Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

tiểu luận cao học truyền hình tính đả kích và châm biếm trong chính luận truyền hình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.33 KB, 26 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Mục đích nghiên cứu
Xuất phát từ yêu cầu tìm hiểu chuyên sâu về các thể loại, các phướng
thức cũng như những khái niệm liên quan đến báo truyền hình, tôi đã chọn đề
tài Tính đả kích và châm biếm trong chính luận truyền hình để nghiên cứu.
Để làm được việc này phải có một cái nhìn xuyên suốt toàn bộ lịch sử báo chí
truyền hình Việt Nam, từ thời kì sơ khai đến tận ngày nay. Đến nay, sau quá
trình học tập và tìm tòi ở Học viện báo chí và tuyên truyền, tôi đã rút ra một
số nhận định khái quát nhất về đề tài.
Lần theo tiến trình của báo chí truyền hình có thể thấy thể loại chính
luận có vai trò to lớn trong việc chuyển tải thông tin một cách nhanh nhạy,
chính xác và trực tiếp nhất đến công chúng. Tính xác thực và độ tin cậy của
nó vượt qua nhiều thể loại khác và được giới chuyên môn đánh giá rất cao.
Mặt khác, tính chặt chẽ về câu chữ, kết tinh nguồn cảm hứng cũng như ý chí,
tư tưởng của phóng viên trước một sự kiện, một vấn đề xã hội đã giúp chính
luận truyền hình đến với khán giả bằng con đường ngắn nhất.
Có thể thấy số lượng tác phẩm chính luận truyền hình trong nước rất đồ sộ.
Mặc dù tôi đã cố gắng rất nhiều nhưng trong phạm vi một đề tài cấp cơ sở,
những vấn đề đặt ra trong đề tài này đều vẫn ở dạng mở và sơ lược khi phân
tích, đánh giá những điều căn bản và cốt lõi nhất của đề tài.
Nói tóm lại, mục đích cơ bản nhất của việc nghiên cứu đề tài này là tạo
ra một sản phẩm nghiêm túc, mang giá trị tham khảo khi tìm hiểu về chính
luận truyền hình và những nội dung xoay quanh nó.
2. Tình hình nghiên cứu
Những vấn đề cụ thể của báo truyền hình qua các giai đoạn phát triển
lâu nay đã được nghiên cứu trong nhiều cac sách giáo trình cũng như các
công trình tiêu biểu và đồ sộ.Tuy nhiên nói về tính đả kích và châm biếm
trong chính luận truyền hình thì chưa mấy tài liệu nói đến và có những phân
tích thấu đáo nhất.
1




3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.Đối tượng nghiên cứu
Đề tài Tính đả kích và châm biếm trong chính luận truyền hình tập
trung khảo sát các hiện tượng báo chí (các tiểu phẩm, tác phẩm điện ảnh) tiêu
biểu, các khuynh hướng nội dung,tư tưởng nghệ thuật chủ yếu góp phần làm
nên nội dung cơ bản của chính luận truyền hình. Tuy nhiên do sự chi phối của
dung lượng công trình, phạm vi nghiên cứu và đặc biệt là đối tượng tiếp
nhận , trong đề tài này , tôi chỉ tập trung khái quát những hiện tượng chính
luận truyền hình mang tình đả kích và châm biếm tiêu biểu nhất qua các thời
kì.
3.2.Phạm vi nghiên cứu
Đề tài Tính đả kích và châm biếm trong chính luận truyền hình khảo sát
các đối tượng nghiên cứu- những hiện tượng truyền hình tiêu biểu kết tinh
thành tựu và diện mạo đặc sắc của truyền hình Việt Nam cũng như một số
nước trên thế giới. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một đề tài cấp cơ sở như
trên đã nói, ở đề tài này tôi sẽ lưu ý hơn đến những tiểu phẩm truyền hình
hiện nay tiêu biểu nhất cho tính đả kích và châm biếm trong chính luận truyền
hình.
4. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc thống kê, khảo sát, nghiên cứu khái quát quá trình vận
động và phát triển của truyền hình Việt Nam , đề tài sẽ làm nổi bật những nội
dung cơ bản và mang tính đặc thù của chính luận nói chung và chính luận
truyền hình nói riêng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài khai thác tối đa các phương pháp nghiên cứu cơ bản nhất
như”phân loại, thống kê.. để từ đó tổng hợp và khái quát lên được Tính đả
kích và châm biếm trong chính luận truyền hình.
Đề tài cũng chú ý khai thác phương pháp so sánh loại hình và phương pháp

đối chiếu trong quá trình nghiên cứu. Phương pháp phân tích tiểu phẩm
truyền hình cũng sẽ được khai thác trong những chừng mực nhất định, nhằm
tạo dựng ấn tượng cụ thể cho các khái quát học thuật trong đề tài.
6. Cấu trúc của đề tài
2


Ngoài phần mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, đề tài Tính đả kích
và châm biếm trong chính luận truyền hình được kết cấu thành 2 chương:
Chương I: Tìm hiểu chung về chính luận truyền hình
Chương II: Đại cương về tiểu phẩm trào phúng truyền hình
Chương III: Tính đả kích và châm biếm trong chính luận truyền hình

Chương I: Tìm hiểu chung về chính luận truyền hình
I. Dẫn nhập đề tài
1. Vài nét về truyền hình Việt Nam
Truyền hình xuất hiện vào đầu thế kỷ thứ XX và phát triển với tốc độ
như vũ bão nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, tạo ra một
kênh thông tin quan trọng trong đời sống xã hội. Ngày nay, truyền hình là
phương tiện thiết yếu cho mỗi gia đình, mỗi quốc gia, dân tộc. Truyền hình
trở thành vũ khí, công cụ sắc bén trên mặt trận tư tưởng văn hóa cũng như
lĩnh vực kinh tế xã hội. Ở thập kỷ 50 của thế kỷ XX, truyền hình chỉ được sử
dụng như là công cụ giải trí, rồi thêm chức năng thông tin. Dần dần truyền
hình đã trực tiếp tham gia vào quá trình quản lý và giám sát xã hội, tạo lập và
định hương dư luận, giáo dục và phổ biến kiến thức, phát triển văn hóa, quảng
3


cáo và các dịch vụ khác. Sự ra đời của truyền hình đã góp phần làm cho hệ
thống truyền thông đại chúng càng thêm hùng mạnh, không chỉ tăng về số

lượng mà còn tăng về chất lượng. Công chúng của truyền hình ngày càng
đông đảo trên khắp hành tinh. Với những ưu thế về kỹ thuật và công nghệ,
truyền hình đã làm cho cuộc sống như được cô đọng lại, làm giàu thêm ý
nghĩa, sáng tỏ hơn về hình thức và phong phú hơn về nội dung.
Ngày 7/9/1970 là ngày phát sóng đầu tiên của chương trình truyền
hình Việt Nam. Thấm thoắt đã 35 năm, ngày 7/9 trở thành ngày kỉ niệm
truyền thống của truyền hình Việt Nam. Từ ngày ấy đến nay, truyền hình Việt
Nam đã trưởng thành nhanh chóng và có những tiến bộ vượt bậc. Từ phát
hình đen trắng chuyển sang phát hình màu, từ phát thử nghiệm chương trình 4
giờ/ ngày vào ban đêm, đến năm 1995 phát 10 giờ/ ngày; đến nay Đài Truyền
hình Việt Nam phát với tổng số thời lượng là 200 giờ/ ngày trên 5 kênh
VTV1, VTV2, VTV3,VTV4, VTV5 cùng với 4 kênh truyền hình cáp hữu
tuyến và 64 đài phát thanh - truyền hình địa phương. Ngành truyền hình Việt
Nam đã có nhiều nỗ lực vượt bậc nhằm cải tiến, nâng cao chất lượng các
chương trình truyền hình, đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao của công
chúng. Truyền hình Việt Nam còn chú trọng đẩy mạnh việc đào tạo đội ngũ
cán bộ, công nhân viên, cán bộ kỹ thuật, đặc biệt là đội ngũ phóng viên, biên
tập nhằm nâng cao tính chuyên nghiệp và sự quy chuẩn của đội ngũ người
làm truyền hình hiện đại. Như vậy, cùng với sự phát triển của các loại hình
truyền hình, việc nâng cao chất lượng thông tin trên truyền hình ngày càng trở
nên cấp thiết. Tuy nhiên, ở Việt Nam các tài liệu nghiên cứu về lý luận và
thực hành truyền hình phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập
ở các trường, khoa còn quá ít ỏi, chưa có hệ thống, chưa tương xứng với sự
phát triển của truyền hình.
2. Chính luận truyền hình là gì?

4


Quan điểm 1: Chính luận là một nhóm thể tài báo chí. Nó có chung

hình thức là thông tin lý luận. Chính luận bao gồm một số thể tài độc lập (bản
thân nó chứa đựng phương pháp, bản chất riêng không phụ thuộc vào thể tài
khác): xã luận, bình luận, tiểu luận, chuyên luận, điểm báo.
Quan niệm 2: Trong thực tế, những quan niệm về chính luận và các thể
tài trong nhóm chính luận hiện nay không thống nhất. Cụ thể: - Không thống
nhất trong bản thân những người nghiên cứu báo chí - Không thống nhất giữa
báo chí của ta với thế giới. Trên thế giới không có nhóm chính luận mà có
từng thể tài cụ thể. Còn ở VN, bản thân xã luận, bình luận. là một thể loại
riêng nhưng được xem xếp vào một nhóm là chính luận. Nhưng trong đó các
thể tài có tính chất, bản chất khác nhau.
Quan điểm 3: Mặc dù còn có nhiều quan điểm chưa thống nhất nhưng
ở những điểm cơ bản thì nó có được sự thống nhất như: về phạm vi, nó đề cập
đến những cái khái quát mang tính tiêu biểu, chỉ ra hướng vận động; thống
nhất về đối tượng tác động. Trong tác phẩm chính luận, các sự kiện riêng rẽ
nhưng được xem xét một cách có hện thống, có logic.(Xem xét trong mối
quan hệ biện chứng)
Tóm lại, chính luận là một thể tài báo chí dùng lí lẽ để soi sáng sự kiện,
giúp công chúng hiểu đúng sự thật, hướng họ đến hoạt động tích cực, phù hợp
với tư tưởng, quan điểm, ý đồ của tác giả.Qua đó, có thể rút ra khái niệm
chính luận truyền hình là một thể tài báo chí dùng lí lẽ, phân tích, luận giải
để soi sáng sự kiện, vấn đề xã hội bằng các tác phẩm khác nhau như điện
ảnh, phim tài liệu, tiểu phẩm truyền hình..để công chúng hiểu đúng sự thật,
hướng họ đến hoạt động tích cực, phù hợp với tư tưởng, ý đồ của tác giả.
Bản thân báo chí là phương tiện định hướng tư tưởng. Bởi lẽ chính luận
truyền hinh không phản ánh tính hình thức mà phản ánh cái bên trong của nó,
làm thay đổi nhận thức của công chúng về bản chất của sự kiện. Do đó tác giả
phải thể hiện quan điểm, ý đồ của mình để định hướng cho nhận thức hoạt
động. Nói cách khác, chính luận báo chí là xem xét soi sáng những sự kiện
5



bằng lí luận mà đặc trưng của lí luận có tính chất định hướng, chỉ đường.
Những sự kiện trong tác phẩm chính luận được soi sáng bằng tư duy lí luận,
tư duy logic.
3. Chuyên mục trào phúng trong chương trình truyền hình
Chuyên mục trào phúng trong chương trình truyền hình chiếm một vị
trí quan trọng trong chính luận truyền hình. Tính chất độc đáo của các thể loại
trào phúng trong chương trình truyền hình bắt nguồn từ nguyên nhân là chính
thể loại này có sứ mạng thể hiện khó khăn lớn nhất và quan trọng nhất của
“người tẩy rửa xã hội” là vạch trần các thói hư tật xấu. Bản chất tài liệu của
truyền hình đã tăng cường lên gấp nhiều lần hiệu lực của những chương trình
truyền hình trào phúng và cũng đòi hỏi một trách nhiệm lớn của nhà báo, đòi
hỏi nhà báo có một sự trung thực cao độ trước những đối tượng bị nhà báo ấy
phê phán, cũng như trước khán giả truyền hình. Điều này làm cho quá trình
xây dựng tác phẩm thuộc thể loại trào phúng trở nên hết sức cực nhọc, còn
xét trên góc độ sáng tạo thì quá trình ấy đòi hỏi phải có một tài năng thiên
phú, một nghệ thuật lớn, một sự cảm thụ sắc bén, một tầm suy nghĩ sâu sắc.
Nhà văn trào phúng vĩ đại Nga M.E. Xantucopsedrin đã viết như sau:
“Để cho thể loại trào phúng thực sự trở thành trào phúng và đạt đến mục tiêu
của mình thì, thứ nhất nó cần phải làm cho độc giả cảm nhận được lý tưởng
mà tác giả bài trào phúng xuất phát từ đó phải nhận thức được hoàn toàn rõ
ràng đối tượng mà mũi nhọn của trào phúng chĩa vào”.
Trào phúng khác hẳn với hài hước, tuy rằng cả hai thứ đó đều có chức
năng gây cười. Tuy nhiên điều thường gặp nhất ở hài hước là có ý tốt, nhẹ
nhàng, các nhân vật trong tác phẩm hài hước thì thường gây sự đồng cảm ở
công chúng. Còn trào phúng là thể loại vạch trần, đả kích thói hư tật xấu, đó
là “tiếng cười phá hủy”, “tiếng cười của ưu thế”.
Ở đây cũng có những cung bậc. Sự mỉa mai tạo ra sự cười giễu, tạo ra
một mức độ xúc phạm lớn đối với đối tượng mỉa mai. Mỉa mai có thể phát
triển thành chế nhạo cay độc. Trong các tác phẩm trào phúng, người ta sử

6


dụng rộng rãi những thủ pháp ngoa dụ, cố tình tạo tình tiết lố bịch và những
hình thức phóng đại khác mang tính chất hình tượng, tạo sự sắc bén tối đa và
cho phép làm rõ thực chất của những khía cạnh hoặc những hiện tượng thực
tế nào đó có tính chất quái dụ không thể chấp nhận được về mặt xã hội (ví dụ
như tệ nạn tham nhũng, ăn của đút, hoặc tệ nạn quan liêu). Toàn bộ chuỗi thủ
pháp của trào phúng càng lúc càng gia tăng những tình tiết thể hiện thói hư tật
xấu của đối tượng bị vạch trần để tiếng cười chê trách, đả kích được đẩy đến
mức cao nhất.
Vào những năm 1980, truyền hình của Grudia đã sử dụng rộng rãi các
thể loại trào phúng (chuyên mục “phòng trưng bày những phần tử quan liêu”),
mọi người đều biết đến chương trình “ Cửa sổ trào phúng trên truyền hình”,
được phát tại nhiều đài truyền hình.

Chương II: Đại cương về tiểu phẩm trào phúng truyền hình
I .Tiểu phẩm
a. Khái niệm tiểu phẩm
Tiểu phẩm theo tiếng Latinh là “Satira”, có nghĩa là trào phúng, châm
biếm, đả kích. Theo Từ điển Tiếng Việt, tiểu phẩm có nghĩa là:
- Bài báo ngắn về vấn đề thời sự có tính chất châm biếm.
- Màn kịch ngắn mang tính chất hài hước, châm biếm hoặc đả kích.
Theo quan niệm của Bùi Đình Khôi: “Tiểu phẩm là một thể loại tác
phẩm báo chí ngắn gọn, mang tính văn học, được diễn đạt bằng một ngôn ngữ
châm biếm hoặc hài hước về một sự việc có thực, cụ thể, hoặc khái quát mà
thông qua đó tác giả biểu hiện quan điểm của mình trước những sự việc hoặc
hiện tượng đó”.
Từ đó có thể đưa ra khái niệm về tiểu phẩm như sau: Tiểu phẩm là một
thể loại báo chí ở nhóm chính luận - nghệ thuật, mang tính văn học, được diễn


7


đạt bằng ngôn ngữ châm biếm, đả kích hoặc hài hước về một sự kiện, sự việc,
hiện tượng có thực, cụ thể hoặc khái quát, qua đó tác giả thể hiện quan điểm
của mình về sự kiện, hiện tượng đó.
Trên thế giới, tiểu phẩm ra đời vào những năm 60 – 70 thế kỉ 18 với sự
xuất hiện các bài viết của Nôvicốp và Giecxen trên báo chí Nga. Vào đầu thế
kỉ 19 trên báo chí Pháp xuất hiện những bài viết của cố đạo Guyliêng Giốp
Phroa được nhiều người biết đến. Ở Việt Nam, theo một số tài liệu nghiên
cứu, các dạng trào phúng và tiểu phẩm bắt đầu xuất hiện trên báo chí vào
những năm đầu thế kỉ 20 với những tờ báo như Đông Dương tạp chí, Đông
Tây, Duy Tân, Phong hoá, Vịt đực, Con ong Trên những tờ báo này đã xuất
hiện nhiều bài viết có tính châm biếm, hài hước, in những hí hoạ, biếm hoạ,
thậm chí có những tờ báo chuyên in truyện cười với những tác giả nổi tiếng
như Tú Xương, Nguyễn Khuyến, Hồ Xuân Hương.Tuy nhiên, phải đến thời kì
Cách mạng dân chủ khi báo chí tiến bộ và cách mạng có điều kiện phát triển
công khai, thể loại tiểu phẩm mới thực sự phát triển. Cùng với thời gian, tiểu
phẩm ngày càng phát triển và hoàn thiện cùng với quá trình phát triển của nền
báo chí Việt Nam. Cùng với các thể loại báo chí khác, tiểu phẩm báo chí góp
phần vào việc thực hiện mục tiêu của đất nứơc: dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.


Mẫu mực của thể loại văn tiểu phẩm ở phương Tây có thể tìm thấy

qua tập tiểu phẩm của Môngten (1533-1592), các tiểu phẩm của Vônte,
Điđơrô, Letxinh, Hecđơ, Punskin, Giecxen... ở phương Đông, văn tiểu phẩm
có truyền thống lâu đời nhưng có sự nở rộ của của chúng gắn liền với ý thức

về nhân cách, cá tính. Tiêu biểu cho thể loại văn tiểu phẩm phương Đông là
Tiểu phẩm của Liễu Tông Nguyên, Âu Dương Tu, Chu Tư Thanh, Băng
Tâm... ở Trung Quốc; hay “Vũ Trung tuỳ bút” của Phạm Đình Hổ ở Việt
Nam.


Ngày nay, nhiều phương tiện truyền thông đã ra đời và ngày một

phát triển có tính chất quy mô như vô tuyến truyền hình, phát thanh... Tuỳ
8


theo phương thức truyền thông của của mỗi loại hình mà các cách thể hiện
tiểu phẩm báo chí cũng có nhiều dạng khác nhau. Ngoài những hình thức
truyền thống là văn xuôi, thể trào phúng còn có trong ca dao, kịch ngắn, phim
hài, nhiếp ảnh, tranh biếm hoạ... và trong tương lai, trên báo chí sẽ xuất hiện
nhiều hình thức phong phú, đa dạng hơn nữa.
• Cho tới nay, tuy còn nhiều quan niệm khác nhau về tiểu phẩm,
nhưng có thể nêu một khái niệm được nhiều người chấp nhận về tiểu phẩm
như sau: Tiểu phẩm là một thể loại báo chí ở nhóm chính luận- nghệ thuật,
mang tính văn học, được diễn đạt bằng ngôn ngữ châm biếm, đả kích hoặc
hài hước về một sự kiện, sự việc, hiện tượng có thực, cụ thể hoặc khái
quát, qua đó tác giả thể hiện quan điểm của mình về sự kiện, hiện tượng
đó.

9


II. Đặc trưng, đặc điểm của tiểu phẩm báo chí
1.Tính trào phúng:

• Theo Bách khoa toàn thư Liên Xô: trào phúng là một phương pháp
nghệ thuật đặc biệt, tái tạo lại hiện thực, khám phá ra nó là một cái gì đó sai
lệch, vô lý, không xác đáng ở bên trong (khía cạnh nội dung) bằng cách hình
tượng đáng cười, đáng phê phán, chế nhạo (khía cạnh hình thức).
• Trào phúng không chỉ là nét đặc biệt của sáng tác văn học, báo chí
mà còn là một nguyên tắc phản ánh nghệ thuật trong đó các yếu tố của tiếng
cười mỉa mai, châm biếm, phóng đại, khoa trương, hài hước... được sử dụng
để chế nhạo, chỉ trích, tố cáo, phản kháng... những cái tiêu cực, xấu xa, lỗi
thời, độc ác trong xã hội.
• Trào phúng có nghĩa là dùng lời nói bóng bẩy, kín đáo để mỉa mai kẻ
khác. Trong tiểu phẩm báo chí, trào phúng gắn liền với phạm trù mỹ học. Văn
trào phúng bao gồm một lĩnh vực rộng lớn với những cung bậc và âm hưởng
khác nhau, từ những mẩu chuyện tiếu lâm, các vở hài kịch đến thơ trào
phúng, thậm chí cả tiểu thuyết. Đó là sự bao trùm của tiếng cười trong lĩnh
vực văn học và báo chí. Từ lâu, người ta cũng đã quan tâm đến việc sắp xếp
vị trí của trào phúng như một dạng của tính trữ tình ở khía cạnh bộc lộ quan
niệm bên trong của con người. Thời kỳ Phục hưng, quan điểm này bị nghi
ngờ khi đứng trước cả tác phẩm lớn của Xetvantéx, Rabơle và đến thế kỷ 19,
Hêghen còn cho rằng trào phúng không mang tính sử thi và không phù hợp
với tính trữ tình. Theo L.T.Timophéep- trào phúng là phương diện đặc biệt
của sáng tác văn học, gần gũi với trữ tình sử thi và kịch trong trường hợp cụ
thể.
Trào phúng là sự hài hước, diễu cợt, vạch ra cái lố bịch, kỳ khôi để răn
đời nên tính hài hước của nó được biểu hiện bằng tiếng cười trào lộng. Đối
tượng của tiếng cười là các hành vi, bản chất xấu xa của một cá nhân, một
tầng lớp, thậm chí một giai cấp nào đó trong cộng đồng. Tính gây cười đặc
biệt này chính là công cụ quan trọng để đả kích cái xấu còn tồn tại trong xã

10



hội. Đồng thời nó cũng là thang thuốc bổ giúp mọi người quên đi bao lo toan,
khó nhọc trong cuộc sống và cố gắng vươn lên để hoàn thiện bản thân mình.
2. Tính châm biếm:
• Châm biếm - đả kích là một dạng đặc biệt trong sáng tác văn học,
báo chí, là dùng lời lẽ thâm thuý, vạch trần bản chất của đối tượng, hiện tượng
tiêu cực trong xã hội. Châm biếm gắn liền với lẽ phải, yêu cầu của châm biếm
cũng cao hơn hài hước ở mức độ gay gắt của sự phê phán và ý nghĩa sâu sắc
của hình tượng nghệ thuật. Về phương diện xã hội, phần lớn các tác phẩm của
châm biếm thường chĩa mũi nhọn vào kẻ thù của dân tộc, những kẻ đi ngược
dòng lịch sử, những kẻ phản bội... chẳng hạn như các tác phẩm của Nguyễn ái
Quốc, Tú Mỡ, Thợ Rèn, X.cvantex, Xăntcôp Sedrin...
• Các nhà văn, nhà thơ trào phúng thường có các tác phẩm có giá trị đả
kích bọn thống trị tàn bạo hà khắc, bọn xâm lược và bè lũ phản bội, bán nước
cầu vinh, phê phán, bài trừ những thói hư tật xấu, những tư tưởng không
chính thống, không lành mạnh trong xã hội.
• “Châm biếm với những đề tài nội bộ thực hiện vai trò tích cực của
mình bằng việc, khi tố cáo cái xấu, cái khuyết điểm, tác động lên sự vận động
đi lên của xã hội”.
• Trong văn châm biếm thường chứa đựng các ẩn ý khiến kẻ có “tật”
phải “giật mình”, còn người đọc thì thích thú khi phát hiện ra khía cạnh mà
tác giả có ngụ ý nói đến. Đó là hai ý tưởng gặp nhau, tạo nên một ấn tượng
khó quên.
• Đối với người dân, châm biếm hài hước nhiều khi có tác dụng giáo
dục một cách nhẹ nhàng, sâu xa mà không kém phần hiệu quả. Những đoạn
thơ, đoạn văn vừa góp phần baì trừ các tệ nạn xã hội, vừa có tính xây dựng.
Tính bài trừ này thể hiện rõ ở dụng ý phê phán trong cái hài hước biểu hiện
ngay ở nội dung tác phẩm. Châm biếm, hài hước còn có thể sử dụng các thủ
thuật: so sánh, ẩn dụ, ví von... để tạo nên tiếng cười sảng khoái, sâu sắc và
mang lại hiệu quả lớn.

3. Tính đả kích

11




Tiểu phẩm báo chí còn được sử dụng để đả kích, phê phán và lên án

gay gắt những hành vi xấu xa, bỉ ổi cũng như những hành động thù địch của
kẻ thù. Đối tượng bị đả kích có thể có tên tuổi, địa chỉ rõ ràng. Đả kích có tác
dụng rõ rệt là đánh gục đối phương về mặt tinh thần.
• Trong tiểu phẩm báo chí, tính đả kích, hài hước được thể hiện bằng
cái cười nghiêm khắc đối với cái xấu xa bị bóc trần khỏi vỏ bọc ngoài đẹp đẽ,
tạo cho người đọc có thái độ đúng dắn với tiêu cực, cái xấu và dễ dàng nhận
diện được nó trong những cái tưởng như rất thường trong cuộc sống.
4. Cái hài trong Tiểu phẩm:
• Trong các tiểu phẩm báo chí cái hài thuộc phạm trù mỹ học, phản
ánh hiện thực phổ biến của đời sống xã hội ở những cung bậc khác nhau. Đó
là sự mâu thuẫn, sự không tương xứng mà người ta có thê cảm nhận được.
Khi bàn về cái hài, S.Cneepxki - nhà văn, nhà tư tưởng Nga đã viết “Cái hài
là sự trống rỗng và sự vô nghĩa ở bên trong được che đậy bằng cái vỏ huênh
hoang tự cho rằng có nội dung và ý nghĩa thực sự”.
• Cái hài thường gắn với cái buồn cười, nhưng không phải cái buồn
cười nào cũng có tính hài. Cái hài bao gồm ý nghĩa xã hội gắn liền với sự
khẳng định lý tưởng thẩm mỹ cao cả. Nó là sự phê phán mang tính cảm xúc
sáng tạo tích cực có sức công phá mạnh mẽ đối với cái tiêu cực luôn tồn tại
trong xã hội. Sức mạnh phê phán vừa có tính phủ định, vừa mang tính khẳng
định. Nó phủ định cái xấu xa mang danh cái đẹp mà tính hài là cơ sở đặc
trưng cái đẹp, vốn là của hiện thực. Trong các tác phẩm báo chí tiếng cười có

nhiều cung bậc và những sắc thái khác nhau. “Người ta thường coi humuor,
hài hước là cung bậc đầu tiên và châm biếm là cung bậc cuối cùng”.
• Trong hài hước, phép biện chứng của trí tưởng tượng phóng khoáng
hé mở cho thấy đằng sau cái tầm thường là vẻ cao quý, sau cái điên rồ là sự
anh minh. Trong châm biếm, đối tượng của tiếng cười là thói hư tật xấu, vì
thế nổi bật nên là giọng đả kích, phủ định, tố cáo dẫn đến tiếng cười mang các
sắc thái khác nhau: cười khinh bỉ, mỉa mai, chua chát...
• Bởi vì trong humuor, phép biện chứng của trí tưởng tượng, phóng
khoáng hé mở cho ta thấy đằng sau cái tầm thường là cái cao quý, sau cái điên
12


rồ là cái anh minh, sau cái buồn cười là nỗi đau. Trái lại, trong châm biếm,
đối tượng của tiếng cười là thói hư, tật xấu, nên nổi bật lên là cái giọng đả
kích, phủ định, tố cáo. Tiếng cười trong các tác phẩm, tiểu phẩm còn mang
những sắc thái phong phú, da dạng: Cười khinh bỉ, cười thiện cảm, cười
nghiêm khắc, cười chua chát... Dĩ nhiên trong tác phẩm tiểu phẩm, cái hài dù
ở cung bậc nào cũng cần có ba yếu tố tạo thành.
• Một là, bản chất mang tính hài hước của đối tượng mà ai cũng có thể
dễ dàng cảm nhận được.
• Hai là, sự cường điệu của những đường nét, kích thước và những liên
hệ của chúng trong việc mô tả đối tượng.
• Ba là, sự sắc bén, ý nhị, hóm hỉnh của người thể hiện nhằm làm tăng
thên hiệu quả của tiếng cười.
• Trong các tác phẩm của tiểu phẩm báo chí còn có hài hước, hay còn
gọi là humuour- một dạng của cái hài, có mức độ phê phán nhẹ nhàng, chủ
yếu gây cười, mua vui. Trên cơ sở vạch ra sự mất hài hòa, cân đối giữa nội
dung và hình thức, bản chất và hiện tượng, đặc biệt là lý tưởng và thực tế, như
dốt mà hay nói chữ, sợ vợ mà lên mặt làm chồng, trưởng giả học làm sang.
• Khác với nghịch dị, hài hước trong tiểu phẩm thường biểu hiện tính

chất kín đáo, thâm trầm, không lộ liễu, khác cái châm biếm ở mức độ nhẹ
nhàng, đùa vui, thiện ý. Vì thế mà hài hước trong các tác phẩm tiểu phẩm biểu
hiện sản phẩm trí tuệ, tài năng của tác giả. Đặc trưng của hài hước trong tiểu
phẩm còn bởi sự khéo léo, nhẹ nhàng của tác giả, vạch ra các mâu thuẫn, tạo
ra cái buồn cười, bất ngờ giúp công chúng nhận ra sự trớ trêu của tình huống,
mỉm cười mà phân tích đúng sai.
5. Tính hài kịch trong tiểu phẩm:
• Như trên đã nói, chủ đề tư tưởng của tác phẩm tiểu phẩm hướng vào
sự cười nhạo cái xấu xa, lố bịch đối lập với lý tưởng xã hội hoặc chuẩn mực
đạo đức. Nhân vật, sự kiện, hiện tượng của hài kịch trong tiểu phẩm thường
không có sự tương xứng giữa thực chất bên trong với danh nghĩa bên ngoài
của mình nên đã trở thành lố bịch. Các tính cách trong hài kịch của tác phẩm

13


tiểu phẩm thường được mô tả một cách đậm nét, cận cảnh và ở trạng thái tĩnh,
nhất là những nét gây cười. Phạm vi phản ánh của hài kịch trong các tác phẩm
tiểu phẩm hết sức rộng lớn: từ những vấn đề chính trị - xã hội, đến những thói
hư, tật xấu trong cuộc sống hàng ngày. Trong tác phẩm tiểu phẩm tính hài
cũng có thể cho phép ở một góc độ nhất định sao cho nỗi đau không lấn át cái
cười để từ đó hài kịch chuyển thành chính kịch.
• Cái hài trong tiểu phẩm biến chất do nội dung cung bậc, tính chất của
tiếng cười quyết định.
III.Tiểu phẩm trào phúng
1. Khái niệm
Đó là thể loại trào phúng chính luận truyền hình chủ chốt. Thể loại này
được thể hiện tập trung phân tích, chỉ rõ những nét tiêu biểu của tính cách
nhân vật- đối tượng trào phúng mang tính chất đặc trưng của toàn nhóm các
thể loại trào phúng. Giống như ký sự, các tiểu phẩm trào phúng cho phép một

sự tự do rộng rãi về trí tưởng tượng sáng tạo khi xây dựng cấu trúc, bố cục
của tác phẩm, cũng như trong việc lựa chọn các phương tiện tạo hình- biểu
cảm. trong tiểu phẩm trào phúng, người ta sử dụng rộng rãi các thủ thuật trần
thuật mang tính chất hình tượng.
2. Đặc điểm của tiểu phẩm trào phúng
* Kịch bản của tiểu luận trào phúng mang tính nghệ thuật cao
Dĩ nhiên những nét chung ấy của thể loại vẫn được duy trì cả trong cả
trong hình thức trào phúng truyền hình. Vậy là bằng cách kêt hợp tính tài liệu
và tính nghệ thuật trong mô tả, thể loại tiểu phẩm trào phúng không chỉ đối
với tác giả viết kịch bản và người quay phim và đạo diễn phải có tài nghệ.
Những yếu tố phóng đại bắt buộc phải có (tính lố bịch , cần được đưa
lên hàng đầu khi thể hiện những khía cạnh tiêu cực riêng lẻ, đôi khi được che
giấu, của một hiện tượng, của một tình huống được xem xét) đã quy định một
cấu trúc tạo hình- dựng ghép đặc biệt trong các tác phẩm thuộc thể loại này.
Giải pháp truyền hình đặc biệt áp dụng trong việc lựa chọn cự li hình ảnh, sự
kết nối (so sánh) các đoạn phim tạo ưu thế của phương pháp dựng ghép liên
14


tưởng. Phần lời kèm theo hình ảnh trong tiểu phẩm trào phúng truyền hình
cũng mang tính đặc trưng. Phần này cũng phục vụ giải quyết những nhiệm vụ
cũng giống như của phần hình ảnh. Căn cứ vào những nhiệm vụ của thể loại
tiểu phẩm trào phúng, tác giả sử dụng thủ pháp mỉa mai, châm biếm sâu cay,
chuyển từ trần thuật bình tĩnh sang những nhận xét mang tính cảm xúc sắc
bén, giàu hình tượng, rồi tiếp đó lại chuyển sang những xung đột và so sánh
bất ngờ. Như vậy là , kịch bản của tiểu luận trào phúng phải hiển nhiên là
một tác phẩm mang tính nghệ thuật cao.
* Tiểu phẩm trào phúng được xây dựng trên cơ sở thực tế có thực
Tiểu phẩm trào phúng được xây dựng dựa trên cơ sở thực tế đã được
kiểm tra, có địa chỉ thực tế và nhiều khi mô tả những con người hoàn toàn có

thật, có những họ tên đích thực. Loại hình ấy xét cả về tính chất , cả về nhiệm
vụ, đều gần gũi với tiểu phẩm báo chí. Tuy nhiên không nên đặt cạnh nhau
tiểu phẩm truyền hình đích thực và người anh em của nó trong văn học được
thể hiện dưới dạng tạp kĩ và cũng được trình chiếu trên truyền hình. Từ những
vở độc thoại xuất sắc của A.Raikin cho đến những buổi trình chiếu của
M.Giơ-van-het-xki, M.Dadoocnop rất được khán giả hâm mộ- tất cả những
tiểu phẩm ấy đều là những tiểu phẩm văn học.
Đài truyền hình NTV là người tạo ra loạt chương trình các tiểu phẩm
trào phúng truyền hình trong đó đã sử dụng rộng rãi gần như mọi khả năng
của trào phúng và hài hước( tính mỉa mai, châm biếm cay độc, vạch trần sự bỉ
ổi,..). Loạt chương trình “ Những con rối” của đài này trong một thời gian hết
sức ngắn đã trở nên nổi tiếng và giữa được thứ hạng cao.
Loạt chương trình khác không kém phần nổi tiếng của Viichsto Sen
đrêôvích cso nhan đề “ Kết quả” đã thể hiện những nét đặc trưng của văn đả
kích. Cả hai thể loại ấy đều đề cập đến những vấn đề của đời sống nội bộ
nước Nga. Điều đó cũng nói lên quá trình dẫn chủ hóa trong chính sách và
xây dựng chương trình của ngành truyền hình Nga.

15


Phim đả kích xuất sắc của Iuri Khasevatxki có nhan đề “Một tổng
thống bình thường” đã nhận được không ít giải thưởng, trong đó có những
giải thưởng quốc tế, nhưng làm chi chính quyền của nước Beelorutxia bực
bội. Thể loại trào phúng luôn luôn là lĩnh vực mạo hiểm.
*Mang tính hình ảnh, tính đại chúng của truyền hình
Tính chất hình ảnh của truyền hình, tính chất đại chúng về phương
diện khán giả, một mặt đã quyết định tính tiêu biểu cao của sự việc đơn lẻ,
mặt khác ngay từ đầu, những đặc tính ấy của truyền hình lại mang tính cụ thể
tuyệt đối, đòi hỏi một sự chú ý đặc biệt, sự thận trọng trong việc sử dụng

phương tiện có sự tác động mạnh như thể loại tiểu phẩm trào phúng truyền
hình. Bởi vì, ví dụ tiểu phẩm trào phúng nói về những kẻ nghiện rượu và
những kẻ hay gây gổ, được đăng lên báo, là một vấn đề, còn một loạt những
điển hình sống động ấy trên truyền hình thì đó lại là vấn đề khác. Hình ảnh
nhìn thấy có tác dụng làm tăng nhiều lần sức mạnh của sự tác động cảm xúc
so với lời văn. Nhưng đồng thời (nói chính xác hơn, chính là nhờ đó) việc sử
dụng thể loại tiểu luận trào phúng truyền hình mang tính chất tài liệu lại tỏ ra
hết sức hữu hiệu trong những trường hợp khi người ta đặt ra nhiệm vụ gây sự
hưởng ứng rộng rãi của xã hội, tạo ra bầu không khí không dung chấp đối với
những biểu hiện nào đó của tệ nạn.

Chương III: Tính đả kích và châm biếm trong chính luận
truyền hình
I .Thể loại đả kích
1. Khái niệm
Thể loại đả kích là tác phẩm chính luận nóng hổi mà mục đích và tinh
thần của nó là sự vạch trần một hiện tượng, một sự vạch trần mang tính công
16


dân, chủ yếu mang tính chất chính trị xã hội. Sự giống nhau gữa thể loại này
với tiểu phẩm là điều hiển nhiên không thể hoài nghi, nhưng sự khác biệt giữa
những thể loại trào phúng ấy của chính luận nghệ thuật cũng biểu hiện như
vậy. Ở đây tính chất chính luận được kết hợp một cách hữu cơ với những ưu
thế nghệ thuật của thể loại trào phúng. Trong thể loại đả kích, sự phê phán
mang tính chất vạch trần, đả phá.
Trước đây những tiểu phẩm trào phúng chủ yếu vạch trần chủ nghĩa đế
quốc quốc tế. Những tác phẩm của các nhà báo chuyên về các vấn đề quốc tế
như U.Dorin “ Những bộ mặt và những mặt nạ”, của V.Đunaep “ Bà Eetiket”
được xem là những tác phẩm giáo khoa. Tuy nhiên đề tài của thể loại đả kích

cũng có thể là những vấn đề trong nước. Sự khác biệt với thể loại trào phúng
là ở chỗ : tiểu phẩm trào phúng đề cập đến những sự việc đơn lẻ, một sự kiện
cụ thể, trong khi đó chức năng của thể loại văn đả kích là phê phán hệ thống
những quan điểm. Như vậy văn đả kích vạch trần chính bản chất xấu xa của
xã hội mà nó chống lại.
Ví dụ: Theo báo dân trí số ra ngày 26/01/2013 có bài bình luận về tính
đả kích và châm biếm trong Hài Táo Quân 2013
“ Những vấn đề nóng nhất trong năm như kinh tế suy thoái, cải cách
giáo dục nát bét, giao thông bế tắc, bóng đá không biết đi đâu về đâu, dân
khốn cùng vì những dự án treo… đã được Táo quân 2013 phản ánh hài hước
qua những tình tiết kịch bản sắc nét”
Năm nay, chương trình Táo quân kỷ niệm 10 năm lên sóng. Kể từ khi
ra mắt vào năm 2002 dưới hình thức kịch bản của chương trình Gặp nhau cuối
năm, Táo quân- đã trở thành một thương hiệu của truyền hình. Đả kích, châm
biếm những vấn đề nóng nhất trong năm của tất cả các nghành nghề, Táo
quân trở thành chương trình được khán giả chờ đợi. Sau 10 năm, cứ mỗi dịp
Tết đến, trong những đêm giao thừa đón năm mới, nhà nhà đã có thói quen

17


đón xem Táo quân để cùng nhìn lại một năm với những điều nhức nhối còn
tồn đọng, để cùng cười, cùng ngẫm nghĩ.
Chương trình Táo quân phát sóng đêm giao thừa Tết Nguyên đán đón
năm mới Quý Tỵ 2013 đã được tổng duyệt và ghi hình vào tối 25/1 tại Cung
Văn hóa Hữu Nghị Việt Xô. Chương trình đồng thời kỷ niệm 10 năm lên sóng
với những gương mặt nghệ sỹ đã trở nên quen thuộc đến mức thân thiết với
khán giả như Ngọc hoàng (Quốc Khánh), Nam Tào (Xuân Bắc), Bắc Đẩu
(Công Lý), Táo Giao thông (Chí Trung), Táo Kinh tế (Quang Thắng)…
Táo quân 2013 châm biếm, đả kích những vấn đề nóng nhất trong năm

với một kịch bản nhiều điểm nhấn, nhiều tình tiết đắt giá. Táo Giao thông
(NSƯT Chí Trung) với bản báo cáo bằng thơ về ách tắc, về tai nạn giao thông
thảm khốc, thậm chí, Táo Giao thông mơ ước được xây dựng một bảo tàng về
ngành Giao thông với thiết kế tầng 1 dành trưng bày những chiếc xe “nát
bươm” sau tai nạn, tầng 2 cho triển lãm những xác người trong những tình
huống gây tai nạn, tầng 3 để dành cho những cuộc hội thảo để cải thiện tình
hình ách tắc giao thông, ví dụ, có nên hay không nên đưa ra sáng kiến mới,
(tính theo 12 con giáp) ai tuổi con gì ra đường vào giờ con nấy… Phần đối
đáp về xe chính chủ và mơ ước có ngày tận thế, thiên thạch san phẳng trái đất
để Táo Giao thông có thể quy hoạch lại giao thông từ đầu… mang lại những
tràng cười sảng khoái cho khán giả. Kịch bản với những điểm nhấn đầy bất
ngờ khi Táo Giao thông nộp hồ sơ sang Táo Văn thể (Văn hóa- Thể thao) xin
đề xuất đưa Tắc đường- trở thành di sản văn hóa!
Táo Dân sinh (đại diện cho hai ngành Giáo dục- Y tế) được xây dựng
kịch bản công phu với tình huống về một bệnh viện trong mơ, ở đó khang
trang sạch sẽ với thiết bị y tế hiện đại, tối tân, và đặc biệt, tuyệt đối nghiêm
cấm chuyện phong bì. Táo Dân sinh cũng bày tỏ về kế hoạch cải cách Giáo
dục dựa trên giáo trình của một Giáo sư người Đức tên là Nát-bét. Chính vì
giáo trình Nát-bét đã khiến cải cách giáo dục trở nên nát bét... Những nút thắt

18


mở, những tình huống hài sắc nét trong phần báo cáo của Táo Dân sinh (Vân
Dung) khiến khán giả cười nghiêng ngả.
Táo Kinh tế (Quang Thắng) được kịch bản “khoản đãi” màn nhảy
“Hoang mang style” đầy ấn tượng. “Hoang mang style” trên nền nhạc đình
đám của “Gangnam style” đã cùng Táo Kinh tế kể chuyện giá vàng, bất động
sản và mối quan hệ nhiều “ngang trái” giữa ngân hàng và doanh nghiệp…
Táo Văn-Thể (Minh Hằng) với giai điệu buồn thảm của bóng đá và số phận

ảm đạm của các cầu thủ khi bị những ông bầu bỏ rơi được tái hiện sắc sảo.
Mỗi Táo đều được xây dựng hình ảnh khác biệt với phần lời thoại hóm hỉnh,
hài hước đặt trong những tình huống hài chắt lọc, đầy chất châm biếm, đả
kích.
Đặc biệt, phần trình diện của các Táo năm nay khiến khán giả cười ồ,
khi 4 Táo xuất hiện trên ghế như 4 huấn luyện viên của chương trình Giọng
hát Việt (The Voice), Táo Giao thông với hai chiếc nhẫn kim cương to lấp
lánh đưa ra trước mắt hét lên “Hãy về với đội của anh! Hãy về với đội của
anh”, Táo Văn-Thể vừa khóc vừa nói mếu máo, Táo Kinh tế xem xong phần
hát của Nam Tào- Bắc Đẩu nhún vai “Tôi rất thích phần trình diễn này của hai
em ở vòng thi Đối đầu. Các em khiến tôi cảm thấy bí từ…”. Những màn tung
hứng, tái hiện hình ảnh chương trình gameshow ầm ĩ nhất năm 2012 khiến
khán giả đi từ thú vị này đến thú vị khác.
Năm nay, bên cạnh các Táo còn có sự xuất hiện của Thổ Địa (Tự
Long). Xuất hiện ấn tượng với giai điệu của “ca khúc của năm”- Chiếc khăn
Piêu, Thổ Địa mang đến những câu chuyện buồn ngang trái về bất động sản,
về đất đai, về cuộc sống khốn khổ của người dân trước những dự án treo,
những quy hoạch treo…
Với một kịch bản nhiều điểm nhấn, nhiều chi tiết sắc nét, với lối diễn
xuất tung hứng ăn ý giữa các diễn viên hài dày dặn kinh nghiệm… Táo quân
2013 kỷ niệm 10 năm lên sóng đã không làm khán giả thất vọng. Chương

19


trình mang đến cho khán giả những tràng cười đủ sảng khoái, nhưng cũng đủ
sâu cay để suy ngẫm trong một đêm giao thừa cần nhìn lại.
Như vậy bằng cách dẫn người xem điểm qua những sự kiện nổi bật về
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, thể thao,giáo dục… trong năm vừa qua, Hài
Táo Quân 2013 đã lột tả chân thực những tiêu cực, tệ nạn nhức nhối trong xã

hội bằng cái nhìn toàn diện nhất, chân thực nhất và cũng sâu cay nhất. Thực
trạng đáng buồn ấy được soi chiếu bằng con mắt của những diễn viên hàinhững người đem lại tiếng cười sảng khoái cho khán giả. Cười thật đấy nhưng
cười là để che giấu nỗi đau, cười để nhìn, lắng nghe và suy ngẫm. Từ đó có
cái nhìn đúng đắn nhất về sự thật. Phải chăng tiểu phẩm truyền hình có sức đả
kích càng lớn thì tính chính luận của nó thể hiện càng rõ nét.
II. Khảo sát dòng phim chính luận của truyền hình Việt Nam
Một phương diện quan trọng nữa làm nên diện mạo của thể loại đả kích
trong chính luận truyền hình, đó là dòng phim chính luận đang được Trung
tâm sản xuất phim truyền hình- Đài truyền hình Việt Nam rất chú trọng quan
tâm. Những cái tên gây sốt trong khung giờ vàng của VTV là minh chứng
sống động nhất của việc nâng cao tính chính luận trong phim truyền hình hiện
nay.
Sau một loạt phim chính luận phát sóng gần đây trên VTV như: “Bí thư
tỉnh ủy”, “Ngôi biệt thự màu tro lạnh”, “Chủ tịch tỉnh”, “Đi qua ngày dông
bão”, với nhiều phản ứng tích cực của công chúng, VFC lại tiếp tục tung ra
loạt phim chính luận mới trong giờ “vàng” như: “Đàn trời”, “Những công dân
tập thể” (ảnh), “Mặt nạ da người” và hứa hẹn tiếp theo một số phim khác như:
“Hai phía chân trời”, “Hồng nhan”...
-“Đàn trời” có đề tài chống tham nhũng quanh dự án 135 của Chính
phủ về xóa đói giảm nghèo với cái kết có hậu như môtíp truyền thống, kẻ xấu
bị trừng trị theo pháp luật, những người tốt dù mất mát đau thương, nhưng

20


cũng được trả lại công bằng... Phim có những phản ứng tích cực ở công
chúng, vì đã đi sâu vào những vấn đề nóng của xã hội hiện tại.
-“Mặt nạ da người” (42 tập) mới phát sóng được ít tập có nhiều yếu tố
hình sự. Phim đề cập đến những vụ bê bối trong các cơ quan công quyền,
những tệ nạn xã hội tràn lan, và cũng có rất nhiều người đang quyết làm trong

sạch xã hội, giúp xã hội phát triển ổn định và tốt hơn.
- “Những công dân tập thể” lại tập trung thể hiện những góc khuất của
cư dân trong các khu nhà tập thể qua lăng kính hài hước, bằng những câu
chuyện nhỏ, những mâu thuẫn nhỏ... Đó là những đổi thay trong nếp sống,
trong con người ở nhiều căn hộ tập thể tồn tại từ thập niên 1970 đang đối mặt
với những xung đột nảy sinh trước sự phát triển chóng mặt của đô thị, gây
nhiều sự đảo lộn các quy chuẩn văn hóa, đạo đức truyền thống, và cả sự xung
đột giữa nhiều thế hệ, nhiều thành phần khác nhau trong khu nhà tập thể...
Bên cạnh những thành công được ghi nhận, những bộ phim mang màu
sắc chính luận trên cũng để lại nhiều ý kiến trái chiều xoay quanh việc tổ chức
sản xuất, cốt truyện, tính chính luận thể hiện như thế nào hay vai diễn có lột tả
được hết ý đồ của biên kịch hay không.Có thể nói “Đàn trời” kết thúc đã tạo
được sự chờ đợi và sức hấp dẫn cho công chúng, nhưng nếu nhìn bằng con
mắt khó tính thì phim vẫn mắc lỗi của phim dài tập, là chất lượng các tập
không đều nhau, cách xử lý những tình huống đã “thắt nút” ở các tập trước
chưa gây nhiều kịch tính, còn dàn trải... “Những công dân tập thể”, Mặt nạ da
người” mới đi chặng đầu của phim, mới “bày” ra những tình huống, sự việc,
nhân vật..., nhưng việc xây dựng kịch tính để tạo các “nút thắt” vẫn chưa tới
đỉnh.
“Mặt nạ da người” - đạo diễn Mai Hồng Phong - với giàn diễn viên khá
“cứng”: NSND Như Quỳnh, NSƯT Phạm Cường, NSƯT Huyền Thanh, các
diễn viên Minh Hà, Hồng Quang, Hải Anh, Thanh Bình, Tuấn Tú, Hoa hậu
21


thân thiện 2008 Đậu Thị Hồng Phúc... Phim mới lên sóng chưa được 1/5 số
tập, mới manh nha các tình tiết éo le, song công nghệ làm phim không thu
tiếng trực tiếp, nên diễn xuất của nhân vật và lời thoại có độ “chênh”. Không
biết diễn tiến nội dung của phim sau đó có đủ hấp dẫn, tạo được sự mong chờ
của công chúng?

36 tập phim “Những công dân tập thể” - đạo diễn Vũ Trường Khoa cũng quy tụ nhiều gương mặt diễn viên điện ảnh, sân khấu có tên tuổi. Phim
đã đi được gần 1/3 chặng, đã “thấy” những xung đột, rắc rối và cả “tình”, dù
chưa giải quyết bất kể chuyện gì. Nhưng có lẽ vì muốn tạo cho phim tính giải
trí cao cho “nhẹ” phần chính luận, nên diễn xuất của diễn viên có phần như
sân khấu “đời cười”, ngôn ngữ thoại nhiều, đi vào chủ nghĩa tự nhiên thái
quá, làm cho phim giảm đi sự nghiêm túc cần có...
Nỗ lực thu hút công chúng mạnh mẽ bằng dòng phim chính luận trên
VTV “giờ vàng” là một thách thức không nhỏ. VFC thời gian qua đã, đang
tạo nên thói quen xem phim chính luận trên VTV. Nhưng để “sóng” luôn
mạnh, VFC cũng nên có tính chuyên nghiệp cao hơn nữa trong việc sản xuất
những bộ phim truyền hình dài tập.
Theo tác giả Bích Vân- báo Dân trí :
“Nhìn lại lịch sử các kỳ LHP nhiều năm nay, các bộ phim TH dòng
chính luận tạo được dấu ấn rất lớn. Trong đó, Trung tâm sản xuất phim truyền
hình, Đài THVN đóng góp một phần không nhỏ...

22


Cảnh phim Bí thư tỉnh ủy
Từ Mẹ chồng tôi, Những người sống quanh tôi, đến Chạy án, Luật đời,
Gió Làng Kình, Ma làng....và gần đây nhất là Bí thư tỉnh ủy, Chủ tịch tỉnh đều
được đánh giá cao về chất lượng và chiếm được cảm tình của khán giả. Có thể
thấy, dòng phim chính luận của VTV đã thực sự tạo được thương hiệu, và đây
cũng là dòng phim được VTV xây dựng hẳn một chiến lược đầu tư dài hạn và
bài bản.
Tới đây, dòng phim chính luận sẽ được đa dạng hóa dựa trên việc khai
thác những đề tài đương đại mang tính thời sự như y tế, giáo dục... bên cạnh
những thành công về đề tài nông thôn, hay series Cảnh sát hình sự đã gây
được tiếng vang những năm qua. Trung tâm sản xuất phim truyền hình (VFC)

của Đài THVN vẫn là đơn vị sản xuất chủ lực cho dòng phim này, với những
ưu tiên đầu tư làm phim cũng như vị trí phát sóng trên khung giờ vàng.
Qua ngày giông bão và Chân trời trắng là hai bộ phim sẽ lên sóng
trong thời gian tới đang được hoàn thiện những khâu hậu kỳ cuối cùng.
Những kịch bản chính luận được thu thập từ nhiều nguồn, chuyển thể và đặt
hàng, cũng đã được các đạo diễn chọn lựa để chuẩn bị đưa vào sản xuất. Điều
này cho thấy chiến lược đầu tư dài hơi của VTV cho dòng phim chính luận
luôn được khán giả truyền hình trông đợi. Sự đầu tư ấy là cần thiết để tạo nên
một thương hiệu riêng, hấp dẫn, giàu tính nghệ thuật nhưng vẫn mang đậm
hơi thở cuộc sống hôm nay, cho mỗi bộ phim trên sóng truyền hình quốc gia”.
23


KẾT LUẬN
Trải qua một quá trình hoạt động lâu dài và cố gắng không ngừng nghỉ,
truyền hình Việt Nam đã và đang trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu
của nhân dân trong nước và cộng đồng Việt kiều sinh sống ở nước ngoài.Đó
là thành công lớn và cũng là thách thức đòi hỏi những người hoạt động trong
Đài phải nỗ lực trau dồi chuyên môn, tích lũy kinh nghiệm, hết mình về công
việc.
Một trong những thành công của Đài truyền hình Việt Nam là việc
nâng cao tính chính luận trong tác phẩm truyền hình. Chính luận truyền hình
là một trong những thể loại đòi hỏi nhà báo phải có cái nhìn khách quan,
trung thực cộng với những luận cứ, luận chứng, quan điểm phù hợp nhất để
xây dựng nên tác phẩm. Do đó tiếp tục phát huy những ưu điểm trong năm
vừa qua và tìm ra cái mới trong hoạt động tác nghiệp sẽ tạo tiền đề vững chắc
để truyền hình Việt Nam ngày càng trở nên chất lượng trong lòng công
chúng.

24



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình Báo truyền hình (tập 2), Dương Xuân Sơn, NXB Đại học
quốc gia Hà Nội
2. Truyền thông đại chúng, Tạ Ngọc Tấn, NXB Chính trị quốc gia
3. Dantri.com.vn
4. Baomoi.com.vn

25


×