ninh
nhân dân được giữ vững. Chính trị - xã hội ổn định. Quan hệ đối ngoại được
mở rộng. Vị thế nước ta trên thế giới được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp từ
nguồn nội lực của đất nước tăng lên nhiều. Nhân dân tin tưởng ở đường lối
đổi mới và sự lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước, tin tưởng ở tương lai
phát triển của đất nước.
Về lý luận, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam ngày càng rõ hơn, “Hệ thống quan điểm lý luận về công
cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã
9


hội ở Việt Nam đã bước đầu hình thành trên những nét cơ bản” (Văn kiện
trình Đại hội X trang 11).
Nhận thức rõ hơn về mục tiêu, mô hình của xã hội xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam, rõ hơn về chặng đường, bước đi khi đã hoàn thành những nhiệm
vụ đề ra cho chặng đường đầu trên của thời kỳ quá độ, cho phép chuyển sang
chặng đường đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, rõ hơn về
những công cụ, giải pháp để thực hiện mục tiêu phát triển đất nước, xây dựng
chủ nghĩa xã hội, rõ hơn về những mối quan hệ đặt ra cần được giải quyết một
cách đúng đắn trên con đường đổi mới vì mục tiêu chủ nghĩa xã hội, mà trước
hết làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Hai mươi năm đổi mới đã có cơ sở để rút ra một số bài học lớn có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn. Đó là các bài học: Trong quá trình đổi mới phải
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ

nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có
kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp; Đổi mới phải vì lợi ích
của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của
nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới; Phát huy cao độ nội
lực, đồng thời ra sức khai thác ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại trong điều kiện mới; Đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh
đạo, bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không
ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
II: Những hạn chế và thách thức còn tồn tại của công cuộc đổi mới
Công cuộc đổi mới ở nước ta tuy đạt nhiều thành quả nhưng không phải
không có những hạn chế.
Kinh tế phát triển chưa bền vững; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh
thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, cơ hội và yêu cầu phát triển của đất
nước; một số chỉ tiêu không đạt kế hoạch.
Tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng dựa vào tăng đầu tư, khai
thác tài nguyên; các cân đối vĩ mô chưa vững chắc. Công nghiệp chế tạo, chế
10


biến phát triển chậm, gia công, lắp ráp còn chiếm tỉ trọng lớn. Cơ cấu kinh tế
giữa các ngành, lĩnh vực chuyển dịch theo hướng tích cực nhưng còn chậm.
Cơ cấu trong nội bộ từng ngành cũng chưa thật hợp lý. Năng suất lao động xã
hội thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Năng lực cạnh tranh quốc
gia chậm được cải thiện.
Đầu tư vẫn dàn trải. Hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư còn thấp,
còn thất thoát, lãng phí, nhất là nguồn vốn đầu tư của Nhà nước. Hệ thống kết
cấu hạ tầng phát triển chậm, thiếu đồng bộ, đặc biệt đối với khu vực đồng bào
dân tộc thiểu số. Chất lượng nhiều công trình xây dựng cơ bản còn thấp. Quản
lý, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên hiệu quả chưa cao, còn lãng phí.

Tình trạng khai thác rừng, khai thác khoáng sản bất hợp pháp vẫn còn xảy ra
ở nhiều nơi, nhưng chưa có biện pháp hữu hiệu, ngăn chặn kịp thời. Trình độ
phát triển giữa các vùng cách biệt lớn và có xu hướng mở rộng. Các chỉ tiêu
tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) và chuyển dịch cơ cấu kinh tế không đạt kế
hoạch Đại hội X đề ra.
Những yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế
thị trường chưa được chú ý đúng mức. Một số tập đoàn kinh tế và doanh
nghiệp nhà nước kinh doanh thua lỗ, gây bức xúc trong xã hội. Chỉ đạo
đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, các nông, lâm trường quốc doanh
chậm, lúng túng. Chất lượng xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch
phát triển một số ngành, vùng, nhất là quy hoạch sử dụng đất đai, tài
nguyên khoáng sản còn yếu, gây lãng phí, thất thoát lớn. Quản lý thị
trường, nhất là thị trường bất động sản, thị trường tài chính, có lúc còn
lúng túng, sơ hở, thiếu chặt chẽ dẫn đến tình trạng đầu cơ, làm giàu bất
chính cho một số người; chính sách phân phối còn nhiều bất hợp lý.
Các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, văn hoá, xã hội,
môi trường còn nhiều hạn chế, yếu kém, gây bức xúc xã hội. Chất lượng giáo
dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào tạo nguồn nhân
lực trình độ cao vẫn còn hạn chế; chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu
cầu của xã hội. Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng số lượng, quy mô
11


với nâng cao chất lượng, giữa dạy chữ và dạy người. Chương trình, nội dung,
phương pháp dạy và học lạc hậu, đổi mới chậm; cơ cấu giáo dục không hợp lý
giữa các lĩnh vực, ngành nghề đào tạo; chất lượng giáo dục toàn diện giảm
sút, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Quản lý nhà nước về giáo dục còn lúng túng. Xu hướng thương mại hoá và sa
sút đạo đức trong giáo dục khắc phục còn chậm, hiệu quả thấp, đang trở thành
nỗi bức xúc của xã hội.

Khoa học, công nghệ chưa thật sự trở thành động lực thúc đẩy, chưa gắn
kết chặt chẽ với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Thị trường
khoa học, công nghệ còn sơ khai, chưa tạo sự gắn kết có hiệu quả giữa nghiên
cứu với đào tạo và sản xuất kinh doanh. Đầu tư cho khoa học, công nghệ còn
thấp, sử dụng chưa hiệu quả. Trình độ công nghệ nhìn chung còn lạc hậu, đổi
mới chậm.
Tình trạng thiếu việc làm còn cao. Chính sách tiền lương, thu nhập chưa
động viên được cán bộ, công chức, người lao động gắn bó, tận tâm với công
việc. Đời sống của một bộ phận dân cư, nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa
còn nhiều khó khăn. Xoá đói, giảm nghèo chưa bền vững, tình trạng tái nghèo
cao. Khoảng cách chênh lệch giàu nghèo còn khá lớn và ngày càng doãng ra.
Chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ còn thấp, hệ thống y tế và
chất lượng dịch vụ y tế chưa đáp ứng được yêu cầu khám chữa bệnh của nhân
dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc
thiểu số. Vệ sinh, an toàn thực phẩm chưa được kiểm soát chặt chẽ.
Văn hoá phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Quản lý văn
hoá, văn nghệ, báo chí, xuất bản còn thiếu chặt chẽ. Môi trường văn hoá bị
xâm hại, lai căng, thiếu lành mạnh, trái với thuần phong mỹ tục, các tệ nạn xã
hội, tội phạm và sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ độc hại làm suy
đồi đạo đức, nhất là trong thanh, thiếu niên, rất đáng lo ngại.
Việc xây dựng pháp luật và chính sách bảo vệ môi trường còn chậm,
thực hiện chưa nghiêm, hiệu lực, hiệu quả thấp. Môi trường ở nhiều nơi tiếp
tục bị xuống cấp, một số nơi đã đến mức báo động. Chưa chủ động nghiên
12


cứu, dự báo đánh giá tác động của biến đổi khí hậu; hậu quả của thiên tai còn
nặng nề.
Công tác xã hội hoá chưa được đẩy mạnh, chưa huy động được nhiều
nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước cho phát triển giáo dục, đào tạo, khoa

học, công nghệ, văn hoá, giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường.
Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế
Một số quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đại hội X về nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh chưa được triển khai thực hiện kịp thời. Nhận thức về quốc
phòng toàn dân và an ninh nhân dân của một số cán bộ, đảng viên trong các
ngành, các cấp chưa đầy đủ, sâu sắc, thiếu cảnh giác trước âm mưu “diễn biến
hoà bình” của các thế lực thù địch và “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong
nội bộ. Công tác bảo vệ an ninh trong một số lĩnh vực còn có những thiếu sót;
xử lý tình hình phức tạp nảy sinh ở cơ sở có lúc, có nơi còn bị động, tội phạm
hình sự, tệ nạn xã hội, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở một số địa
bàn còn diễn biến phức tạp. Việc gắn kết giữa phát triển kinh tế với củng cố,
tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh, đặc biệt là tại các vùng chiến
lược, biển, đảo còn chưa chặt chẽ. Công nghiệp quốc phòng, an ninh chưa đáp
ứng yêu cầu trang bị cho các lực lượng vũ trang.
Công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược về đối ngoại có mặt còn hạn
chế. Sự phối hợp giữa đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao
nhân dân, giữa các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hoá đối ngoại chưa thật
đồng bộ.
Dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ
Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh vực còn bị
vi phạm. Việc thực hành dân chủ còn mang tính hình thức; có tình trạng lợi
dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến
trật tự, an toàn xã hội.
Chủ trương, quan điểm của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc, về quyền
và lợi ích của các giai cấp, tầng lớp nhân dân chưa được thể chế đầy đủ thành
pháp luật; hoặc đã thể chế hoá nhưng chưa được thực hiện nghiêm túc; công
13


tác kiểm tra, đôn đốc chưa thường xuyên; giữa chủ trương và tổ chức thực

hiện còn cách biệt. Việc tuyên truyền, vận động, tập hợp, thu hút nhân dân
tham gia các phong trào, cuộc vận động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
nhân dân còn hạn chế. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân chưa sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu
phát triển kinh tế và quản lý đất nước. Năng lực xây dựng thể chế, quản lý,
điều hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu. Tổ chức bộ máy ở nhiều cơ
quan còn chưa hợp lý, biên chế cán bộ, công chức tăng thêm; chức năng,
nhiệm vụ của một số cơ quan chưa đủ rõ, còn chồng chéo. Chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới
của đất nước. Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu đề ra; thủ tục hành chính
còn gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Năng lực dự báo, hiệu lực, hiệu
quả quản lý của Nhà nước trên một số lĩnh vực yếu; phân cấp mạnh nhưng
thiếu kiểm tra, kiểm soát; trật tự, kỷ cương xã hội không nghiêm. Cải cách tư
pháp còn chậm, chưa đồng bộ. Công tác điều tra, giam giữ, truy tố, xét xử
trong một số trường hợp chưa chính xác; án tồn đọng, án bị huỷ, bị cải sửa
còn nhiều.
Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt được yêu cầu đề
ra. Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu
hiện tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã hội.
Công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, yếu kém, chậm được khắc phục
Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ được
một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của
công tác tư tưởng còn hạn chế; thiếu sắc bén trong đấu tranh chống âm mưu,
thủ đoạn “diễn biến hoà bình”.
Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí,
quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà
14



còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hoá giàu nghèo và sự yếu
kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin
của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất
nước. Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
chưa thực sự đi vào chiều sâu, ở một số nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả
chưa cao, làm theo chưa đạt yêu cầu.
Tổ chức của một số cơ quan đảng, nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội
chưa thực sự tinh gọn, hiệu quả; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ chưa rõ
ràng. Việc đổi mới công tác cán bộ còn chậm; thiếu cơ chế, chính sách cụ thể
để thực sự phát huy dân chủ trong công tác cán bộ, phát hiện và sử dụng
người tài; chậm đổi mới cơ chế, phương pháp và quy trình đánh giá, bổ
nhiệm, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ; đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu.
Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tội, chạy bằng cấp, huân chương
chưa được khắc phục. Công tác cán bộ thiếu tầm nhìn xa. Chất lượng đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ thấp. Môi trường làm việc, chính sách cán bộ chưa tạo được
động lực để khuyến khích, thu hút, phát huy năng lực, sự cống hiến của cán
bộ; chưa cổ vũ ý chí phấn đấu vươn lên, sự gắn bó, tận tụy của cán bộ đối với
công việc.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp;
công tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng chưa nền nếp, nội
dung sinh hoạt nghèo nàn, tự phê bình và phê bình yếu. Việc xây dựng tổ
chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài còn chậm, vai trò của tổ chức đảng ở đây mờ nhạt. Động cơ phấn
đấu vào Đảng của một số người có biểu hiện lệch lạc, cơ hội.
Việc xử lý, sử dụng và quản lý cán bộ, đảng viên có vấn đề lịch sử chính
trị còn phiến diện, thiếu chặt chẽ. Việc xem xét, giải quyết những vấn đề
chính trị hiện nay của cán bộ, đảng viên còn lúng túng. Nhiều cấp uỷ, tổ chức
đảng chưa quan tâm chỉ đạo đúng mức công tác này.

Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng chưa làm tốt công tác kiểm tra, giám sát và
thi hành kỷ luật đảng, chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao;
15


chưa coi trọng việc kiểm tra, giám sát thực hiện đường lối, chủ trương, chỉ thị,
nghị quyết, thi hành Điều lệ Đảng, kiểm tra, giám sát phòng ngừa tiêu cực và
phát huy nhân tố tích cực. Nhiều khuyết điểm, sai lầm của đảng viên và tổ
chức đảng chậm được phát hiện. Tình trạng thiếu trách nhiệm, cơ hội, suy
thoái đạo đức, lối sống vẫn diễn ra khá phổ biến trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên. Kỷ luật, kỷ cương ở nhiều tổ chức đảng không nghiêm. Sự đoàn
kết, nhất trí ở không ít cấp uỷ chưa tốt.
Một số tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận và đoàn thể nhân dân chưa
quan tâm đúng mức công tác dân vận. Nội dung, phương thức vận động, tập
hợp quần chúng vẫn nặng tính hành chính.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể chính trị - xã hội trên một số nội dung chưa rõ, chậm đổi mới.
Chức năng, nhiệm vụ của đảng đoàn, ban cán sự đảng chưa được xác định rõ
ràng, cụ thể nên hoạt động còn lúng túng. Phong cách, lề lối làm việc đổi mới
chậm; hội họp vẫn nhiều. Nguyên tắc tập trung dân chủ còn bị vi phạm, ảnh
hưởng đến sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
Những hạn chế, yếu kém có nguyên nhân khách quan là do ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu; thiên tai, dịch
bệnh; những yếu kém vốn có của nền kinh tế; sự chống phá của các thế lực
thù địch; nhưng trực tiếp và quyết định nhất vẫn là nguyên nhân chủ quan:
Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn nhìn chung vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu. Nhận thức trên nhiều vấn đề cụ thể của công cuộc đổi mới còn
hạn chế, thiếu thống nhất. Công tác dự báo trong nhiều lĩnh vực còn yếu. Sự
lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước trên một số lĩnh
vực và một số vấn đề lớn chưa tập trung, kiên quyết, dứt điểm; kỷ luật, kỷ

cương không nghiêm. Tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu. Năng lực, phẩm
chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức còn bất cập.

16


KẾT LUẬN
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, tùy vào điều kiện lịch sử của từng
chặng đường mà Đảng ta đề ra các cương lĩnh cách mạng để xác đingj các
quan diểm, nguyên tắc và phương hướng chính trị cùng với các chủ trường
của Đảng. Đó là ngọn đuốc soi đường đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác.
Qua quá trình tìm tòi khảo nghiệm đổi mới, Đảng ta đã từng bước hoàn
thiện quan điểm của mình về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Với cương lĩnh được thông qua Đại hội VII, cônmg cuộc đổi mới nước
ta tiếp tục được tiên hành và đạt được nhiều thành tựu quan trọng, song bên
cạnh đó cũng có những yếu kém. Điều quan trọng là Đảng đã nhận ra những
thành tựu cũng như những khuyết điểm đó để rút ra những bài học bổ ích.
Như vậy cùng với những thắng lợi đã giành được trong thế kỷ XX,
những thành tựu trong công cuộc đổi mới đất nước hôm nay đã làm cho thế
và lực của nước ta lớn mạnh lên nhiều. Chúng ta đang có những cơ hội lớn để
tạo ra bước phát triển nhưng đồng thời chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều
thách thức.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta vẫn kiên trì ngọn cờ cách mạng
chủ nghĩa xã hội, bước vào thế kỷ XXI, xây dựng thành công chủ nghĩa xa
hội , bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
20 năm đổi mới đã có cơ sở để rút ra một số bài học lớn có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn. Đó là các bài học: trong quá trình đổi mới phải kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có
bước đi, hình thức và cách làm phù hợp; đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân,

dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát
từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới; phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức
khai thác ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong
điều kiện mới; đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo, bảo đảm nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ
thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
17


MỤC LỤC

18



×