Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

CÁC KẾT QUẢ THỰC HIỆN XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 20102015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.78 KB, 15 trang )

I, GIỚI THIỆU VỀ NÔNG THÔN MỚI
Để được công nhận xã nông thôn mới căn cứ vào 19 tiêu chí của Bộ tiêu chí Quốc
gia về nông thôn mới.
Tiêu chí 1: Quy hoạch
Tiêu chí 2: Giao thông
Tiêu chí 3: Thủy lợi
Tiêu chí 4: Điện
Tiêu chí 5: Trường học
Tiêu chí 6: Cơ sở vật chất văn hóa
Tiêu chí 7: Chợ nông thôn
Tiêu chí 8: Bưu điện
Tiêu chí 9: Nhà ở dân cư
Tiêu chí 10: Thu nhập
Tiêu chí 11: Hộ nghèo
Tiêu chí 12: Tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên
Tiêu chí 13: Hình thức tổ chức sản xuất
Tiêu chí 14: Giáo dục
Tiêu chí 15: Y tế
Tiêu chí 16: Văn hóa
Tiêu chí 17: Môi trường
Tiêu chí 18: Hệ thống chính trị xã hội vững mạnh
Tiêu chí 19: An ninh trật tự xã hội.


II, CÁC KẾT QUẢ THỰC HIỆN XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI CỦA VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 2010-2015
a, Thành tựu
Báo cáo tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát, Phó Trưởng Ban
Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng
nông thôn trình bày tại Hội nghị chỉ rõ, sau 5 năm triển khai thực hiện, chương
trình đã đạt được những kết quả rất to lớn, bộ mặt nông thôn đã đổi thay tích cực,


phong trào xây dựng nông thôn mới đã được người dân hưởng ứng và trở thành
phong trào rộng khắp cả nước.
Từ chỗ số đông còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào đầu tư của Nhà nước đã chuyển
sang chủ động, tự tin tham gia tích cực vào xây dựng NTM.
Năng lực đội ngũ cán bộ vận hành chương trình, đặc biệt là đội ngũ cán bộ cơ sở,
đã được nâng lên rõ rệt, nhận thức đầy đủ hơn và tổ chức thực hiện chương trình
có hiệu quả hơn, nhất là trong việc xây dựng dự án, vận động quần chúng và tổ
chức, thực hiện dự án.
Nhiều địa phương đã cụ thể hóa các chính sách của Trung ương, chủ động ban
hành cơ chế, chính sách phù hợp với điều kiện của địa phương. Hệ thống hạ tầng
nông thôn phát triển mạnh mẽ, làm thay đổi bộ mặt nhiều vùng nông thôn. Điều
kiện sống cả về vật chất và tinh thần của nhiều khu vực dân cư nông thôn được
nâng cao rõ rệt.
Sản xuất nông nghiệp hàng hóa được coi trọng và có chuyển biến, góp phần tích
cực nâng cao thu nhập của dân cư nông thôn. Vai trò của các tổ chức Đảng, chính
quyền, đoàn thể ở nhiều nơi được phát huy, dân chủ ở nông thôn được nâng lên về
chất.
Về nguồn vốn thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới,
theo báo cáo, trong 5 năm cả nước đã huy động khoảng 851.380 tỷ đồng.
Trong đó, ngân sách Nhà nước bao gồm các chương trình, dự án khác là 266.785 tỷ
đồng chiếm 31,34%, vốn tín dụng là 434.950 tỷ đồng chiếm 51%, huy động từ
doanh nghiệp là 42.198 tỷ đồng chiếm 4,9%, người dân đóng góp là 107.447 tỷ
đồng chiếm 12,62%.


Riêng ngân sách Nhà nước hỗ trợ trực tiếp là 98.664 tỷ đồng chiếm 11,59%, trong
đó, ngân sách Trung ương là 16.400 tỷ đồng (vốn sự nghiệp kinh tế là 3.480 tỷ
đồng, vốn đầu tư phát triển là 2.420 tỷ đồng, Trái phiếu Chính phủ 10.500 tỷ
đồng), ngân sách địa phương là 82.264 tỷ đồng.
Quốc hội đã ban hành nghị quyết phân bổ vốn trái phiếu Chính phủ cho chương

trình mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới là 15.000 tỷ đồng cho giai đoạn
2014-2016.
Có thể nói, quá trình xây dựng nông thôn mới đã đạt được thành tựu khá toàn diện.
Quy hoạch
_ Quy hoạch sử dụng đất và hạ tầng thiết yếu cho phát triển sản xuất nông nghiệp
hàng hoá, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ: Xác định nhu cầu sử dụng
đất cho bố trí vùng sản xuất và hạ tầng kü thuật thiết yếu phục vụ sản xuất hàng
hoá nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ; bố trí hệ thống
thuỷ lợi, thuỷ lợi kết hợp giao thông... theo hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn.
_ Quy hoạch phát triển các khu dân cư mới và chỉnh trang các khu dân cư hiện có
theo hướng văn minh, bảo tồn được bản sắc văn hoá tốt đẹp theo hướng dẫn của
Bộ Xây dựng.
_ Quy hoạch phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội - môi trường theo chuẩn mới, bao
gồm: bố trí mạng lưới giao thông, điện, trường học các cấp, trạm xá, trung tâm văn
hoá, thể thao xã, nhà văn hoá và khu thể thao thôn, bưu điện và hệ thống thông tin
liên lạc, chợ, nghĩa trang, bãi xử lý rác, hệ thống cấp nước sạch, hệ thống thoát
nước thải, công viên cây xanh, hồ nước sinh thái.v.v. theo hướng dẫn cụ thể của Bộ
Kế hoạch và Đầu tư.


Theo báo cáo tổng kết phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn
mới” giai đoạn 2011 - 2015, Bộ Xây dựng cho biết, đến nay cả nước đã cơ bản
hoàn thành công tác quy hoạch và có 98,7% số xã đạt tiêu chí về quy hoạch nông
thôn mới, số tỉnh đã hoàn thành 100% công tác lập quy hoạch xây dựng xã nông
thôn mới là 15 tỉnh. Đồng thời các xã đã tiến hành lập Đề án xây dựng nông thôn
mới xác định mục tiêu và giải pháp thực hiện các nhiệm vụ ưu tiên. Đến tháng
9/2015 đã có 85% số xã phê duyệt xong đề án.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội cơ bản bảo đảm, tạo sự thuận lợi trong giao lưu

buôn bán và phát triển sản xuất; Kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng tỷ
trọng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề. Đã xuất hiện nhiều mô hình kinh tế có
hiệu quả gắn với xây dựng nông thôn mới, nâng cao thu nhập và đời sống vật chất
tinh thần cho người dân, hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố và tăng
cường; dân chủ cơ sở được phát huy; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được
giữ vững; vị thế của giai cấp nông dân ngày càng được nâng cao. Những thành tựu
đó đã góp phần thay đổi toàn diện bộ mặt nông thôn, tạo cơ sở vững chắc tiếp tục
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.


Các địa phương đã quan tâm hơn và tập trung chỉ đạo thực hiện những nội dung
trọng điểm, bức xúc trên địa bàn và có nhiều cơ chế, chính sách linh hoạt để huy
động nguồn lực thực hiện chương trình. Nhờ đó, tốc độ đạt tiêu chí của các xã tăng
lên rõ rệt. Kết cấu hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống người dân được
các địa phương quan tâm xây dựng, nâng cấp; bộ mặt nông thôn có nhiều đổi mới,
thu nhập của cư dân nông thôn tăng nhanh hơn.
Về phát triển giao thông nông thôn, chương trình đã xây dựng được trên 5 nghìn
công trình với khoảng 700.000km đường giao thông nông thôn. Năm 2012 đã có
23,3% số xã đạt tiêu chí giao thông, năm 2013 đạt 35,3%. Trên lĩnh vực thủy lợi,
năm 2012 đạt 44,5% số xã đã đạt tiêu chí, năm 2014 đạt 52,7%; 75,6% xã đạt tiêu
chí về điện, năm 2015 đạt 80,9%.( nguồn tổng cục thống kê)
Kinh tế và tổ chức sản xuất
Cùng với đó, công tác phát triển sản xuất, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo
được triển khai mạnh mẽ tại nhiều địa phương. Nhiều địa phương thực hiện dồn
điền, đổi thửa, thiết kế lại kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện đưa cơ giới hóa vào sản
xuất. Đồng thời, đổi mới tổ chức sản xuất thông qua tăng cường hoạt động của các
hợp tác xã nông nghiệp, tổ chức liên kết sản xuất với mô hình “cánh đồng lớn”, sản
xuất tập trung, ứng dụng công nghệ cao. Nhiều địa phương đã chủ động ban hành
chính sách hỗ trợ người dân mua máy cày, gặt, sấy, đưa tỷ lệ cơ giới hóa của các
khâu này tăng từ 40% - 50% lên 80 - 90% như các tỉnh: Thái Bình, Hà Tĩnh, An

Giang, Hậu Giang, Đồng Tháp.
Thu nhập của người dân nông thôn đạt bình quân 22,1 triệu đồng/người/năm,
tăng 1,98 lần so với năm 2010. Tỷ lệ hộ nghèo nông thôn chỉ còn 10,1%, giảm
bình quân 2%/năm (2008 - 2014). Đến hết năm 2014 đã có 56,5% số xã đạt tiêu chí
về văn hóa, năm 2015 đạt 66,5%. Đã có trên 60% số dân nông thôn tham gia các
hình thức bảo hiểm y tế tự nguyện; trên 20% số xã có câu lạc bộ (đội văn nghệ);
khoảng 25% người dân thường xuyên tham gia các hoạt động thể thao; 70% số
thôn, xóm được công nhận làng văn hóa; có 40% số xã thành lập tổ thu gom rác
thải. Thêm vào đó, cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở
khu dân cư đã động viên, khơi dậy tinh thần đoàn kết giúp đỡ trong cộng đồng dân
cư.(nguồn Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn)


Hệ thống chính trị
Về hệ thống chính trị, tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn mới được đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động, nâng cao vai trò hạt nhân lãnh đạo. Đội ngũ cán bộ
xã đã có bước trưởng thành nhanh; công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ
sở đạt chuẩn được quan tâm. Năm 2014 có 68,2% số xã đạt tiêu chí về hệ thống tổ
chức chính trị, xã hội, đến hết năm 2015 đạt 79,5%.
Tính đến hết tháng 11/2015, cả nước có 1.298 xã (14,5%) được công nhận đạt
chuẩn NTM; số tiêu chí bình quân/xã là 12,9 tiêu chí (tăng 8,2 tiêu chí so với
2010); số xã khó khăn nhưng có nỗ lực vươn lên (xuất phát điểm dưới 3 tiêu chí,
nay đã đạt được 10 tiêu chí trở lên) là 183 xã.
Ở cấp huyện, đã có 11 đơn vị cấp huyện được Thủ tướng Chính phủ ban hành
Quyết định công nhận đạt chuẩn NTM là: Huyện Xuân Lộc, Thống Nhất, thị xã
Long Khánh (Đồng Nai), Củ Chi, Hóc Môn, Nhà Bè (TPHCM), Đông Triều
(Quảng Ninh), Hải Hậu (Nam Định), Đơn Dương (Lâm Đồng), Đan Phượng (TP.
Hà Nội), thị xã Ngã Bảy (Hậu Giang).
Mức thu nhập bình quân đầu người vùng nông thôn đã đạt 24,4 triệu đồng/năm
(tăng khoảng 1,9 lần so với năm 2010).

b, Những tồn tại
Thứ nhất, chưa có quy hoạch và quản lý có hiệu quả về không gian chung nông
thôn - đô thị, công nghiệp - nông nghiệp, về hạ tầng nông thôn, nên đã dẫn đến
không gian nông thôn truyền thống đang bị phá vỡ tại nhiều nơi, mất đi tính đặc
thù với các giá trị bản sắc văn hóa, mất cân bằng sinh thái, ô nhiễm môi trường gia
tăng;
Thứ hai, xã hội nông thôn chưa được tổ chức thích hợp với quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, dân chủ cơ sở còn bị vi phạm ở nhiều nơi, mâu thuẫn xã hội gia
tăng, văn hóa truyền thống bị mai một;
Thứ ba, kinh tế nông thôn phát triển nhưng thiếu tính bền vững cả về kinh tế, xã
hội và môi trường. Người dân thiếu việc làm ổn định, nghèo đói giảm chậm và có
xu thế tái nghèo ở một số địa phương, một bộ phận dân cư còn sống dưới mức


nghèo khổ;
Thứ tư, cơ chế lồng ghép các nguồn lực từ các chương trình, dự án chưa rõ ràng
và chưa quan tâm tới đặc thù từng địa phương. Thực tế các địa phương mới chỉ
tiến hành ghép vốn đối với các công việc, mục tiêu có cùng nội dung. Tuy nhiên,
điều này lại gây khó trong tổng hợp kết quả đạt được của từng dự án, chương trình
từ việc ghép các nguồn vốn của các chương trình, dự án trên địa bàn.
Hạn chế
Thứ nhất, kiến thức về xây dựng nông thôn mới của đội ngũ cán bộ kể từ các bộ,
ngành Trung ương liên quan đến cấp cơ sở đều còn rất hạn chế (nhất là đội ngũ cán
bộ cơ sở rất yếu về kiến thức và phương pháp tổ chức xây dựng nông thôn mới trên
địa bàn xã). Nhu cầu đào tạo là rất lớn (khoảng 300.000 lượt) trong khi còn thiếu
đội ngũ giảng viên và tài liệu chuẩn. Đây đang là trở ngại lớn nhất cho thực hiện
Chương trình.
Thứ hai, công tác tuyên truyền cho nhân dân, nhất là cư dân nông thôn còn chưa
“đủ tầm”. Do đó chưa phát huy được đầy đủ vai trò chủ thể của người dân. Nhiều
nơi vẫn hiểu nội dung của Chương trình xây dựng nông thôn mới là “Dự án đầu

tư”, từ đó thụ động trông đợi sự hỗ trợ của Chính phủ.
Thứ ba, công tác quy hoạch, xây dựng Đề án (Kế hoạch) nông thôn mới của xã
theo 19 tiêu chí được coi là điều kiện tiên quyết của Chương trình. Tuy nhiên đến
nay, công tác này triển khai còn lúng túng và chậm.
Thứ tư, phát triển sản xuất, tăng thu nhập được coi là gốc của xây dựng nông
thôn mới nhưng đang là vấn đề khó nhất trong thực hiện tiêu chí này của Chương
trình. Đa số cán bộ chỉ đạo (cả cấp tỉnh, huyện) cũng đều lúng túng, không biết làm
gì để chuyển biến được sản xuất “cái gì cũng có nhưng đều rất nhỏ bé”, cần phải
chuyển đổi mạnh để dần bước sang sản xuất nông nghiệp hàng hóa.
Thứ năm, nguồn lực cần thiết cho xây dựng nông thôn mới là rất lớn. Chính phủ
đã đưa ra công thức hướng dẫn là vốn đóng góp từ dân khoảng 10%, từ doanh
nghiệp 20%, từ tín dụng 30% và từ Ngân sách là 40%. Trong đó, giai đoạn đầu vốn
ngân sách đóng vai trò rất quan trọng, có ý nghĩa tạo đà và tạo niềm tin để huy


động các khoản đóng góp khác. Tuy nhiên, vốn ngân sách trung ương hiện còn rất
thấp. Nhận thức được vai trò của đầu tư tư nhân là rất quan trọng đối với xây dựng
nông thôn mới, Chính phủ đã ban hành Nghị định 61/NĐ-CP về chính sách khuyến
khích các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Nhưng sau 5 năm triển
khai thực hiện, sự biến chuyển không đáng kể. Các doanh nghiệp đều chưa mặn
mà, chưa tin tưởng đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
Thứ sáu, trong cơ cấu đầu tư xây dựng nông thôn mới, đa phần các xã đều lo tập
trung vào xây dựng hạ tầng (có nơi chiếm đến 95% tổng nguồn lực), thường ít chú
ý đến đầu tư cho sản xuất và văn hóa.
Đó là những trở ngại lớn trong việc thực hiện triển khai Chương trình Mục tiêu
quốc gia xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay. Do vậy để đẩy nhanh tốc độ
đạt được các mục tiêu đề ra của Chương trình thì phải khẩn trương nghiên cứu tháo
gỡ, không chỉ đối với những vấn đề thực tiễn cụ thể ở mỗi địa phương mà còn cần
phải có nghiên cứu , giải quyết triệt sâu sắc hơn từ khía cạnh cơ sở lý luận.
III, một số kết quả xây dựng nông thôn của các tỉnh

a, Huyện Hải Hậu Tỉnh Nam Định
chính quyền các cấp ở tỉnh Nam Định đưa ra cách làm xây dựng nông thôn mới
theo phương châm “Nhân dân làm, Nhà nước hỗ trợ”, như sau:
Xác định chủ thể xây dựng nông thôn mới là nhân dân, lấy nhân dân làm gốc, lấy
thôn, xóm, gia đình là hạt nhân của phong trào toàn dân xây dựng nông thôn mới;
không trông chờ, ỉ lại nguồn vốn từ Trung ương phân bổ mà phát huy nội lực, sức
mạnh trong dân. Thực hiện dân biết, dân bàn, dân quyết định, dân làm xây dựng
nông thôn mới; sau khi các công trình đã xây dựng hoàn thành thì được Nhà nước
kiểm tra, nghiệm thu nếu đạt kết quả thì nhà nước hỗ trợ kinh phí xây dựng.

Một số cách làm trong việc xây dựng nông thôn mới:
- Cách huy động nguồn lực từ trong dân để xây dựng nhà văn hóa xóm: Trước tiên,
tiến hành tổ chức họp dân để phổ biến cho dân hiểu rõ mục đích, ý nghĩa của việc
xây dựng nhà văn hóa, đưa ra các tiêu chuẩn, công năng của nhà văn hóa, địa điểm


xây dựng… để dân bàn, dân quyết định xây dựng nhà văn hóa cho phù hợp. Từ đó
dự trù kinh phí thực hiện, Ban chỉ đạo xây dựng nông thôn mới của thôn, xóm sẽ
thực hiện vận động như sau: 50 % chi phí xây dựng công trình sẽ được chia đều
trên đầu người trong độ tuổi lao động của các gia đình trong thôn, xóm và vận
động đóng góp (những gia đình chính sách, hộ nghèo, gia đình khó khăn về kinh tế
thì được miễn, giảm); 50% kinh phí còn lại do ngân sách nhà nước hỗ trợ (50 triệu
đồng/nhà văn hóa) và vận động các hội đoàn thể, các doanh nghiệp, những người
con quê hương, các hộ gia đình có điều kiện kinh tế… đóng góp. Những người
đóng góp nhiều sẽ được ghi công đóng góp vào bia đá được công khai tại khuôn
viên của nhà văn hóa.
Cách huy động nguồn lực để xây dựng đường giao thông nông thôn:
+ Đối với đường giao thông liên xã: Quy định nhiệm vụ của từng cấp, như: Huyện
bố trí kinh phí làm mặt đường; Xã thực hiện việc giải phóng mặt bằng bằng hình
thức vận động người dân thực hiện hiến đất, bàn giao mặt bằng cho đơn vị thi

công. Nếu những người hiến đất gặp khó khăn về kinh tế, nơi ở thì vận động người
dân trong xã, trong thôn, xóm đóng góp để hỗ trợ. Thôn, xóm vận động đóng góp
xây dựng công trình cấp thoát nước, vỉa hè…theo phương thức vận động như trên.
+ Đối với đường giao thông ở đồng ruộng, kênh mương nội đồng: Theo quy hoạch
đã được duyệt, thực hiện công tác dồn điền đổi thửa để được cánh đồng mẫu lớn
thuận tiện cho việc áp dụng khoa học công nghệ, đưa cơ giới hóa vào canh tác. Các
đường giao thông nội đồng được người dân hiến đất để mở; ngân sách nhà nước sẽ
hỗ trợ 50% chi phí vật liệu cứng, còn lại các hộ dân hưởng lợi từ đường giao
thông, kênh mương sẽ được vận động đóng góp. Ngoài ra, các xã, thị trấn triển
khai làm đường bê tông đồng ruộng trong năm 2011 có chiều rộng đường 2 m trở
lên, chiều dày bê tông từ 10 cm đến 15 cm thì huyện được hỗ trợ thêm 5 triệu
đồng/km.
+ Đối với giao thông nông thôn liên xóm: Đường giao thông qua đất của hộ gia
đình nào thì vận động gia đình đó thực hiện hiến đất và thực hiện xây dựng hàng
rào, cổng ngõ cho khang trang; việc xây dựng hàng rào cổng ngõ khang trang cũng
là một trong những tiêu chí để gia đình thực hiện. Việc vận động làm đường giao
thông liên xóm cũng được áp dụng theo hình thức như trên.
d) Cơ chế khen thưởng xây dựng nông thôn mới:


- Hằng năm, Hội đồng Thi đua – Khen thưởng huyện và các xã, thị trấn, các cơ
quan, đơn vị phải coi kết quả triển khai tổ chức thực hiện Phong trào thi đua “Toàn
dân chung sức xây dựng nông thôn mới” là nội dung quan trọng khi đánh giá thi
đua cho các đơn vị cấp dưới; tổ chức đánh giá, bình xét công nhận các đơn vị đạt
tiêu chí nông thôn mới; bình xét đánh giá các cá nhân, tổ chức có thành tích xây
dựng nông thôn mới.
- Chính sách khen thưởng xã, thị trấn đạt tiêu chí nông thôn mới:
+ Xã, thị trấn đạt tiêu chí nông thôn mới năm 2013 thưởng 100 triệu đồng.
+ Xã, thị trấn đạt tiêu chí nông thôn mới năm 2014 thưởng 50 triệu đồng.
- Chính sách khen thưởng xóm, tổ dân phố đạt tiêu chí về xây dựng nông thôn mới:

+ Xóm đạt nông thôn mới năm 2012 thưởng 5 triệu đồng.
+ Xóm đạt nông thôn mới năm 2013 thưởng 4 triệu đồng.
+ Xóm đạt nông thôn mới năm 2014 thưởng 3 triệu đồng.
- Kinh phí khen thưởng: Được bố trí từ nguồn ngân sách huyện và các nguồn khác
theo quy định về thi đua, khen thưởng.
Kết quả đạt được từ phong trào xây dựng nông thôn mới:
Trong 96 xã xây dựng nông thôn mới của tỉnh Nam Định giai đoạn 2010 – 2015,
thì đến tháng 7/2013 có 89 xã đạt từ 10 tiêu chí nông thôn mới trở lên theo quy
định của Trung ương (trong đó: có 3 xã đạt 18 tiêu chí, 9 xã đạt 17 tiêu chí, 11 xã
đạt 16 tiêu chí, 12 xã đạt 15 tiêu chí; không còn xã đạt dưới 8 tiêu chí; bình quân
mỗi xã tăng từ 7 đến 8 tiêu chí). Ngoài ra để phù hợp với tình hình thực tế của địa
phương, tỉnh Nam Định đã thể chế thành 19 tiêu chí của tỉnh; theo báo cáo sơ bộ
thì đến tháng 7/2014, tỉnh Nam Định có 4 xã đạt được 19 tiêu chí, các xã còn lại
đạt từ 15 tiêu chí trở lên.
B, Huyện Nhà Bè ( thành phố Hồ Chí Minh)
Trong 5 năm qua, Huyện ủy Nhà Bè đã có nhiều chủ trương phát huy các cấp, các
ngành trong hệ thống chính trị và nhân dân đóng góp nguồn lực để xây dựng các
thiết chế văn hóa trong xây dựng nông thôn mới, đạt kết quả tích cực. Cụ thể:


Về công tác quy hoạch và đầu tư cơ cở văn hóa thể thao: Xác định nhà văn hóa,
trung tâm văn hóa, thể thao là cơ sở vật chất ban đầu hết sức quan trọng để dẫn dắt
thu hút người dân và doanh nghiệp tham gia đầu tư trang thiết bị, phương tiện, sân
bãi phát triển các phong trào hoạt động văn hóa, thể thao. Vì vậy, quy hoạch quỹ
đất và đầu tư các cơ sở văn hóa thể thao luôn được Huyện quan tâm. Đến
nay, Huyện đã hoàn thành quy hoạch quỹ đất để xây dựng trung tâm văn hóa - thể
thao 7/7 xã – thị trấn; 26/26 ấp theo hướng đạt chuẩn, trong đó có 12 ấp được dành
quỹ đất với diện tích trên 300 mét vuông cho mỗi ấp; hoàn thành quy hoạch xây dựng
Trung tâm thể dục thể thao Huyện với diện tích 14 ha.Đồng thời, Huyện đã tập trung
đầu tư nâng cấp và xây dựng mới 3 trung tâm văn hóa - thể thao xã, đầu tư nâng

cấp nhà bia tưởng niệm liệt sĩ thành nhà truyền thống Huyện, xây dựng mới, sửa
chữa nâng cấp 21 điểm sinh hoạt văn hóa ấp, kết hợp với văn phòng ấp. Từ cơ sở
vật chất ban đầu do ngân sách đầu tư, các xã, các ban ngành, đoàn thể tiếp tục vận
động huy động sự đóng góp của người dân để bổ sung trang bị, phương tiện để đáp
ứng nhu cầu hoạt động, sinh hoạt văn hóa ngày càng đa dạng, phong phú của nhân
dân.
Công tác đào tạo cán bộ công chức quản lý văn hóa được Huyện đẩy mạnh.
Đến nay, tòan Huyện có 53 cán bộ, công chức công tác trong lĩnh vực văn hóa, thể
thao. Trong đó cán bộ lãnh đạo, quản lý đạt trình độ chuyên ngành văn hóa, thể
thao ở bậc đại học là 6/9 đồng chí; cán bộ công chức, viên chức có 24/44 đạt trình
độ cao đẳng, trung cấp chuyên ngành. Ngoài ra, để tăng cường thực hiện tiêu chí
văn hóa trong xây dựng nông thôn mới, Huyện đã bố trí Trưởng phòng văn hóa,
thông tin vào thường trực ban chỉ đạo xây dựng nông thôn mới huyện; bố trí cán
bộ công chức văn hóa vào ban quản lý vào chương trình xây dựng nông thôn mới
xã.
Tạo môi trường thông thoáng, có cơ chế phối hợp, hỗ trợ cho các doanh
nghiệp, các nhà đầu tư. Đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa hiện nay nói
chung giá trị sinh lời, hiệu quả kinh tế không cao, đặc biệt là ở khu vực nông
thôn. Vì vậy, Huyện luôn quan tâm chỉ đạo các phòng, ban, các đơn vị tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư vào Huyện nói chung và đầu tư
vào lĩnh vực văn hóa, thể thao nói riêng, nhất là trong việc chọn mặt bằng, quy
hoạch, thực hiện thủ tục hành chính…


Với nhiều biện pháp linh hoạt, thiết thực trong những năm qua, tại Huyện đã
hình thành một số mô hình xã hội hóa xây dựng thiết chế văn hóa đạt được hiệu
quả tích cực, từng bước đáp ứng và nâng cao nhu cầu hưởng thụ, sáng tạo văn
hóa của nhân dân.
Phát triển các thiết chế văn hóa trong khu dân cư mới: Huyện luôn quan tâm chỉ
đạo chặt chẽ về quy hoạch và thực hiện quy hoạch phát triển các khu dân cư

mới. Hầu hết các dự án sử dụng quỹ đất xây dựng khu dân cư mới đều có quy
hoạch một phần diện tích để đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa như trường
học, công viên, khu sinh hoạt thể dục thể thao…và được thực hiện khá tốt. Qua
đó cũng góp phần cùng với Huyện xây dựng cơ sở hạ tầng, các thiết chế văn hóa
để phục vụ nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần trong nhân dân.

Đẩy mạnh kêu gọi xã hội hóa đầu tư các thiết chế văn hóa trong các cơ sở văn
hóa, thể thao công lập: Thông qua việc hỗ trợ mặt bằng tại các nhà văn hóa,
trung tâm văn hóa – thể thao để nhà đầu tư xây dựng cơ sở vật chất phục vụ nhu
cầu vui chơi, giải trí, sinh hoạt thể dục thể thao cho nhân dân. Bên cạnh đó,
Huyện luôn tranh thủ vận động nhiều nguồn lực của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân để bổ sung trang thiết bị phục vụ hoạt động các trung tâm văn hóa – thể
thao.

Tăng cường hỗ trợ phát triển thiết chế văn hóa trong các cơ sở kinh doanh của
tư nhân:Thông qua các cơ sở hoạt động kinh doanh của người dân, Huyện tiến
hành vận động, hỗ trợ sách, báo, tivi, dụng cụ thể thao để xây dựng các thiết chế
văn hóa phục vụ sinh hoạt, giải trí cho nhân dân, với mộ số mô hình tiêu biểu
như: mô hình tủ sách trong các khu nhà trọ, mô hình khu lưu trú văn hóa, điểm
hẹn thanh niên.....
Với sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị, sự đồng thuận của nhân dân việc xã
hội hóa các nguồn lực đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa tại Huyện đã đạt
được những kết quả tích cực. Nhiều nguồn lực của xã hội, đặc biệt là trong nhân
dân địa phương được phát huy mạnh mẽ, bổ sung trang thiết bị, nâng cao hiệu
quả hoạt động thiết chế văn hóa cơ sở. Đa số các cơ sở văn hóa công lập đã


được đầu tư các trang thiết bị hoạt động cơ bản; xây dựng được nội dung hoạt
độngthiết thực, hiệu quả, thu hút đông đảo nhân dân tham gia. Các đơn vị văn
hóa tư nhân được phát triển mạnh với 49 cơ sở thể thao do tư nhân đầu tư với

kinh phí đầu tư hơn 45 tỷ đồng (chưa tính giá trị đất đai), đặc biệt 1 hộ
dân đã đầu tư khu văn hóa - thể thao với quy mô 2.600 m 2 phục vụ không lợi
nhận. Tính đến nay, nhờ công tác xã hội hóa, hệ thống sân bãi tập luyện và thi
đấu thể dục thể thao, văn hóa văn nghệ đã phủ đều tại các xã, thị trấn của
Huyện. Cùng với quá trình đầu tư cơ sở vật chất, đã góp phần hình thành, phát
triển mạnh các câu lạc bộ, đội, nhóm hoạt động văn hóa, thể thao ở cơ sở, nâng
cao hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hóa. Đến nay, trên toàn Huyện đã
hình thành 141 câu lạc bộ, đội nhóm văn hóa, thể thao với trên 1.000 thành viên,
tăng gấp đôi so với năm 2010. Hệ thống câu lạc bộ, đội, nhóm đã tổ chức tốt các
hoạt động hội thi, hội diễn, giao lưu văn hóa, đờn ca tài tử làm nòng cốt thúc
đẩy phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, đáp ứng ngày càng cao nhu
cầu hưởng thụ, sáng tạo văn hóa trong nhân dân, góp phần hoàn thành các tiêu
chí xây dựng nông thôn mới trên địa bàn Huyện, thúc đẩy phát triển kinh tế, văn
hóa xã hội; nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân.

Xây dựng nông thôn mới là chủ trương lớn, đúng đắn, hợp lòng dân. Thực hiện
xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ to lớn, lâu dài. Thực tế qua 5 năm thực
hiện Chương trình cho thấy với sự quyết tâm cao và có cách làm đúng, Huyện
đã thực hiện có hiệu quả các tiêu chí đề ra, góp phần cải thiện nhanh hơn đời
sống của dân cư nông thôn, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội
chung của Huyện, của Thành phố và của cả nước. Phát huy kinh nghiệm và kết
quả đạt được, Huyện Nhà Bè quyết tâm đẩy mạnh thực hiện Chương trình
MTQG xây dựng nông thôn mới để đạt nhiều kết quả to lớn hơn nữa.

3, sơn dương
Họ đang hưởng lợi trực tiếp từ thành quả sau thời gian chung tay xây dựng nông
thôn mới. Đến nay, toàn huyện Đơn Dương đã có 7/8 xã đạt chuẩn nông thôn mới.
Toàn huyện chỉ còn 1,5% hộ nghèo, giá trị sản xuất nông nghiệp tăng lên rõ rệt, đạt



170 triệu đồng/ha/năm trong năm 2015 (tăng 230% so với thời điểm 2010), nâng
thu nhập bình quân đầu người lên 48 triệu đồng/năm.
Các lĩnh vực văn hóa – giáo dục, y tế, an ninh trật tự… cũng được đầu tư và có
nhiều chuyển biến mạnh mẽ. Toàn huyện có 65% trường đạt chuẩn quốc gia, 10/10
xã, thị trấn đạt chuẩn y tế, tỷ lệ hộ gia đình, cơ quan, đơn vị đạt chuẩn văn hóa trên
80%. Công tác xây dựng hệ thống chính trị đã thật sự phát huy hiệu quả, tỷ lệ cơ sở
Đảng trong sạch vững mạnh hàng năm đạt trên 70%, chính quyền, mặt trận vững
mạnh trên 80% và không có đơn vị yếu kém.
Nhân dân đồng thuận

IV, Một số giải pháp
Có thể nói xây dựng nông thôn mới là một chủ trương đúng đắn, hợp lòng dân và
có tác động rõ rệt đến khu vực nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Để quá trình
xây dựng nông thôn mới thành công, trong giai đoạn 2016-2020, cần tập trung thực
hiện tốt một số nhiệm vụ sau:
Cần phải khắc phục ngay sự không thực tế, thiếu tính lý luận và xu thế phong trào
hóa trong quá trình triển khai xây dựng nông thôn mới.
Bên cạnh đó, cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách xây
dựng nông thôn mới cho sát hợp với thực tế.
Cần có cơ chế lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia; chương trình hỗ trợ
có mục tiêu các dự án trên địa bàn nông thôn theo hướng tăng cường phân cấp tối
đa cho hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố. Về lâu dài đề nghị
Quốc hội xem xét giảm bớt số lượng các chương trình mục tiêu quốc gia theo
hướng tập trung, trọng điểm.
Cần có những cơ chế tạo điều kiện có sự tham gia trực tiếp của người dân với vai
trò chủ thể và các tầng lớp, các tổ chức xã hội, gắn phát triển kinh tế với bảo tồn
các giá trị văn hóa truyền thống. Có như vậy mới bảo đảm nông thôn phát triển bền


vững. Việc đó sẽ bảo đảm một không gian kinh tế, văn hóa, xã hội ổn định, sinh

thái bền vững cho sự phát triển chung của đất nước, tạo điều kiện cho công nghiệp
hóa, đô thị hóa diễn ra có hiệu quả, ít tốn kém.
Cần chú ý tới tính chất đa dạng cả về điều kiện sống, tập quán, tài nguyên... trong
xây dựng các mô hình nông thôn mới, không nên khuôn mẫu áp đặt chung cho mọi
nơi.
Từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân, cải thiện môi
trường sống, nâng cao sức khỏe con người, phát triển sự nghiệp công ích, bảo đảm
trật tự trị an, phát huy dân chủ ở cơ sở, bảo đảm an sinh xã hội và tăng cường hiệu
lực quản lý nhà nước ở nông thôn đúng như mục tiêu của Đảng là xây dựng một xã
hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Tăng cường nguồn lực cho chương trình xây dựng nông thôn mới tương xứng
với mục tiêu đề ra. Trong điều kiện ngân sách nhà nước còn khó khăn, sức dân lại
có hạn, trước yêu cầu của công cuộc xây dựng nông thôn mới đã được phát động
sâu rộng cần có những cơ chế ưu đãi, đủ sức hấp dẫn để mời gọi được nhiều doanh
nghiệp về đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, nhân tố quan
trọng trong tổ chức lại sản xuất, liên kết sản xuất, góp phần phát triển bền vững
nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới.



×