Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

tiểu luận cao học TT HCM về văn hóa đảng lãnh đạo xây dựng, phát triển văn hoá thời kỳ 1930 1985

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.36 KB, 41 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn hoá là thước đo cái nhân bản trong con người, là trình độ người
của các quan hệ xã hội. Văn hoá cũng chính là yếu tố làm nên bản sắc của
mỗi dân tộc, là nền tảng tinh thần của xã hội. Đối với dân tộc Việt Nam, "Văn
hoá là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức sống
mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam vượt qua biết bao sóng gió và
thác ghềnh tưởng chừng không thể vượt qua được, để không ngừng phát triển
và lớn mạnh, viết nên những trang sử lạ lùng bởi tính kiên cường trong hoạn
nạn, bởi khí phách hào hùng trong giữ nước và dựng nước"1.
Chính vì vai trò to lớn ấy mà văn hoá cần có sự lãnh đạo của Đảng
không chỉ trong kháng chiến mà cả trong hoà bình. Sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam đối với văn hoá giúp cho văn hoá Việt Nam phát triển
theo chiều hướng lành mạnh, góp phần xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩamột chế độ mang lại lợi ích cho số đông. Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng
nhờ có Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển mà văn hoá Việt Nam đã góp
phần làm nên những chiến thắng vẻ vang của dân tộc.
Vì những lý do trên mà tôi lựa chọn đề tài "Đảng lãnh đạo xây dựng,
phát triển văn hoá thời kỳ 1930-1985" làm đề tài tiểu luận của mình.

2. Mục đích nghiên cứu
Tiểu luận nghiên cứu cơ sở hình thành những quan điểm của Đảng về
lãnh đạo, xây dựng nền văn hoá mới; quá trình lãnh đạo trong thời kỳ 19301985. Từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm, khẳng định sự trưởng thành
trong nhận thức và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với lĩnh vực
văn hoá nói riêng, trong sự nghiệp cách mạng nói chung.

1

Phạm Văn Đồng, Văn hoá và đổi mới, Nxb CTQG, H.1994, tr 16-17


3. Lịch sử nghiên cứu


Vấn đề Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng và phát triển văn
hoá đã được nhiều tác giả nghiên cứu ở những góc độ khác nhau tiêu biểu là
các tác giả:
- Phạm Văn Đồng, Văn hoá và đổi mới, Nxb CTQG, H.1994.
- Lê Duẩn, Về xây dựng nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ
nghĩa, Nxb Sự Thật 1984.
- Hà Xuân Trường, Đường lối văn nghệ của Đảng, Nxb Sự Thật, 1975.
- Hoàng Thị Hạnh, Góp phần tìm hiểu tư tưởng cơ bản của Đảng Cộng
sản Việt Nam về vai trò của văn hoá trong sự phát triển xã hội, Nxb CTQG,
H.2005.
Từ nhiều góc độ khác nhau, các tác giả trên đã đề cập đến vai trò, đặc
trưng, phương hướng phát triển của nền văn hoá mới, qua đó thể hiện rõ quan
điểm, chủ trương của Đảng trong sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới. Tuy
nhiên chưa có một tác giả nào nghiên cứu cụ thể sự lãnh đạo của Đảng trong
xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam thời kỳ 1930-1985 cũng như
những cơ sở hình thành các đường lối ấy.

4. Phạm vi nghiên cứu
Văn hoá và xây dựng nền văn hoá mới là một vấn đề có phạm vi rất
rộng. Với khả năng và khuôn khổ có hạn của một tiểu luận, tôi tập trung vào
nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng nền văn hoá mới từ 19301985 và những thành tựu cơ bản của nền văn hoá mới giai đoạn 1930-1985.

5. Phương pháp nghiên cứu cơ bản
- Phương pháp biện chứng duy vật;
- Phương pháp lịch sử;
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
2


6. Kết cấu của tiểu luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm có 3
phần:
I- Căn cứ lý luận và thực tiễn về phát triển văn hoá.
II- Quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng, phát triển văn hoá.
III- Một số kinh nghiệm và những giải pháp.

NỘI DUNG
I. Căn cứ lý luận và thực tiễn về phát triển văn hoá.
Những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về lãnh đạo, xây dựng,
phát triển nền văn hoá mới được hình thành trên nền tảng lý luận Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và những kinh nghiệm thực tiễn của Việt Nam và thế
giới.
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Quan điểm của Mác-Ăngghen:
C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng văn hoá là toàn bộ những giá trị được
tạo ra nhờ hoạt động lao động sáng tạo của con người gồm có giá trị vật chất,
giá trị tinh thần và bản thân sự phát triển của con người. Văn hoá không chỉ là
nền tảng tinh thần của xã hội, của lịch sử nhân loại mà còn là lĩnh vực luôn có
ảnh hưởng, tác động đến tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, đến sự
phát triển xã hội. Trong sự tác động và ảnh hưởng đó văn hoá không chỉ tác
động, ảnh hưởng đến nguyên nhân sinh ra nó-đến sự tồn tại xã hội, đến quá
trình sản xuất vật chất của con người, mà còn góp phần quyết định phương
thức vận động và phát triển của lịch sử nhân loại, của xã hội loài người. Do
đó hai ông khẳng định sự cần thiết phải làm cách mạng giải phóng xã hội, giải
3


phóng con người, đồng thời giải phóng cả văn hoá. "Xoá bỏ chế độ tư hữu có
nghĩa là giải phóng hoàn toàn tất cả những cảm giác và thuộc tính của con
người… chỉ có thông qua sự phong phú, đã được phát triển về mặt vật chất

của bản thân con người, thì sự phong phú về tính cảm giác chủ quan của con
người mới phát triển và một phần thậm chí lần đầu tiên mới được sản sinh ra:
Lỗ tai thính âm nhạc, con mắt cảm thấy cái đẹp của hình thức- nói tóm lại là
những cảm giác có khả năng về những sự hưởng thụ có tính chất người và tự
khẳng định mình như những lực lượng bản chất của con người"1.
Như vậy giải phóng con người gắn với giải phóng văn hoá, qua đó mà
điều tiết xã hội, trở thành nguồn lực nội sinh cho sự phát triển xã hội bền
vững- phát triển vì mục tiêu nhân văn, vì giá trị nhân đạo.
- Quan niệm của Lênin:
Kế thừa và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác, Lênin đã trình bày một
cách có căn cứ khoa học về mối quan hệ giữa văn hoá vô sản và sự nghiệp
cách mạng, nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đối với văn hoá văn nghệ. Lênin
cho rằng văn hoá vô sản vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng.
Lênin đã đưa ra một công thức có tính khái quát cao: "Văn hoá vô sản = chủ
nghĩa cộng sản"2 đồng thời khẳng định: Đảng Cộng sản là người thực hiện sự
nghiệp to lớn này. Văn hoá vô sản phải là một bộ phận hữu cơ của sự nghiệp
cách mạng, "Sự nghiệp văn học phải thành một bộ phận trong sự nghiệp của
toàn thể giai cấp vô sản, phải thành "một cái bánh xe nhỏ và một cái đinh ốc"
trong bộ máy dân chủ- xã hội vĩ đại, thống nhất do toàn đội tiên phong giác
ngộ của toàn bộ giai cấp công nhân điều khiển"3.
Lênin cũng đã chỉ ra phương thức xây dựng nền văn hoá mới. Theo
Lênin xây dựng nền văn hoá vô sản không phải là nghĩ ra một thứ văn hoá vô
sản mới, mà phát triển những kiểu mẫu ưu tú những truyền thống ưu tú,
1

C.Mác,Ph.Ăngghen,VI.Lênin, Về văn hoá và nghệ thuật, Nxb Sự Thật 1997, tr 393-394
VI.Lênin toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1978, tr51, tr382.
3
VI.Lênin toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1977, tr 12, tr 123.
2


4


những kết quả tốt nhất của nền văn hoá hiện đang tồn tại, xét theo quan điểm
thế giới quan của chủ nghĩa Mác và những điều kiện của đời sống thực tiễn.
Lênin cho rằng: "phải tiếp thu toàn bộ nền văn hoá do chủ nghĩa tư bản để lại
và dùng nền văn hoá đó để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phải tiếp thu toàn bộ
khoa học, kỹ thuật, tất cả những kiến thức, tất cả nghệ thuật. Không có cái đó
chúng ta không thể xây dựng cuộc sống của xã hội cộng sản được" 1. Ở đây
cần hiểu rằng, tiếp thu toàn bộ nền văn hoá không có nghĩa là tiếp thu một
cách không có chọn lọc, tiếp thu cả mặt xấu lẫn mặt tốt mà là tiếp thu những
giá trị văn hoá đích thực mà nhân loại thừa nhận.
Để xây dựng được nền văn hoá mới đó nhất thiết cần phải có sự lãnh
đạo của Đảng, sự lãnh đạo của Đảng đảm bảo cho công tác văn hoá văn nghệ
đi đúng hướng, phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản.
Tư tưởng của Lênin về văn hoá đặt nền móng cho đường lối, chính
sách văn hoá của Đảng Cộng sản Nga, Nhà nước Xô Viết và của các Đảng
Cộng sản ở nhiều nước trên thế giới trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Nguồn gốc quyết định đến
việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh chính là chủ nghĩa Mác-Lênin. Do đó
mà những quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hoá cũng được hình thành trên
cơ sở tiếp thu quan điểm của Mác-Lênin về văn hoá và quá trình tiếp thu
những tinh hoa văn hoá của dân tộc, của nhân loại.
Chủ nghĩa Mác-Lênin bàn nhiều đến văn hoá nhưng thực sự chưa đưa
ra một khái niệm cụ thể về văn hoá. Riêng Hồ Chí Minh ngay từ năm 19421943 đã viết: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người
mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa
học, tôn giáo, văn hoá, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về

1

VI.Lênin toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1977, tr 38, tr67

5


mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh
đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt
cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những
nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn". Người còn chỉ ra năm điểm lớn
xây dựng nền văn hoá dân tộc đó là:
"1- Xây dựng tâm lí: tinh thần độc lập tự cường.
2- Xây dựng luân lí: biết hi sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
3- Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân
dân trong xã hội.
4- Xây dựng chính trị: dân quyền.
5- Xây dựng kinh tế"1.
Như vậy theo quan điểm của Hồ Chí Minh văn hoá là toàn bộ những
giá trị vật chất và những giá trị tinh thần mà loài người sáng tạo ra nhằm đáp
ứng lẽ sinh tồn, đồng thời cũng là mục đích cuộc sống của loài người. Muốn
xây dựng nền văn hoá dân tộc thì cần phải xây dựng trên tất cả các lĩnh vực:
kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức, tâm lí con người. Hồ Chí Minh cũng đã
nhận rõ được rằng: "Văn hoá, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác,
không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị" 2. Văn hoá phải
phục vụ nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế, tác động
tích cực trở lại đối với kinh tế và chính trị như một động lực hết sức quan
trọng. Vì một khi trình độ văn hoá của nhân dân được nâng cao sẽ giúp cho
chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ… để xây
dựng nước ta trở thành một nước dân chủ giàu mạnh. Mặt khác, muốn phát

triển văn hoá thì phải phát triển kinh tế. Người nói: "Muốn tiến lên chủ nghĩa
xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hoá. Vì sao không nói phát triển văn
hoá và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế
1
2

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, T3, tr 431
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.1996, T6, tr 368-369

6


phải đi trước… phát triển kinh tế và văn hoá để nâng cao đời sống vật chất và
vật chất và văn hoá của nhân dân ta"1.
Đồng thời Hồ Chí Minh còn vạch rõ phương hướng xây dựng một nền
văn hoá mới những nhiệm vụ cụ thể của các lĩnh vực chính của văn hoá như:
giáo cục, văn nghệ, đời sống… Những quan điểm toàn diện, sâu sắc của Hồ
Chí Minh về xây dựng nền văn hoá mới đã giúp định hướng cho Đảng ta
trong quá trình lãnh đạo xây dựng và phát triển nền văn hoá mới- văn hoá xã
hội chủ nghĩa.
3. Cơ sở thực tiễn.
Bên cạnh cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với văn hoá còn
được xây dựng dựa trên cơ sở thực tiễn. Đó chính là những kinh nghiệm của
thế giới và truyền thống văn hoá dân tộc.
a. Kinh nghiệm thế giới.
Thực tiễn lịch sử thế giới đã chứng minh văn hoá chính là một động lực
tinh thần to lớn thức tỉnh con người, thôi thúc con người đấu tranh để tiến tới
một xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Trào lưu văn hoá Phục Hưng ở châu Âu thế
kỷ XIV-XVI với những thành tựu rực rỡ đã giải phóng con người khỏi những

ràng buộc khắt khe của giáo hội Thiên Chúa giáo, của Nhà nước phong kiến
đã lỗi thời. Văn hoá Phục Hưng đã chỉ ra con đường tranh đấu để tìm đến với
hạnh phúc ngay ở trần gian chứ không phải là nhẫn nhục chịu đựng để được
hưởng hạnh phúc ở một thế giới khác như giáo hội vẫn thường răn dạy con
người. Trào lưu văn hoá Phục Hưng đã đặt nền móng cho văn hoá tư sản ra
đời, là cơ sở để từ đó mà có trào lưu Ánh sáng của châu Âu thế kỷ XVIII. Và
chính trào lưu Ánh sáng này đã soi đường cho cách mạng tư sản Pháp - cuộc
cách mạng lật đổ chế độ phong kiến chuyên chế thống trị lâu đời ở Pháp.
Cuộc cách mạng này đã để lại một khẩu hiệu bất hủ "Tự do-Bình đẳng-Bác
1

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.2000, T10, tr 59

7


ái", mở ra thời kỳ thắng lợi và củng cố chủ nghĩa tư bản ở những nước tiên
tiến ở châu Âu, châu Mỹ.
Thực tiễn cách mạng Liên Xô những năm sau cách mạng tháng Mười
cũng đã cho chúng ta thấy nhờ việc khơi dậy được tinh thần dân tộc Nga, xây
dựng một nền văn hoá mới- văn hoá xã hội chủ nghĩa- mà đất nước Liên Xô
đã giành được những thắng lợi lớn, từng bước xây dựng chế độ xã hội chủ
nghĩa. Nền văn hoá mới mà nước Nga Xô Viết đã xây dựng là một nền văn
hoá mà ở đó mỗi một người dân đều ý thức được trách nhiệm của mình với
đất nước, với phong trào cách mạng thế giới và chấp nhận mọi gian khổ, mọi
hy sinh để góp phần công sức của mình cho sự thành công của cách mạng ở
các nước anh em. Đó là một nền văn hoá mà trong đó quan hệ giữa con người
với con người gắn bó mật thiết như những người cùng chung huyết thống. Đất
nước Liên Xô những năm phát triển ổn định thực sự là cái đích lí tưởng cho
các nước khác mong muốn đạt đến. Nhân dân Liên Xô đã hy sinh quên mình

vì hạnh phúc của các nước anh em.
b. Tuyền thống văn hoá dân tộc.
Dân tộc Việt Nam trải qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ
nước đã tạo lập cho mình một nền văn hoá riêng với những truyền thống tốt
đẹp, bền vững. Nhờ có những truyền thống tốt đẹp đó mà dân tộc Việt Nam
đã tạo cho mình được một sức mạnh to lớn, vượt qua mọi khó khăn trở ngại.
Những truyền thống tốt đẹp ấy chính là:
Chủ nghĩa yêu nước và ý chí đấu tranh bất khuất để dựng nước và giữ
nước. Chủ nghĩa yêu nước là dòng chảy chủ lưu xuyên suốt lịch sử Việt Nam,
là chuẩn mực đứng đầu trong bảng giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc Việt
Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định "dân ta có một lòng nồng nàn yêu
nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị
xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh
mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ
8


bán nước và lũ cướp nước…"1. Truyền thống yêu nước và tinh thần đấu tranh
bất khuất đã làm nên những anh hùng dân tộc vĩ đại mà sử sách mãi mãi còn
lưu danh làm nên những chiến thắng vẻ vang của dân tộc.
Thứ hai là tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết tương thân
tương ái "lá lành đùm lá rách". Truyền thống này được hình thành từ hoàn
cảnh dân tộc ta phải thường xuyên đấu tranh chống giặc ngoại xâm và thiên
tai, thú dữ. Người Việt Nam sống gắn bó tình nghĩa, tối lửa tắt đèn có nhau,
sẵn sàng nhường cơm sẻ áo cứu giúp người hoạn nạn. Ca dao Việt Nam đã
phản ánh truyền thống này rất sinh động:

"Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng"
Hay:


"Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao".

Thứ ba là truyền thống ham học hỏi, không ngừng mở rộng cửa đón
nhận, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại. Văn hoá Việt Nam
không phải là một nền văn hoá đóng mà là một nền văn hoá mở, con người
Việt Nam dễ dàng tiếp thu những gì tốt đẹp của các dân tộc khác. Từ tinh hoa
của các học thuyết phương Đông như Nho, Phật, Lão đến những tư tưởng văn
hoá hiện đại của phương Tây. Tất cả những nền văn hoá tiếp xúc với văn hoá
Việt Nam dù là tiếp xúc tự nhiên hay tiếp xúc cưỡng bức đều được dân tộc
Việt Nam tiếp thu, cải biến những cái hay cái đẹp của người thành giá trị
riêng của mình.
Bên cạnh ba truyền thống nổi bật này còn phải kể đến rất nhiều truyền
thống tốt đẹp khác của dân tộc Việt Nam: Đó là truyền thống lạc quan, yêu
đời, cần cù, thông minh, sáng tạo, nhân ái, khoan dung…
1

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.1996, T6, tr 171-172

9


Có thể nói văn hoá là sự thể hiện một cách rõ rệt bản chất sâu xa của
con người và cộng đồng con người. Văn hoá Việt Nam với những truyền
thống quý báu đã làm nên sức sống mãnh liệt của con người Việt Nam. Nó là
cội nguồn của sức mạnh và tài năng làm nên chiến thắng. Nó là đôi cánh giúp
con người vượt lên trên mọi hiểm hoạ và nguy cơ.
Như vậy, có thể khẳng định những quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những kinh nghiệm thực tiễn của cách mạng
thế giới cùng với truyền thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc Việt Nam chính là

những căn cứ lí luận và thực tiễn để giúp Đảng Cộng sản Việt Nam hoạch
định đường lối lãnh đạo, xây dựng phát triển nền văn hoá mới- nền văn hoá
đáp ứng được yêu cầu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, đi cùng với cách
mạng trở thành động lực thành mục tiêu của cách mạng.

II. Quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng, phát triển nền văn hoá thời
kỳ 1930-1985.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng phát triển văn hoá thời kỳ
1930-1985 là quá trình liên tục, nhưng để thấy được rõ nét sự lãnh đạo của
Đảng cũng như sự hoàn thiện về đường lối của Đảng đối với văn hoá chúng ta
có thể phân thành các giai đoạn nhỏ.
1. Giai đoạn 1930-1945.
Đây là giai đoạn Đảng Cộng sản Việt Nam mới ra đời và bắt đầu lãnh
đạo cách mạng Việt Nam. Để có một cái nhìn tổng quát về quá trình lãnh đạo
của Đảng đối với văn hoá cũng như vai trò to lớn của Đảng đối với nền văn
hoá mới Việt Nam, chúng ta cần nhìn lại đôi nét về nền văn hoá Việt Nam
trước khi Đảng ra đời- một nền văn hoá hàng ngàn năm của đất nước phát
triển trên cơ sở nền nông nghiệp trồng lúa nước.
Nền văn hoá cổ truyền của Việt Nam một mặt có nhiều ưu điểm như
tinh thần yêu nước, lối sống tự lập, tự cường, tinh thần dễ thích nghi và tình

10


cảm vị tha cao thượng… Mặt khác, cũng có một số nhược điểm như: sự ưu
tiên phát triển của các quan hệ đạo đức, xem thường thương nghiệp, luật pháp
chưa phát triển, chủ nghĩa bình quân, cá nhân thường bị chìm lấp trong cộng
đồng… Những ưu, nhược điểm này đã bị phá vỡ khi văn hoá phương Tây bắt
đầu xâm nhập vào cùng với bước chân của thực dân Pháp xâm lược. Các quan
hệ rường cột của xã hội cũ bắt đầu rạn nứt, lòng trung quân ái quốc, các quan

hệ vua tôi, cha con, vợ chồng bắt đầu biến đổi cùng với quá trình suy vi của
Nho giáo. Sau sự thất bại của Nho giáo trong việc giải quyết những vấn đề
dân tộc và dân chủ, các tầng lớp thanh niên Việt Nam năng động nhất của lịch
sử đã tìm đến với văn hoá phương Tây. Một bộ phận thanh niên dừng lại ở
học thuyết "Tự do, bình đẳng, bác ái" của các nhà khai sáng Pháp, một số
khác đến với chủ nghĩa Mác và thành lập Đảng Cộng sản. Xã hội Việt Nam
lúc này bắt đầu một khuynh hướng yêu nước kiểu mới. Khuynh hướng này đã
kết hợp ba phong trào: phong trào giải phóng dân tộc, phong trào dân chủ và
phong trào chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa yêu nước kiểu mới do Nguyễn Ái Quốc tìm ra, trước hết là
sự kết hợp giữa tư tưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin với chủ nghĩa
yêu nước truyền thống của người Việt. Một chủ thể văn hoá mới, người cách
mạng khác hẳn với các nhà Nho, các trí thức tiểu tư sản Tây học, đã tạo ra
một động lực to lớn cho nền văn hoá Việt Nam mới. Nguyễn Ái Quốc đã sáng
lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, từ đây cách mạng Việt Nam bước sang một
trang mới. Trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã đề ra đường lối lãnh đạo xây dựng, phát triển nền văn hoá Việt Nam
mới. Đường lối lãnh đạo của Đảng thể hiện nguyện vọng và khát vọng xây
dựng nền văn hoá mới ở Việt Nam để giải phóng xã hội, giải phóng dân tộc,
giải phóng con người, đưa dân tộc Việt Nam, văn hoá Việt Nam hoà nhập vào
dòng chảy của thời đại.

11


Ngay từ khi ra đời, trong các văn kiện công bố vào dịp thành lập Đảng:
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Lời kêu gọi
nhân dịp thành lập Đảng và Luận cương chính trị tháng 10/1930, Đảng ta đã
xác định mục tiêu làm cách mạng lật đổ sự thống trị của thực dân Pháp, đem
lại ruộng đất cho dân cày, quyền lợi cơ bản cho giai cấp công nhân, nông dân,

trí thức, đưa nước ta lên chủ nghĩa xã hội. Dù chưa trực tiếp đề cập quan điểm
của Đảng đối với văn hoá, nhưng ngay từ những văn kiện đầu tiên này, để
phục vụ cho nhiệm vụ tuyên truyền đường lối, vận động quần chúng nhân dân
tham gia cuộc cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đảng ta rất chú trọng
tới vai trò của văn hoá, trước hết là vai trò của báo chí và tuyên truyền.
Đường lối văn hoá của Đảng Cộng sản Việt Nam giai đoạn 1930-1945
thể hiện tập trung nhất qua: "Đề cương văn hoá Việt Nam" và "Mấy nguyên
tắc lớn của cuộc vận động văn hoá Việt Nam mới lúc này".
Năm 1943 Đảng Cộng sản Đông Dương đã đưa ra Đề cương về văn
hoá Việt Nam- tuyên ngôn văn hoá của Đảng. Ngay từ phần đầu của Đề
cương văn hoá, Đảng ta đã nêu rõ thái độ của Đảng đối với vấn đề văn hoá:
"a/ Mặt trận văn hoá là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn
hoá) ở đó người cộng sản phải hoạt động.
b/ Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng
văn hoá.
c/ Có lãnh đạo được phong trào văn hoá, Đảng mới ảnh hưởng được dư
luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả"1.
Như vậy, ngay từ những ngày đầu Đảng đã có một thái độ hoàn toàn
đúng đắn về vấn đề văn hoá. Đảng đã nhìn nhận được vai trò to lớn của văn
hoá: văn hoá cũng là một mặt trận, thực hiện nhiệm vụ cách mạng văn hoá
cũng quan trọng như cách mạng trên mặt trận chính trị, kinh tế. Đảng cũng đã
1
2

ĐCSVN, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H.2000, t7, tr 318.
ĐCSVN, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H.2000, t7, tr 318.

12



xác định “nền văn hoá mà cuộc cách mạng văn hoá Đông Dương phải thực
hiện sẽ là văn hoá xã hội chủ nghĩa”2. Nền văn hoá ấy phải do Đảng lãnh đạo
để có thể đi đúng hướng, phục vụ cho lợi ích của dân tộc, của cách mạng,
cách mạng văn hoá có thành công thì công cuộc cải tạo xã hội mới có thể
hoàn thành. Đề cương văn hoá đã đưa ra 3 nguyên tắc xây dựng nền văn hoá
mới. Đó là:
“a/ Dân tộc hoá (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho
văn hoá Việt Nam phát triển độc lập).
b/ Đại chúng hoá (chống mọi chủ trương, hành động làm cho văn hoá
phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng).
c/ Khoa học hoá (chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hoá trái
khoa học, phản tiến bộ)”1.
Với ba nguyên tắc dân tộc- khoa học- đại chúng, Đề cương văn hoá
Việt Nam đã tạo ra một diện mạo văn hoá Việt Nam rất mới so với nền văn
hoá truyền thống trước đó. Một mặt nó đã phát triển các giá trị truyền thống,
mặt khác nó tiếp thu các giá trị văn hoá tiến bộ của loài người. Nguyên tắc
“dân tộc hoá” bao chứa một vấn đề rất sâu sắc vì suốt những năm dài thực dân
Pháp đã đề cao sự giàu mạnh của nước Pháp, ca tụng chính sách thuộc địa của
giai cấp tư sản Pháp, gieo rắc vào đầu óc người trí thức Việt Nam tinh thần
sùng bái văn hoá Pháp, tự ti dân tộc, miệt thị văn hoá truyền thống của dân
tộc Việt Nam. Do đó mà “dân tộc hoá” còn có ý nghĩa khẳng định mọi giá trị
văn hoá đều bình đẳng, là một tuyên ngôn khẳng định xây dựng nền văn hoá
mới trên cơ sở giữ gìn bản sắc dân tộc.
Xã hội Việt Nam đến cuối thời nhà Nguyễn mang tính chất lạc hậu, bảo
thủ trì trệ. Đó là một điều kiện thuận lợi để thực dân Pháp thực hiện chính
sách ngu dân. Nguyên tắc “khoa học hoá” đã tạo điều kiện cho nền văn hoá
dân chủ mới nhanh chóng thoát khỏi sự kìm hãm ấy, bù đắp những thiếu hụt
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H.2000,T7, tr 319


13


của nền văn hoá truyền thống. Chỉ có khoa học mới cải tạo được các phong
tục, tập quán lạc hậu, chỉ có khoa học mới đưa được nền văn hoá Việt Nam
bước vào thời đại mới, bắt kịp với nền văn minh thế giới.
Nguyên tắc “đại chúng hoá” nhằm mục đích hướng văn hoá phục vụ
quần chúng nhân dân, phát huy năng lực sáng tạo của nhân dân.
Ba nguyên tắc trên luôn thống nhất, gắn bó chặt chẽ và tác động qua lại
lẫn nhau. Đồng chí Trường Chinh cho rằng: “Một nền văn hoá dân tộc mà
không có tính khoa học và nhân dân thì rất có thể vì quyền lợi ích kỷ và hẹp
hòi của dân tộc mình mà đi ngược lại bước đường tiến hoá của lịch sử, cố níu
kéo những cái cổ truyền đã lỗi thời của dân tộc mình mà không đặc biệt chú ý
đến nguyện vọng tha thiết của công nông là số đông người cần cù và yêu
nước nhất trong dân tộc. Văn hoá có tính nhân dân mà không có tính dân tộc
và khoa học thì sẽ trở nên hẹp hòi, chỉ nhìn thấy lợi ích công nông mà không
chú ý đến lợi ích chung của dân tộc hoặc theo đuôi quần chúng”1
Bản Đề cương về văn hoá Việt Nam đã đề ra một chương trình hành
động của văn hoá cách mạng, có sức thuyết phục cao nên ngay từ khi ra đời
nó đã có sức lan toả, thu hút đông đảo đội ngũ những người hoạt động văn
hoá văn nghệ ưu tú nhất đi theo cách mạng, góp phần đắc lực trong sự nghiệp
giải phóng dân tộc. Cuối năm 1944, Hội văn hoá cứu quốc Việt Nam đã ra đời
và trở thành một thành viên của Mặt trận Việt Minh. Các thành viên của Hội
văn hoá cứu quốc mà đặc biệt là đội ngũ văn nghệ sĩ đã góp phần thôi thúc
nhân dân vùng lên, giải phóng dân tộc, giải phóng chính mình dưới sự lãnh
đạo của Đảng.
Văn kiện thứ hai thể hiện đường lối văn hoá của Đảng trong giai đoạn
1930-1945 là tài liệu “Mấy nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hoá Việt
Nam mới lúc này”. Tài liệu này đã đánh giá chung về tình hình văn hoá đang

diễn ra lúc đó, đồng thời cụ thể hoá những nguyên tắc của cuộc vận động văn
1

Trường Chinh, Về văn hoá nghệ thuật, Nxb Văn học, H1998, t3, tr361

14


hoá đã được xác định từ năm 1943. Đảng khẳng định mối quan hệ giữa ba
nguyên tắc dân tộc hoá, khoa học hoá và đại chúng hoá là thống nhất với nhau
không thể tách rời. “Ba nguyên tắc trên đây là ba cái khâu của một sợi dây
chuyền. Nó có tính cách liên hoàn. Không thể hoàn thành nhiệm vụ vận động
tân văn hoá Việt Nam nếu ta bỏ sót một nguyên tắc nào trong ba nguyên tắc
ấy. Cũng không thể chỉ theo một nguyên tắc nọ mà chống lại những nguyên
tắc kia”1 Tư tưởng này rất quan trọng vì nếu không hiểu rõ, không nắm vững
mối quan hệ này nhất định sẽ mắc phải sai lầm, không thể làm tròn nhiệm vụ
xây dựng văn hoá mới. Sứ mệnh xây dựng văn hoá mới thuộc lớp các nhà văn
hoá tiên phong. Đó là các nhà văn hoá “lấy sức mạnh trong đại chúng, lấy tinh
thần trong dân tộc, và dùng duy vật biện chứng làm kim chỉ nam, con đường
của họ phải là con đường tả thực xã hội, duy nhất, đúng và tiến bộ” 2. Đảng
khẳng định những nhà văn hoá ấy “phải tranh đấu trên tất cả các mặt trận văn
học, ngôn ngữ, phong tục, tín ngưỡng”3.
Những tư tưởng, quan điểm của Đảng về văn hoá giai đoạn 1930-1945
được thể hiện cô đúc trong hai tác phẩm trên. Đó là cơ sở lý luận cho đường
lối văn hoá của Đảng trong các giai đoạn tiếp theo, là cơ sở để một nền văn
hoá Việt Nam mới từng bước hình thành.
2. Giai đoạn 1945-1975.
Giai đoạn 1945-1975 là giai đoạn đất nước trải qua hai cuộc kháng
chiến giữ nước vĩ đại: kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Ba
mươi năm dài trôi qua thời gian hoà bình hiếm hoi và ít ỏi còn thời gian chiến

tranh dài đằng đẵng để lại bao vết thương mà hậu quả của nó còn kéo dài đến
tận hôm nay. Với điều kiện như thế chúng ta có quá ít thời gian để xây dựng
và phát triển nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước Việt Nam cũng đã
bước đầu đạt được những thảnh tựu trên một số lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực
văn hoá.
1

Ban Tư tưởng - VHTW, Một số văn kiện của Đảng về công tác tư tưởng-VH, Nxb CTQG, H2000, t1, tr41
Ban Tư tưởng - VHTW, Một số văn kiện của Đảng về công tác tư tưởng-VH, Nxb CTQG, H2000, t1, tr43
3
Ban Tư tưởng - VHTW, Một số văn kiện của Đảng về công tác tư tưởng-VH, Nxb CTQG, H2000, t1, tr43
2

15


a/ 1945-1954.
Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Đảng ta đã không ngừng
quan tâm đến lĩnh vực văn hoá, tiếp tục có những chính sách phù hợp để xây
dựng và phát triển nền văn hoá theo hướng dân tộc- khoa học- đại chúng mà
Đề cương về văn hoá Việt Nam (1943) đã đề ra.
Ngày 16-11-1946 đồng chí Trường Chinh viết thư gửi Chủ tịch Hồ Chí
Minh về vấn đề nhiệm vụ của văn hoá Việt Nam trong công cuộc cứu nước và
xây dựng đất nước. Trong bức thư của mình, đồng chí Trường Chinh đã đề
cập đến nhiệm vụ của văn hoá trước, trong, và sau cuộc cách mạng, nhiệm vụ
cụ thể của văn hoá Việt Nam trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp và chủ
trương thành lập Mặt trận thống nhất văn hoá Việt Nam trên nền tảng dân tộc
và dân chủ (bài trừ mọi chia rẽ và tản mạn trong giới văn học). Mặt trận thống
nhất văn hoá Việt Nam phải là bộ phận khăng khít của Mặt trận dân tộc thống
nhất giành độc lập.

Tháng 7-1948 đồng chí Trường Chinh đọc báo cáo “Chủ nghĩa Mác và
văn hoá Việt Nam” tại Hội nghị văn hoá toàn quốc lần thứ II. Báo cáo này đã
tiếp tục những quan điểm đã nêu trong “Đề cương về văn hoá Việt Nam”
(1943). Đây được xem là một công trình văn hoá Mác xít hoàn thiện nhất
trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ. Báo cáo không những phân tích
một cách sâu sắc, toàn diện những nội dung của bản Đề cương văn hoá năm
1943 mà còn phát triển và định hướng cho quá trình “nhận đường” và sức
sáng tạo mới của nền văn hoá dân tộc. Đồng chí Trường Chinh đã đi sâu phân
tích, lý giải một cách khoa học, sáng tạo mọi phương diện cơ bản của lý luận
văn hoá, từ đó nêu lên một hệ thống quan điểm mới, định hướng cho nền văn
hoá dân chủ mới Việt Nam:
“ + Về xã hội, lấy giai cấp công nhân làm gốc.
+ Về chính trị, lấy độc lập dân tộc, dân chủ nhân dân và chủ nghĩa xã
hội làm gốc.
16


+ Về tư tưởng, lấy học thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
làm gốc.
+ Về sáng tác văn nghệ, lấy chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa làm
gốc”1
Ngày 19-9-1948 Ban Thường vụ Trung ương ra Chỉ thị về việc tham
gia và giúp đỡ Hội Văn hoá Việt Nam. Chỉ thị đã quy định rõ mục đích, tôn
chỉ, nhiệm vụ của Hội, hệ thống tổ chức, điều kiện gia nhập Hội và mối quan
hệ giữa Đảng đối với Hội.
Ngày 26- 5- 1950 Ban Thường vụ Trung ương ra chỉ thị về nhiệm vụ
văn hoá. Chỉ thị đã nêu lên những khuyết điểm của công tác văn hoá đồng
thời chỉ rõ nhiệm vụ của văn hoá là phải phục vụ nhân dân, thoả mãn nhu cầu
kháng chiến. “Muốn xây dựng văn hoá nhân dân cần học hỏi những kinh
nghiệm nước ngoài đồng thời phải biết duy trì những di sản quý báu và phát

triển những truyền thống tốt đẹp của dân tộc”2.
Trên cơ sở những định hướng đúng đắn này, Luận cương cách mạng
Việt Nam được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng
(1951) đã tiếp tục đường lối xây dựng nền văn hoá dân chủ nhân dân. Cụ thể
là: “Văn hoá dân chủ nhân dân của ta có ba tính chất: dân tộc, khoa học và đại
chúng. Nghĩa là một nền văn hoá:
1- Chống lại văn hoá đế quốc, nô dịch, lừa bịp và ngu dân; phát triển
truyền thống văn hoá tốt của dân tộc; bảo vệ và phát triển văn hoá của các dân
tộc thiểu số; phụng sự tổ quốc.
2- Chống văn hoá phong kiến, lạc hậu; học hỏi văn hoá tiến bộ của thế
giới; phổ biến và phát triển khoa học.
3- Gần gũi quần chúng, hoà với quần chúng; học hỏi quần chúng,
nhưng dạy dỗ quần chúng; phục vụ lao động.
1
2

Trường Chinh, Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam, Nxb Sự thật, H.1974, tr31
ĐCSVN, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H.2001, T11, tr337

17


Chính sách văn hoá, giáo dục chung của ta trong cuộc cách mạng này
là: tổ chức, động viên mọi lực lượng văn hoá, phát triển văn hoá, khoa học
nghệ thuật, diệt nạn mù chữ, nâng cao trình độ văn hoá của dân; cổ động nhân
dân thực hành đời sống mới theo khẩu hiệu cần, kiệm, liêm, chính của Hồ
Chủ tịch; cổ động và phát triển đạo đức dân chủ mới gồm những điểm chính
dưới đây: hiểu nghĩa vụ và quyền lợi làm dân, phục vụ nhân dân và phụ trách
trước mặt dân, tin tưởng ở quần chúng, biết yêu ghét cho đúng (căm thù đế
quốc và bọn phản quốc, ghét ăn bám và bóc lột, ngu dân và phỉnh dân, yêu

nhân loại, yêu Tổ quốc và nhân dân, yêu lao động và khoa học)” 1
Đường lối xây dựng nền văn hoá dân chủ nhân dân thông qua tại Đại
hội II về cơ bản là thống nhất với đường lối của Đề cương về văn hoá Việt
Nam 1943 nhưng đã được cụ thể hoá hơn, hoạch định được những nhiệm vụ
cần phải thực hiện.
Nhờ những chủ trương cụ thể phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt
Nam mà nền văn hoá Việt Nam trong những năm 1945-1954 đã đạt được
những thành tựu vô cùng to lớn.
Về giáo dục: Nha Bình dân học vụ đã được thành lập và phong trào
Bình dân học vụ phát triển sôi nổi khắp cả nước, bước đầu tiêu diệt “giặc dốt”
- một trong ba thứ giặc nguy hiểm của cách mạng nước ta. Giáo dục phổ
thông và giáo dục đại học không ngừng được hoàn thiện. Năm 1954 số lượng
học sinh phổ thông các cấp là 1.131.196 học sinh. Từ năm 1951-1953 ta đã
đào tạo được 7000 cán bộ kỹ thuật. Ta đã cử được hàng ngàn cán bộ và học
sinh sinh viên đi học dài hạn ở nước ngoài nhằm chuẩn bị cho việc xây dựng
đất nước sau khi chiến tranh kết thúc.
Về văn học nghệ thuật, đã có bước phát triển mạnh mẽ, động viên được
tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, nêu cao ý chí chiến đấu
vì độc lập thống nhất. Các văn nghệ sĩ cũng hăng hái lên đường ra trận, tham
1

ĐCSVN, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H.2001, t 12, tr 109-110

18


gia chiến dịch, theo sát bước chân người lính xung kích, các đoàn dân công,
các đội thanh niên xung phong…Cuộc sống chiến đấu của dân tộc và của
chính người nghệ sĩ đã làm nảy nở nhiều tác phẩm giàu tính hiện thực và
chiến đấu. Văn hóa nghệ thuật thực sự là một mặt trận mà người nghệ sĩ chính

là những chiến sĩ trên mặt trận đó. Sách báo kháng chiến được xuất bản ngày
càng nhiều nhất là các báo: Sự thật, Nhân dân, Cứu quốc…
Về xây dựng đời sống: Cuốn sách “Đời sống mới” của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã giúp định hướng cho việc xây dựng một cuộc sống mới theo hướng
xoá bỏ những yếu tố lạc hậu, tiếp thu, hình thành những yếu tố tốt đẹp. Công
tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được coi trọng. Bệnh viện, phòng y tế,
trạm xá, trạm cứu thương được xây dựng ở khắp nơi. Đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân được ổn định và cải thiện rõ rệt.
Tất cả những thành tựu ấy đã chứng minh cho tính đúng đắn và phù
hợp của đường lối lãnh đạo của Đảng đối với văn hoá, là tiền đề để các giai
đoạn sau Đảng có những đường lối đúng đắn và hoàn thiện hơn, phù hợp với
tình hình mới.
b/ 1954- 1975.
Cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi nhưng đất nước tạm
thời bị chia làm hai miền. Cách mạng Việt Nam bước sang một giai đoạn
mới: giai đoạn thực hiện song song hai chiến lược cách mạng khác nhau trên
hai miền Nam-Bắc. Miền Bắc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa còn miền
Nam tiếp tục chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Tất cả nhằm
mục đích thống nhất nước nhà, đưa cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Để thực hiện được nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới, Trung ương
Đảng đã triệu tập Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ II (từ ngày 20 đến
28/2/1950 để thảo luận đường lối văn nghệ mới. Củng cố, xây dựng miền Bắc
và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà là những nhiệm vụ cách mạng rất
lớn lao và phức tạp. Để hoàn thành những nhiệm vụ đó, một trong những điều
19


kiện cơ bản là phải tiến hành một cuộc cách mạng văn hoá đi đôi với cải tạo
kinh tế ở miền Bắc. Phải phá bỏ tình trạng văn hoá thấp kém của nhân dân ta,
khắc phục những tư tưởng lạc hậu và thói hủ bại, tàn tích xã hội cũ, nâng cao

dần trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật của nước ta. Đào tạo những con
người mới, được giáo dục sâu sắc về chủ nghĩa yêu nước và lý tưởng xã hội
chủ nghĩa.
Năm 1958, Ban Bí thư Trung ương Đảng lại ra Chỉ thị về tăng cường
công tác văn hoá, xác định vị trí và chức năng văn hoá trong giai đoạn cách
mạng mới.
Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đã căn bản hoàn thành, cách mạng
miền Bắc đã chuyển sang lấy xây dựng chủ nghĩa xã hội làm trọng tâm. Chủ
nghĩa xã hội không những đòi hỏi phải có một nền sản xuất hiện đại mà còn
đòi hỏi phải có một nền văn hoá và khoa học tiên tiến. Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ III (1960) đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ nhằm đưa miền Bắc
tiến lên chủ nghĩa xã hội và thực hiện cuộc đấu tranh hoà bình thống nhất
nước nhà. Đại hội khẳng định: đi đôi với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về
kinh tế, phải đẩy mạnh cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hoá
và kỹ thuật. “Phải xây dựng một nền văn nghệ mới có tính chất dân tộc và nội
dung xã hội chủ nghĩa phong phú. Văn nghệ phải có tính Đảng và tính nhân
dân rõ rệt, phải thật sự đi vào cuộc sống và gắn chặt với cuộc sống muôn màu
muôn vẻ của nhân dân lao động đang đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội và thống
nhất Tổ quốc”1.
Đảng đã xác định rõ nền văn hoá chúng ta xây dựng là nền văn hoá có
“tính chất dân chủ và nội dung xã hội chủ nghĩa”. Nền văn hoá này cũng
chính là nền văn hoá dân chủ nhân dân đã được nêu lên ở Đại hội II của Đảng
nhưng được nâng lên một tầm cao mới phù hợp với tình hình miền Bắc đang
bước vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nội dung xã hội chủ nghĩa và
1

ĐCSVN, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H.2002, t 21, tr 555

20



tính chất dân tộc của văn hoá là một nền văn hoá có sự dung hợp to lớn được
xác lập trên bốn phương diện cơ bản: văn hoá lao động gắn với ý thức mình vì
mọi người và mọi người vì mình; văn hoá giao tiếp bình đẳng; văn hoá gia
đình hạnh phúc; văn hoá miêu tả hiện thực xã hội chủ nghĩa là phản ánh một
xã hội đa nhân cách. Mô hình văn hoá có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính
chất dân tộc chứa đựng việc giữ gìn và phát triển bản sắc dân tộc trong thời
đại mà phong trào xã hội chủ nghĩa đã làm nảy sinh những nhân tố mới. Dân
tộc Việt Nam, văn hoá Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước kiểu mới Việt Nam là
một yếu tố quan trọng. Nền văn hoá mới này chính là nền văn hoá theo chủ
nghiã Mác - Lênin mang màu sắc Việt Nam. Đó là nền văn hoá cao và tất yếu
phải được ra đời trong quá trình cách mạng Việt Nam. Đó là nền văn hoá mà
ở đó chúng ta không chấp nhận sự phát triển kinh tế hay một phương diện nào
đó của xã hội lại kéo theo sự nô dịch con người hoặc tạo ra các phản giá trị to
lớn trên bình diện nhân cách. Đảng ta coi nội dung xã hội chủ nghĩa của văn
hoá phải là một quá trình mà ở đó con người được giải phóng về nhân cách,
lối sống của xã hội phải tạo ra một sự liên hợp mới giữa cá nhân và cộng
đồng. Cộng đồng là cơ sở, là nền tảng giải phóng năng lượng cá nhân và
ngược lại cá nhân phải có trách nhiệm với cộng đồng.
Trên cơ sở Nghị quyết của Đại hội lần thứ II của Đảng, tháng 11/1962
Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ III được tổ chức. Trước khi triệu tập Đại
hội, dưới sự chỉ đạo của đồng chí Tố Hữu và Ban Tuyên huấn Trung ương,
một cuộc thảo luận rộng rãi những quan điểm cơ bản về văn nghệ đã được tổ
chức, những vấn đề được đưa ra thảo luận là: vai trò và chức năng của văn
nghệ trong giai đoạn mới của cách mạng, nội dung xã hội chủ nghĩa và tính
chất dân tộc của nền văn nghệ mới ở nước ta, tính Đảng và tính nhân dân
trong văn nghệ, cuộc sống mới và con người mới. Trung ương Đảng đã nêu
lên những vấn đề mới trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và vai trò
rất quan trọng của văn hoá, văn nghệ; tác dụng lâu bền của văn nghệ trong đời
sống nhân dân.

21


Tháng 1-1968 dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị Trung ương,
Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ IV được tổ chức. Ban Chấp hành Trung
ương Đảng đã đánh giá cao thành tựu sáng tạo của văn nghệ và vạch rõ nhiệm
vụ văn nghệ trong giai đoạn mới. Tại Đại hội này, những quan điểm cơ bản về
đường lối văn học nghệ thuật của Đảng ta đã được đồng chí Trường Chinh
khẳng định: với chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, chúng ta xây dựng
một nền văn hoá mới, văn nghệ cao đẹp nhất của loài người.
Dưới ánh sáng đường lối đúng đắn của Đảng, nền văn hoá mới của ta
đã phát triển mạnh mẽ và đạt được những thành tựu lớn lao, góp phần giáo
dục tư tưởng và tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng. Công tác văn
hoá đã nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, xây dựng được những con
người mới - con người xã hội chủ nghĩa, cuộc sống mới. Chủ nghĩa anh hùng
cách mạng đã được xây dựng và không ngừng được các thế hệ người Việt
Nam phát huy cả trong chiến đấu và trong sản xuất. Trải qua 2 cuộc chiến
tranh thần thánh của dân tộc, Đảng, Nhà nước và nhân ta đã xây dựng được
một nền văn hoá cung cấp đủ sức mạnh tinh thần cho hàng triệu con người
Việt Nam trở thành những chiến sĩ anh hùng dám xả thân vì lý tưởng “không
có gì quý hơn độc lập tự do”. Điều này cũng đã chứng tỏ sự trưởng thành của
Đảng trong việc lãnh đạo xây dựng phát triển nền văn hoá mới.
3. Giai đoạn 1975-1985.
Đây là giai đoạn đất nước hoàn toàn thống nhất, cả nước cùng thực
hiện một chiến lược là xây dựng đất nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Nhưng lúc này đất nước đang đứng trước muôn vàn khó khăn. Miền Bắc mặc
dù đã có một thời gian xây dựng xã hội chủ nghĩa nhưng những hậu quả của
chiến tranh chưa khắc phục được hết. Còn ở miền Nam những tàn tích của
nền văn hoá phản động, đồi truỵ do chế độ Mỹ - Nguỵ để lại cộng với những
nhận thức lệch lạc của người dân về chế độ xã hội chủ nghĩa đang là những

khó khăn trở ngại to lớn mà công cuộc xây dựng nền văn hoá mới cần phải

22


khắc phục, vượt qua. Hơn nữa việc quá độ từ một nước nông nghiệp nghèo
nàn lạc hậu, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là một cuộc cách
mạng lâu dài, khó khăn và phức tạp không phải chỉ trong ngày một, ngày hai
có thể làm được.
Tiếp tục sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới, tháng 9-1975 Nghị
quyết hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) đã
nhấn mạnh việc cần thiết phải xoá bỏ những tàn tích của nền văn hoá cũ do
Mỹ - Nguỵ để lại. “Mặt trận văn hoá và tư tưởng là mặt trận đấu tranh giai
cấp phức tạp và lâu dài, phải có phương pháp đấu tranh đúng đắn”1.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (1976) đã xác định phải
tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách
mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá. Nhiệm vụ trọng tâm
của cách mạng tư tưởng văn hoá là xây dựng nền văn hoá mới và con người
mới xã hội chủ nghĩa. Nền văn hoá mới mà chúng ta xây dựng là: “Nền văn
hoá có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc. Đó là một nền văn hoá
có tính Đảng và tính nhân dân. Nền văn hoá ấy được xây dựng trên cơ sở chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, nó vừa hấp
thụ có chọn lọc những thành quả của văn minh loài người, những thành tựu
văn hoá, khoa học hiện đại, vừa là sự kết tinh và nâng cao lên một tầm cao
mới, những gì đẹp nhất trong truyền thống 4 nghìn năm của tâm hồn Việt
Nam, của văn hoá Việt Nam… Xây dựng nền văn hoá mới là quá trình xây
dựng, vun đắp những tư tưởng đúng, những tình cảm lành mạnh, những
phong tục tập quán tốt đẹp; đồng thời là quá trình đấu tranh không khoan
nhượng chống tư tưởng tư sản, phê phán tư tưởng tiểu tư sản, quét sạch ảnh
hưởng của văn hoá thực dân, phong kiến, những nhân tố lạc hậu trong đời

sống văn hoá của xã hội ta” 2. Đảng đã chỉ rõ xây dựng nền văn hoá mới, con
người mới là phải tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối
1
2

Ban TT-VHTW,Một số văn kiện của Đảng về công tác tư tưởng- văn hoá, Nxb CTQG, H.2000,T1,tr257
ĐCSVN, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H.2004, t 37, tr 519-520

23


của Đảng, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin chiếm ưu thế tuyệt đối trong đời
sống chính trị và tinh thần của toàn dân.
Ngày 13-4-1977 Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị về công
tác văn hoá, văn nghệ trong giai đoạn cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ
thị đã chỉ rõ những nhiệm vụ và những biện pháp chính nhằm đẩy mạnh sự
nghiệp văn hoá, văn nghệ ở nước ta trong giai đoạn bấy giờ. Cụ thể là các
nhiệm vụ sau:
- Phát động phong trào quần chúng hoạt động và sáng tạo văn hoá, văn
nghệ thật mạnh mẽ, sâu rộng và phong phú, làm nền tảng cho việc xây dựng
nền văn hoá mới.
- Đẩy mạnh sáng tác văn học, nghệ thuật.
- Chấn chỉnh và đẩy mạnh công tác lý luận phê bình.
- Khẩn trương sưu tầm, nghiên cứu, đánh giá một cách khách quan và
sâu sắc tài sản văn hoá của các dân tộc trong cả nước.
- Đẩy mạnh việc giáo dục truyền thống.
- Đào tạo cán bộ văn hoá, văn nghệ.
- Tổ chức thật tốt mọi hoạt động phục vụ của ngành văn hoá.
- Tích cực đấu tranh để xoá bỏ mọi vết tích của văn hoá thực dân mới
tư sản và phong kiến ở các vùng mới giải phóng, phê phán sâu sắc những ảnh

hưởng độc hại của những văn hoá, văn nghệ ấy.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
đánh giá những thành tựu và những điểm còn hạn chế trong quá trình xây
dựng nền văn hoá mới, con người mới; đồng thời tích cực hoàn thiện những
quan điểm về đường lối xây dựng nền văn hoá mới và con người mới mà Đại
hội Đảng lần thứ III và IV đã đề ra. Đại hội Đảng lần thứ V khẳng định:
“Cùng với sự hình thành dần chế độ mới và nền kinh tế mới, việc xây dựng
nền văn hoá mới, con người mới đã thu được những thành tựu nhất định. Với
24


chế độ mới, nhân dân ta đã vứt bỏ được những xiềng xích nghìn năm trói
buộc con người. Người lao động từ địa vị làm thuê đã bước lên vị trí người
chủ chân chính của đất nước và xã hội, giành lại những phẩm giá dân tộc và
phẩm giá làm người. Đó là thành quả cách mạng vĩ đại nhất. Nhưng vì xã hội
ta mới bước vào thời kỳ quá độ, cho nên bên cạnh những con người mới xã
hội chủ nghĩa đang hình thành những nét mới, tiến bộ trong con người đang
nảy nở, còn không ít những biểu hiện tiêu cực, không lành mạnh. Cuộc đấu
tranh giữa hai con đường: giữa cái mới và cái cũ; tiên tiến với lạc hậu; tiến bộ
với phản động trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng, lối sống đang diễn ra ngày rất
phức tập mà chúng ta không thể xem nhẹ”1.
Đại hội Đảng V tiếp tục khẳng định nền văn hoá mà chúng ta đang xây
dựng là một nền văn hoá có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc. “Cuộc
đấu tranh nhằm xây dựng con người mới và nền văn hoá mới là cuộc đấu
tranh lâu dài, phức tạp và đầy khó khăn. Nó không thể tách rời cuộc đấu tranh
kiên quyết liên tục và sâu sắc nhằm quét sạch những tàn dư tư tưởng và văn
hoá lạc hậu, phản động, sản phẩm xã hội cũ” 2. Đại hội cũng đã đề cập đến
mối quan hệ giữa chính trị, kinh tế và văn hoá: “Chế độ mới và nền kinh tế
mới có ảnh hưởng quyết định đến nền văn hoá mới, con người mới, con người
mới. Ngược lại, những thắng lợi của sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới,

con người mới là một động lực thúc đẩy tiến trình xây dựng chế độ mới và
nền kinh tế mới”3.
Như vậy đường lối văn hoá văn nghệ được Đảng ta xác định tại Đại hội
Đảng lần thứ IV và lần thứ V là thống nhất với nhau. Đó là một nền văn hoá
mới: nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, có tính Đảng và tính
nhân dân. Nền văn hoá mới này phải do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Đối tượng phục vụ của văn hoá mới chính là đa số nhân dân chứ không phải
là một nhóm người có đặc quyền đặc lợi. Nền văn hoá này mang những giá trị
1

ĐCSVN, Văn kiện ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb Sự thật, H.1982, tr 91-92
ĐCSVN, Văn kiện ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb Sự thật, H.1982, tr 92
3
ĐCSVN, Văn kiện ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb Sự thật, H.1982, tr 92, 93
2

25


×