Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

tiểu luận cao học môn quan hệ quốc tế TRANH CHẤP QUẦN đảo HOÀNG SA, TRƯỜNG SA GIỮA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.73 KB, 19 trang )

ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN:
TRANH CHẤP QUẦN ĐẢO HOÀNG SA, TRƯỜNG SA GIỮA
TRUNG QUỐC VÀ CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á

TIỂU LUẬN MÔN QUAN HỆ QUỐC TẾ

Hà Nội, Ngày 23 - 5 - 2015


MỞ ĐẦU
Hiện nay, Biển Đông là một trong những khu vực hội tụ nhiều mâu thuẫn
căng thẳng về kinh tế, chính trị, thu hút sự quan tâm không chỉ ở khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương mà của hầu hết các nước lớn trên thế giới. Đây là
một khu vực có vị trí rất quan trọng cả về tài nguyên biển và đường hàng hải
quốc tế. Tuy nhiên, đây cũng là một trong những nơi có nguy cơ xảy ra xung
đột, có thể coi là một “điểm nóng” tiềm tàng về an ninh và ổn định của khu
vực châu Á – Thái Bình Dương. Các cuộc tranh chấp lãnh thổ ở biển Đông đã
bắt đầu diễn ra từ sau Chiến tranh thế giới II giữa nhiều quốc gia trong khu
vực như Trung Quốc, Việt Nam, Philippines… ,điển hình là trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Từ đó đến nay, vấn đề này vẫn không ngừng làm leo
thang mâu thuẫn trong quan hệ giữa các quốc gia, có nguy cơ gây chiến tranh
và trở thành vấn đề chính trị của toàn thế giới. Đề cập đến vấn đề này, các nhà
báo, nhà nghiên cứu chính trị khắp nơi trên thế giới đã tốn không biết bao
nhiêu công sức, giấy mực nhưng vẫn chưa tìm ra được giải pháp nào có thể
giải quyết triệt để, xóa bỏ được mâu thuẫn đang ngày càng lớn này. Trong
hoàn cảnh đó, Việt Nam- một quốc gia trong cuộc đã tuyên bố lãnh thổ trên
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cần phải có một cái nhìn rõ ràng và
những nước đi đúng đắn cho chính mình. Vì vậy, mỗi công dân Việt Nam
chúng ta cần phải nắm bắt được tình hình hiện tại, hiểu chính xác bản chất
vấn đề, tránh các luận điệu xuyên tạc, từ đó gấp rút tìm ra phương pháp xóa
bỏ những căng thẳng giữa các quốc gia trong khu vực, bảo toàn được lãnh


thổ, tạo điều kiện thuận lợi cho đất nước hội nhập và phát triển.

2


CHƯƠNG 1: TRUNG QUỐC VÀ BIỂN ĐÔNG
1.1, Trung Quốc:
a, Địa lý:
Trung Quốc có diện tích 9.571.300 km², có diện tích gấp 29 lần Việt Nam. Từ
Bắc sang Nam có chiều dài là 4000 km, từ Tây sang Đông là 5000 km, có
đường biên giới với 14 quốc gia và lãnh thổ bao gồm: Triều Tiên, Nga, Mông
Cổ, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, Afghanistan, Pakistan, Ấn Độ,
Nepal,
Bhutan,
Myanma, Lào và Việt
Nam. Cao và hiểm trở,
60% diện tích là núi
cao trên 1000 m. Địa
hình cao về phía Tây
và thấp dần về phía
Đông.
Địa lý Trung Quốc kéo
dài khoảng 5.026 km
ngang qua theo khối
lục địa Đông Á giáp
với biển Đông Trung
Hoa, vịnh Triều Tiên,
Hoàng Hải, và biển
Bản đồ Trung Quốc
Đông, giữa Bắc Triều

Tiên và Việt Nam trong
một hình dạng thay đổi của các đồng bằng rộng lớn, các sa mạc mênh mông
và các dãy núi cao chót vót, bao gồm các khu vực rộng lớn đất không thể ở
được. Nửa phía Đông của quốc gia này là các vùng duyên hải rìa các đảo là
một vùng bình nguyên phì nhiêu, đồi và núi, các sa mạc và các thảo nguyên
và các khu vực cận nhiệt đới. Nửa phía Tây của Trung Quốc là một vùng các
lưu vực chìm trong các cao nguyên, các khối núi, bao gồm phần cao nguyên
cao nhất trên trái đất.
b, Chính trị:
Từ thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, ảnh hưởng kinh tế, chính trị, quân sự của
Trung Quốc giảm sút nhiều do tác động của sức mạnh phương Tây cũng như
3


sức mạnh khu vực của Nhật Bản. Cuối thế kỷ 19 nhiều khu vực tại Trung
Quốc đã bị cắt hoặc nhường cho nước ngoài làm tô giới, nhượng địa, thuộc
địa và phần lớn nước này bị Nhật xâm chiếm vào Thế chiến thứ hai và người
Nhật đã tách lãnh thổ Mãn châu ra khỏi Trung quốc, dựng nên chính phủ Mãn
Châu Quốc. Năm 1912, chế độ quân chủ tại Trung Quốc chấm dứt và Trung
Hoa Dân Quốc (THDQ) ra đời dưới sự lãnh đạo của Tôn Dật Tiên; tuy nhiên
Trung Quốc trong suốt bốn thập kỷ của THDQ đã hỗn loạn vì kiểu lãnh đạo
quân phiệt, Chiến tranh Trung-Nhật lần II và nội chiến giữa Quốc Dân Đảng
và Cộng Sản Đảng.
Đảng Cộng sản Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông sau khi
giành chiến thắng đã thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
(CHNDTH) vào năm 1949, buộc chính phủ Trung Hoa Dân Quốc rút ra đảo
Đài Loan, nơi mà họ tiếp tục được khối phương Tây và Liên Hiệp Quốc công
nhận là chính quyền hợp pháp của toàn Trung Quốc mãi tới thập niên 1970,
sau đó hầu hết các nước và Liên Hiệp Quốc chuyển sang công nhận
CHNDTH. CHNDTH và THDQ (từ năm 1949 đến nay) không công nhận

ngoại giao lẫn nhau, vì hai bên đều tự cho là chính quyền kế tục hợp pháp của
THDQ (thời Tôn Trung Sơn) bao gồm cả Đại lục và Đài Loan, CHNDTH liên
tục phản đối những người theo phong trào đòi độc lập cho Đài Loan. Những
tranh cãi chủ yếu xoay quanh bản chất và giới hạn của khái niệm "Trung
Quốc", khả năng tái thống nhất Trung Quốc và vị thế chính trị Đài Loan.
1.2, Biển Đông và tình hình tranh chấp chủ quyền:
a, Biển Đông:
Biển Đông là một biển nửa kín
và là một trong những khu vực
chiến lược quan trọng bậc nhất
trên thế giới. Vùng biển này trải
rộng từ khoảng vĩ tuyến 30 Nam
tới vĩ tuyến 230 Bắc và được bờ
biển của các nước Trung Quốc
(bao gồm cả đảo Đài Loan), Việt
Nam, Campuchia, Thái lan,
Malaysia, Singapore, Indonesia,
Brunei, Philippines bao bọc xung
quanh. Với diện tích bề mặt
4


khoảng 1.148.500 hải lý vuông (tương đương 3.939.245 km2), biển Đông là
một trong những biển lớn nhất thế giới. Khu vực biển Đông bao gồm những
tuyến đường hàng hải nhộn nhịp bậc nhất của thế giới, nối khu vực Đông Bắc
Á và Tây Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương và Trung Đông.Trên bản đồ
giao thông vận tải thế giới, hầu hết các tuyến hàng không và hàng hải Quốc tế
đều đi qua Biển Đông. Trung bình một năm có khoảng hơn 41.000 lượt tàu
biển qua lại khu vực này. Các tàu chở dầu đi qua eo biển Malacca (nằm ở cuối
phía Tây Nam của biển Đông) nhiều gấp ba lần so với lượng tàu chở dầu đi

qua kênh đào Suê, và nhiều gấp năm lần so với lượng tàu qua kênh đào
Panama, hơn 80% lượng dầu khí nhập khẩu của Nhật từ Trung Đông, Brunei,
Malaysia, Indonesia phải đi ngang vùng biển này. Vùng biển này còn là khu
vực cung cấp nguồn hải sản quan trọng cho các đội tàu đánh cá của Nhật Bản,
Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Campuchia, Indonesia, Malaysia, Brunei,
Singapore và Thái Lan. Ngoài việc đây là con đường hàng hải quan trọng thì
Biển Đông cũng là một khu vực giàu tài nguyên gồm cả nguồn hải sản và
tiềm năng dầu khí. Các chuyên gia Trung Quốc ước tính là khu vực này chứa
khoảng 225 tỷ barrels dầu mỏ và khí đốt thiên nhiên. Với công nghệ khai thác
dầu khí như hiện nay, với những tiềm năng rất lớn về dầu khí trên các thềm
lục địa và các khu vực biển khác thì biển Đông sẽ thực sự là một khu vực
chiến lược quan trọng đối với bất cứ quốc gia nào trong khu vực và đặc biệt
quan trọng đối với Trung Quốc, một quốc gia đầy tham vọng muốn gây ảnh
hưởng đến toàn thế giới.
b, Tranh chấp chủ quyền trên biển Đông:
Có rất nhiều tranh cãi về lãnh hải trên vùng Biển Đông và các nguồn tài
nguyên của nó. Bởi Luật biển năm 1982 của Liên Hiệp Quốc cho phép các
nước có vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) mở rộng 200 hải lí (370,6 km) từ lãnh
hải của họ, tất cả các nước quanh vùng biển có thể đưa ra tuyên bố chủ quyền
với những phần rộng lớn của nó. Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đã tuyên bố
chủ quyền hầu như toàn bộ vùng biển. Những báo cáo gần đây cho thấy
CHND Trung Hoa đang phát triển một nhóm tàu sân bay để bảo vệ những
đường vận chuyển nhiên liệu ở Biển Đông. Những vùng có nguy cơ tranh
chấp gồm:
-Indonesia và CHNDTH về vùng biển phía đông bắc quần đảo Natuna.
-Philippines và CHNDTH về những khu khai thác khí gas Malampaya và
Camago.
-Philippines và CHNDTH về bãi cát ngầm Scarborough.
5



-Việt Nam và CHNDTH về vùng biển phía tây Quần đảo Trường Sa.
-Một số hay toàn bộ quần đảo Trường Sa đang bị tranh chấp bởi Việt Nam,
CHND Trung Hoa, THDQ (Đài Loan), Philippines, và một số nước khác.
-Quần đảo Hoàng Sa đang bị tranh chấp bởi Việt Nam và CHNDTH; CHND
Trung Hoa quản lý một phần quần đảo từ năm 1956 và toàn bộ quần đảo từ
năm 1974 đến nay.
-Malaysia, Campuchia, Thái Lan và Việt Nam về những vùng ở Vịnh Thái
Lan.
-Singapore và Malaysia dọc theo Eo biển Johore và Eo biển Singapore.
Cả Trung Hoa và Việt Nam đều theo đuổi các tuyên bố chủ quyền một cách
mạnh mẽ. Quần đảo Hoàng Sa đã bị Trung Quốc chiếm được 6 đảo năm 1974
và 18 binh sĩ đã thiệt mạng. Quần đảo Trường Sa là nơi đã xảy ra xung đột
hải quân khiến hơn bảy mươi lính thủy Việt Nam đã bị giết hại ở phía nam đá
Gạc Ma vào tháng 3 năm 1988. Các nước tranh chấp thường xuyên thông báo
về các vụ va chạm giữa các tàu hải quân.
ASEAN nói chung, và Trung Quốc nói riêng luôn muốn đảm bảo rằng những
tranh chấp bên trong Biển Đông sẽ không leo thang trở thành xung đột quân
sự. Vì vậy, các cơ cấu phát triển chung (Joint Development Authorities) đã
được lập ra tại các vùng tranh chấp chồng lấn để cùng phát triển vùng và phân
chia quyền lợi công bằng tuy nhiên không giải quyết vấn đề chủ quyền của
vùng đó. Điều này đã trở thành sự thực, đặc biệt là ở Vịnh Thái Lan. Tuy
nhiên, gần đây Trung Quốc đã tuyên bố sẽ không ngại dùng vũ lực để chiếm
đoạt quần đảo Trường Sa.

6


CHƯƠNG 2: TRANH CHẤP QUẦN ĐẢO HOÀNG SA, TRƯỜNG SA
GIỮA TRUNG QUỐC VỚI CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á

2.1, Các tranh chấp:
Trung Quốc từ lâu đã có ý định phát triển thành một cường quốc biển,
từ đó có thể thống trị thế giới. Và trong ý đồ đó, biển Đông có một vị trí chiến
lược hết sức quan trọng. Hiện nay, ngoài quần đảo Hoàng Sa đang là đối
tượng tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc (bao gồm cả Đài Loan), thì
quần đảo Trường Sa cùng là đối tượng tranh chấp của Brunei, Trung quốc
(bao gồm cả Đài Loan), Malaysia, Philippines và Việt Nam. Các tranh chấp
này bị chi phối rất nhiều bởi các yếu tố kinh tế, luật pháp, ngoại giao chiến
lược và các lợi ích địa - chính trị khác nhau cùng đan xen. Quan điểm của
Trung Quốc cho rằng Biển Đông là biển đặc quyền của Trung Quốc và họ yêu
sách chủ quyền đối với gần 80% Biển Đông thông qua ‘đường lưỡi bò’ (*) Xem phụ
lục
.
a, Tranh chấp Hoàng Sa:
Hoàng Sa nằm giữa một khu
vực có tiềm năng cao về hải sản
và trữ lượng dầu mỏ nhưng
không có dân bản địa sinh sống.
Vào năm 1932, chính quyền
Pháp ở Đông Dương chiếm giữ
quần đảo này và Việt Nam tiếp
tục nắm giữ chủ quyền cho đến
năm 1974 (trừ hai đảo Phú Lâm
và Linh Côn do Trung Quốc
chiếm giữ từ năm 1956). Trung
Quốc chiếm giữ toàn bộ Hoàng
Sa từ năm 1974 sau khi dùng
hải quân, lính thủy đánh bộ và
không quân tấn công căn cứ
quân sự của Việt Nam Cộng

Hoà ở nhóm đảo phía tây trong
Hải chiến Hoàng Sa 1974. Đài
Loan và Việt Nam cũng đang
tuyên bố chủ quyền đối với
quần đảo này.
Tranh chấp trên biển Đông

7


Tháng 1 năm 1982, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã công bố sách trắng
Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa: lãnh thổ Việt Nam, trong đó nêu
nhiều lý lẽ chứng minh Hoàng Sa là của Việt Nam. Ngoài ra cũng có rất nhiều
bằng chứng nghiên cứu độc lập khác cho thấy Hoàng Sa là của Việt Nam.
Gần đây nhất đã phát hiện chứng cứ rất rõ ràng khẳng định chủ quyền quần
đảo Hoàng Sa là của Việt Nam, chứng cứ đó chính là sắc chỉ của triều đình
nhà Nguyễn liên quan đến việc canh giữ quần đảo Hoàng Sa được gia tộc họ
Đặng ở huyện đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi, gìn giữ suốt 174 năm qua, nay trao
lại cho Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh. Đây là sắc chỉ của vua Minh
Mạng (triều Nguyễn), phái một đội thuyền gồm 3 chiếc với 24 lính thủy ra
canh giữ đảo Hoàng Sa vào ngày 15 tháng 4 năm Minh Mạng thứ 15 (tức năm
Ất Mùi, 1835).
Vào tháng 7/2012 ,báo chí Việt Nam đưa ra bằng chứng về chủ quyền của
Việt Nam đối với các quần đảo
ở Biển Đông đó là tấm bản đồ
của Nhà Thanh xuất bản năm
1904 trong đó điểm cực nam của Trung Hoa chỉ dừng lại ở đảo Hải Nam mà
không hề có Tây sa hay Nam sa mà Trung Quốc đang cố gắng chiếm giữ.
Tuy nhiên bên phía Trung Quốc cũng khẳng định chủ quyền bằng cách đưa ra
các thông tin về một quần đảo ngoài khơi biển Nam Hải theo nhiều tài liệu

xuất hiện từ rất sớm như Nguyên sử hay Trịnh Hòa hàng hải đồ, nhưng vẫn
không có bằng chứng về việc xác nhận chủ quyền của họ trên quần đảo này
vào thời điểm này. Trong bản đồ thời Trịnh Hòa phía Trung Quốc đưa ra
nhằm chứng minh cho chủ quyền của Trung Quốc, họ cho rằng địa danh Vạn
Lý Thạch Đường là quần đảo Hoàng Sa ngày nay, điều này đã được nhiều tài
liệu của Việt Nam phản bác lại, trong bản đồ này không hề tồn tại cái tên Tây
Sa Quần Đảo.
b, Tranh chấp Trường Sa:
Tranh chấp trong vùng quần đảo Trường Sa và các vùng gần đó
không chỉ là tranh chấp chủ quyền đối với các đảo/đá mà còn là tranh chấp
tài nguyên thiên nhiên như dầu khí và hải sản. Đã có nhiều cuộc xung đột
xảy ra giữa các nước về những tàu đánh cá nước ngoài trong vùng đặc
quyền kinh tế của nước khác và báo chí cũng thường đưa tin về những vụ
bắt giữ ngư dân. Nhiều nước tuyên bố chủ quyền cũng chưa cấp phép khai
thác tài nguyên tại vùng biển thuộc quần đảo vì lo ngại hậu quả là một cuộc
xung đột ngay lập tức.
8


Từ năm 1956, Đài Loan đã chiếm giữ đảo Ba Bình đảo lớn nhất trong quần
đảo Trường Sa. Trung Quốc tỏ thái độ hỗ trợ Đài Loan trong cuộc tranh chấp
này. Các thành viên sáng lập ASEAN có liên quan đến tranh chấp này chủ
yếu đưa ra yêu sách dựa trên thuyết kéo dài thềm lục địa hơn là các yêu sách
về chủ quyền dựa trên các bằng chứng lịch sử. Với sự lớn mạnh và bộc lộ
những tham vọng chi phối khu vực này của Hải quân Trung Quốc, đã đặt khối
ASEAN trước những thử thách to lớn. Tuy nhiên, ngoại trừ Philippines và
Việt Nam, các nước ASEAN khác đều chưa cảm thấy sự đe dọa trực tiếp từ
các hành động của Trung Quốc đến an ninh của nước mình. Dường như các
quốc gia đang để mặc cho diễn biến cuộc tranh chấp theo hướng giữ nguyên
hiện trạng vì ai cũng có những toan tính cho riêng mình Trong khi các quốc

gia tranh chấp tăng cường việc sử dụng lực lượng quân sự để kiểm soát các
đảo đá, điều đó đã dẫn tới các va chạm thường xuyên diễn ra.
Tháng 3 năm 1988, Việt Nam và Trung Quốc đụng độ vũ trang trên biển về
quyền kiểm soát đá Gạc Ma, đá Cô Lin và đá Len Đao thuộc quần đảo
Trường Sa. Trong sự kiện này, ba tàu frigate của Hải quân Quân giải phóng
Nhân dân Trung Quốc là 502 Nam Sung, 556 Tương Đàm và 531 Ưng Đàm
đã đánh đắm ba tàu vận tải của Hải quân Nhân dân Việt Nam là HQ-505, HQ604 và HQ-605, đồng thời gây ra cái chết cho sáu mươi tư binh sĩ Việt Nam.
Tháng 5 năm 1992, Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC)
và Crestone Energy (một công ty Mỹ có trụ sở ở Denver, tiểu bang Colorado)
đã ký một hợp đồng hợp tác để cùng thăm dò một khu vực rộng 7.347 hải lí
vuông (gần 25.200 km²) mà họ gọi là Vạn An Bắc-21 (nằm giữa bãi Tư Chính
và bãi Phúc Tần; cách bờ biển Việt Nam 160 hải lí), nơi Trung Quốc xem là
một phần của quần đảo Nam Sa trong khi Việt Nam xem là một phần của
vùng đặc quyền kinh tế - thềm lục địa và không liên quan đến quần đảo
Trường Sa. Tháng 9 năm 1992, Việt Nam cáo buộc Trung Quốc đã bắt giữ
hai mươi tàu chở hàng từ Việt Nam đến Hồng Kông từ tháng 6 năm 1992
nhưng không thả hết số tàu này.Tháng 4 và tháng 5 năm 1994, Việt Nam
phản đối công ty Crestone thăm dò địa chấn ở bãi Tư Chính, tái khẳng định
bãi này hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế - thềm lục địa của Việt
Nam và không có tranh chấp gì ở đây.
Tháng 2 năm 1995, xung đột diễn ra giữa Trung Quốc và Philippines khi
Philippines tìm thấy một số kết cấu trên đá Vành Khăn, khiến chính phủ nước
này phải đưa ra một kháng cáo chính thức đối với hành động chiếm đóng của
Trung Quốc. Ngày 25 tháng 3 năm 1995, Hải quân Philippines bắt giữ bốn
9


tàu Trung Quốc gần đá Suối Ngọc. Cũng trong ngày 25 tháng 3, Việt Nam nói
rằng lính Đài Loan trên đảo Ba Bình bắn vào tàu chở hàng của Việt Nam
đang trên đường từ đá Lớn đến đảo Sơn Ca. Thời gian sau đó, nhiều cuộc gặp

gỡ đã diễn ra giữa các bên tham gia tranh chấp và cả Indonesia nhưng thu
được rất ít kết quả. Đến năm 1998, Trung Quốc tuyên bố rằng "các chòi ngư
dân" ở đá Vành Khăn bị hư hại do bão và điều bảy tàu đến vùng này để sửa
chữa. Lần này Philippines tiếp tục có các hành động đáp trả như cho hải quân
bắn chìm một số tàu cá của Trung Quốc mà nước này cho rằng đã xâm phạm
vùng đặc quyền kinh tế của họ.
Tháng 6 năm 1999, Philippines phản đối Malaysia chiếm bãi Thám Hiểm và
đá Én Ca, hai thực thể mà Philippines gọi là Pawikan và Gabriela Silang. Đến
tháng 10, nước này còn cho máy bay do thám bãi Thám Hiểm khiến Malaysia
cũng chỉ thị máy bay bay theo. Tuy nhiên, không có đụng độ quân sự diễn ra.
Ngày 28 cùng tháng, Philippines cáo buộc quân đội Việt Nam trên đá Tiên
Nữ đã bắn vào máy bay của Philippines khi máy bay này bay thấp để nhìn rõ
toà nhà ba tầng của Việt Nam vào ngày 13 tháng 10.
Ngày 10 tháng 4 năm 2007, trước câu hỏi của phóng viên về phản ứng của
Trung Quốc trước việc chính phủ Việt Nam phân lô dầu khí, gọi thầu, hợp tác
với hãng BP của Anh để xây dựng đường ống dẫn khí thiên nhiên (ở khu vực
mà Trung Quốc quan niệm thuộc Nam Sa và Việt Nam quan niệm thuộc vùng
đặc quyền kinh tế - thềm lục địa) đồng thời tổ chức bầu cử Quốc hội Việt
Nam (khóa XII) tại quần đảo Trường Sa, người phát ngôn Bộ Ngoại giao
Trung Quốc Tần Cương trả lời rằng "Việt Nam đưa ra hàng loạt hành động
mới xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung
Quốc ở Nam Sa, đi ngược lại với đồng thuận mà lãnh đạo hai bên Trung-Việt
đã đạt được về vấn đề trên biển", và "Trung Quốc đã biểu thị mối quan ngại
sâu sắc và giao thiệp nghiêm khắc với Việt Nam" ngay trong thời gian Chủ
tịch Quốc hội Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đang thăm chính thức nước này.
Ngày 9 tháng 7 năm 2007, tàu hải quân Trung Quốc đã nã súng vào một số
thuyền đánh cá của ngư dân Việt Nam trong vùng biển gần Trường Sa, làm
chìm một thuyền đánh cá của Việt Nam, khiến ít nhất một ngư dân thiệt mạng
và một số người khác bị thương.
Ngày 31 tháng 5 năm 2011, chỉ vài ngày sau sự kiện tàu Bình Minh 02 khi

tàu hải giám của Trung Quốc cắt cáp tàu địa chấn của Việt Nam, ba tàu Trung
Quốc đã bắn đuổi các tàu cá Việt Nam tại một địa điểm nằm cách đá Đông 15
hải lí (27,8 km) về phía đông nam.
10


Ngày 20 tháng 4 năm 2012, Cục Cảnh sát biển Đài Loan cho biết cho biết
ngày 22 tháng 3 năm 2012, tàu tuần tra của Việt Nam đã xâm nhập vào vùng
biển hạn chế quanh đảo Ba Bình, và đã rời đi sau khi tàu cao tốc M8 của Cục
Cảnh sát biển Đài Loan tới chặn. Đến ngày 26 cùng tháng, tiếp tục có hai tàu
tuần tra của Việt Nam xâm nhập vào vùng biển gần đảo Ba Bình, các tàu này
đã rời đi sau khi phát hiện mình bị Cảnh sát biển Đài Loan theo dõi bằng
radar. Cục Cảnh sát biển Đài Loan cho biết đã không bên nào nổ súng trong
cả hai sự cố. Trước đó, một số phương tiện truyền thông đưa tin phía Việt
Nam đã dùng súng máy bắn khiêu khích trước và bị phía Đài Loan bắn trả.
Ngày 21 tháng 5 năm 2012, ủy viên lập pháp thuộc Quốc Dân Đảng Lâm Úc
Phương cho biết tàu Việt Nam thường xâm nhập vào vùng biển hạn chế 6.000
m ở quanh đảo Ba Bình, năm 2011 có 106 chiếc tàu xâm nhập, từ tháng 1 đến
tháng 4 năm 2012 có 41 tàu xâm nhập. Cục trưởng Cục an ninh quốc gia Đài
Loan Lâm Úc Phương phát biểu rằng Việt Nam đã mong muốn kiểm soát bãi
Bàn Than (hiện do Đài Loan kiểm soát) từ lâu và cho rằng việc bãi này rơi
vào tay Việt Nam sẽ chỉ còn là vấn đề thời gian nếu như chính phủ Đài Loan
không có hành động tích cực như xây dựng cơ sở cố định trên bãi.
2.2, Phản ứng quốc tế:
a, Bộ luật ứng xử trên biển Đông:
Sự kiện bãi Vành Khăn vào tháng 2 năm 1995 đã khiến ASEAN lo ngại và
đòi hỏi ASEAN phải hành động ngay. Philippines và Việt Nam với sự yếu
kém về tiềm năng quân sự không thể dựa vào ASEAN như là một khối quân
sự hoặc một liên minh quân sự, nhưng họ đã tranh thủ ASEAN thông qua
biện pháp ngoại giao, thể hiện qua các cuộc thương lượng đa phương, từ đó

có thể đưa ra một Bộ luật về ứng xử trên biển Đông, giúp duy trì vị trí của họ
trên biển Đông trước một đối thủ mạnh hơn. Tháng 7 năm 1992, các Ngoại
trưởng của các nước ASEAN đã cùng nhau ký Tuyên bố biển Đông tại
Manila – thủ đô Philippines. Tuyên bố này không nhằm vào vấn đề giải quyết
chủ quyền mà tập trung vào chính sách ngoại giao phòng ngừa, các biện pháp
giải quyết các tranh chấp bằng phương pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực.
Cho dù vẫn còn tồn tại những yêu sách chồng lấn khác biệt nhau, nhưng các
quốc gia thành viên vẫn cùng nhau chia sẻ quan điểm là duy trì sự ổn định
trong khu vực và tránh đối đầu với Trung Quốc. Tuy nhiên, thành công của
Tuyên bố Manila bị giảm bớt rất nhiều bởi thiếu sự ủng hộ từ các quốc gia
trực tiếp liên quan. Trong khi Việt Nam sẵn sàng ủng hộ thì Trung Quốc kiên
quyết không thừa nhận Tuyên bố Manila và không chấp nhận các nguyên tắc
11


trong Tuyên bố này. Trung Quốc lại từ chối tranh luận về vấn đề chủ quyền
trong một diễn đàn đa phương. Trung Quốc muốn hướng tới việc sẽ đóng vai
trò chi phối trong những cuộc đối thoại với các quốc gia tham gia tranh chấp
thông qua những cuộc đàm phán song phương. Trong cuộc gặp gỡ thượng
đỉnh ASEAN vào tháng 11 năm 1999, Philippines, với sự ủng hộ của Việt
Nam, đã trình bày ra một bản dự thảo cho bộ luật ứng xử trên biển Đông. Đây
chính các quy định dựa trên ý tưởng về các thỏa thuận nhằm kiểm soát hòa
bình các tranh chấp thông qua việc ngăn ngừa các tình huống xấu. Cụ thể, nó
nhằm vào việc ngăn ngừa các hành động chiếm đóng của các bên tranh chấp
và duy trì sự hiện diện quân sự trên các đảo nhỏ không có người ở. Các Ngoại
trưởng các nước ASEAN và Thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Wang Yi
cuối cùng đã cùng nhau ký kết Tuyên bố chung về các quy tắc ứng xử trên
biển Đông bên lề cuộc gặp thượng đỉnh ASEAN diễn ra vào tháng 11 năm
2002 tại Phnom Penh, Campuchia. Tuyên bố này được ASEAN và Trung
Quốc đưa ra với ý định ngăn ngừa sự căng thẳng của các tranh chấp biển và

nhằm giảm thiểu khả năng xảy ra các xung đột quân sự trên vùng biển tranh
chấp này. Các thành viên cam kết tuân thủ các nguyên tắc của Hiến chương
Liên Hợp Quốc, Công ước luật biển, Hiệp ước thân thiện và hợp tác ASEAN
năm 1976, và năm nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình. Tuy nhiên, Tuyên bố này
không được coi là một bước tiến quan trọng cho việc kiểm soát các xung đột
và cung cấp các giải pháp. Nó không giúp ngăn chặn các va chạm hay các
nguồn hiện hữu của xung đột, như việc bắt giữ các ngư dân bởi các lực lượng
hải quân của các nước khác vẫn luôn diễn ra, hay như việc tiếp tục bành
trướng các thế lực quân sự trên các đảo nhỏ. Chưa kể tới việc lập trường các
bên trong ASEAN cũng không đồng nhất. Sự đoàn kết giữa các quốc gia
trong khối ASEAN vẫn còn thiếu vắng, cụ thể là Malaysia luôn đưa ra một
lập trường riêng biệt, không tương đồng với lập trường của Việt Nam và
Philippines. Các quốc gia tham gia trong tranh chấp biển Đông là thành viên
của khối ASEAN chưa sẵn sàng gác lại những vấn đề về chủ quyền lãnh thổ
trong tranh chấp để cùng nhau đi đến một giải pháp mà tất cả các bên cùng
tham gia hợp tác. Cuối cùng, sự hợp tác trên biển Đông bị cản trở bởi sự
không tin tưởng lẫn nhau ngay cả giữa các bên tranh chấp là thành viên
ASEAN. Các bất đồng giữa các thành viên ASEAN vẫn luôn tồn tại, vì thế
vẫn khó mà đi đến việc xây dựng một bộ luật về hành xử trên biển Đông
được. Do vậy, về lâu dài những mầm mống gây ra tình trạng căng thẳng chưa
hề được xoá bỏ. Do vị trí chiến lược và nguồn tài nguyên phong phú, lợi ích
của các quốc gia đối với Biển Đông vẫn còn là vấn đề nhạy cảm trong quan

12


hệ Quốc tế ở khu vực và luôn là điều đáng lo ngại. Cho nên, vấn đề hoà bình,
an ninh ở khu vực vẫn là một thách thức lớn và lâu dài với Đông Nam Á cũng
như từng quốc gia thành viên.
b, Can thiệp của Mỹ:

Đô đốc Robert Willard, Tư lệnh Bộ Chỉ huy Thái Bình Dương của Hoa Kỳ
phát biểu: "Mỹ không đứng về bên nào trong một cuộc tranh chấp", "Đây là
một cam kết chắc chắn để cho thấy rằng các bên liên quan tới tranh chấp cần
phải cùng nhau giải quyết vấn đề một cách hòa bình và thông qua đối thoại,
chứ không phải bằng những va chạm trên biển hoặc trên không".
Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ Jim Webb, chủ tịch tiểu ban Đông Á tại Thượng viện
và từng là Bộ trưởng Hải quân, cùng với James Inhofe, vào ngày 13 tháng 6
năm 2011 đã đưa ra một nghị quyết lên án Trung Quốc sử dụng vũ lực trong
việc tranh chấp chủ quyền. Nghị quyết đặc biệt nhắc đến vụ Bình Minh 02 và
Viking II cũng như một cuộc đụng độ khác giữa Trung Quốc và Philippines.
Ngày 17 tháng 6, Mỹ và Việt Nam đã ra thông cáo chung sau vòng Đối thoại
về chính trị, an ninh-quốc phòng Việt- Mỹ lần thứ 4 diễn ra va tại Washington
D.C., kêu gọi "duy trì hòa bình, ổn định, an toàn và tự do lưu thông hàng hải
tại Biển Đông" và "không sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp".
Trung Quốc và Hoa Kỳ hiện đang bất đồng về chính sách vận hành các tàu
quân sự và máy bay ở biển Đông của Hoa Kỳ. Bất đồng này càng trở nên trầm
trọng hơn bởi một thực tế là Mỹ là chưa phải là một thành viên của Công ước
Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS). Tuy nhiên, Mỹ đã tuyên bố rằng
"các hoạt động khảo sát thăm dò hòa bình và các hoạt động quân sự khác mà
không có sự cho phép trong vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia" được
Công ước cho phép. Ngoài ra, việc tự do lưu thông trong biển Đông nằm
trong tổng thể lợi ích kinh tế và địa chính trị của của Mỹ. Mặc dù Mỹ không
phải là một bên trong tranh chấp nhưng nếu Trung Quốc giành được đặc
quyền tại biển này thì Mỹ sẽ phải xin phép Trung Quốc nếu muốn lưu thông
qua biển Đông chứ không dựa vào UNCLOS được nữa. Với giả thuyết là Hoa
Kỳ muốn duy trì vị thế hàng đầu ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương thì việc
chịu thua áp lực từ Trung Quốc là một viễn cảnh nước này không hề mong
muốn. Liên quan đến tranh chấp, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã lên
tiếng ủng hộ quyền tự do hàng hải bằng cách nhắc lại rằng "tự do hàng hải và
tôn trọng luật pháp quốc tế" là một vấn đề thuộc lợi ích quốc gia của Mỹ. Ý

kiến của bà đã bị Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc phản ứng lại, cho là

13


"nhằm tấn công Trung Quốc", đồng thời cảnh báo Mỹ không được biến vấn
đề biển Đông thành "một vấn đề quốc tế hoặc vấn đề đa phương."
Sau này, bà Clinton tiếp tục bày tỏ sự ủng hộ của bà đối với việc xem xét phê
chuẩn Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển của Quốc hội Hoa Kỳ vì nó sẽ
giúp tăng cường sức mạnh của Mỹ trong việc hỗ trợ các quốc gia đang chống
đối lại tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với các nhóm đảo trong biển
Đông. Ngày 29 tháng 5 năm 2012, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung
Quốc bày tỏ mối quan ngại đối với diễn biến này, tuyên bố rằng "những bên
không có tuyên bố chủ quyền trong Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á cũng
như các nước bên ngoài sẽ không được quyền can dự vào cuộc tranh chấp
lãnh thổ.
Ngày 2 tháng 4 năm 2013, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ tái khẳng định chiến
lược hướng tới châu Á Thái Bình Dương, theo đó, Mỹ điều thêm nhiều lực
lượng quân sự đến châu Á theo tuyên bố "tái cân bằng" hoặc "chuyển trọng
tâm" hướng tới châu Á của Tổng thống Barack Obama, trong bối cảnh căng
thẳng gia tăng giữa Trung Quốc và các nước láng giềng vì tranh chấp lãnh thổ
trên biển. Nhìn từ bên ngoài, sự chuyển hướng của Hoa Kỳ sang châu Á mang
một lý do rất đơn giản, đó là vì quyền lợi kinh tế và an ninh quốc gia. Tuy
nhiên ta ngầm hiểu rằng Mỹ đã nhận thức được sức mạnh quân sự ngày càng
gia tăng và các hành động khiêu khích của Bắc Kinh trước các đồng minh
truyền thống của Mỹ tại khu vực biển Hoa Đông và Biển Đông. Đây chính là
nước đi chiến lược của Mỹ nhằm tranh dành ảnh hưởng trong khu vực châu Á
Thái Bình Dương với Trung Quốc. Từ hai thập niên nay, việc Bắc Kinh tăng
đều đặn ngân sách quốc phòng mỗi năm đến trên 10% cho thấy một ngày nào
đó Trung Quốc có thể trở thành một đối thủ đáng gờm.

c, Phản ứng của Nhật Bản và Ấn Độ:
Nhật Bản dù không phải là nước có hải phận ở Biển Đông nhưng lại có lượng
hàng vận chuyển qua khu vực này khá lớn nên Nhật Bản cũng có mối quan
tâm trong vấn đề tranh chấp ở Biển Đông. Bản thân Nhật Bản cũng thừa nhận
Trung Quốc là một nước mạnh về kinh tế, là nước luôn tự tin vào vị thế của
mình trên thế giới, là một cường quốc lớn. Các nhà phân tích an ninh của
Nhật Bản có lần từng bày tỏ những quan ngại về tình hình bất ổn ở Biển
Đông, nhất là sự xuất hiện của nhiều tàu tuần tra, tàu khảo sát bất hợp pháp
trong vùng biển này. Thậm chí, họ còn dự đoán một cuộc đụng độ bất ngờ có
thể diễn ra và biến thành cuộc khủng hoảng ngoại giao và quân sự. Tuy nhiên,
bất cứ một vấn đề vướng mắc nào cũng có cách giải quyết. Trước tình hình

14


trên, Nhật Bản đang tiến hành một số giải pháp được cho là có hiệu quả: Giải
quyết vấn đề trên cơ sở đa phương với các nước Đông Nam Á, tăng cường
mối quan hệ và sự phối hợp chính sách với Mỹ và các nước khác, đưa tranh
chấp hàng hải lên các diễn đàn quốc tế, khuyến khích sự đồng thuận trong
ASEAN. Thêm vào đó, Nhật Bản rất muốn thúc đẩy tình đoàn kết ASEAN vì
cũng có lợi cho Nhật Bản trong việc giải quyết tranh chấp quần đảo
Senkaku/Điếu Ngư với Trung Quốc.
Về phía Ấn Độ, một khi Trung Quốc độc chiếm Biển Đông với cái gọi là
'đường lưỡi bò' phi pháp thì không sớm thì muộn, Bắc Kinh có thể sẽ còn
tuyên bố chủ quyền với cả các vùng biển trên Ấn Độ Dương chỉ vì “đô đốc
Trịnh Hòa của họ đã từng đi qua khu vực này”.
Mặt khác, Biển Đông là tuyến hàng hải huyết mạch thông Thái Bình Dương
với Ấn Độ Dương, nơi Ấn Độ đang muốn tăng cường ảnh hưởng của mình
như một cường quốc ở châu Á, họ không thể bỏ qua. Ngoài ra, Ấn Độ cũng
đang có những quyền lợi trực tiếp ở Biển Đông khi cùng với Việt Nam hợp

tác khai thác dầu khí trong thềm lục địa của Việt Nam. Việc Trung Quốc bành
trướng trên Biển Đông với cái gọi là "đường lưỡi bò" sẽ uy hiếp trực tiếp lợi
ích của Ấn Độ. Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh cũng từng tuyên bố: “Ấn
Độ và ASEAN cần tăng cường hợp tác an ninh, an toàn và tự do hàng hải,
giải quyết bằng hòa bình các tranh chấp hàng hải theo luật pháp quốc tế”.
Phản ứng mới nhất của Ấn Độ cho thấy nước này vẫn không đồng tình trong
vấn đề biển Đông của Trung Quốc. Từ cuối năm 2012, Ấn Độ cũng bắt đầu
đẩy mạnh liên minh an ninh với Nhật Bản nhằm tăng cường bảo vệ an ninh
biển Đông.

15


KẾT LUẬN
Hiện nay, các tranh chấp trên biển Đông vẫn còn ở trạng thái để mặc cho nó
tồn tại. Các biện pháp ngoại giao nhằm mục đích kiểm soát các xung đột, hay
các giải pháp đưa ra cũng bị giới hạn rất nhiều. Tuyên bố biển Đông năm
1992 chỉ giới hạn được trong phạm vi các thành viên trong khối ASEAN, còn
Tuyên bố về các quy tắc ứng xử trên biển Đông năm 2002 dựa trên lập trường
đa phương nhằm giải quyết xung đột bằng những phương pháp hòa bình, tuy
vậy, trong khi vẫn chờ đợi để giải quyết một cách trực tiếp các tranh chấp thì
Tuyên bố năm 2002 vẫn chỉ giới hạn như là một thỏa thuận chính trị. Mặc dù
việc sử dụng vũ lực của Trung Quốc cũng như các bên tham gia tranh chấp
khác nhằm kiểm soát các đảo không người ở vẫn tiếp tục diễn ra, thì trên biển
Đông đến nay vẫn chỉ có thể duy trì các biện pháp mang tính chính trị hơn là
quân sự. Cho đến nay Trung Quốc vẫn thành công trong việc chia rẽ và đe
dọa về mặt quân sự đối với các thành viên ASEAN. Trong thời gian tới, một
cuộc xung đột vũ trang lớn dẫn đến tình trạng đối đầu giữa Trung Quốc và
ASEAN khó có thể xảy ra, thế nhưng những va chạm quân sự vẫn luôn có thể
xuất hiện. Trong tương lai xa hơn, các tranh chấp trên biển Đông có thể trở

thành mối đe dọa quân sự nghiêm trọng đối với cả Trung Quốc, ASEAN và
các quốc gia khác có liên quan nếu các bên cứ tiếp tục chạy đua trang bị sức
mạnh quân sự. Trong bối cảnh giá dầu mỏ trên thị trường thế giới luôn tăng,
đặc biệt ở những năm gần đây, thì môi trường chiến lược ở biển Đông còn có
thể có những diễn biến mới hết sức phức tạp, khó lường. Môi trường chiến
lược biển Đông có thể tốt hơn hoặc xấu hơn tùy thuộc vào các điều kiện địa
chính trị trên thế giới và trong khu vực, đặc biệt môi trường này sẽ tùy thuộc
rất lớn vào mối quan hệ giữa Trung Quốc với khối ASEAN. Có nhiều lý do
để chúng ta có thể lạc quan hơn khi xem xét lại những xung đột cũng như các
biện pháp giải quyết trước đây. Có lẽ trong tương lai gần, các quốc gia tham
gia trong tranh chấp biển Đông vẫn chưa thể giải quyết được vấn đề chủ
quyền, vốn là vấn đề hết sức phức tạp và nhạy cảm khi chủ quyền đối với các
bên là thiêng liêng và hết sức quan trọng. Tuy nhiên, chúng ta có thể trông
chờ vào việc các bên liên quan có thể đưa ra một giải pháp có tính chất dung
hòa là tất cả các bên cùng nhau hợp tác khai thác và phát triển chung trên
những vùng biển tranh chấp này.

16


PHỤ LỤC
ĐƯỜNG CHÍN ĐOẠN (ĐƯỜNG LƯỠI BÒ) CỦA TRUNG QUỐC
Đường chín đoạn còn gọi là Đường lưỡi bò, Đường chữ U, là tên gọi dùng để
chỉ đường quốc giới hải vực biển Đông mà Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
chủ trương, đuợc cho là của Trịnh Tư Ước, nguyên là quan chức phụ trách Vụ
Nội chính tiện tay vẽ vào.
Đường chín đoạn được hình thành
dựa trên cơ sở "đường mười một
đoạn" của chính phủ Trung Hoa
Dân Quốc. Đường mười một đoạn

là đường quốc giới trên biển Đông
do mười một đoạn liên tục tạo
thành, xuất hiện công khai lần đầu
tiên vào tháng 2 năm 1948 trong
phụ đồ "Bản đồ vị trí các đảo Nam
Hải" của "Bản đồ khu vực hành
chính Trung Hoa Dân Quốc" do
Cục Phương vực Bộ Nội chính
Trung Hoa Dân Quốc phát hành.
Nước Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa sau khi thành lập vẫn xác
định cương vực trên biển Đông theo "đường mười một đoạn" của Trung Hoa
Dân Quốc, đến năm 1953 thì bỏ hai đoạn trong vịnh Bắc Bộ, trở thành
"đường chín đoạn".
Đường chín đoạn bao trọn bốn nhóm quần đảo, bãi ngầm lớn trên biển Đông
là quần đảo Hoàng Sa, Quần đảo Trường Sa, quần đảo Đông Sa và bãi
Macclesfield với khoảng 75% diện tích mặt nước của biển Đông, chỉ còn lại
khoảng 25% cho tất cả các nước Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, và
Việt Nam, tức mỗi nước được trung bình 5%.
Sau vụ đụng độ giữa Hải quân Trung Quốc và Hải quân Việt Nam năm 1988,
một số học giả Trung Quốc nói rằng ranh giới chín đoạn là ranh giới biển lịch
sử của Trung Quốc. Tuy nhiên, dù Trung Quốc có đề cập tới chủ quyền lịch
sử của họ ở Biển Nam Trung Hoa hay chủ quyền của Trung Quốc đối với
Hoàng Sa, Trường Sa và những vùng biển lân cận, phát ngôn chính thức của
17


Trung Quốc cũng chưa bao giờ chính thức nói là phạm vi của những vùng
biển đó là ranh giới chín đoạn. Phản đối quan điểm của nhóm các học giả
trên, nhóm thứ hai cho rằng yêu sách vùng nước lịch sử của Cộng hoà Trung

Hoa khó có thể biện minh được cho tính chất tuỳ tiện, thiếu hệ thống tọa độ
cũng như khái niệm vùng nước lịch sử đã trở nên lỗi thời, không thể sử dụng
để trợ giúp cho yêu sách của chính quyền Trung Quốc và Đài Loan.
Tại cuộc Hội thảo lần thứ nhất về vấn đề tranh chấp chủ quyền tại biển Đông
tổ chức tại Hà Nội tháng 3 năm 2009, báo cáo của ông Hoàng Việt thuộc Quỹ
Nghiên cứu biển Đông, đã phân tích các yêu sách của Trung Quốc về khu vực
“đường lưỡi bò” theo luật quốc tế, khẳng định đường lưỡi bò vi phạm Công
ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982.
Chỉ một ngày sau khi Trung Quốc trình tấm bản đồ 9 đường gián đoạn trên
Biển Đông lên Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, ngày 7 tháng 5 năm 2009, Việt
Nam, Malaysia và tiếp đó là Indonesia đã phản đối, bác bỏ.
Ngày 5 tháng 4 năm 2011, Philippines gửi thư ngoại giao lên Liên Hiệp Quốc
phản đối yêu sách đường chín đoạn của Trung Quốc ở Biển Đông, theo đó tuyên
bố chủ quyền Biển Đông của Trung Quốc là "không có căn cứ theo luật quốc
tế". Bản thân Trung Quốc cũng không thống nhất với chính họ về việc này.

18


MỤC LỤC

19



×