Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

NHÀ NƯỚC TRONG THỜI KÌ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN TÂY ÂU. NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN FRĂNG VÀ TRẠNG THÁI PHONG QUYỀN CÁT CỨ PHONG KIẾN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.18 KB, 15 trang )

NHÀ NƯỚC TRONG THỜI KÌ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ ĐỘ
PHONG KIẾN TÂY ÂU. NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN FRĂNG VÀ TRẠNG
THÁI PHONG QUYỀN CÁT CỨ PHONG KIẾN
1.Qúa trình phong kiến hóa xã hội Tây Âu. Nhà nước phong kiến Frăng
a.Qúa trình phong kiến hóa xã hội Tây Âu
Yếu tố tác động từ bên trong
Sự suy yếu của đế quốc La Mã , Khoảng cuối thế kỉ II, đầu thế kỉ III, phương
thức sản xuất chiếm nô Rôma bị khủng hoảng. Số nô lệ giảm sút mạnh, giá bán rất
cao nên nô lệ không còn là nguồn lợi chính mà còn trở nên nguy hiểm. Kinh tế
công- thương-nghiệp theo đó bị đình trệ. F Trong khi đó ở phía Đông, nhờ sự liên
hệ với các nước Phương Đông nên kinh tế phát triển hơn. Năm 330, hoàng đế
Conxtantinut dời đô sang miền đông, năm 395, hoàng đế Têôdôdiut chia La Mã
thành 2 quốc gia tách biệt: Tây La mã và Đông La Mã.
Sự hình thành quan hệ sản xuất phong kiến ở Tây La Mã :Quan hệ sản xuất dần
không còn phù hợp, những mầm mống sản xuất phong kiến đã xuất hiện, biểu hiện
cụ thể qua hai mặt diễn ra đồng thời, đan xen lẫn nhau đó là:
 lãnh địa hóa toàn bộ ruộng đất
 nông nô hóa giai cấp nông dân
Do nô lệ giảm sút, năng suất lao động ngày càng thấp. Chủ nô buộc phải nghĩ ra
cách thức mới để bóc lột của họ có hiệu quả. Đó là chia nhỏ ruộng đất và giao cho
các nô lệ tự cày cấy. Công cụ, giống má là của chủ nô, một phần thu hoạch nô lệ
được hưởng, phần lớn thuộc về chủ nô. Họ chia đất của mình làm 2 phần :
 phần nhỏ hơn (1/3) do chủ đất trực tiếp quản lý
 phần lớn hơn (2/3) họ lại chia thành nhiều mảnh nhỏ, phát canh cho những nông
dân tự do và nô lệ.
Họ có nghĩa vụ lao động và nộp lại cho chủ đất một khoản tiềnhoặc hiện vật;
Ngoài ra họ phải đến lao động không công trên phần đất củachủ đất trong một số
ngày nhất định (gọi là tô lao dịch). Họ không còn bị giám sát chặt chẽ như trước


mà có phần tự do hơn. Đó chính là những người “lệ nông”, tiền thân của thân phận


nông nô thời kì phong kiến sau này.
Trong thời kỳ này, xã hội La Mã còn tồn tại một số nông dân tự do, trước nạn
cướp bóc khắp nơi, họ không thể tự bảo vệ mình, nhà nước La Mã suy yếu cũng
không thể bảo vệ họ. Các chủ đất lợi dụng hoàn cảnh và địa vị xã hội đã tổ chức
quân đội riêng để bảo vệ đất, giữ gìn an ninh trong phần đất của mình. Do vậy,
những nông dân tự do tìm đến chủ đất lớn xin được bảo vệ bằngcách biến đất của
mình thnhà của chủ đất rồi lĩnh canh tại đó và trở thành lệ nông. Đất đai của các
chủ đất ngày càng lớn hơn, dần chúng nắm quyền thu thuế, lập tòa án riêng và nhà
tù, thế lực ngày càng mạnh, có xu hướng thoát ly sự kiểm soát của chính quyền
TW.
Nếu coi những “lệ nông” là tiền thân của nông nô thời trung cổ thì có thể coi
những tên chủ đất này là tiền thân của những lãnh chúa phong kiến tương lai.
Như vậy, trong xã hội lúc bấy giờ đã hình thành 2 giai cấp tiền thân của giai cấp
đặc trưng cho chế độ phong kiến là địa chủ và lệ nông. Phương thức bóc lột sức lao
động trong thời kỳ này cũng đã thay đổi và chuyển sang phương thức bóc lột của
chế độ phong kiến là “ địa tô”
Yếu tố tác động từ bên ngoài.
Bên cạnh các yếu tố nội tại, ở phía đông biên giới sông Ranh và sông Đanuýp
của La Mã là địa bàn cư trí của người Giecman gồm nhiều tộc người như Frăng,
Iaraniêng…Lúc này, họ vẫn đang sống trong thời kỳ công xã thị tộc mạt kỳ, người
La Mã gọi họ là “man tộc”.
Người Giecman là bộ tộc lớn ở Đông bắc đế quốc La mã, vào đầu thế kỉ công
nguyên, chế độ công xã nguyên thủy do sự phát triển về kinh tế và dân số tăng
nhanh, 1 số bộ tộc người Giec-man đã di cư vào lãnh thổ Rôma để sinh sống (cuối
thế kỉ II). Đến giữa thế kỉ IV, người Giecman ồ ạt xâm nhập vào Rôma. Năm 476,
một viên tướng người Giecman chỉ huy quân cấm vệ của Hoàng đế Rôma làm
chính biến, giết chết Hoàng đế. Đế quốc Tây Rôma bị diệt vong. Chính quyền TW
của Rôma không còn. Các vương quốc “man tộc” được dịp bành trướng khắp lãnh
thổ Tây Rôma cũ và bắt đầu thực hiện phương thức sản xuất mới Phương thức sản
xuất phong kiến. Chế độ phong kiến ra đời thay thế chế độ chiếm hữu nô lệ. •

Nhưng một tộc người có trình độ văn minh thấp hơn làm sao có thể quản lý và cai


trị một quốc gia có trình độ phát triển caohơn? Khi chinh phục những người La Mã
có trình độ phát triển caohơn mình, người Giecman không thể dung nạp họ vào các
thị tộc của mình, cũng không thể dùng những tập đoàn này để quản lý họ được. Do
đó các cơ quan quản lý thị tộc buộc phải nhanh chóng chuyển hóa thành cơ quan
Nhà nước phù hợp để thống trị được người La Mã. Nhà nước đó không thể là nhà
nước Chiếm hữu nô lệ vì hình thức này đã không còn thực tế và hiệu quả nữa. Lực
lượng sản xuất đã phát triển đến giai đoạn mới, dần trở thành lực lượng sản xuất
của chế độ Phong kiến, vì vậy QHSX và KTTT cũng phải phù hợp theo.
Cho nên, nhà nước mà người Giecman có thể thiết lập chỉ là nhà nước Phong
kiến mà thôi. Trong quá trình này, các thủ lĩnh quân sự đoạt lấy quyền lực, thay thế
cho các tù trưởng, lại được sự ủng hộ của quân đội nên đã trở thành Vua với quyền
lực tối cao. Vua tuyên bố tất cả đất đai chiếm được đều thuộc quyền sở hữu của
Vương triều và đem đất đó phong tặng cho những người có công lao như quý tộc
quân sự, thị tộc, tăng lữ, quan chức La Mã cũ ủng hộ giúp chính quyền mới… Về
xã hội Tây La Mã, đang manh nha phát triển thành xã hội Phong kiến thì xuất hiện
cuộc chiến giữa các tộc người Giecman.Đóng vai trò như nhân tố thúc đẩu làm cho
xã hội chuyển hóa sang xã hội Phong kiến một cách dứt khoát và nhanh chóng hơn

b.Sự thiết lập. quá trình phát triển và tan rã của nhà nước Frăng
Vương quốc Frăng là biểu hiện rõ nhất của quá trình hình thành chế độ phong kiến
ở Tây Âu. Nhà nước Frăng từng bước đánh bại các vương quốc khác, mở rộng lãnh
thổ ra toàn Tây Âu, người sang lập ra nhà nước Frăng là Cloovit (481 – 511). Nhà
nước Frăng tồn tại qua hai chiều đại:
-Triều đại Mô rô vanh riêng
Năm 486, Clovic, là một thủ lĩnh liên quân người Frăng, ông liên kết với nhiều liên
minh khác đánh bại quân La Mã. Năm 507, Hoàng đế của đế quốc Đông La Mã cử
Clôvic giữ chức Chấp chính quan, nghĩa là Clôvic được công nhận là quốc vương

của cả nước Frăng. Mở đầu triều đại Mêrôvanhgiêng.
Do còn chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán trong xã hội công xã nguyên thủy,
khi vua cha mất, quốc gia được đem chia đều cho những người con trai, hình thành


nên các quốc gia nhỏ, tranh chấp với nhau. do đó, lãnh thổ của vương quốc Frăng
cứ thống nhất rồi lại bị phân chia, thống nhất, phân chia...
Khi quyền lực của nhà vua suy yếu, thế lực của các quý tộc tăng lên , người nắm
thực quyền trong cả nước là các Tể tướng hay vị quan tổng quản của triều đình.
-Triều đại Carô lanh giêng
Năm 714, Saclơmacten giữ chức Tể tướng. Khi làm Tể tướng, ông lập được
nhiều công cho quốc gia bằng cách đấu tranh vũ trang, thống nhất toàn bộ vương
quốc Frăng hùng mạnh xưa kia và mở rộng thêm lãnh thổ.
Năm 737, khi Quốc vương của gia tộc Mêrôvanhgiêng chết, triều đình không lập
vua mới. Vương quốc Frăng do Saclơmacten thống trị.
Năm 741, Saclơmacten bị bệnh chết. Ông chia lãnh thổ của mình cho 2 đứa con,
Caloman và Pepin lùn. Năm 751, Pepin lùn được cử làm vua, mở đầu cho vương
triều Carôlanhgiêng.
Năm 768, Pepin lùn chết. Con ông là Salơ đã thống nhất cả vương quốc Frăng và
còn mở rộng vương quốc ra gấp đôi, bao gồm cả các nước Pháp, Đức, Hà Lan, Bỉ,
Ao, Ý và một phần của Tây Ba Nha ngày nay. Do vậy, ông được xem như là vị đại
đế Saclơ hay Saclơmanhơ (Charlemagne).
-Giai đoạn suy yếu của Frăng và tình trạng phân quyền cát cứ
Năm 824, Saclơmanhơ chết, người con trai của ông là Louis ngoan đạo lên ngôi
nhưng ông chỉ suốt ngày lo việc tôn giáo mà không lo việc triều chính. Chính vì
vậy, trong 3 năm lên ngôi, Louis ngoan đạo đem đất nước chia cho 3 đứa con của
mình, đó là: Lothair, Pepin, Louis.
Nhưng đến năm 829, Louis ngoan đạo phủ nhận quyết định nói trên để cắt một
phần đất cho người con trai của bà vợ sau là Saclơ hói. Ba người con trai của Louis
ngoan đạo đều không đồng ý, thế là cha con họ đã tiến hành một cuộc nội chiến

kéo dài gần 10 năm.
Năm 840, Louis ngoan đạo chết, ba năm sau cả ba anh em họ ngồi lại với nhau để
ký hoà ước Vecđoong (Verdun). Theo hoà ước này, ba người con trai của Louis


ngoan đạo sẽ chia nhau cai trị lãnh thổ vương quốc Frăng, tạo thành 3 nước Đức,
Pháp và Ý ngày nay.
c. Tổ chức bộ máy nhà nước
· Mêrôvanh giêng
Bộ máy nhà nước được tổ chức còn rất thô sơ.
ª Ở Trung ương
- Đứng đầu bộ máy nhà nước là Vua;
- Bên dưới vua là các quan lại cao cấp phụ trách các việc như quân sự, tư pháp, tài
chính, văn thư, kho rượu… song sự phân công ấy chưa thật rõ ràng và cố định.
Ví dụ: Quan Chưởng ấn hoặc Thị vệ có khi làm cả nhiệm vụ ngoại giao hoặc quân
sự; Quan thống chế có khi phụ trách cả việc ăn uống hoặc tiệc tùng…
- Ngoài ra còn có các viên quan quản lý trông coi các trang viên của nhà vua. Đứng
đầu và quản lý các viên quan này là quan quản lý cung đình, tức Tể tướng.
Trong thời kỳ vua lười, Tể tướng là người cầm quyền thực tế.
Đến thời Carôlanhgiêng
- Trong thời kỳ của vương triều Carôlanhgiêng, quan trọng nhất là thời kỳ trị vì của
Saclơmanhơ, bộ máy nhà nước của vương quốc Frăng ngày càng hoàn chỉnh hơn
- Đứng đầu bộ máy nhà nước vẫn là Vua
- Bộ máy quan lại dưới Vua là các chức: Thừa tướng, Tổng Giám mục và Đại thần
cung đình.
+ Thừa tướng giữ chức vụ bí thư và chưởng ấn của nhà vua.
+ Tổng Giám mục quản lý giáo sĩ trong cả nước.
+ Đại thần cung đình thì gần giống như quan Tể tướng trước kia, có nhiệm vụ quản
lý các công việc hành chính của triều đình.
Chức tể tướng trước kia đến thời kỳ này bị bãi bỏ.



-Bên dưới có các quan lại khác như: Quan Thống chế, Quan Chánh án, Quan coi
quốc khố, Quan quản lý kho rượu…
Ở địa phương :
- Ở thời kỳ Mêrôvanhgiêng, cả nước chia thành nhiều đơn vị hành chánh địa
phương. Đứng đầu mỗi đơn vị đó là Quan Bá tước nên đơn vị hành chính này còn
được gọi là “Khu quản hạt Bá tước”.
Quyền hạn của Bá tước :
+ Các bá tước được toàn quyền về hành chính, tư pháp, tài chính, quân sự ở địa
phương.
+ Họ được nhà vua ban cho một số ruộng đất và giữ lại 1/3 tiền án phí.
- Từ thời Saclơmanhơ trở về sau, quan hệ giữa vua và các bá tước trở thành quan
hệ giữa tôn chủ và bồi thần. Dần dần, chức vụ này (Bá tước) biến thành cha truyền
con nối.
Ở các vùng biên giới :Từ thời Carôlanhgiêng, vua còn thành lập những đơn vị
hành chính đặc biệt ở các biên giới, gọi là Biên trấn. Ở đây, nhà vua cho xây dựng
những pháo đài kiên cố nhằm mục đích phòng ngự các cuộc chiến tranh từ bên
ngoài và làm căn cứ để tiến hành chiến tranh xâm lược mở rộng lãnh thổ.
Đứng đầu biên trấn là : Bá tước, hoặc Hầu tước, hoặc Công tước.
Ngoài ra, nhà vua thường cử những đoàn khâm sai để quản lý tình hình ở địa
phương, mỗi đoàn thường gồm hai người.
Nhiệm vụ quyền hạn của quan khâm sai:
- Để kiểm tra việc thực hiện các sắc lệnh của nhà Vua.
- Xử lý các hành vi lạm dụng quyền hạn của các quan lại địa phương.
- Giải quyết những vụ khiếu tố trong nhân dân đối với Bá tước hoặc Giáo chủ ở địa
phương.
Tòa án :
+ Ở trung ương:



- Cơ quan tư pháp có thẩm quyền xét xử là tòa án của nhà vua.
- Thành phần xét xử: là các pháp quan gồm chánh án và bồi thẩm – do nhà vua chỉ
định.
+ Ở địa phương:
- Lúc đầu, quyền xét xử thuộc về những người dân tự do. Lúc nhà nước Frăng mới
được xây dựng, người dân được tham gia bồi thẩm và được cử những đại biểu của
mình làm thẩm phán nhưng chẳngbao lâu, khi nông dân bị nông nô hoá, quyền hạn
ngày càng tập trung vào tay các bá tước thì tình trạng này bị bãi bỏ.
- Về sau, quyền tư pháp thuộc tay bá tước.
+ Ngoài ra, các đoàn khâm sai do nhà vua cử về địa phương cũng có quyền mở
phiên tòa xét xử tại chỗ.
Quân đội
- Ban đầu, lực lượng quân đội chủ yếu của quốc gia gồm có đội thân binh của nhà
vua, lực lượng quần chúng. (Tất cả dân tự do đều có nghĩa vụ quân dịch cho nhà
vua). Nhưng do đời sống nông nghiệp định cư , đa số nông dân không muốn rời xa
ruộng đất, gia đình để đi chinh chiến nữa. Họ chấp nhận hiến ruộng đất cho địa chủ
và trở thành nông nô nhằm thoát khỏi nghĩa vụ binh dịch. Vì vậy, giờ đây, đội thân
binh của nhà vua trở thành lực lượng quân đội chủ yếu.
- Thời Carôlanhgiêng, lực lượng quân đội chia thành 2 bộ phận:
+ Quân đội chuyên nghiệp:thường xuyên có mặt trong các trang trại quân đội, nhất
là ở các biên trấn.
+ Quân đội của bồi thần được phong đất - cùng kỵ binh của họ: Đội quân này chỉ
tập hợp lại mỗi khi có chiến tranh

Nhận xét
- Bằng các biện pháp như tập trung mọi quyền hành về hành chính, tư pháp, tài
chính, quân sự… và việc bản thân mình được phong làm hoàng đế, nhà nước Frăng
trở thành một nhà nước quân chủ chuyên chế tập quyền.



- Thế nhưng, do chính sách phân phong ruộng đất cho các lãnh chúa phong kiến,
do vua đã giao cho các lãnh chúa phong kiến quá nhiều quyền lực trên mãnh đất
của họ nên trong quốc gia dễ xẩy ra cục diện phân quyền cát cứ.
- Đồng thời, do phong tục cha truyền con nối: Sau khi vua qua đời, quốc gia sẽ bị
chia đều cho tất cả các con trai của vua - tàn dư của chế độ công xã thị tộc. Nên sau
khi lãnh thổ vừa được thống nhất, thì lại phải chia cắt cho các con khi vua cha qua
đời. Nên lịch sử của Vương quốc Frăng là một chuỗi dài của sự thống nhất, phân
chia, thống nhất...
2. Trạng thái phân quyền cát cứ phong kiến
Trạng thái phân quyền cát cứ của nhà nước phong kiến Tây Âu Thời kỳ phát triển
của chế độ phong kiến : - Hình thành và củng cố : TK 2 đến trước năm 843 - Phát
triển : sau năm 843 đến TK15 - Khủng hoảng, suy vong : TK 15 đến TK 17 Quan
hệ PK được thể hiện : - Quan hệ bóc lột bằng địa tô được thể hiện rõ nhất, đặc
trưng của chế độ phong kiến - Mối quan hệ giữa hai giai cấp cơ bản : địa chủ (lãnh
chua PK) và nông dân (nông dân). Đây là mối quan hệ bất bình đẳng về mọi mặt.
Nông dân hoàn toàn phụ thuộc vào địa chủ PK, không có ruộng đất.
- Chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất : tập trung vào tay giai cấp PK là nhiều nhất
và gần như tuyệt đối. - 843 : chế độ phân quyền cát cứ xuất hiện, ngày càng phát
triển. Biểu hiện của chế độ phân quyền cát cứ : - Nguyên nhân : + Nguyên nhân
sâu xa : đế quốc Frăng được dựng lên do kết quả của những cuộc chiến tranh xâm
lược và được duy trì bằng bạo lực, không có cơ sở kinh tế, chỉ là một liên hiệp tạm
thời, không vững chắc. Trong phạm vi cả Tây Âu và phạm vi từng nước đều có
khuynh hướng phát triển riêng, muốn tách ra khỏi sự ràng buộc của chính quyền
TƯ. + Nguyên nhân cơ bản, có tính quyết định là về kinh tế. Trong đó, trước hết
phải nói đến chế độ sở hữu phong kiến về ruộng đất. Đó là sở hữu tư nhân rất lớn
của PK. Được hình thành bằng hai nguồn : thứ nhất là chế độ phân phong ruộng
đất và chế độ thừa kế ruộng đất, thứ hai là số ruộng đất ít ỏi của những nông dân tự
do, nằm rải rác trong những khu đất dai của lãnh chúa. Chế độ phân phong và thừa
kế dẫn tới hậu quả quyền sở hữu tối cao về ruộng đất không thuộc về nhà vua và

dẫn tới trạng thái phân quyền cát cứ.
+ Về giao thông, do chiến tranh liên miên lại không được sửa chữa nên việc đi lại
gặp rất nhiều khó khăn và không an toàn. Vì vậy, liên hệ từng vùng không thường


xuyên chặt chẽ. + Ngoài ra, từng nước còn có những nguyên nhân khác. VD : ở
Pháp, có những thời kỳ mà ruộng đất của nhà vua ít hơn rất nhiều so với ruộng đất
của các lãnh chúa PK, thế lực của nhà vua rất hạn chế. Những làn chúa lớn thường
áp đảo nhà vua và tranh giành quyền lợi với nhau. Nói đến trạng thái phân quyền
cát cứ là nói đến lãnh địa và lãnh chúa PK. Đất đai được phân phong lần lượt trở
thành tư hữu và tạo nên lãnh địa. Nà vua ở TƯ thực tế cũng chỉ là một lãnh chúa
mà thôi. Có hai loại lãnh địa là lãnh địa PK và lãnh địa của giáo hội thiên chúa. Phân quyền cát cứ là trạng thái cơ bản nổi bật nhất trong thời kỳ phát triển của chế
độ phong kiến Tây Âu. Nó bao trùm, chi phối mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội và chính
trị phong kiến. + Kinh tế : Nền kinh tế của lónh địa là nền kinh tế tự cung tự cấp.
Lãnh địa có nhiều trang viên, các trang viên lại được chia thành hai phần, một phần
do lãnh chúa trực tiếp quản lý, một phần đ ược chia thành nhiều khoanh nhỏ để
nông dân thuê lĩnh canh.
+ Xã hội : Quan hệ cơ bản trong xã hội là quan hệ giữa lãnh chúa với nông dân.
Nông dân coa ba loại : nông dân tự do, lệ dân và nông nô. Lệ dân và nông dân tự
do trước sau gì cũng bị biến thành nông nô, cả đời phụ thuộc chặt chẽ vào lãnh
chúa, làm lao dịch không công, nộp địa tô cho địa chủ...So với nô lệ trong xã hội
cổ đại thì thân phận của nông nô có khá hơn, họ có nhà cửa, công cụ sản xuất, kinh
tế gia đình riêng. + Chính trị : Những tước vị và chức vụ mà nhà vua trao cho lãnh
chúa nay trở thành cha truyền con nối, biến luôn khu vực HC đứng đầu thành lãnh
địa riêng, biến thần thuộc, thần dân nhà vua thành thần thuộc, thần dân của lãnh
chúa, có toà án xét xử riêng. Lãnh chúa có quyền đúc tiền, thu thuế..bộ phận quân
đội của lãnh chúa hoàn toàn tách khỏi sự điều động của nhà vua. Giữa các lãnh
chúa thường xảy ra chiến tranh nhằm mở rộng lãnh địa, quyền lực, tài sản. Như
vậy, trên thực tế, các lãnh địa đã biến thành những quốc gia nhỏ. Các lãnh chúa trở
thành vua trên lãnh địa của mình, có đầy đủ các quyền lập pháp, hành pháp, tư

pháp, có quân đội, toà án, luật lệ riêng. Chính trong trạng thái phân quyền cát cứ,
quan hệ PK được thể hiện rõ nét nhất, đây cũng là thời ký phát triển của chế độ PK
Tây Âu.
3. Tình hình pháp luật
Các quan hệ pháp lý về tài sản
- Về quyền sở hữu ruộng đất:


+ Từ thế kỷ 5 đến 6, do người Frăng vừa thoát thai khỏi chế độ công xã thị tộc nên
ở buổi ban đầu của chế độ phong kiến, quyền sở hữu ruộng đất ở công xã có 2 hình
thức:
· Thuộc quyền sở hữu chung của công xã đối với ruộng đất canh tác. Công xã tiến
hành việc phân chia ruộng canh tác cho các thành viên của mình. Đến thời hạn
nhất định nông dân phải trả lại cho công xã để phân chia lại.
· Thuộc quyền sở hữu tư nhân đối với nhà cửa, vườn tuợc xung quanh nhà.
Theo bộ luật Xa Lích, ruộng đất được chia cho các thành viên công xã và được cha
truyền con nối, tuy nhiên ruộng đất chỉ có thể chuyển cho con trai. Nếu người chết
không có con trai thì phải trả ruộng đất lại cho công xã.
+ Đến đời vua Sinpê Rich (561 – 584), Nhà Vua quy định nếu người chết không có
con trai, ruộng đất được quyền để lại cho con gái, không phải trả lại cho công xã
nữa. Đây là một bước quá độ để chuyển sang chế độ tư hữu về ruộng đất.
+ Thế kỷ 6, 7 quyền sở hữu ruộng đất của công xã bị tan rã, đất đai thuộc quyền sở
hữu của người được phân phối (nông dân). Bọn quý tộc
+ Trên danh nghĩa, toàn bộ lãnh thổ của vương quốc là tài sản của Nhà Vua, Nhà
Vua phân phong cho các thần thuộc của mình. Dần dần, các thần thuộc biến ruộng
đất được phân phong thành ruộng đất tư hữu. Từ thế kỷ 9, 10 trở về sau, ruộng đất
này trở thành lãnh địa và thuộc toàn quyền sở hữu của lãnh chúa phong kiến. Trên
phần ruộng đất được phân phong, các quan hệ pháp lý về ruộng đất do các lãnh
chúa quy định (quy định về hợp đồng mua bán, chuyển nhượng ruộng đất giữa các
chủ đất, việc lĩnh canh ruộng đất, các nghĩa vụ của nông nô đối với lãnh chúa, quy

định về thủ tục thừa kế ruộng đất… Những quy định này đều thể hiện nguyên tắc
“Không đất nào là không có chủ”). Dần dần những quy định này trở thành tập quán
pháp.
- Đối với việc sở hữu các tài sản khác
+ Bộ luật Xa Lích thừa nhận chế độ tư hữu về động sản. Vấn đề này được phản ánh
qua những điều khoản quy định các hình phạt đối với các tội trộm cắp hoặc gây
thiệt hại đến gia súc, hoa màu của người khác.


+ Đến thế kỷ 11, 12, trong các thành phố tự trị kinh tế công thương nghiệp phát
triển, các thành phố này bắt đầu viện dẫn pháp luật la mã để giải quyết các vấn đề
liên quan đến lĩnh vực hợp đồng, trái vụ như các loại hợp đồng mua bán, tặng cho,
đổi chác, thuê mướn, ủy thác… do đó, pháp luật của các thành thị trong thời kỳ này
rất phát triển.

· Luật lệ về hôn nhân gia đình

- Bộ luật Xa Lích nghiêm cấm tục cướp vợ hoặc mua bán vợ. Bộ luật quy định
trong thủ tục kết hôn, người chồng phải tặng quà cưới cho vợ (thay cho tiền mua
vợ). Sau đó số tài sản này trở thành tài sản chung.
- Theo phong tục, để giữ lại toàn bộ số tài sản của dòng họ, người phụ nữ goá phải
kết hôn với anh hoặc em của chồng (chưa có vợ). Tuy nhiên, người phụ nữ này
được quyền lấy chồng khác với điều kiện:
+ Phải được gia đình chồng cũ ưng thuận
+ Người chồng mới phải nộp cho gia đình chồng cũ một khoản tiền nhất định
- Về sau, luật hôn nhân gia đình chịu nhiều ảnh hưởng của thế lực nhà thờ và luật
lệ thiên chúa giáo. Luật lệ tôn giáo và luật pháp nhà nhà nước đều ngăn cấm việc ly
hôn.
- Địa vị pháp lý của người phụ nữ có được cải thiện hơn so với trong thời chiếm
hữu nô lệ. Tuy nhiên, họ vẫn phải phụ thuộc vào người cha, người chồng và con

trai; ngoài xã hội phụ nữ có địa vị xã hội thấp kém hơn so với đàn ông cùng đẳng
cấp. Do bị ảnh hưởng của thế lực nhà thờ, giáo hội, càng ngày người phụ nữ càng
bị mất năng lực pháp lý về tài sản và bị áp dụng cực hình. Tuy nhiên ở một số địa
phương của nước Anh, người vợ được quyền quản lý tài sản của mình, ở miền
Nam nước Pháp, người vợ được quyền lấy lại của hồi môn và được gia đình chồng
cấp phần đất riêng cho người phụ nữ goá chồng.
- Ở nông thôn, trai gái làng này bị cấm kết hôn với trai gái của làng khác, do đó
thường dẫn đến tình trạng loạn luân.


- Đối với nông nô, khi kết hôn phải có sự đồng ý của lãnh chúa. Nếu kết hôn với
nông nô của lãnh chúa khác thì phải nộp phạt tiền ngoại hôn. Con do hai nông nô
này sinh ra phải chia đều cho cả hai lãnh chúa.
Các quy định liên quan đến luật Hình sự
Tục trả nợ máu
- Do bị ảnh hưởng của các phong tục tập quán trong thời kỳ công xã nguyên thủy,
trong giai đoạn đầu của chế độ phong kiến, tục trả nợ máu vẫn còn tồn tại khá đậm
nét.
- Bộ luật Xa Lích quy định:
+ Nếu tội phạm không đủ tiền nộp phạt và cũng không có người nộp thay thì phải
mang mạng sống của mình ra chịu tội.
+ Đối tượng phải trả nợ máu là chính kẻ giết người hoặc con trai của người đó.
+ Người được trả thù chỉ có thể là cha, con trai, anh em trai của nạn nhân
+ Quy định thời gian chờ trả thù nhằm làm giảm bớt tính hung hãn của gia đình
người bị hại và tạo điều kiện cho tội phạm có tiền nộp để chuộc tội (ví dụ ở Anh,
thời gian chờ trả thủ là 12 tháng).
Nộp tiền chuộc tội
- Theo bộ luật Xa Lích, bất cứ tội phạm nào cũng được phép dùng tiền để chuộc tội
(trừ những tội phạm bị xem là trọng tội: tội phản quốc, tội chống lại giáo hội…)
- Lúc đầu, mức tiền nộp phạt tùy thuộc vào sự thoả thuận của hai bên. Về sau, bộ

luật quy định mức phạt cụ thể (ví dụ: trộm chó: 15 xôlidút, trộm ngựa: 45 xôlidút,
xúc phạm người frăng tự do: 30 xôlidút, giết chết người frăng tự do: 200 xôlidút,
giết chết phụ nữ mang thai: 600 đến 700 xôlidút). ½ số tiền nộp phạt được chia cho
gia đình bị hại, ½ còn lại sung vào công quỹ.
- Luật cho phép họ hàng của tội phạm được nộp tiền thay và tội phạm sẽ trở thành
nô lệ cho người đã nộp phạt thay mình. Nhưng đến thế kỷ 6, luật cấm người khác
nộp phạt thay, tội phạm phải tự mình bỏ tiền ra để chuộc tội và mức tiền nộp phạt


tùy thuộc vào địa vị của người bị hại. Nếu tội phạm là kẻ giết người mà không chịu
nộp phạt hoặc không có tiền nộp phạt thì sẽ bị tử hình.
- Đối với những tội phản quốc, không trung thành với nhà vua hoặc lãnh chúa
phong kiến, chống lại nhà thờ và luật lệ tôn giáo, trộm cắp tài sản của nhà nước
hay của nhà thờ… đều bị coi là trọng tội. Tất cả những trọng tội đều không được
dùng tiền chuộc mà phải chịu án tử hình. Phương thức thực hiện án tử hình rất tàn
bạo như: chém đầu, treo cổ, hoả thiêu, làm cho tội phạm chết dần trong đau đớn…
Tuy nhiên luật lại không quy định như thế nào là phản quốc, như thế nào là không
trung thành với nhà vua… do đó, đối với những loại tội phạm này, quan toà thường
xét xử tùy tiện, chủ quan.
· Hình phạt
- Tính chất giai cấp trong pháp luật phong kiến thể hiện rõ trong việc quy định hình
phạt. Tùy theo thân phận và địa vị của người phạm tội và người bị hại, pháp luật
quy định mức hình phạt khác nhau. Ví dụ: giết một người có địa vị cao thì phải nộp
phạt gấp 3 đến 4 lần mức bình thường, tiền phạt tội bắt trộm nôlệ bằng mức tiền
phạt tội bắt trộm con ngựa hay con bò, nếu người dân tự do và người nô lệ phạm
tội như nhua thì người dân tự do chuộc tội bằng tiền, còn người nô lệ thì thì bị thể
xác.

Pháp luật về tố tụng và tư pháp
· Toà án

- Trong thời kỳ phong kiến, quyền tư pháp thuộc về cả nhà vua, giáo hội và các
lãnh chúa phong kiến. Tuỳ từng thời kỳ khác nhau mà quyền tư pháp của các thế
lực có vai trò khác nhau.
+ Thế kỷ 6 đến thế kỷ 10, quyền tư pháp của các lãnh chúa lớn mạnh. Nhà vua chỉ
có quyền xét xử trên phần đất của vương triều.
+ Thế kỷ 11 đến 14, nhà vua tìm mọi cách hạn chế bớt quyền lực của các lãnh chúa
phong kiến, tăng cường quyền lực của mình. Do đó, phạm vi và thẩm quyền xét xử
của toà án nhà vua ngày càng được mở rộng.


+ Thế kỷ 15, 16 quyền tư pháp của các lãnh chúa phong kiến bị suy yếu và dần dần
bị loại trừ. Quyền xét xử trong cả nước thuộc về toà án của nhà vua.
+ Giáo hội có quyền lập ra những “toà án tôn giáo thiêng liêng” để xét xử những
người bị coi là dị giáo, chống lại giáo hội…
- Trong thời kỳ hưng thịnh của chế độ phong kiến, một nguyên tắc hoạt động phổ
biến của toà án là người xét xử phải có tài sản ít nhất bằng tài sản của của người bị
xét xử.
Tổ chức luật sư
- Tổ chức luật sư đã từng xuất hiện trong thời kỳ La Mã cổ đại, đến thời kỳ phong
kiến tổ chức này hoạt động như những ngành nghề trong xã hội và có vai trò quan
trọng trong đời sống chính trị – xã hội.
Viện công tố
- Ban đầu, viện công tố do nghị viện thành lập và trực thuộc nghị viện. Ủy viên
công tố phải là thành viên của Nghị Viện. Về sau, Viện Công tố tách khỏi Nghị
Viện thành một cơ quan độc lập.
- Viện Công tố có chức năng theo dõi ngân khố quốc gia và giám sát công việc tố
tụng hình sự.
NHẬN XÉT
- Pháp luật là một phương tiện để nhà nước đàn áp, bóc lột quần chúng nhân dân
lao động, bảo vệ địa vị, quyền lợi của tập đoàn phong kiến thế tục và tập đoàn

phong kiến giáo hội.
- Pháp luật phong kiến kém phát triển hơn so với pháp luật thời Hy La cổ đại, vì
những nguyên nhân sau đây:
+ Trong một thời gian dài, tình trạng phân quyền cát cứ và kinh tế tự cung tự cấp
đã kìm hãm sự của kinh tế hàng hoá
+ Các lãnh chúa phong kiến phải tập trung và các cuộc chinh phạt lẫn nhau, không
có thời gian cho việc xây dựng pháp luật. Trong các lãnh địa, các tập quán pháp và
mệnh lệnh của lãnh chúa phong kiến được dùng để điều chỉnh các vấn đề xã hội.


Tuyệt đại đa số cư dân bị mù chữ, thậm chí nhiều quý tộc cũng không biết đọc biết
viết. Nhà nước và giáo hội thực hiện chính sách ngu dân, bắt buộc dân chúng học
thuộc lòng kinh thánh và không thực hiện giáo dục toàn diện.



×