Tải bản đầy đủ (.docx) (196 trang)

Cơ sở hình thành và giá trị văn hoá của múa rối nước việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.92 MB, 196 trang )

---------------------------------

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI
LÊ THỊ THU HIỀN

CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ GIÁ TRỊ VĂN HÓA
CỦA MÚA RỐI NƯỚC VIỆT NAM

Chuyên ngành: Văn hóa học
Mã số: 62310640

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

HÀ NỘI - 2014

Hã tiợt tư ván viết luận vãn thạc sĩ< luận án tiến sĩ
.Phone : 0972162 399 - Mail : luanvanaz@gmail*com

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


LÊ THỊ THU HIỀN

CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ GIÁ TRỊ VĂN HÓA
CỦA MÚA RỐI NƯỚC VIỆT NAM

Chuyên ngành: Văn hóa học
Mã số: 62310640

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Trần Trí Trắc
2. PGS.TS.

Tình

Đoàn

Thị


3

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ GIÁ TRỊ VĂN HÓA
CỦA MÚA RỐI NƯỚC VIỆT NAM là của riêng tôi và chưa công bố. Các dẫn chứng trong luận án
là trung thực.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này./.

Hà Nội, ngày 10 tháng 8 năm 2014
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Lê Thị Thu Hiền

Hã tiợt tư ván vỉét luận vãn thạc SL luận án tiến sĩ
.Phone : 0972162 399 - Mail : luanvanaz@gmail*com



MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU

Trang
4

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU

Hã tiợt tư ván viết luận vãn thạc sĩ< luận án tiến sĩ
.Phone : 0972162 399 - Mail : luanvanaz@gmail*com


Chữ viêt tăt

Chữ viêt đây đủ

ASEAN

5
: Hiệp hội các nước Đông Nam Á (Asociation of South East Asian)

BCH

: Ban chấp hành

CSVN

: Cộng sản Việt Nam


Festival

: Đại hội liên hoan, Ngày hội, Hội diễn

GS.TS

: Giáo sư, Tiến sĩ

HN

: Hội nghị

NGND

: Nhà giáo nhân dân

NGUT

: Nhà giáo ưu tú

NSND

: Nghệ sĩ nhân dân

NSUT

: Nghệ sĩ ưu tú

Nxb


: Nhà xuất bản

PGS.TS

: Phó giáo sư, Tiến sĩ

ThS.

: Thạc sĩ

Tr.

: Trang

TW

: Trung ương

UNESCO

: Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (United
Nations Educational Scientific and Cultural Organization)

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Với đặc điểm tự nhiên giàu tài nguyên “nước”, nghề nông là nghề chính và quan hệ


Hã tiợt tư ván viết luận vãn thạc sĩ< luận án tiến sĩ
.Phone : 0972162 399 - Mail : luanvanaz@gmail*com


sản xuất gắn kết các thành viên trong cộng đồng sinh sống theo các làng, hình thành nền văn
hoá làng, nên Việt Nam được biết đến như cái nôi của nền văn hoá
6 lúa nước. Châu thổ sông
Hồng là một vùng đất rộng lớn nằm quanh khu vực hạ lưu sông Hồng thuộc miền Bắc Việt
Nam, được bao quanh bởi sông và biển, có đất đai trù phú. Bởi vậy, đời sống văn hoá làng của
cư dân vùng châu thổ sông Hồng rất phong phú, đa dạng về lễ hội truyền thống - là cơ sở để
cha ông ta sáng tạo nên các loại hình nghệ thuật dân gian, mà độc đáo nhất là Múa rối nước,
một di sản văn hoá phi vật thể đặc sắc, hiện nay chỉ còn có ở Việt Nam.
Từ “trò chơi” mang yếu tố diễn xướng dân gian, Múa rối nước đã trở thành bộ môn
nghệ thuật truyền thống mang đậm sắc thái, tâm hồn người Việt, giữ vai trò quan trọng trong
đời sống tinh thần, ảnh hưởng sâu sắc trong giáo dục đạo đức và thẩm mỹ đối với cư dân nông
nghiệp vùng châu thổ sông Hồng. Múa rối nước mang giá trị phản ánh sinh động, chân thực về
đời sống văn hoá của nông dân, nông thôn vùng châu thổ sông Hồng, thể hiện mối quan hệ
tương tác giữa con người Việt với thiên nhiên.
Qua nhiều thế kỷ hình thành và phát triển, cùng với những giai đoạn biến thiên của
lịch sử, Múa rối nước truyền thống cũng trải qua những thăng trầm, lúc phát triển rực rỡ, khi
lại trầm lắng, rơi vào nguy cơ mai một. Do đặc điểm hoạt động theo các phường hội với bí
quyết giữ nghề, khép kín, nên Múa rối nước có nguy cơ thất truyền theo thời gian (đã có nhiều
trò diễn, ngón nghề Múa rối nước vì nhiều nguyên nhân đến nay không còn nữa). Vì thế, đòi
hỏi cần phải tìm ra giải pháp cho các đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp, các phường, hội có
phương thức hoạt động phù hợp, để phát triển, bảo tồn và phát huy Múa rối nước, cả hiện nay
và trong thời gian tới, góp phần thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước về bảo
tồn, phát huy nghệ thuật truyền thống và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, giao lưu văn hóa diễn ra như một tất yếu, vấn đề


Hã tiợt tư ván viết luận vãn thạc sĩ< luận án tiến sĩ
.Phone : 0972162 399 - Mail : luanvanaz@gmail*com


bản sắc văn hóa là yếu tố quan trọng để một dân tộc khẳng định mình. Nghị quyết HN
lần thứ 5 BCH TW Đảng (khoá VIII) đã xác định phải xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Múa rối nước Việt Nam được
7 thế giới ngày càng quan
tâm, yêu chuộng, nhìn nhận như một giá trị đặc biệt, góp phần làm nên văn hóa Việt Nam,
trong khi khán giả trong nước không mặn mà, thậm chí thờ ơ. Vậy giải pháp nào phù hợp cho
Rối nước Việt Nam và các đơn vị nghệ thuật múa rối nước phát triển trong điều kiện hiện nay
để giải quyết được nghịch lý trên?
Cùng là nghệ thuật sân khấu truyền thống, nhưng có lẽ Múa rối nước là thể loại nghệ
thuật được các nhà nghiên cứu quan tâm muộn màng nhất. Trong thực tế, có nhiều công trình
nghiên cứu chuyên sâu về các thể loại nghệ thuật sân khấu truyền thống như Chèo, Tuồng...,
nhưng cho đến nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu về văn hoá trong
Múa rối nước với những tiền đề văn hóa trong nguồn gốc, sự hình thành, đúc rút các giá trị văn
hoá của thể loại nghệ thuật này, để từ đó có những định hướng trong quản lý và bảo tồn, phát
triển nghệ thuật, gìn giữ cho mai sau, gắn kết nó với công tác giáo dục thẩm mỹ và truyền
thống trong học đường, giới thiệu về văn hoá Việt Nam với bạn bè thế giới và phát triển du
lịch.
Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài Cơ sở hình thành và giá trị văn hoá của Múa
rối nước Việt Nam làm luận án để giải quyết các vấn đề đặt ra.

2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án nhằm làm rõ cơ sở văn hóa và giá trị văn hóa của
Múa rối nước Việt Nam, từ đó định hướng, đề xuất một số giải pháp bảo tồn, phát huy Múa rối
nước trong văn hóa.


3. Nhiệm vụ nghiên cứu
-

Hệ thống hoá một cách chọn lọc và có phát triển ở mức độ nhất định những khái niệm về Múa
rối, Múa rối nước và những vấn đề lý luận về giá trị văn hóa để làm tiền đề cho việc tiếp cận

-

đối tượng nghiên cứu.
Tổng quan được tình hình nghiên cứu về Múa rối nước.

-

Khái quát được Múa rối nước trong tiến trình lịch sử văn hóa Việt Nam.

-

Phân tích cơ sở văn hóa và đúc rút những giá trị văn hóa của Múa rối nước Việt Nam.

-

Đánh giá, nêu ra các thành tựu, những hạn chế tồn tại, chỉ ra được nguyên nhân và đặt ra
những định hướng, giải pháp bảo tồn, phát huy Múa rối nước phù hợp với vị trí, vai trò của nó

Hã tiợt tư ván viết luận vãn thạc sĩ< luận án tiến sĩ
.Phone : 0972162 399 - Mail : luanvanaz@gmail*com


trong nền văn hóa Việt Nam cũng như trong quá trình phát triển của đất nước hiện nay.


4. Đối tượng nghiên cứu

8

Đối tượng nghiên cứu của luận án là Múa rối nước và môi trường sinh thái - nhân văn
vùng châu thổ sông Hồng. Cụ thể: Điều kiện địa lý, môi trường tự nhiên, xã hội, đặc điểm cư
dân, văn hóa làng vùng châu thổ sông Hồng; các đặc điểm, yếu tố cấu thành trò diễn rối nước
như buồng trò, sân khấu, nơi xem, hệ thống điều khiển, quân rối, nhân vật, trò và tích trò, văn
học và âm nhạc, diễn xuất; một số trò diễn rối nước truyền thống và các nghệ nhân biểu diễn
của các phường, hội rối nước tiêu biểu; hoạt động biểu diễn của các phường, hội rối nước
truyền thống, các nhà hát múa rối nước chuyên nghiệp; phương thức tổ chức, hoạt động, quản
lý múa rối nước.

5. Phạm vi nghiên cứu
-

về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường tự nhiên, xã hội của vùng
châu thổ sông Hồng đến sự ra đời và tồn tại, phát triển của Múa rối nước. Tìm hiểu đặc trưng
nghệ thuật cũng như phương thức tổ chức hoạt động biểu diễn Rối nước để thấy được cơ sở
hình thành của nghệ thuật, rút ra những giá trị văn hóa của thể loại nghệ thuật này.
Trong tiến trình lịch sử, văn hóa Việt Nam đã có nhiều tiếp biến, giao lưu văn hóa với
nước ngoài trên nhiều phương diện khác nhau của đời sống xã hội. Đề tài này, tập trung nghiên
cứu khía cạnh giao lưu, tiếp biến văn hóa thể hiện trong Múa rối nước đặt trong mối quan hệ
với một số loại hình nghệ thuật sân khấu du nhập vào Việt Nam như Kịch, Múa, Xiếc (tiếp
biến văn hóa với nước ngoài)... Đồng thời, đề tài cũng nghiên cứu mối quan hệ giữa Múa rối
nước với loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống khác có nguồn gốc từ Việt Nam như Chèo
(tiếp biến văn hóa vùng, tiểu vùng ở
Việt Nam), ở hai mặt nội dung và hình thức, để thao tác nghiên cứu, so sánh, đối chiếu, phân
tích một cách khái quát, tìm ra những nét riêng của Múa rối nước dưới góc nhìn văn hóa học,
mà không đi vào những chi tiết của nghệ thuật.


-

về không gian: Đề tài tập trung khảo sát Múa rối nước khu vực châu thổ sông Hồng, bao gồm
07 phường rối nước truyền thống và đơn vị nghệ thuật múa rối nước chuyên nghiệp. Đề tài lựa
chọn nghiên cứu trường hợp năm phường rối nước truyền thống ở các địa phương khác nhau:

Hã tiợt tư ván viết luận vãn thạc sĩ< luận án tiến sĩ
.Phone : 0972162 399 - Mail : luanvanaz@gmail*com


Đào Thục (Đông Anh, Hà Nội), Phú Đa (Thạch Thất, Hà Nội), Nguyên Xá, Đông Các(Đông
Hưng, Thái Bình), Nhân Hòa (Vĩnh Bảo, Hải Phòng) và hai đơn vị
9 nghệ thuật múa rối nước
chuyên nghiệp: Nhà hát Múa rối Việt Nam, Nhà hát Múa rối Thăng Long.

-

về thời gian: Đề tài nghiên cứu Múa rối nước trong sự phát triển văn hóa của thời kỳ phong
kiến Đại Việt (từ thế kỷ XI cho đến nay) để khái quát về nguồn gốc và sự hình thành, phát
triển của Múa rối nước Việt Nam trong tiến trình lịch sử. Tuy nhiên, để phục vụ mục đích
nghiên cứu cơ sở và giá trị văn hóa của Múa rối nước, đề tài tập trung vào Múa rối nước ở thời
kỳ từ cuối thế kỷ XVI cho đến nay, vì thời kỳ này, văn hóa Việt Nam đã xuất hiện đình làng và
thủy đình; qua đó hướng tới đề xuất giải pháp cho việc bảo tồn, phát huy Múa rối nước Việt
Nam cho những năm tiếp theo.

6. Phương pháp nghiên cứu
Luận án quán triệt chủ trương, các quan điểm của Đảng CSVN; các văn bản của Nhà
nước về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam, về kế thừa di sản văn hóa.
Để thực hiện mục tiêu đặt ra, đề tài sử dụng hệ thống các phương pháp nghiên cứu cụ

thể sau:
Phương pháp liên ngành: Văn hóa học, Nghệ thuật học, Sử học. Vì nghệ thuật sân khấu
Múa rối nước không chỉ là một loại hình văn học nghệ thuật, mà còn là một thành tố của
văn hóa. Do đó, với phương pháp liên ngành, trong đó, phương pháp Văn hóa học là chủ
đạo, người viết không chỉ tiếp cận được đối tượng nghiên cứu ở góc nhìn hẹp của loại
hình, mà còn thấy được nguồn gốc hình thành, tạo nên bản sắc, nét riêng biệt trong thành
tố cấu thành và đặc trưng của nghệ thuật sân khấu Múa rối nước,

Hã tiợt tư ván viết luận vãn thạc sĩ< luận án tiến sĩ
.Phone : 0972162 399 - Mail : luanvanaz@gmail*com


cũng như thấy được sự vận động, tồn tại, phát triển và thích ứng của nó theo tiến trình
lịch sử đặt trong không gian văn hóa của chính nó ở Chương 1 của 1luận án.
- Phương pháp luận của lí thuyết tiếp cận địa - văn hóa, vùng văn hóa. Văn hóa là một
thực thể có sự vận động trong không gian và thời gian. Sự vận động của nó là một tiến trình
lịch sử và qua các vùng/miền khác nhau, với những điều kiện tự nhiên, xã hội, lịch sử... Từ
một hiện tượng văn hóa, nếu được đặt trong nền cảnh không gian mà nó nảy sinh, tồn tại, phát
triển và đặt nó trong sự tương tác với môi sinh sinh thái (địa lý là một phần trong môi trường),
đồng thời với các hiện tượng văn hóa khác để từ đó có quan hệ tương đồng hay hội tụ (trong
trường hợp các nền văn hóa mặc dù ở cách xa nhau, nhưng lại nằm trong điều kiện tự nhiên và
xã hội tương đồng) và khuếch tán, lan tỏa (nếu các tộc người chủ thể cũng như ngôn ngữ của
họ xuất phát từ một gốc), phát triển thành nghệ thuật có thể thấy được nguồn gốc và “nhân lõi”
sâu xa ẩn chứa bên trong.
Múa rối nước là loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian thể hiện đậm chất nhất “sản
phẩm” của nền văn hóa lúa nước. Từ địa bàn sinh sống, điều kiện canh tác, sinh hoạt, phong
tục, tập quán, tâm linh của cư dân người Việt, cho đến nghệ thuật tạo hình quân rối, cách thức
tổ chức, quản lý và hoạt động Múa rối nước... cũng thể hiện bản sắc của “văn hóa làng”. Xác
định được lý thuyết, đề tài nghiên cứu văn hóa vùng châu thổ sông Hồng, về những đặc điểm
tự nhiên - xã hội với những yếu tố cụ thể nêu trên để làm rõ cơ sở hình thành, nguồn gốc ra

đời, chủ thể sáng tạo ra nghệ thuật Múa rối nước Việt Nam; đi sâu nghiên cứu văn hóa tiểu
vùng, cụ thể là khu vực Đông Anh, Hà Nội; Phú Đa, Thạch Thất, Hà Nội; Đông Hưng, Thái
Bình, Vĩnh Bảo, Hải Phòng, những nơi có phường rối nước tiêu biểu trong các phường hội rối
nước của các tỉnh khu vực châu thổ sông Hồng. Trong đề tài, đặt ra một số câu hỏi sau để làm
rõ các vấn đề nghiên cứu về văn hóa của Múa rối nước:
+ Múa rối nước và sự ra đời của nó là kết quả của quá trình thích ứng, chinh phục,
tương tác giữa cư dân Việt với thiên nhiên, môi trường sống? Cơ sở văn hóa hình thành của
Múa rối nước là gì?
+ Giá trị văn hóa của Múa rối nước thể hiện như thế nào?
+ Múa rối nước cần được định hướng, phát triển ra sao để vừa bảo tồn, lưu giữ, phát
huy giá trị của môn nghệ thuật truyền thống, vừa phát huy giá trị văn hóa thông qua nhận thức,

Hã tiợt tư ván viết luận vãn thạc sì< luận án tiỂn sĩ
.Phone : 0972162 399 - Mail : luanvanaz@gmail*com


giáo dục con người, góp phần quảng bá đất nước Việt Nam và phát triển du lịch trong thời kỳ
giao lưu, hội nhập quốc tế hiện nay?

-

1

Phương pháp điền dã: Nhằm thu thập, chuẩn bị nguồn tư liệu xác thực, cập nhật nhất. Vì vậy,
quan sát, phỏng vấn, trao đổi ý kiến để thu thập thông tin về những vấn đề liên quan đến Múa
rối nước được đặc biệt chú trọng. Đến các cơ sở múa rối truyền thống, tìm hỏi các nghệ nhân
cao tuổi, hay còn gọi là khai thác tài liệu sống nhằm tìm hiểu về nguồn gốc, các tục lệ, về đặc
điểm nghệ thuật Múa rối nước ở phường hội mà các nghệ nhân đã biết hoặc còn giữ, đã có từ
bao giờ? Cách thức tổ chức quản lý hoạt động của phường hội, thực trạng như thế nào?


-

Phương pháp nghiên cứu chọn mẫu: Múa rối nước là nghệ thuật dân gian, một hiện tượng văn
hóa mang đậm dấu ấn văn hóa vùng của cả khu vực châu thổ sông Hồng, đồng bằng Bắc bộ.
Vì vậy, việc lựa chọn những nghiên cứu trường hợp, chọn mẫu nghiên cứu giúp nghiên cứu
sinh có thể đi sâu vào từng điểm khảo sát trọng tâm, để rút ra nhận định về bản chất vấn đề
nghiên cứu, đó là xác định cơ sở văn hóa, những giá trị văn hóa của Múa rối nước cũng như
thực trạng hoạt động của các đơn vị Múa rối nước. Trong đề tài, chúng tôi chọn nghiên cứu
trường hợp phường rối nước Đào Thục, (Đông Anh, Hà Nội), phường Phú Đa (Thạch Thất, Hà
Nội), và các phường Nguyên Xá, Đông Các (Đông Hưng, Thái Bình), Nhân Hòa (Vĩnh Bảo,
Hải Phòng), Nhà hát Múa rối Việt Nam, Nhà hát Múa rối Thăng Long.

-

Phương pháp khảo tả, phương pháp phân tích - tổng hợp được dùng để nhận thức và phân tích
đối tượng nghiên cứu.

7. Đóng góp của luận án
7.1.

-

Về mặt lý luận
Lý giải sự hình thành, tồn tại, phát triển của Múa rối nước trong tiến trình lịch sử xuất phát từ
cơ sở văn hóa Việt Nam, đã tiếp nhận, thích ứng, ảnh hưởng của văn hóa vùng châu thổ sông
Hồng như thế nào.

-

Phân tích, hệ thống những giá trị văn hóa của Múa rối nước Việt Nam để khẳng định vai trò, vị

trí của Múa rối nước Việt Nam trong đời sống văn hóa cư dân vùng châu thổ sông Hồng và
trong văn hóa Việt Nam.

Hã tiợt tư ván viết luận vãn thạc sì< luận án tiỂn sĩ
.Phone : 0972162 399 - Mail : luanvanaz@gmail*com


-

Luận án sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho những người nghiên cứu tiếp theo, những người
quan tâm khi muốn nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề văn hóa của nghệ
1 thuật Múa rối nước.

7.2.

-

Về mặt thực tiễn
Thông qua thực trạng mà luận án đã đánh giá, tổng kết những quan điểm, định hướng, giải
pháp và khuyến nghị trong việc bảo tồn, phát huy Múa rối nước, giúp cho các đơn vị nghệ
thuật Múa rối nước, các nghệ sĩ có được những suy nghĩ, lựa chọn đúng đắn về đường lối phát
triển của nghệ thuật, cho công việc sáng tạo, đổi mới của mình trong hoạt động Múa rối nước,
phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước.

-

Luận án sẽ là tư liệu tham khảo cho các nhà quản lý trong việc nghiên cứu quan điểm, lựa
chọn giải pháp cho vấn đề bảo tồn và phát huy Múa rối nước trong văn hóa Việt Nam.

8. Bố cục của Luận án

Ngoài phần Mở đầu (7 trang), Kết luận (6 trang), Tài liệu tham khảo (10 trang), Phụ
lục (25 trang), nội dung chính của luận án gồm 4 chương:
Chương 1. Tổng quan về Múa rối nước Việt Nam.
Chương 2. Cơ sở hình thành Múa rối nước Việt Nam.
Chương 3. Giá trị văn hóa của Múa rối nước Việt Nam.
Chương 4. Bảo tồn và phát huy Múa rối nước Việt Nam.

Hã tiợt tư ván viết luận vãn thạc sì< luận án tiỂn sĩ
.Phone : 0972162 399 - Mail : luanvanaz@gmail*com


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ MÚA RỐI NƯỚC VIỆT NAM
1

1.1.
1.1.1.

Một số khái niệm liên quan
Giá trị văn hóa
Các quan niệm về văn hóa đều cho thấy, lao động sáng tạo là cội nguồn, khởi điểm của

văn hóa. Nhưng sáng tạo đó phải hướng về các giá trị nhân bản, và kết tinh thành giá trị, nhằm
hoàn thiện con người thì mới trở thành văn hóa đích thực. Có nghĩa là, nói văn hóa là đề cập
đến giá trị, hệ giá trị trở thành yếu tố thực thể của văn hóa.
Bàn về giá trị, cho đến nay, cũng có không ít những định nghĩa, những quan niệm
khác nhau về giá trị, xuất phát từ những góc độ tiếp cận khác nhau. Giá trị được xác định
không phải bởi bản tính của thuộc tính tự nhiên, mà bởi tính chất cuốn hút của các thuộc tính
ấy vào phạm vi hoạt động sống của con người.
Theo sự giải thích của một số từ điển trong và ngoài nước thì “giá trị” dùng để chỉ

phẩm chất tốt hay xấu, tác dụng lớn hay nhỏ của sự vật hay của con người; là cái làm cho sự
vật trở nên có ích, đáng quý; là ý nghĩa tích cực hay tiêu cực của khách thể đối với con người...
được phản ảnh trong các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức, lý tưởng, tâm thế, mục đích.
Gần gũi với quan niệm này, T. Makiguchi - người sáng lập ra Hội giáo dục giá trị của
Nhật Bản, cho rằng “Giá trị là sự thể hiện có tính định hướng về mối quan hệ giữa chủ thể
đánh giá và đối tượng của sự đánh giá” [126,tr. 48].
Mặc dù có nhiều cách định nghĩa khác nhau về giá trị, nhưng điểm gặp gỡ chung của
các định nghĩa này ở chỗ: Tất cả đều xem giá trị như là kết quả của hoạt động đánh giá từ phía
chủ thể (con người), có thể tựu chung lại như sau: 1) Giá trị là ý nghĩa của những hiện tượng
vật chất hay tinh thần có khả năng thỏa mãn nhu cầu tích cực của con người, là những thành
tựu đóng góp vào sự phát triển của xã hội; 2) Giá trị có tính lịch sử khách quan, tức là sự xuất
hiện, tồn tại hay mất đi của một giá trị nào đó, không phụ thuộc vào ý thức của con người mà
do yêu cầu của từng thời đại lịch sử, trong đó con người sống và hoạt động; 3) Giá trị đóng vai
trò quan trọng trong đời sống con người. Cách thức và hành động của con người trong xã hội
được chỉ đạo của các giá trị. Nó là cái mà con người dựa vào để xác định mục đích, phương

Hã tiợt tư ván viết luận vãn thạc sĩ< luận án tiến sĩ
.Phone : 0972162 399 - Mail : luanvanaz@gmail*com


hướng cho hoạt động của mình.
1 diện, nghĩa là đã bao hàm
Nói đến giá trị là muốn khẳng định mặt tích cực, mặt chính
quan điểm coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp, là nói đến khả năng thôi
thúc con người ta hành động và nỗ lực vươn tới. Có hai loại giá trị: giá trị vật chất (thỏa mãn
những nhu cầu vật chất) và giá trị tinh thần (thỏa mãn những nhu cầu tinh thần). Trong các giá
trị tinh thần, người ta thường nói đến giá trị khoa học (cái chân lý), giá trị chính trị (cái chính
nghĩa, cái cách mạng), giá trị pháp luật (cái hợp pháp), giá trị đạo đức (cái thiện, cái tốt), giá
trị thẩm mỹ (cái đẹp). Mỗi giá trị bao giờ cũng có một phản giá trị tương ứng để làm thành một
cặp hiện tượng đối lập, tương phản: Cái chân lý, cái thật, cái đúng và cái vô lý, cái giả, cái sai;

cái chính nghĩa và cái phi nghĩa; cái hợp pháp và cái phi pháp; cái thiện và cái ác; cái đẹp và
cái xấu; cái thành thần và cái ma quỷ... Trên bình diện khác, người ta có thể chia các lĩnh vực
giá trị thành giá trị kinh tế, giá trị chính trị, giá trị xã hội, giá trị khoa học, giá trị đạo đức, giá
trị thẩm mỹ, giá trị tôn giáo, giá trị văn hóa, giá trị lịch sử.
Như vậy, giá trị là một phạm trù rất rộng, bao quát một phạm vi rộng lớn trong các
quan hệ của con người với tự nhiên, với xã hội, với dân tộc, với thời đại, với giai cấp. Giá trị
với tư cách là thành tố quan trọng của các quan hệ văn hóa vì các hoạt động nhận thức, ứng
xử, sáng tạo được đánh giá bởi cộng đồng.
Trong văn hoá học, giá trị cùng với các khái niệm giá trị văn hóa, truyền thống, bản
sắc... tạo nên một hệ thống các khái niệm khác nhau nhưng có mối liên hệ, giao thoa với nhau.
Do vậy, khi tìm hiểu giá trị văn hoá, không thể không đề cập tới các khái niệm liên quan.
Giá trị văn hóa là những tư tưởng bao quát được tin tưởng mạnh mẽ chung cho mọi
người về cái gì là đúng là sai, là thiện là ác, là đẹp là xấu, là hợp lý là phi lý, là mong muốn và
không mong muốn. Tuy nhiên, theo GS. Trần Văn Giàu thì: “Cái tốt cơ bản, phổ biến, có nhiều
tác dụng tích cực cho đạo đức, cho sự hướng dẫn nhất định, đánh giá và dẫn dắt hành động của
một dân tộc thì mới mang đầy đủ ý nghĩa của khái
niệm giá trị truyền thống” [42, tr.51].
Giá trị văn hoá truyền thống được hiểu như là văn hoá và giá trị gắn với xã hội, được
hình thành trong quá trình lịch sử nhất định, là một bộ phận trong hệ giá trị tinh thần của dân

Hã tiợt tư ván viết luận vãn thạc sĩ< luận án tiến sĩ
.Phone : 0972162 399 - Mail : luanvanaz@gmail*com


tộc. Nhờ những tính chất cơ bản về tính giá trị, tính lưu truyền, tính ổn định mà văn hóa truyền
1 tiếp nối qua nhiều thế hệ,
thống, để chỉ những cái gì đã hình thành từ lâu đời, được trao truyền
mang giá trị bền vững, được lịch sử thừa nhận. Do đó: Theo thời gian, truyền thống ấy không
phải lặp lại nguyên gốc mà có gạn lọc, đổi mới, cách tân, phát triển thành một hệ giá trị mới,
để rồi lại gia nhập vào truyền thống. Truyền thống và cách tân là hai chiều ngang dọc dệt nên

bức tranh văn hóa đa sắc, làm nên giá trị bền vững, tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam [42, tr.61].
Như vậy, truyền thống được hiểu như là các thành tố, các mặt của văn hóa, đặc trưng
bởi tính ổn định, kế thừa và được trao truyền qua các thế hệ. Truyền thống hình thành dần dần
qua các hoạt động lịch sử của con người, bắt nguồn từ lịch sử. Tuy nhiên, không phải mọi thứ
thuộc về lịch sử đều là truyền thống, mà chỉ những gì được gìn giữ, kế thừa, mới gọi là truyền
thống. Vì vậy, ở mỗi dân tộc, truyền thống thường được gắn liền với bản sắc. Văn hóa truyền
thống là trở thành những khuôn mẫu được cố định hóa dưới dạng nghệ thuật, phong tục tập
quán, nghi lễ, pháp luật...
Nói đến những giá trị văn hóa của Múa rối nước là nói tới hệ giá trị văn hóa truyền
thống trong Múa rối nước truyền thống của Việt Nam.
1.1.2.

Múa rối
Bàn về nghệ thuật Rối, nhiều nước trên thế giới, đều sử dụng khái niệm Sân khấu Rối

hoặc Rối mà phương tiện biểu đạt là những con rối. Điều dễ hiểu khi sử dụng khái niệm Sân
khấu Rối hoặc Rối ở chỗ, từ khi ra đời, phát triển, cho tới hôm nay, con rối chỉ là phương tiện
để biểu diễn những tích, những trò nhời... rồi dần phát triển thành sân khấu Kịch Rối... Còn ở
Việt Nam thì gọi nghệ thuật Rối là Múa rối.
Cho đến nay, ở Việt Nam, chưa có một khái niệm chính thức mang tính học thuật về
khái niệm Múa rối. Căn cứ vào một số đặc điểm về quân rối, về kỹ thuật tạo hình, lắp ráp quân
rối, sân khấu và nghệ thuật biểu diễn Múa rối, các nhà nghiên cứu đã đua ra một số khái niệm
về Múa rối.
Nhà nghiên cứu Tô Sanh là nguời đầu tiên đua ra khái niệm về Múa rối nhu
sau:

Hã tiợt tư ván viết luận vãn thạc sĩ< luận án tiến sĩ
.Phone : 0972162 399 - Mail : luanvanaz@gmail*com



Múa rối là một loại hình nghệ thuật sân khấu có khả năng truyền cảm một cách cao
độ, là sự phối hợp tài tình giữa kỹ thuật và nghệ thuật tạo
1 hình với kỹ thuật và nghệ
thuật điều khiển, lấy con rối làm phuơng tiện chủ yếu để hoàn thành nhiệm vụ thể
hiện mọi mặt phong phú của trí tuởng tuợng loài nguời của hiện thực khách quan.
Nó có khả năng tập trung hoà hợp nhiều hình thức nghệ thuật, không gian và thời
gian kể cả các loại hình sân khấu khác. Nó phục vụ mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt
là thiếu nhi. Múa rối có rất nhiều loại. Nhân vật rối là trung tâm. Nguời diễn viên
điều khiển thuờng che dấu kín, sân khấu của nó và bản thân nó cần phù hợp với
kích thuớc với tính chất của nguời và rối, chứ không phải cơ bản do hoá trang
nguời thật hoặc máy móc quyết định [91, tr.17].
Trong từ điển Văn học, Nxb Khoa học xã hội - 1984, nhà nghiên cứu Nguyễn Huy
Hồng cũng đua ra khái niệm về Múa rối:
Một loại hình sân khấu truyền thống của hầu khắp các dân tộc thế giới, chuyên thể hiện
nhân vật bằng diễn viên mang mặt nạ, đội lốt hay điều khiển các con nộm, con giống ...
(quen gọi chung là con rối) làm trò, đóng kịch. Con rối đuợc sáng tạo, mô phỏng tự nhiên
(động vật, thực vật) hay do tuởng tuợng (nhu thần, tiên, ma, quỷ, rồng, phuợng .) bằng
mọi chất liệu (gỗ, vải, giấy, bông, da, chất dẻo.) thành mọi kiểu (tuợng, tròn, hình bẹt, hình
bông.) và cử động nhờ phuơng tiện: Tay (rối tay), que (rối que), dây (rối dây), máy (rối
máy), gió (rối gió), hơi pháo (rối pháo), sức nuớc (rối nuớc). Nghệ sĩ Rối luôn luôn giấu
kín mình, điều khiển con rối thể hiện hành động sân khấu cử động của thân hình nó và lời
nói muợn nguời “lồng tiếng” tạo nên sự kỳ diệu của vật chết “sống dậy”, tái hiện chuyện
đời thực và tuởng tuợng. Trong lịch sử văn hoá nhân loại, con rối đuợc phát hiện có

Hã tiợt tư ván viết luận vãn thạc sĩ< luận án tiến sĩ
.Phone : 0972162 399 - Mail : luanvanaz@gmail*com


mặt từ trong nền văn hoá Harappa (Ân Độ), ở Việt Nam năm 1121 bia Sùng Thiện

Diên Linh đã ghi rõ rối nước, rối cạn...
1.1.3.

1

Múa rối nước
Về khái niệm Múa rối nước, nhà nghiên cứu Tô Sanh cho rằng:
Múa rối nước là một loại hình nghệ thuật sân khấu múa rối mà chỗ diễn của con rối
là mặt nước ao, hồ hay bể rộng. Buồng trò của người điều khiển là một cái nhà cất
giữa ao hồ hoặc sát một mé hồ. Người điều khiển, ngâm mình dưới nước nấp sau
bức mành điều khiển con rối, thông thường bằng gỗ hoặc bằng chất liệu không
thấm nước, bằng cách giật dây hoặc khua sào có đính con rối ở dây và đầu sào.
Nước che kín các loại que, dây, máy... điều khiển bên dưới nước. Có nhiều loại rối
nước, rối ao, rối bể (người đứng ngoài bể cho tay vào điều khiển rối) rối nước phối
hợp với rối cạn... Sân khấu hoặc nhà hát cố định của Múa rối nước là một cái nhà
hai tầng tám mái xây cất bằng gạch ngói, có từ lâu đời. Múa rối nước là một bộ
môn nghệ thuật sân khấu nước kỳ lạ chỉ còn thấy ở Việt Nam [91, tr.37].
Nhà nghiên cứu Nguyễn Huy Hồng cũng quan niệm:
Rối nước là loại nhà hát ngoài trời, lấy ao hồ làm nơi dựng buồng trò che giấu nghệ
thuật điểu khiển và mặt nước làm sàn diễn cho quân rối làm trò đóng kịch. Người
xem ngồi đứng trên bờ bãi phía trước và hai bên sân khấu. Quân rối nước là loại rối
máy điều khiển ngầm từ xa bằng hai kiểu máy dây và máy sào [47, tr.231].
Có thể nói, các khái niệm nêu trên của hai nhà nghiên cứu tiêu biểu trong lĩnh vực

nghệ thuật Múa rối, đều khẳng định Múa rối nói chung và Múa rối nước nói riêng là một thể
loại sân khấu truyền thống, làm trò và đóng kịch. Ngoài ra, còn rất nhiều những khái niệm về
Múa rối, song nhìn chung khái niệm về Múa rối ở Việt Nam là tương đối thống nhất, bổ sung
cho nhau.
Múa rối nước là một trong những thể loại của nghệ thuật sân khấu truyền thống Việt
Nam, một trong những thành tố của văn hóa. Nghiên cứu Múa rối nước có thể phác thảo diện

mạo văn hóa, đặc trưng văn hóa vùng của cư dân vùng châu thổ sông Hồng.

Hã tiợt tư ván viết luận vãn thạc sĩ< luận án tiỂn sĩ
.Phone : 0972162 399 - Mail : luanvanaz@gmail*com


1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Múa rối nước xuất hiện và căn cứ vào lịch sử hình thành, có
1 thể xác định là môn nghệ
thuật dân gian ra đời sớm nhất trong số các bộ môn nghệ thuật dân gian của dân tộc Việt Nam,
nhưng so với các bộ môn nghệ thuật sân khấu truyền thống chuyên nghiệp lại là bộ môn “có
tuổi đời trẻ nhất”. Có lẽ do quan niệm là trò chơi dân gian của người nông dân, nên công sức
nghiên cứu dành cho Múa rối nước đến nay thực sự chưa nhiều, và khá muộn màng. Các công
trình nghiên cứu về Múa rối nói chung, Múa rối nước nói riêng, chỉ thực sự bắt đầu từ sau khi
được công nhận là bộ môn nghệ thuật truyền thống, cụ thể vào những năm 60 của thế kỷ XX
và chủ yếu hướng nghiên cứu nó dưới góc nhìn nghệ thuật, theo thời gian, phải kể đến các
công trình như sau:
1.2.1.

Những nghiên cứu chung về Múa rối
Từ hướng tiếp cận về nghệ thuật Múa rối, đã có một số công trình nghiên cứu của các

nhà nghiên cứu trong và ngoài nước:

-

A.Phêdôtôp với công trình Múa rối được xuất bản năm 1964 do Tô Kỳ Hoàng dịch. Công trình
này tìm hiểu về lịch sử hình thành và phát triển của nghệ thuật múa rối; giới thiệu một số thể
loại rối: Rối nửa mình, rối dây, rối bóng.


-

Vì một nền nghệ thuật Múa rối Việt Nam Xã hội chủ nghĩa là tổng hợp nghiên cứu của nhiều
tác giả do Ban nghiên cứu sân khấu xuất bản năm 1974, trong đó nghiên cứu chuyên sâu về
con rối, tạo hình trong nghệ thuật rối, lời của nhân vật trong trò rối, động tác của rối, trang trí,
nghệ thuật biên kịch rối...

-

Công trình Nghệ thuật Múa rối Việt Nam xuất bản năm 1974 của Nhà nghiên cứu Nguyễn Huy
Hồng là một tài liệu chuyên khảo cho bộ môn nghệ thuật truyền thống này. Công trình nghiên
cứu giúp tiếp cận một cách tổng quan những vấn đề khi bước đầu tìm hiểu về nghệ thuật Múa
rối truyền thống của dân tộc. Tuy nhiên, trong phạm vi của một công trình mang tính đại
cương nên tác giả chưa giải quyết được vấn đề nghiên cứu, đó là nguồn gốc của Múa rối và
lịch sử hình thành nghệ thuật Múa rối
Việt Nam. Tác giả khẳng định nghệ thuật tạo hình là cơ sở hình thành nghệ thuật Múa rối, lấy
đó làm căn cứ để lý giải quá trình hình thành nghệ thuật Múa rối. Đóng góp lớn của tác giả ở

Hã tiợt tư ván viết luận vãn thạc sĩ< luận án tiỂn sĩ
.Phone : 0972162 399 - Mail : luanvanaz@gmail*com


công trình này là trình bày một cách hệ thống, logic về quá trình phát triển của nghệ thuật Múa
rối Việt Nam.

-

1

Nghệ thuật Múa rối và vấn đề giáo dục thẩm mỹ cho trẻ em, của Hoàng Kim Dung (1992), là

công trình nghiên cứu về nghệ thuật Múa rối trong phạm vi giáo dục thẩm mỹ cho lứa tuổi
nhỏ. Tác giả nhấn mạnh và phân tích vai trò của con rối - yếu tố cơ bản chi phối tất cả các
nghệ thuật tham gia tạo thành nghệ thuật của sân khấu Múa rối. Dưới góc độ tâm lý học, tác
giả đưa ra nhận định Múa rối là loại hình phù hợp tâm lý thiếu niên, nhi đồng. Công trình nhìn
nhận dưới góc nhìn mới mẻ, tạo hướng mở cho những người nghiên cứu tiếp theo tìm hiểu sâu
hơn về đề tài này. Tuy nhiên, do công trình mới dừng lại ở mức giới thiệu nên chưa thể gợi ra
được những vấn đề sâu sắc để người đọc cùng suy ngẫm.

-

Múa rối Việt Nam những điều nên biết (1997) là công trình được Hoàng Kim Dung tập hợp
các bài nghiên cứu, thể hiện một cách có hệ thống về hoạt động nghệ thuật Múa rối Việt Nam
đương đại, về một số đơn vị nghệ thuật múa rối chuyên nghiệp và một số gương mặt nghệ sĩ
múa rối tiêu biểu trong các vai trò đạo diễn, nghệ sĩ biểu diễn, họa sĩ, nhà nghiên cứu. Công
trình mang tính giới thiệu, chưa thể hiện được luận điểm nghiên cứu và giải quyết những bức
xúc trong thực trạng đặt ra.

-

Lịch sử nghệ thuật Múa rối Việt Nam (2005) là công trình mà ở đó nhà nghiên cứu Nguyễn
Huy Hồng đã căn cứ vào những hiện vật và các tư liệu sử sách, sưu tầm được để suy luận về
nguồn gốc, thời điểm ra đời của nghệ thuật Múa rối truyền thống Việt Nam: “Có thể manh nha
từ thời nhà Thục, khoảng thế kỷ III trước Công nguyên trở về trước và từ các trò nhỏ phục vụ
cho phương thuật, tôn giáo, tín ngưỡng”. Tuy nhiên, con rùa - thần Kim Quy giúp An Dương
Vương xây thành Cổ Loa chỉ là truyền thuyết nên chưa đủ cơ sở khoa học để khẳng định Múa
rối nước có từ thế kỷ III trước Công nguyên.

Nghệ thuật Rối và một số đặc trưng của sân khấu Rối Việt Nam (2006) là một chuyên khảo của
tác giả Nguyễn Thành Nhân, nghiên cứu sâu dưới góc nhìn nghệ


Hã tiợt tư ván viết luận vãn thạc sĩ< luận án tiỂn sĩ
.Phone : 0972162 399 - Mail : luanvanaz@gmail*com


thuật. Trên cơ sở kế thừa lý luận của các nhà nghiên cứu đi trước và kết quả khảo cứu
của bản thân về một số nền nghệ thuật sân khấu Rối, một số trường2phái cùng đặc trưng cơ bản
của nghệ thuật sân khấu Rối trên thế giới, công trình đã làm sáng tỏ những đặc trưng cơ bản
của nghệ thuật sân khấu Rối Việt Nam, cùng những đặc điểm mỹ học của Rối nước Việt Nam.
Cuốn sách là nguồn tư liệu tham khảo hữu ích cho những người nghiên cứu tiếp theo về nghệ
thuật Múa rối của Việt Nam. Tuy nhiên, dù đặt ra một số câu hỏi về nguồn gốc, lịch sử hình
thành của Múa rối nước ..., nhưng cuối cùng tác giả cũng đành chấp nhận rằng: “Rối đã hình
thành và phát triển từ rất lâu rồi, từ xa xưa”.

-

Sơ thảo lịch sử sân khấu Việt Nam (2006) do Nhà xuất bản Sân khấu xuất bản là tập hợp các
công trình của nhiều tác giả về lịch sử sân khấu Việt Nam, phân tích bối cảnh lịch sử xã hội để
xác định thời điểm ra đời của sân khấu Việt Nam. Cuốn sách đã đề cập đến diện mạo chung
của nền sân khấu Việt Nam ở từng giai đoạn và đi vào các thể loại sân khấu, trong đó có nghệ
thuật Múa Rối. Tuy nhiên, vấn đề nêu ra dưới góc độ lịch sử mới dừng lại ở mức độ khái quát,
sơ thảo, chưa thể hiện được lịch sử sân khấu Việt Nam một cách đầy đủ.

-

Diễn xướng dân gian và nghệ thuật sân khấu truyền thống Việt Nam (2007), một chuyên khảo
khác của tác giả Nguyễn Huy Hồng, đề cập về các thể loại sân khấu dân tộc của Việt Nam,
trong đó, nghệ thuật Rối có ở Việt Nam, như một bộ phận cấu thành. Công trình mang tính
giới thiệu, lý luận chưa làm rõ được mối quan hệ mật thiết giữa diễn xướng dân gian với các
thể loại nghệ thuật sân khấu Việt Nam.


-

Nối tiếp các công trình nghiên cứu nghệ thuật múa Rối, tác giả Văn Học với cuốn Nghệ thuật
Múa rối cổ truyền đất Thăng Long (2009) đã đề cập sự hình thành và phát triển của nghệ thuật
Múa rối truyền thống, giới hạn trong phạm vi Thăng Long - Hà Nội. Tuy vậy, nội dung phân
tích của tác giả về đặc điểm điều kiện tự nhiên, xã hội của vùng đất Thăng Long - Hà Nội chưa
đủ thuyết phục về sự hình thành nghệ thuật Múa rối nước. Đây chính là vấn đề mà những
người nghiên cứu tiếp theo rút kinh nghiệm khi tìm hiểu, lý giải về sự hình thành nghệ thuật
Múa rối nước Việt Nam.

-

Nghiên cứu chung về Múa rối còn phải kể đến tập hợp các bài nghiên cứu của rất nhiều tác giả
trong nước, tiêu biểu như Trần Văn Nghĩa với bài “Múa rối Việt Nam'" (1967), Ngô Quỳnh
Giao với bài “Múa rối trên đường phát triển” (1991), Vương Duy Biên với “Giá trị mỹ thuật

Hã tiợt tư ván viết luận vãn thạc sì< luận án tiến sĩ
.Phone : 0972162 399 - Mail : luanvanaz@gmail*com


trong nghệ thuật múa rối” (2001), Đỗ Trọng Quang với bài “Múa rối và tạo hình rối” (2001),
Phạm Đức Dương với “Sân khấu múa rối - con rối - sứ giả của thế giới tâm linh (2001)...
Trong các nghiên cứu này, Múa rối nước được đề cập đến chủ yếu2 tiếp cận dưới góc độ nghệ
thuật, bước đầu cho người đọc cái nhìn sơ lược về lịch sử nghệ thuật, nét độc đáo của nghệ
thuật với sự phân biệt giữa các thể loại rối, tìm hiểu về nghệ thuật tạo hình, giá trị mỹ thuật
trong Múa rối. Một số bài viết tìm hiểu về giá trị giáo dục, thẩm mỹ của nghệ thuật này để có
những kiến nghị gắn nghệ thuật với giáo dục ý thức, giáo dục đạo đức truyền thống cho thiếu
nhi trong các nhà trường. Đặc biệt, phải kể đến bài viết của tác giả Phạm Đức Dương với “Sân
khấu múa rối - con rối - sứ giả của thế giới tâm linh (2001), bởi cách tiếp cận nghệ thuật Múa
rối dưới góc nhìn văn hóa học. Tác giả đã khái quát, đưa ra luận điểm về giá trị văn hóa tâm

linh trong nghệ thuật Múa rối. Luận điểm này sẽ được luận án tiếp thu, nghiên cứu sâu hơn,
làm rõ nó như một thành tố trong hệ giá trị văn hóa của Múa rối nước Việt Nam.
Nhìn chung, các công trình về Múa rối nêu trên, phần lớn đều tập trung nghiên cứu
dưới góc độ nghệ thuật học, lịch sử học. Tuy có một số công trình tiếp cận từ góc độ văn hóa
học, nhưng chỉ liên quan tới văn hóa tâm linh trong Múa rối và chưa có tính khái quát cao về
văn hóa học.
1.2.2.

Những nghiên cứu chuyên biệt về Múa rối nước

1.2.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
- Nghệ thuật Múa rối nước (1976) của Tô Sanh có thể được xem là một công trình chuyên
khảo đầu tiên về nghệ thuật Múa rối nước. Thông qua các phương pháp điền dã, khảo
cứu... tác giả đưa ra những nhận định cơ bản, quan trọng về nguồn gốc của Múa rối, từ
đó, đưa ra định nghĩa về nghệ thuật Múa rối, giới thiệu các thể loại Rối thường thấy trên
thế giới. Đi sâu vào nội dung trọng tâm của đề tài, tác giả giới thiệu thể loại Rối nước,
những đặc trưng và phương thức biểu diễn, đưa ra kết luận về nguồn gốc lịch sử hình
thành nghệ thuật Múa rối nước, khái quát về quá trình phát

Hã tiợt tư ván viết luận vãn thạc sì< luận án tiến sĩ
.Phone : 0972162 399 - Mail : luanvanaz@gmail*com


triển của nghệ thuật Múa rối nước Việt Nam. Công trình là một cuốn chuyên khảo có
giá trị cao, nội dung hệ thống tương đối đầy đủ và toàn diện về nghệ
2 thuật Múa rối nước. Tác
giả là người đầu tiên đưa ra khái niệm về Múa rối nước, nguồn gốc lịch sử hình thành Múa rối
nước, và các dấu mốc quan trọng của Múa rối nước trong nền nghệ thuật sân khấu Việt Nam.
Đây là nguồn tài liệu quan trọng và giá trị của nó hiện vẫn được giới nghiên cứu công nhận, kế
thừa.


-

Tiếp theo, nhà nghiên cứu Nguyễn Huy Hồng đi vào nghiên cứu trường hợp về Nghệ thuật
Múa rối nước Thái Bình (1987). Nội dung trọng tâm của cuốn sách, tác giả đã giới thiệu về
sân khấu, buồng trò, quân rối, máy điều khiển, nghệ nhân, phường hội, trò và tích trò, nhân vật
và chú Tễu, biểu diễn, văn học, âm nhạc, các phường hội rối nước dân gian tiêu biểu ở Thái
Bình. Công trình mang tính tư liệu tham khảo và được tác giả sử dụng vào công trình Rối nước
Việt Nam (1996) của mình.

-

Đi sâu vào vấn đề nghiên cứu thể loại, nhà nghiên cứu Nguyễn Huy Hồng tiếp tục với công
trình Rối nước Việt Nam (1996). Tác giả đã tiếp cận dưới góc nhìn văn hóa học để suy luận,
diễn giải về tiền đề văn hoá của Múa rối nước: Đặc điểm tự nhiên - xã hội, cư dân trồng lúa
nước, của làng xóm, của nền sản xuất tiểu nông và tiểu thủ công nghiệp, sân khấu dân gian kỳ
ảo... để khẳng định vị trí của Rối nước trong đời sống văn hóa của cư dân, trong nền văn minh
sông Hồng cũng như trong truyền thống văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, công trình đi sâu chi
tiết, phân tích các yếu tố cấu thành nghệ thuật Múa rối nước. Vì vậy, vấn đề văn hóa có được
đặt ra, nhưng mang tính gợi mở và không được luận bàn sâu như một nội dung chính của công
trình. Đây chính là góc nhìn sâu sắc về văn hóa trong nghệ thuật Múa rối nước Việt Nam mà
nghiên cứu sinh đi sâu khai thác, tìm hiểu trong nội dung của luận án.

-

Rối nước (2009), là công trình nghiên cứu của nhà văn hóa Hữu Ngọc và Lady Borton. Cuốn
sách đã giới thiệu với bạn bè thế giới dưới dạng trả lời các câu hỏi ngắn gọn, dễ hiểu, giúp
người đọc có thể hiểu được một cách cơ bản (tất nhiên chưa đầy đủ) những vấn đề liên quan
đến nghệ thuật Múa rối nước Việt Nam, nét đặc sắc của văn hóa Việt Nam cũng như con người
Việt Nam trong nghệ thuật Múa rối nước. Đây là công trình đầu tiên thể hiện bằng song ngữ

Tiếng Việt và Tiếng Anh, rất hữu
ích cho người nước ngoài khi tìm hiểu, khám phá về Múa rối nước Việt Nam.

Hã tiợt tư ván vỉét luận vãn thạc sì< luận án tiến sĩ
.Phone : 0972162 399 - Mail : luanvanaz@gmail*com


Tác giả cho rằng Từ Đạo Hạnh là người sáng lập và là vị thần bảo hộ nghệ thuật Múa
rối nước. Tuy nhiên, chưa đủ cơ sở khoa học để khẳng định Từ Đạo
2 Hạnh là người sáng lập ra
Múa rối nước vì nhiều phường rối lại có các ông tổ khác.
- Nghệ thuật Múa rối nước Việt Nam (2012), của tác giả Hoàng Chương cũng tìm hiểu
về lịch sử hình thành sân khấu Múa rối nước Việt Nam với tinh thần: Không phải từ Trung
Quốc truyền sang ta. Tác giả cũng dành phần lớn nội dung nghiên cứu về mỹ thuật sân khấu
Múa rối nước, đề xuất một số giải pháp mang tính định hướng, giữ gìn, bảo tồn, phát triển
nghệ thuật Múa rối nước.
Tiếp theo, nghiên cứu về nghệ thuật Múa rối nước qua hệ thống các bài viết của rất
nhiều tác giả: Phạm Đức Dương, Trần Quốc Vượng, Trần Văn Khê, Nguyễn Huy Hồng,
Hoàng Kim Dung, Nguyễn Dương Côn, Yên Giang, Ngô Quỳnh, Vũ Tú Quỳnh, Nguyễn
Hoàng Minh Vân, Lê Hương Giang... theo hướng tiếp cận từ văn hóa dân gian, văn hóa tâm
linh đến nghệ thuật học, sân khấu học... Hoặc có nghiên cứu về những nét đặc sắc, độc đáo
trong nghệ thuật Múa rối nước làng Gia, làng Đống, Đào Thục, Đông Các... riêng biệt. Trong
đó, đáng chú ý:
Bài “Múa rối nước - Múa rối Việt Nam ” của Trần Văn Khê. Ở đây, tác giả đã giới
thiệu các thể loại rối, cách phân loại rối theo vị trí của người điều khiển. Từ đó, tác giả đi sâu
vào lý giải rằng người Trung Quốc thường đặt tên cho những nhạc cụ theo cách phiên âm, kể
cả đối với nhạc cụ từ nước ngoài nhập vào. Chữ “khối lỗi” dùng để chỉ con rối cũng là một
chữ phiên âm, có lẽ từ chữ “rối” của Việt Nam, nên đã suy luận: Múa rối nước là một nghệ
thuật xuất phát từ nông thôn Việt Nam, liên tục cha truyền con nối từ thế kỷ X và còn mãi đến
ngày nay.

Trần Quốc Vượng với bài “Bàn về hệ sinh thái nhân văn của Múa rối nước Việt Nam”
(2001) dưới góc nhìn văn hóa học, đã khẳng định Múa rối nước - nghệ thuật mang bản sắc dân
tộc độc đáo của người Việt ở châu thổ Bắc bộ, qua các hệ sông - hồ - đầm - ao - ruộng lúa
nước. Đó cũng chính là các hệ sinh thái nhân văn của nghệ thuật Rối nước cổ truyền trong
tổng thể hệ sinh thái nông nghiệp rất đa dạng của Việt Nam.
Ngoài ra, còn các bài viết của Trần Lâm với bài “Đôi nét về nghệ thuật tạo hình trong

Hã tiợt tư ván vỉét luận vãn thạc sì< luận án tiến sĩ
.Phone : 0972162 399 - Mail : luanvanaz@gmail*com


nghệ thuật rối Việt” (2001); Vũ Tú Quỳnh với các bài viết “Múa rối nước - nghệ thuật của
những biểu tượng” (2001) và “Thủy đình rối nước có phải là2 sản phẩm của dân gian”
(2010)... Các nghiên cứu trên đã bàn về nghệ thuật tạo hình trong quân rối Việt, về yếu tố tâm
linh trong Múa rối nước, về đời sống sinh hoạt dân dã gắn với văn hóa ao làng, và đã đưa nghệ
thuật này trở thành biểu tượng của cuộc sống nông nghiệp...
Nghiên cứu chuyên sâu về Múa rối nước cũng được nhiều nhà nghiên cứu trẻ quan
tâm, thể hiện ở tập hợp những công trình nghiên cứu dưới dạng luận văn Thạc sĩ, luận án Tiến
sĩ, đó là:
Phạm Trọng Toàn (1997), Tìm hiểu nghệ thuật Múa rối nước cổ truyền làng Nguyễn,
luận văn Thạc sĩ Văn hóa học. Luận văn nghiên cứu trường hợp một làng rối nước truyền
thống ở tỉnh Thái Bình, đi vào hướng nghiên cứu và tìm hiểu Múa rối nước ở khía cạnh giá trị
nghệ thuật. Trên cơ sở bản sắc làng Nguyễn, nghệ thuật Múa rối nước cổ truyền làng Nguyễn,
tác giả đề xuất phương hướng và giải pháp kế thừa, phát huy những giá trị đặc sắc của nghệ
thuật Múa rối nước làng Nguyễn trong nghệ thuật Múa rối nước Việt Nam.
Nguyễn Văn Định (2007), Nghệ thuật Múa rối nước làng Đống, luận văn Thạc sĩ Văn
hóa học, đã đề cập tới sự hình thành và phát triển nghệ thuật Múa rối nước, về đặc điểm nghệ
thuật của rối nước làng Đống cũng như quá trình hình thành phát triển nghệ thuật Múa rối
nước làng Đống. Tác giả cũng hệ thống được về mặt nội dung, 14 tích trò và một số kỹ thuật
thể hiện, các bài bản âm nhạc được sử dụng trong Múa rối nước làng Đống... Tuy nhiên, nội

dung của luận văn chủ yếu chỉ giới thiệu về môi trường tự nhiên, xã hội, cư dân làng Đống nên
chưa thấy được tính logic của các vấn đề liên quan về mối quan hệ giữa các yếu tố tự nhiên xã hội, văn hóa của cư dân làng Đống với Múa rối nước làng Đống. Luận văn cũng nghiêng về
hướng nghiên cứu và tìm hiểu giá trị nghệ thuật của Múa rối nước, vì vậy, vấn đề văn hóa
trong Múa rối nước thì chưa được thể hiện rõ nét trong nội dung nghiên cứu.
Lê Hương Giang (2008), Nghệ thuật Múa rối nước ở Hà Nội, luận văn Thạc sĩ

Hã tiợt tư ván vỉét luận vãn thạc sì< luận án tiến sĩ
.Phone : 0972162 399 - Mail : luanvanaz@gmail*com


2

Văn hóa học. Luận văn đã trình bày về sự ra đời và phát triển cùng những đặc trưng của nghệ
thuật Múa rối nước ở Hà Nội, so sánh giữa nghệ thuật Múa rối nước dân gian tồn tại trong các
phường, hội và rối nước chuyên nghiệp nhằm xác định những yếu tố dân gian truyền thống
bên cạnh tính chuyên nghiệp của Rối nước Hà Nội hiện nay. Tuy dành một chương phân tích
thực trạng nghệ thuật Múa rối nước Hà Nội hiện nay nhưng tác giả chưa chỉ ra được nguyên
nhân khó khăn của thực trạng đó để làm cơ sở đề xuất những giải pháp bảo tồn và phát triển
nghệ thuật Múa rối nước.
Nguyễn Hoàng Minh Vân (2011), Hoạt động của các phường rối nước ở châu thổ
sông Hồng - Thực trạng và giải pháp, luận văn Thạc sĩ Văn hóa học. Luận văn đã tập trung
nghiên cứu hoạt động của 06 phường rối nước tiêu biểu của vùng châu thổ sông Hồng. Tác giả
đã đề cập đến những tiền đề văn hóa trong Múa rối nước cũng như ảnh hưởng của nó trong đời
sống văn hóa cư dân vùng châu thổ sông Hồng, từ đó đúc rút những giá trị văn hóa của Múa
rối nước. Tuy nhiên, trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, và hướng nghiên cứu tập trung vào
hoạt động của các phường Rối nước, nên nội dung liên quan đến những vấn đề văn hóa trong
Múa rối nước chưa được thể hiện sâu sắc.
Trần Thị Minh (2012), Khai thác các giá trị văn hóa của nghệ thuật Múa rối nước ở
vùng đồng bằng Bắc bộ Việt Nam phục vụ phát triển du lịch, luận văn thạc sĩ ngành Du lịch.
Luận văn đã tổng quan về Múa rối nước đồng bằng Bắc bộ và vai trò của Múa rối nước trong

du lịch, đề xuất một số giải pháp khai thác Múa rối nước trong phát triển du lịch. Đây là một
hướng nghiên cứu rất mới mẻ về Múa rối nước. Tuy nhiên, ở nội dung nghiên cứu về giá trị
văn hóa và nghệ thuật của Múa rối nước, người đọc dễ nhận thấy là tác giả tập trung vào việc
phân tích vấn đề khai thác hoạt động tổ chức biểu diễn Múa rối nước để phục vụ phát triển du
lịch.
Vũ Tú Quỳnh (2012), Sự phục hồi của Rối nước đồng bằng Bắc bộ từ đổi mới đến
nay, luận án tiến sĩ Văn hóa học, đã coi Múa rối nước như hiện tượng văn hóa dân gian trong
xã hội hiện đại cần phải giải quyết những vấn đề truyền thống và đổi mới, bảo tồn và phát
triển. Luận án đã đi sâu tìm hiểu và làm rõ thực trạng “suy tàn” của Múa rối nước trong giai
đoạn trước đổi mới (cho đến trước năm 1986) thông qua khảo sát, thực địa của chính nghiên
cứu sinh đến một số phường Rối nước dân gian, một số nghệ nhân phường rối nước Đào Thục,

Hã tiợt tư ván vỉét luận vãn thạc sì< luận án tiỂn sĩ
.Phone : 0972162 399 - Mail : luanvanaz@gmail*com


×