PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, đặc biệt khi nước ta đã chính
thức gia nhập WTO, các doanh nghiệp (DN) trong nước nói chung và các
doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Bình nói riêng đang đứng trước cơ hội
và thách thức lớn.
Hội nhập, một mặt mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp tiếp cận với công
nghệ mới và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, nhưng cũng đặt các doanh
nghiệp trước sự cạnh tranh khốc liệt từ các doanh nghiệp nước ngoài trên cả
thị trường trong và ngoài nước. Việc đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước là
một trong những vấn đề được quan tâm nhất ở Việt Nam. Thủ tướng Chính
phủ Nguyễn Tấn Dũng đã từng chỉ ra bốn điểm yếu của doanh nghiệp nước ta
là: “số lượng doanh nghiệp ít; quy mô nhỏ, thiếu vốn; công nghệ sản xuất
kinh doanh nhìn chung lạc hậu; khả năng quản trị doanh nghiệp còn yếu
kém”. Vì vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là một vấn đề cần được ưu tiên
xem xét khi đổi mới các DN Nhà nước. Khi DN Nhà nước đảm bảo được vốn
cho sản xuất kinh doanh và nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn thì sẽ có
nhiều điều kiện để thực hiện vai trò chủ đạo của mình; đồng thời giúp cho DN
duy trì và đứng vững trên thị trường, mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo công
ăn việc làm và nâng cao đời sống cho người lao động.
Cũng như các DN trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, đối với công ty Lâm
Công nghiệp Long Đại, việc nghiên cứu và đánh giá quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh và tình hình sử dụng các nguồn lực trở nên cấp bách và cần
thiết; trong đó vấn đề hiệu quả sử dụng vốn là nội dung quan trọng cần phải
xem xét. Xuất phát từ đó, chúng tôi chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn tại Công ty Lâm Công nghiệp Long Đại tỉnh Quảng
Bình” làm luận văn thạc sỹ.
1
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Luận văn "Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Lâm
Công nghiệp Long Đại tỉnh Quảng Bình" được lựa chọn nhằm giải quyết các
mục tiêu cơ bản sau:
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả sử dụng vốn
trong doanh nghiệp;
- Đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng vốn, các nhân tố ảnh hưởng đến
hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Lâm Công nghiệp Long Đại;
- Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn của Công ty trong thời gian tới.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử;
phương pháp thống kê mô tả; phương pháp thống kê so sánh; phương
pháp thay thế liên hoàn, phương pháp số chênh lệch; phương pháp dự
báo; phương pháp toán kinh tế và một số phương pháp khác.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng và nội dung nghiên cứu của luận văn là hiệu quả sử dụng vốn
và các vấn đề có liên quan.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của Công ty trong giai
đoạn từ năm 2004 đến năm 2006 và đề xuất giải pháp đến năm 2010.
- Về không gian: Công ty Lâm Công nghiệp Long Đại, tỉnh Quảng Bình.
2
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TRONG DOANH NGHIỆP
1.1. VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TRONG DOANH NGHIỆP
1.1.1. Khái niệm, bản chất của vốn trong doanh nghiệp
Trong phạm vi của doanh nghiệp, để tiến hành hoạt động sản xuất kinh
doanh đều phải có một lượng nhất định các yếu tố sản xuất như máy móc thiết bị,
nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, sức lao động,…. Trong nền kinh tế thị trường,
mọi vận hành kinh tế đều được tiền tệ hoá, do đó để có được các yếu tố nói trên
đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng tiền ứng trước nhất định, được gọi là vốn
sản xuất kinh doanh [38]. Vậy có thể hiểu, vốn là lượng tiền ứng trước để thoả
mãn nhu cầu về tài sản dùng vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhằm
mục đích sinh lời. Gọi là số tiền ứng trước vì nếu doanh nghiệp hoạt động kinh
doanh có hiệu quả sẽ thu hồi lại được số vốn bỏ ra ban đầu và làm sinh lời vốn.
Tài sản được hiểu là nguồn lực do DN kiểm soát và có thể thu được lợi ích kinh
tế trong tương lai. Tài sản trong DN được biểu hiện dưới hình thái hữu hình như
nhà xưởng, máy móc, thiết bị, vật tư, hàng hoá,… hoặc thể hiện dưới hình thái vô
hình như quyền sử dụng đất, bản quyền, bằng sáng chế… Tài sản trong doanh
nghiệp cũng có thể phân thành tài sản hiện vật (vật chất) như máy móc thiết bị,
nhà xưởng … và các tài sản tài chính như chứng khoán và các giấy tờ có giá khác.
Vốn là một yếu tố cơ bản, là tiền đề không thể thiếu được của mọi quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời sử dụng vốn có hiệu quả là yếu tố
quan trọng nhất quyết định đến sự tăng trưởng của các DN và của nền kinh tế ở
các nước đang phát triển như ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Đối với toàn bộ nền kinh tế, vốn được ví như “máu” trong một cơ thể sống.
Theo Mác: vốn là giá trị đem lại lợi nhuận [14]. Biểu hiện cụ thể của vốn trong
các DN là tài sản mà DN sở hữu hoặc kiểm soát.
3
Ở nước ta hiện nay, khái niệm về vốn cũng được hiểu khác nhau. Một số
cho rằng vốn là số tiền đầu tư ứng trước vào tài sản dài hạn và tài sản ngắn hạn
của DN. Cụ thể hơn vốn là biểu hiện bằng tiền giá trị của tài sản dài hạn và tài
sản ngắn hạn của DN. Một số khác có quan điểm cho rằng vốn gồm hai bộ phận
là vốn chủ sở hữu và nợ phải trả. Quan điểm này có sự đồng nhất giữa vốn và
nguồn vốn. Họ cho rằng vốn và nguồn vốn chỉ là những cách gọi khác nhau để
chỉ ra nguồn vốn của tài sản trong DN. Theo tác giả, vốn và nguồn vốn là hai
mặt của cùng một lượng tài sản do DN quản lý, sử dụng; trong đó vốn là biểu
hiện bằng tiền giá trị của các tài sản của DN, còn nguồn vốn chỉ ra nguồn gốc
hình thành các tài sản này. Khi nói đến vốn tức là muốn nói đến giá trị những tài
sản mà DN đang nắm giữ, sử dụng để phục vụ SXKD. Như vậy, trong phạm vi
của luận văn nói đến hiệu quả sử dụng vốn có thể hiểu đồng nghĩa với hiệu quả
sử dụng tài sản của DN.
Vốn trong doanh nghiệp có các đặc trưng sau:
- Vốn được biểu hiện bằng giá trị của những tài sản, điều này có nghĩa là
vốn phải đại diện cho một lượng giá trị thực của tài sản hữu hình và vô hình như
nhà xưởng, đất đai, thiết bị, nguyên liệu, chất xám, thông tin, vị trí địa lý kinh
doanh, nhãn hiệu thương mại, bản quyền phát minh sáng chế,…
- Vốn có giá trị về mặt thời gian, một đồng vốn ngày hôm nay có giá trị cao
hơn một đồng vốn trong tương lai, bởi vì có thể đầu tư tiền của ngày hôm nay để
thu được những khoản thu nhập trong tương lai. Tỷ lệ lãi suất là sự đo lường thời
giá của tiền tệ, nó phản ảnh chi phí cơ hội mà người sử dụng vốn phải bỏ ra để
thu lợi nhuận. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá chính xác
hiệu quả của đầu tư.
- Vốn luôn vận động vì mục tiêu sinh lời. Nếu coi hình thái khởi đầu của
vốn là tiền thì sau một quá trình vận động vốn có thể biến đổi qua các hình thái
vật chất khác nhau, nhưng kết thúc chu kỳ vận động vốn lại trở lại trạng thái ban
đầu là tiền. Theo quy luật, để DN tồn tại và phát triển thì lượng tiền này phải lớn
hơn lượng tiền mà DN bỏ ra ban đầu, có nghĩa là DN phải có lợi nhuận.
4
- Vốn luôn gắn liền với một chủ sở hữu nhất định, không có vốn vô chủ, vì
nó sẽ dẫn đến chi tiêu lãng phí và kém hiệu quả.
- Vốn được xem là một hàng hóa đặc biệt. Khác với hàng hoá thông thường,
hàng hoá vốn được bán sẽ không bị mất quyền sở hữu mà chỉ bán quyền sử
dụng, người mua được quyền sử dụng vốn trong thời gian nhất định và phải
trả cho người sở hữu một khoản tiền được gọi là lãi. Như vậy, lãi suất là giá
phải trả cho việc được quyền sử dụng vốn trong một thời kỳ nhất định. Việc
mua bán diễn ra trên thị trường tài chính, giá mua bán vốn cũng tuân theo
quan hệ cung - cầu trên thị trường.
Các đặc trưng của vốn cho thấy, vốn là nguồn lực có hạn cần phải sử dụng
tiết kiệm và có hiệu quả. Đây là vấn đề có tính chất nguyên lý, là cơ sở cho
việc hoạch định chính sách quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn DN.
1.1.2. Sự vận động của vốn trong doanh nghiệp
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn thường xuyên chuyển hoá từ
hình thái tiền tệ ban đầu sang các hình thái hiện vật, như: tư liệu sản xuất,
sức lao động... hàng hoá và cuối cùng lại chuyển hoá về hình thái ban đầu.
Nếu coi xuất phát điểm ban đầu của vốn là tiền tệ người ta có thể khái
quát quá trình hoạt động của vốn trong DN bằng công thức [14]:
T - H ...... H' - T'
Quá trình luân chuyển của vốn biểu hiện như một quá trình vận động của
giá trị, phản ánh về mặt giá trị của quá trình sản xuất kinh doanh. Ứng với
ba giai đoạn luân chuyển vốn trong công thức này là ba giai đoạn của quá
trình sản xuất kinh doanh bao gồm:
Giai đoạn I ( T - H): DN mua các yếu tố đầu vào cho quá trình SXKD như
tư liệu sản xuất, thuê mướn, đào tạo nhân công,... Trong giai đoạn này vốn
ứng ra ban đầu dưới hình thái tiền tệ (T) được chuyển sang hình thái hiện
vật là tư liệu sản xuất và sức lao động (H) khi DN mua tư liệu sản xuất và
thuê lao động.
5
Giai đoạn II (H...H'): đây là giai đoạn DN sử dụng các yếu tố đầu vào kết
hợp với công nghệ và kỹ năng của công nhân để sản xuất sản phẩm phục
vụ cho tiêu thụ ở giai đoạn sau. Trong giai đoạn này, vốn từ hình thái tư
liệu sản xuất (H) chuyển sang hình thái thành phẩm (H') thông qua quá
trình sản xuất.
Giai đoạn III (H' - T'): DN tiêu thụ sản phẩm sản xuất ra thu được tiền,
vốn kết thúc quá trình vận động trở về trạng thái ban đầu là tiền. Để DN
có thể phát triển và tiếp tục SXKD tức là vốn tiếp tục vận động ở các chu
kì sau, thì lượng tiền thu được ở giai đoạn này phải lớn hơn lượng tiền mà
DN bỏ ra ban đầu ở giai đoạn mua hàng, có nghĩa là DN kinh doanh có
lãi.
1.1.3. Phân loại vốn trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Có nhiều cách phân loại vốn, sau đây chỉ xem xét một số cách phân loại
vốn chủ yếu, có liên quan nhiều đến nội dung phân tích hiệu quả sử dụng
vốn của DN.
1.1.3.1. Phân loại vốn theo quan hệ sở hữu
Theo quan hệ sở hữu, vốn của DN được phân thành vốn chủ sở hữu và nợ.
- Vốn chủ sở hữu: là phần vốn thuộc quyền sở hữu của DN, bao gồm các
bộ phận chủ yếu: vốn góp ban đầu; lợi nhuận không chia; vốn tăng thêm
bằng phát hành cổ phiếu mới. Tuỳ theo hình thức sở hữu của DN mà tính
chất và hình thức tạo vốn của từng DN là khác nhau. Đối với DN Nhà
nước, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của Nhà nước. Vốn góp ban
đầu của công ty cổ phần là vốn do các cổ đông đóng góp. Đối với công ty
trách nhiệm hữu hạn là do các thành viên của công ty đóng góp. Đối với
DN tư nhân là chủ DN bỏ vốn... Vốn chủ sở hữu được xác định như sau:
Vốn chủ sở hữu = Tài sản DN - Nợ phải trả
6
- Nợ: là số vốn mà DN đi vay, chiếm dụng của tổ chức, cá nhân khác và
do vậy DN phải có trách nhiệm thanh toán. DN có thể vay ngân hàng, sử
dụng tín dụng thương mại... Theo thời gian thanh toán, nợ được chia
thành nợ ngắn hạn, nợ trung hạn và nợ dài hạn. Thông thường, nợ ngắn
hạn là khoản nợ mà DN có trách nhiệm thanh toán trong thời hạn 1 năm,
nợ trung hạn từ 1 đến 3 năm và nợ dài hạn từ 3 năm trở lên.
Cách phân loại vốn theo quan hệ sở hữu vốn có ý nghĩa quan trọng đối với
DN trong việc thiết lập cơ cấu vốn hợp lý, vì DN sử dụng vốn chủ sở hữu
hay nợ để tài trợ cho hoạt động của mình đều phải chịu chi phí sử dụng
vốn. Chi phí sử dụng vốn là chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn. Chi phí sử
dụng vốn có thể xem như tỷ xuất sinh lợi mà DN phải tạo ra từ những dự
án đầu tư để đảm bảo duy trì giá cổ phiếu trên thị trường hoặc có thể hiểu
như mức tỷ suất sinh lời tối thiểu mà các nhà cung ứng vốn trên thị trường
yêu cầu nhằm đảm bảo sự cung ứng vốn của họ đối với DN. Mỗi DN có
một cơ cấu vốn tối ưu cho phép DN tối thiểu hoá chi phí sử dụng vốn và tối
đa hoá giá trị của DN.
1.1.3.2. Phân loại vốn theo công dụng kinh tế
Theo công dụng kinh tế, vốn của DN được chia thành vốn cố định, vốn
lưu động và vốn đầu tư tài chính.
- Vốn cố định là lượng tiền ứng trước để mua sắm, xây dựng tài sản cố
định và các khoản đầu tư dài hạn dùng vào hoạt động kinh doanh của DN.
Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu được sử dụng một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh như máy móc,
thiết bị, phương tiện vận tải, các công trình kiến trúc... đồng thời thoả mãn
hai tiêu chuẩn sau: về thời gian: có thời gian sử dụng từ một năm trở lên;
về giá trị: ở nước ta hiện nay tài sản cố định phải có giá trị từ 10 triệu
đồng trở lên.
- Vốn lưu động là lượng tiền ứng trước để thoả mãn nhu cầu về tài sản
ngắn hạn phục vụ cho hoạt động kinh doanh của DN. Tài sản ngắn hạn là
7
những tài sản thường xuyên luân chuyển trong quá trình kinh doanh như:
nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, thành phẩm, hàng hoá, các khoản phải
thu...
- Vốn đầu tư tài chính của DN là một bộ phận vốn kinh doanh của DN
được đầu tư ra bên ngoài nhằm mục đích sinh lời.
Có nhiều hình thức đầu tư tài chính ra bên ngoài như: DN bỏ vốn mua cổ
phiếu, trái phiếu của các công ty khác, hoặc góp vốn liên doanh với các
DN khác,... Mục đích của đầu tư tài chính ra bên ngoài là nhằm thu lợi
nhuận và đảm bảo an toàn về vốn nhờ đa dạng hoá đầu tư.
Phân loại vốn theo cách này có ý nghĩa quan trọng đối với DN trong việc
lựa chọn loại nguồn vốn thích hợp với từng loại tài sản cần tài trợ, trong
việc đề ra các biện pháp quản lý vốn thích hợp, nhằm nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn và bảo toàn số vốn đã bỏ ra.
1.1.3.3. Phân loại vốn theo nguồn huy động
Căn cứ vào phạm vi huy động các nguồn vốn, vốn của DN có thể chia
thành nguồn vốn bên trong DN và nguồn vốn bên ngoài DN.
- Nguồn vốn bên trong DN là nguồn vốn có thể huy động được từ hoạt
động của bản thân DN. Đó là tiền khấu hao tài sản cố định, lợi nhuận
chưa phân phối, các khoản dự phòng... Nguồn vốn bên trong DN có ý
nghĩa hết sức quan trọng giúp cho DN tự chủ trong việc sử dụng vốn này,
đồng thời tiết kiệm chi phí sử dụng vốn.
- Nguồn vốn bên ngoài DN là nguồn vốn có thể huy động được từ bên
ngoài DN để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Đó là
vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản nợ phải trả.
Trong nền kinh tế thị trường, nguồn vốn bên ngoài rất đa dạng và các hình
thức huy động cũng rất phong phú. Mỗi hình thức huy động vốn từ bên
ngoài đều có một số thuận lợi và khó khăn nhất định, tạo cho DN có một cơ
cấu vốn linh hoạt, kịp thời đáp ứng được nhu cầu về vốn cho hoạt động sản
8
xuất kinh doanh. Thông thường DN có mức doanh lợi cao thì sử dụng nguồn
vốn bên ngoài sẽ đem lại lợi nhuận cao. Tuy nhiên, khi huy động vốn từ bên
ngoài thì thường phải có tài sản thế chấp và DN phải trả lãi tiền vay. Nếu DN
sử dụng vốn kém hiệu quả thì lãi tiền vay sẽ trở thành gánh nặng mà DN
phải chịu.
Với cách phân loại này, cho phép DN lựa chọn các phương án huy động
vốn sao cho phù hợp với điều kiện kinh doanh của mình trong phạm vi
khuôn khổ pháp luật cho phép.
1.1.4. Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp
Vốn có vai trò rất quan trọng đối với DN, là yếu tố không thể thiếu của
mọi quá trình kinh doanh. Vai trò quan trọng của vốn đã được Các Mác khẳng
định: Tư bản đứng ở vị trí hàng đầu, vì tư bản tạo ra giá trị thặng dư.
Trong nền kinh tế thị trường muốn tiến hành hoạt động kinh doanh, DN
phải có vốn. Vốn là điều kiện để thực hiện các hoạt động tạo nguồn vì thế
các chiến lược hoặc kế hoạch sản xuất kinh doanh chỉ trở thành hiện thực
nếu được đảm bảo bằng vốn.
Như vậy, có thể nói vốn có vai trò quyết định quy mô của DN, quyết định
năng lực sản xuất của DN. Vốn càng lớn thì quy mô DN càng lớn, nâng
cao khả năng tài chính của DN, tạo điều kiện hiện đại hoá công nghệ,
nâng cao trình độ của người lao động, nâng cao năng lực sản xuất của
DN.
Vốn có vai trò nâng cao vị thế, uy tín của DN, tạo điều kiện thuận lợi
trong quá trình hợp tác phát triển của DN. Quy mô của DN càng lớn sẽ
tạo điều kiện để thực hiện mở rộng thị trường trong và ngoài mước, tạo
lợi thế trong cạnh tranh, là điều kiện tồn tại và phát triển của DN.
Vốn còn tạo điều kiện cho DN tham gia tốt các chính sách xã hội, các
đóng góp với chính phủ, góp phần vào phát triển kinh tế đất nước. Vì vậy,
9
công tác quản lý và sử dụng vốn sao cho hiệu quả có ý nghĩa rất quan
trọng trong hoạt động quản lý của DN.
1.1.5. Quá trình huy động, tạo vốn trong doanh nghiệp
Quá trình huy động, tạo vốn trong DN đòi hỏi xác định được nhu cầu vốn
cần huy động trong từng thời kỳ nhất định, từ đó phân tích lựa chọn các
hình thức huy động vốn phù hợp.
1.1.5.1 Xác định cơ cấu vốn
Cơ cấu vốn là sự kết hợp của nợ dài hạn và vốn chủ sở hữu được sử dụng
để tài trợ cho tài sản của DN. Các nhân tố chính cần phải xem xét khi xác
định cơ cấu vốn là:
-Rủi ro kinh doanh: rủi ro kinh doanh là rủi ro cố hữu trong tài sản của
DN trong trường hợp DN không sử dụng nợ.
Rủi ro kinh doanh phụ thuộc vào các nhân tố chủ yếu như: chi phí cố định
của DN, khả năng thay đổi của cầu, khả năng biến thiên của giá bán, khả
năng biến thiên của giá đầu vào, khả năng điều chỉnh giá đầu ra khi giá
đầu vào thay đổi.
- Thuế thu nhập DN: chi phí sử dụng nợ vay là chi phí sau thuế. Giả sử
gọi K
d
là chi phí nợ vay sau thuế, I là lãi suất nợ vay, T là thuế suất thuế
thu nhập DN, lúc đó K
d
= I(1- T). Nếu thuế suất thuế thu nhập DN càng
cao thì càng hạ thấp chi phí thực tế của nợ (K
d
càng thấp). Khi sử dụng nợ,
DN tiết kiệm được một khoản bằng lãi suất vay nợ nhân với thuế suất thuế
thu nhập DN (I * T). Vì vậy, thuế suất càng cao sẽ khuyến khích DN sử
dụng nợ do phần tiết kiệm nhờ thuế tăng lên.
- Khả năng linh hoạt tài chính: là khả năng điều chỉnh nguồn vốn tăng hay
giảm đáp ứng với các thay đổi quan trọng trong nhu cầu vốn. DN cần duy
trì được tính linh hoạt tài chính nhằm đảm bảo cho DN vẫn có thể huy
động được vốn một cách hợp lý trong điều kiện có tác động xấu, bởi vì
10
quyết định huy động vốn ngày hôm nay sẽ ảnh hưởng đến khả năng lựa
chọn phương thức huy động vốn trong tương lai.
- Quan điểm của các nhà quản lý: việc xác định cơ cấu vốn mục tiêu của
DN còn phụ thuộc vào quan điểm của các nhà quản lý. Thực tế, có một số
nhà quản lý sẵn sàng sử dụng nhiều nợ hơn; trong khi đó, một số nhà quản
lý khác lại muốn sử dụng vốn chủ sở hữu.
1.1.5.2 Lựa chọn và quyết định hình thức huy động vốn
Để lựa chọn và quyết định hình thức huy động vốn phù hợp, trước hết cần
phải xác định đúng đắn nhu cầu vốn cần thiết cho hoạt động của DN trong
kỳ kế hoạch. Nghĩa là trong mỗi kỳ kế hoạch phải xác định rõ DN cần bao
nhiêu vốn cho những việc gì. Việc xác định nhu cầu vốn phải dựa trên các
cơ sở tính toán chính xác, có căn cứ khoa học. Đặc biệt, DN phải tập trung
nhu cầu vốn do tìm được cơ hội kinh doanh mới cần đầu tư.
DN cần xác định nhu cầu vốn trong thời kỳ dài hạn và từng thời kỳ ngắn
hạn. Đồng thời phải xác định được nhu cầu từng loại vốn cố định, vốn lưu
động là bao nhiêu. Cụ thể hơn là xác định nhu cầu vốn cho mỗi hình thức,
dự án đầu tư là bao nhiêu.v.v..
Khi đã xác định lượng tiền cần huy động, tiếp đến là lựa chọn các hình
thức huy động vốn thích hợp, đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn đảm bảo
cho hoạt động kinh doanh của DN được thực hiện một cách liên tục với
chi phí sử dụng vốn thấp nhất, rủi ro thấp nhất. Việc lựa chọn hình thức
huy động vốn trong các DN nghiệp khác nhau sẽ không giống nhau, nó
phụ thuộc vào một loạt các nhân tố như: trạng thái của nền kinh tế; triển
vọng của thị trường vốn; ngành nghề kinh doanh hay lĩnh vực huy động
của DN; quy mô, loại hình của DN; chiến lược phát triển và chiến lược
đầu tư của DN; uy tín của DN và khả năng thích ứng trong các tình huống
cụ thể của người quản lý.v.v..
Phân tích và lựa chọn hình thức huy động vốn thích hợp trong từng kỳ kế
hoạch, cần phải xem xét các vấn đề sau: cơ cấu tài chính mà DN đã chọn;
11
chi phí sử dụng vốn của từng nguồn vốn huy động cụ thể; tình hình thị
trường tài chính và các điều kiện để DN có thể huy động được vốn theo
từng hình thức huy động; khả năng đáp ứng của mỗi nguồn vốn huy động
cụ thể.
Tuỳ theo từng loại hình DN và đặc điểm cụ thể mà có thể có các hình thức
huy động vốn khác nhau. Trong điều kiện kinh tế thị trường, các hình thức
huy động vốn của DN cần được đa dạng hóa nhằm khai thác tốt nhất các
nguồn vốn trong nền kinh tế. DN có thể lựa chọn các hình thức huy động
vốn chủ yếu sau đây:
1.1.5.2.1. Hình thức tự tài trợ (tự cung ứng vốn)
Hình thức tự tài trợ là hình thức DN tự đáp ứng nhu cầu vốn của mình bằng
nguồn vốn do DN tạo ra trong quá trình hoạt động kinh doanh, bao gồm quỹ
khấu hao tài sản cố định và lợi nhuận giữ lại.
Quỹ khấu hao của DN được hình thành trên cơ sở trích khấu hao tài sản cố
định sử dụng trong quá trình kinh doanh, dùng để tái đầu tư thay thế, đổi mới
tài sản cố định. Tuy nhiên, khi chưa có nhu cầu tái tạo lại tài sản cố định, DN
có thể sử dụng linh hoạt quỹ khấu hao phục vụ cho yêu cầu kinh doanh của
mình.
Tự tài trợ bằng lợi nhuận giữ lại là một hình thức tạo vốn quan trọng và
hấp dẫn của DN. Rất nhiều DN coi trọng chính sách tái đầu tư từ lợi
nhuận giữ lại. Thực chất tái đầu tư từ lợi nhuận giữ lại là hình thức tăng
vốn đầu tư các chủ sở hữu DN. Hình thức này hấp dẫn và được coi trọng
vì nó giảm được chi phí sử dụng vốn, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên
ngoài và tăng tiềm lực tài chính cho DN. Tuy nhiên, DN chỉ có thể tự tài
trợ bằng lợi nhuận giữ lại khi DN hoạt động có hiệu quả.
1.1.5.2.2. Phát hành cổ phiếu
12
Phát hành cổ phiếu để huy động vốn là một hình thức huy động vốn chỉ có
các công ty cổ phần đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định của pháp
luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán sử dụng.
1.1.5.2.3. Phát hành trái phiếu công ty
Trái phiếu công ty còn gọi là chứng khoán nợ, là một loại giấy chứng nhận nợ
có kỳ hạn do công ty phát hành, xác nhận nghĩa vụ trả gốc và lãi của công ty
phát hành đối với người sở hữu trái phiếu. Phát hành trái phiếu là một hình
thức huy động vốn quan trọng đối với DN trong thị trường chứng khoán phát
triển. Tuy nhiên, chỉ có những DN đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định của
pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán mới được phép phát
hành.
1.1.5.2.4. Vay vốn từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác
Vay vốn từ ngân hàng là hình thức huy động vốn rất quan trọng đối với
các DN. Đây cũng chính là hình thức huy động vốn chủ yếu của các DN
nước ta trong thời gian qua. Theo thời hạn vay, vốn vay ngân hàng bao
gồm: vay dài hạn (từ 3 năm trở lên), vay trung hạn (từ 1 đến 3 năm) và
vay ngắn hạn (dưới 1 năm).
1.1.5.2.5. Sử dụng tín dụng thương mại
Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các DN, được biểu hiện
dưới các hình thức mua bán chịu hàng hóa. Hành vi mua bán chịu hàng
hoá được xem là hình thức tín dụng, bởi vì người bán chuyển giao cho
người mua sử dụng vốn tạm thời trong một thời gian nhất định và khi đến
thời hạn đã được thoả thuận người mua phải hoàn lại vốn cho người bán
dưới hình thức tiền tệ và cả phần lãi.
1.1.5.2.6. Tín dụng thuê mua (Leasing)
Thoả thuận thuê mua là một hợp đồng giữa hai hay nhiều bên, liên quan
đến một hay nhiều tài sản. Người cho thuê (chủ sở hữu tài sản) chuyển
giao tài sản cho người thuê (người sử dụng tài sản) độc quyền sử dụng và
13
hưởng những lợi ích kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định. Đổi lại,
người thuê có nghĩa vụ trả một số tiền cho chủ tài sản tương xứng với
quyền sử dụng và quyền hướng dụng đó.
1.1.5.2.7. Huy động vốn bằng liên doanh, liên kết
Theo hình thức này, DN liên doanh, liên kết với một (hoặc một số) DN
khác nhằm tạo vốn cho một (một số) hoạt động hay dự án liên doanh nào
đó. Các bên liên doanh ký kết hợp đồng liên doanh thoả thuận về các vấn
đề như phương thức hoạt động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, thời hạn
hợp đồng. Có ba hình thức liên doanh chủ yếu: Hợp đồng hợp tác kinh
doanh dưới hình thức hoạt động kinh doanh được đồng kiểm soát bởi các
bên góp vốn kinh doanh; Hợp đồng hợp tác kinh doanh dưới hình thức
liên doanh tài sản được đồng kiểm soát bởi các bên góp vốn liên doanh;
Hợp đồng liên doanh dưới hình thức thành lập cơ sở kinh doanh mới được
đồng kiểm soát bởi các bên góp vốn kinh doanh.
1.1.5.2.8. Điều chỉnh cơ cấu tài sản
Do môi trường kinh doanh biến động, nhiệm vụ kinh doanh thay đổi nên
trong kinh doanh luôn diễn ra hiện tượng thừa loại tài sản này nhưng lại
thiếu tài sản khác. Điều chỉnh cơ cấu tài sản chính là việc kịp thời có giải
pháp bán các tài sản cố định dư thừa, không sử dụng đến; mặt khác, trên
cơ sở thường xuyên kiểm tra, tính toán và xác định lại mức dự trữ tài sản
lưu động, ứng dụng mô hình dự trữ tối ưu nhằm giảm lượng tài sản lưu
động lưu kho không cần thiết. Phương thức này tuy không làm tăng tổng
số vốn sản xuất kinh doanh, nhưng lại có tác dụng rất lớn trong việc tăng
vốn cho các hoạt động cần thiết trên cơ sở giảm vốn ở những nơi không
cần thiết.
1.1.5.3. Điều hoà vốn
Điều hoà vốn là việc lưu chuyển vốn từ nơi thừa vốn tạm thời, sử dụng
kém hiệu quả sang nơi thiếu vốn và có khả năng sử dụng vốn có hiệu quả
14
cao trong phạm vi nội bộ DN, nhằm đảm bảo vốn được phân bố hợp lý,
mang lại hiệu quả cao.
Đây là một vấn đề quan trọng trong quản lý vốn nói chung, đặc biệt ở
những DN lớn có nhiều đơn vị kinh doanh. Bởi vì trong một DN vẫn có
thể xảy ra hiện tượng ở đơn vị, bộ phận này thừa vốn tạm thời; trong khi ở
đơn vị, bộ phận khác lại thiếu vốn tạm thời. Hoặc vốn bị phân bổ, đầu tư
vào chỗ có hiệu quả thấp, trong khi DN lại cần vốn cho những dự án có
tiềm năng mang lại tỷ suất sinh lời cao hơn...
Việc điều chuyển vốn trong DN phải đáp ứng được yêu cầu về khả năng
tập trung vốn cho các cơ hội đầu tư tốt hơn, đồng thời đảm bảo khai thác
tốt tiềm lực tài chính trong DN, phục vụ cho hoạt động kinh doanh của
DN được tiến hành thuận lợi, có hiệu quả.
1.2. HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TRONG DOANH NGHIỆP
1.2.1. Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn
Có vốn mới chỉ là điều kiện cần, nhưng chưa đủ để đạt mục đích kinh
doanh. Vấn đề đặt ra có ý nghĩa tiếp theo là phải sử dụng có hiệu quả nguồn
vốn huy động. Sử dụng vốn có hiệu quả trước hết là điều kiện để DN bảo đảm
đạt được lợi ích của các nhà đầu tư, người lao động, của nhà nước về mặt thu
nhập và đảm bảo sự tồn tại phát triển của bản thân. Mặt khác đó cũng chính là
cơ sở để DN có thể huy động vốn được dễ dàng trên thị truờng tài chính để
mở rộng sản xuất, phát triển kinh doanh.
Xét về bản chất hiệu quả sử dụng vốn, trong các quan điểm trước đây, về
lý luận cũng như thực tiễn đều coi giá trị thặng dư là do kết quả của lao động
sống sáng tạo ra; yếu tố đất đai, tài nguyên không tính đến, yếu tố vốn bị xem
nhẹ. Vì vậy khi xét các yếu tố tác động đến kết quả sản xuất, người ta chỉ
đánh giá phân tích theo ba yếu tố cơ bản: Lao động, thiết bị, nguyên vật liệu,
trong đó yếu tố lao động là cơ bản nhất. Từ đó đòi hỏi, bản chất về hiệu quả
sử dụng vốn được đề cập một cách đầy đủ hơn. Trước hết các DN sản xuất
15
kinh doanh tuân thủ theo quy tắc: "đầu vào" và "đầu ra" được quy định bởi thị
trường. Sản xuất cái gì ? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai ? không xuất
phát từ chủ quan DN hay từ mệnh lệnh cấp trên, mà xuất phát từ nhu cầu thị
trường, từ quan hệ cung - cầu và lợi ích DN. Quyền sở hữu và quyền sử dụng
vốn tách rời nhau. Hay nói một cách khác mọi yếu tố sản xuất cùng các quan
hệ sản xuất của DN đều dựa vào thị trường. Thị trường không chỉ là thị
trường hàng hoá, dịch vụ mà còn bao gồm cả thị trường sức lao động, thị
trường vốn. Như vậy, bản chất hiệu quả sử dụng vốn là một mặt của hiệu quả
kinh doanh, nó là một đại lượng so sánh giữa một bên là kết quả đạt được với
bên kia là số vốn bỏ ra; trong đó chỉ tiêu so sánh giữa lợi nhuận ròng với số
vốn chủ sở hữu được coi là chỉ tiêu tổng hợp có ý nghĩa quan trọng về hiệu
quả sử dụng vốn DN.
Tuy nhiên, khi đi vào nghiên cứu các tiêu chuẩn về hiệu quả sử dụng vốn
DN trong cơ chế thị trường lại có nhiều quan điểm khác nhau.
Thứ nhất, quan điểm của các nhà đầu tư, tiêu chuẩn về hiệu quả sử dụng
vốn như sau:
Với các nhà đầu tư trực tiếp (những người mua cổ phiếu, góp vốn) tiêu
chuẩn hiệu quả vốn đầu tư là tỷ suất sinh lời trên một đồng vốn cổ đông và
chỉ số tăng giá cổ phiếu mà họ nắm giữ.
Với các nhà đầu tư gián tiếp (những cá nhân, tổ chức cho vay vốn) ngoài
tỷ suất lợi tức vốn vay, họ rất quan tâm đến sự bảo toàn giá trị thực tế của
đồng vốn cho vay qua thời gian.
Đối với Nhà nước là chủ sở hữu về cơ sở hạ tầng, đất đai, tài nguyên môi
trường,... tiêu chuẩn hiệu quả sử dụng vốn DN đồng nghĩa với hiệu quả kinh
doanh, đứng trên giác độ toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nghĩa là tiêu chuẩn về
hiệu quả được xác định thông qua tỷ trọng về thu nhập mới sáng tạo ra, tỷ
trọng các khoản thu về ngân sách, số chỗ làm việc mới tăng thêm,... so với số
vốn DN đầu tư sản xuất kinh doanh.
16
Thứ hai, dựa vào điểm hoà vốn trong kinh doanh có một số quan điểm
cho rằng: tiêu chuẩn về hiệu quả sử dụng vốn khác với tiêu chuẩn kinh doanh
ở chỗ, tiêu chuẩn hiệu quả sử dụng vốn phải dựa trên cơ sở điểm hoà vốn xác
định. Tức là kết quả hữu ích thực sự được xác định khi mà thu nhập bù đắp
hoàn toàn số vốn bỏ ra. Phần vượt trên điểm hoà vốn mới là thu nhập để làm
cơ sở xác định hiệu quả sử dụng vốn.
Thứ ba, dựa trên lợi nhuận kinh tế một số nhà nghiên cứu lại đưa ra quan
điểm: Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, DN đã bỏ ra những chi phí
được phản ánh vào giá thành sản phẩm nhưng còn một số chi phí khác như:
tiền lương của chủ DN, đất đai, nhà cửa, lợi thế cửa hàng, uy tín,... của anh ta
không được hoạch toán vào giá thành sản phẩm. Tất cả các khoản này gọi là
chi phí ngầm. Mặt khác còn một khoản chi phí được xét đến nếu giả thiết số
vốn đang sử dụng vào sản xuất kinh doanh được đầu tư vào một phương án
khác có hiệu quả hơn, gọi là chi phí thời cơ hay chi phí cơ hội. Theo quan
điểm này tiêu chuẩn hiệu quả sử dụng vốn của DN được xác định trên cơ sở
lợi nhuận kinh tế.
Lợi nhuận
kinh
tế
=
Tổng doanh
thu kế
toán
-
Tổng
chi
ph
í
-
Chi phí ngầm và
chi phí thời
cơ
Hay
Lợi nhuận kinh tế = Tổng doanh thu - Tổng chi phí kinh tế
Đây là quan điểm xác định tiêu chuẩn hiệu quả sử dụng vốn mang tính chất
toàn diện, nhưng nó chỉ có ý nghĩa về mặt nghiên cứu hoặc quản lý, còn về mặt
hạch toán cụ thể thì không thể xác định được chi phí ngầm và chi phí thời cơ.
Thứ tư, dựa trên thu nhập thực tế, một số quan điểm lại đưa ra tiêu chuẩn
hiệu quả như sau: Trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát, cái mà nhà đầu tư
quan tâm là lợi nhuận ròng thực tế chứ không phải lợi nhuận ròng danh nghĩa.
Lợi nhuận ròng thực tế được đo bằng khối lượng giá trị hàng hoá có thể mua
17
được từ lợi nhuận ròng để thoả mãn được nhu cầu tiêu dùng của các nhà đầu
tư. Do đó, tiêu chuẩn về hiệu quả sử dụng vốn của quan điểm này là tỷ suất
lợi nhuận thực tế được xác định bằng cách loại trừ tỷ lệ lạm phát trong tỷ suất
lợi nhuận ròng. Với quan điểm này đã phản ánh được tiêu chuẩn đích thực
cuối cùng về kết quả lợi ích tạo ra của đồng vốn.
Qua nghiên cứu các quan điểm trên, theo chúng tôi để đi đến thống nhất
về bản chất và tiêu chuẩn hiệu quả sử dụng vốn của DN hiện nay, cần giải
quyết các vấn đề sau:
Hiệu quả sử dụng vốn chỉ là một mặt của hiệu quả kinh doanh mà không
phải là toàn bộ hiệu quả kinh doanh, do vốn chỉ là một yếu tố của quá trình
kinh doanh. Ngược lại, nói đến hiệu quả kinh doanh có thể có một trong các
yếu tố của nó không đạt hiệu quả. Còn nói đến hiệu quả sử dụng vốn, không
thể nói sử dụng có kết quả nhưng lại bị lỗ vốn. Tức là, tính hiệu quả sử dụng
vốn thể hiện trên hai mặt: Bảo toàn được vốn và tạo ra được các kết quả theo
mục tiêu kinh doanh, trong đó đặc biệt là kết quả về sức sinh lời của đồng vốn.
Kết quả lợi ích tạo ra do sử dụng vốn phải thoả mãn hai yêu cầu: Đáp
ứng được lợi ích của DN, lợi ích của các nhà đầu tư ở mức độ mong muốn
cao nhất, đồng thời nâng cao được lợi ích của nền kinh tế xã hội. Hai yêu cầu
này cùng tồn tại đồng thời phù hợp với mục tiêu kinh doanh. Trong nền kinh
tế thị trường hiện đại, bất kỳ một DN nào hoạt động kinh doanh mang lại
nhiều lợi nhuận cho mình, nhưng làm tổn hại đến lợi ích chung của nền kinh
tế xã hội sẽ không được phép tồn tại. Ngược lại, nếu DN đó hoạt động đem lại
lợi ích cho nền kinh tế, còn bản thân nó bị thua thiệt lỗ vốn sẽ làm cho DN bị
phá sản. Như vậy kết quả tạo ra do việc sử dụng vốn phải là kết quả phù hợp
với lợi ích DN và lợi ích của nền kinh tế xã hội.
Trong các quan điểm trước đây, khi xét "đầu vào" của chỉ tiêu hiệu quả
sử dụng vốn chủ yếu đề cập đến khả năng tối thiểu hoá về số lượng vốn, còn
18
vấn đề thời gian sử dụng dài hay ngắn, ít hoặc không đề cập đến. Thực tế cho
thấy, cùng với một kết quả như nhau mà sử dụng một lượng vốn ít hơn nhưng
kéo dài thời gian sử dụng thì việc sử dụng số vốn đó chưa hẳn là đã có kết
quả. Theo chúng tôi yếu tố đầu vào cần đề cập trên cả hai mặt là: tối thiểu hoá
số vốn và thời gian sử dụng.
Từ sự phân tích trên, theo chúng tôi bản chất và tiêu chuẩn về hiệu quả
sử dụng vốn DN được hiểu như sau:
Hiệu quả sử dụng vốn là chỉ tiêu biểu hiện một mặt về hiệu quả kinh
doanh, phản ánh trình độ quản lý và sử dụng vốn DN trong việc tối đa hoá kết
quả lợi ích hoặc tối thiểu hoá số vốn và thời gian sử dụng theo các điều kiện
về nguồn lực xác định phù hợp với mục tiêu kinh doanh.
Khái niệm này chỉ rõ: Hiệu quả sử dụng vốn là gì? Tiêu chuẩn của nó
như thế nào và điều kiện xác định ra sao? cả ba yêu cầu đó là cơ sở để thống
nhất nhận thức về hiệu quả sử dụng vốn DN.
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn
Công tác sử dụng vốn kinh doanh trong DN chịu tác động của nhiều
nhân tố bên ngoài và bên trong DN. Các nhân tố này tác động qua lại,
tương hỗ lẫn nhau và tác động đến hoạt động sử dụng vốn kinh doanh nói
riêng và hoạt động quản lí sản xuất kinh doanh nói chung. Các tác động
này cũng có thể là các tác động tích cực, nhưng cũng có thể là các tác
động tiêu cực làm hạn chế và ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sử dụng vốn
kinh doanh. Do đó, các nhà quản trị DN phải luôn nắm bắt và quan tâm
tới các nhân tố này.
1.2.2.1. Nhân tố con người
Con người là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh. Con người được đề cập đến ở đây là bộ máy quản lí và lực lượng
lao động trong DN, mà trước hết là giám đốc DN. Giám đốc là người toàn
19
quyền quản lí và sử dụng toàn bộ tài sản, tiền vốn của DN, là người chịu
trách nhiệm quyết định mọi vấn đề về tài chính của DN. Quyết định sử
dụng đồng vốn kinh doanh của giám đốc mà đúng đắn, phù hợp với xu
hướng phát triển của DN thì DN kinh doanh có lãi, đồng vốn được sinh
sôi nảy nở, được sử dụng một cách tiết kiệm sẽ mang lại hiệu quả cao.
Ngược lại, nếu quyết định đó là sai lầm, không phù hợp với xu hướng
phát triển của DN thì sẽ dẫn đến thua lỗ trong kinh doanh, vốn kinh doanh
sử dụng không có hiệu quả, thậm chí mất vốn. Đội ngũ cán bộ quản lí của
DN, đội ngũ tham mưu chính cho DN trong việc ra các quyết định kinh
doanh cũng có tác động to lớn. Một đội ngũ cán bộ quản lí có trình độ
chuyên môn cao, vững vàng, tinh thông nghiệp vụ, năng động sáng tạo,
phản ánh trung thực, đầy đủ chính xác kịp thời sẽ giúp nhà quản trị DN có
những quyết định đúng đắn với tình hình sản xuất kinh doanh của DN.
1.2.2.2. Nhân tố chi phí vốn
Chi phí vốn là những chi phí mà DN phải trả cho việc huy động vốn phục
vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, vì thế chi phí vốn cao hay thấp sẽ có
tác động làm tăng hay giảm hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của DN.
Chi phí vốn là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh. Chẳng hạn, chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cao sẽ làm tăng
giá thành sản phẩm, giá cả hàng hoá vì thế sẽ cao hơn, dẫn đến hàng hoá
khó tiêu thụ hoặc thậm chí không tiêu thụ được, vốn bị ứ đọng chậm thu
hồi, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh cũng như hiệu quả sử dụng
vốn của DN. Chi phí quản lí tài chính cao hay thấp, hợp lí hay không hợp
lí sẽ cho thấy việc sử dụng vốn của DN là tiết kiệm hay lãng phí, có hiệu
quả hay kém hiệu quả. Do vậy, các DN phải luôn phấn đấu để giảm chi
phí, hạ giá thành sản phẩm, tăng sức mạnh cạnh tranh của hàng hoá trên
thị trường, đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ hàng hoá, thu hồi vốn nhanh, từ đó
20
tăng vòng quay của vốn kinh doanh góp phần nâng cao hiệu quả kinh
doanh của DN.
1.2.2.3. Nhân tố phương pháp tổ chức huy động vốn
Đây cũng là một nhân tố có ảnh hưởng quan trọng đến hiệu quả sử dụng
vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vì, nếu có phương pháp tổ chức
huy động vốn kinh doanh hợp lí, luôn đảm bảo đáp ứng các nhu cầu vốn
kinh doanh của doanh nghiệp, không xảy ra tình trạng thừa hoặc thiếu vốn
trong quá trình sản xuất kinh doanh, và với mức chi phí huy động hợp lí
không những có tác dụng ổn định sản xuất, tránh tình trạng sản xuất bị
đình trệ do thiếu vốn kinh doanh mà còn có tác dụng tiết kiệm vốn , hạn
chế sự lãng phí trong sử dụng vốn, giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm
góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của DN.
1.2.2.4. Nhân tố cơ cấu vốn
Cơ cấu vốn là thuật ngữ dùng để chỉ một DN sử dụng các nguồn vốn khác
nhau với một tỷ lệ nào đó của mỗi nguồn tài trợ cho tổng tài sản của nó. Nói
cách khác đó là tỷ trọng giữa các khoản nợ với tổng vốn kinh doanh của DN.
Do chịu ảnh hưởng của các nhân tố khác nhau nên cơ cấu vốn trong các
DN khác nhau sẽ khác nhau. Cơ cấu vốn kinh doanh có vai trò quan trọng
đối với DN, nó ảnh hưởng đến chi phí vốn, đến khả năng đầu tư kinh
doanh và do đó đến khả năng sinh lời của đồng vốn. Chính vì vậy, cơ cấu
vốn kinh doanh là nhân tố tuy chủ yếu tác động gián tiếp song rất quan
trọng đối với hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của DN. Do đó, việc xác
định một cơ cấu vốn tối ưu - một cơ cấu vốn hướng tới sự cân bằng giữa
rủi ro và lãi suất sẽ giúp cho DN tiết kiệm chi phí vốn kinh doanh, tăng lợi
nhuận, nâng cao được hiệu quả sử dụng đồng vốn của mình.
1.2.2.5. Nhân tố quy trình tổ chức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
21
Một quy trình sản xuất kinh doanh hợp lí, có hiệu quả sẽ hạn chế được sự
chồng chéo các chức năng, nhiệm vụ giữa các khâu, tăng năng suất lao
động, tiết kiệm được các nguồn lực sản xuất, đẩy nhanh tiến độ sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm, tăng vòng quay vốn, từ đó hạn chế các chi phí bất
hợp lí, các chi phí phát sinh không cần thiết, giảm thiểu sự lãng phí trong
sử dụng vốn kinh doanh, giảm giá thành sản phẩm, góp phần nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh, từ đó mới làm tăng hiệu quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.3. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp
1.2.3.1. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
1.2.3.1.1. Hiệu suất sử dụng vốn kinh doanh
KD
VKD
R
V
R
H
=
VKD
R
H
Hiệu suất sử dụng vốn kinh doanh
R
Tổng doanh thu
KD
V
Vốn kinh doanh
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn kinh doanh sử dụng trong kỳ tạo ra
được bao nhiêu đồng doanh thu.
1.2.3.1.2. Tỷ suất sinh lợi vốn kinh doanh
KD
s
VKD
P
V
P
H
=
VKD
P
H
Tỷ suất sinh lợi vốn kinh doanh
s
P
Lợi nhuận sau thuế
KD
V
Vốn kinh doanh
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn kinh doanh sử dụng trong kỳ thu
được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
1.2.3.1.3. Suất hao phí vốn kinh doanh
R
V
H
KD
R
VKD
=
R
VKD
H
Suất hao phí vốn kinh doanh
R
Tổng doanh thu
22
KD
V
Vốn kinh doanh
Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra một đồng doanh thu trong kỳ cần bao nhiêu
đồng vốn kinh doanh.
1.2.3.2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
1.2.3.2.1. Tỷ suất sinh lợi vốn cố định
CD
s
VCD
P
V
P
H
=
VCD
p
H
Tỷ suất sinh lợi vốn cố định
s
P
Lợi nhuận sau thuế
CD
V
Vốn cố định bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định sử dụng trong kỳ thu được
bao nhiêu đồng lợi nhuận.
1.2.3.2.2. Hiệu suất sử dụng vốn cố định
CD
VCD
R
V
R
H
=
VCD
R
H
Hiệu suất sử dụng vốn cố định
R
Tổng doanh thu
CD
V
Vốn cố định bình quân
Chỉ tiêu sức sản xuất của vốn cố định cho biết một đồng vốn cố định sử
dụng trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu.
1.2.3.2.3. Suất hao phí vốn cố định
R
V
H
CD
R
VCD
=
R
VCD
H
Suất hao phí vốn cố định
R
Tổng doanh thu
CD
V
Vốn cố định bình quân
Hệ số này cho biết để có một đồng doanh thu cần bao nhiêu đồng vốn cố
định. Hệ số này càng nhỏ chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn cố định càng cao, số
vốn cố định tiết kiệm được càng nhiều.
1.2.3.3. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
1.2.3.3.1. Tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động
23
LD
s
VLD
P
V
P
H
=
VLD
p
H
Tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động
s
P
Lợi nhuận sau thuế
LD
V
Vốn lưu động bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn lưu động sử dụng trong kỳ thu được
bao nhiêu đồng lợi nhuận.
1.2.3.3.2. Hiệu suất sử dụng vốn lưu động
LD
VLD
R
V
R
H
=
VLD
R
H
Hiệu suất sử dụng vốn lưu động
R
Tổng doanh thu
LD
V
Vốn lưu động bình quân
Chỉ tiêu sức sản xuất của vốn lưu động hay số vòng quay của vốn lưu
động cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ. Nếu số vòng quay
tăng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn tăng và ngược lại. Đẩy nhanh tốc độ luân
chuyển vốn sẽ góp phần giải quyết nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, góp
phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
1.2.3.3.3. Suất hao phí vốn lưu động
R
V
H
LD
R
VLD
=
R
VLD
H
Suất hao phí vốn lưu động
R
Tổng doanh thu
LD
V
Vốn lưu động bình quân
Hệ số này cho biết để có một đồng doanh thu cần bao nhiêu đồng vốn
lưu động. Hệ số này càng nhỏ chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn càng cao, số
vốn tiết kiệm được càng nhiều.
1.2.3.3.4. Độ dài một vòng quay vốn lưu động
D = 360 ngày / S
VLĐ
Trong đó: D là độ dài một vòng quay vốn lưu động.
S
VLĐ
là số vòng quay vốn lưu động.
1.2.3.4. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu
Tỷ suất sinh lợi vốn chủ sở hữu
24
CSH
s
VCSH
P
V
P
H
=
VCSH
p
H
Tỷ suất sinh lợi vốn chủ sở hữu
s
P
Lợi nhuận sau thuế
CSH
V
Vốn chủ sở hữu
1.3. Tình hình sử dụng vốn của các doanh nghiệp trong và ngoài nước
1.3.1. Tình hình sử dụng vốn của các doanh nghiệp ở một số nước châu Á
* Trung Quốc
Quy định khu vực DNNN gồm doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu
100% vốn nhà nước; các doanh nghiệp do Nhà nước kiểm soát (Nhà nước
nắm giữ trên 50% vốn cổ phần) DNNN vẫn giữ được vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế. Việc đầu tư vốn của Nhà nước có phân biệt mức độ quan trọng
của từng ngành trong nền kinh tế:
- Những doanh nghiệp đóng vai trò then chốt trong quốc phòng, an
ninh quốc gia, Nhà nước đảm bảo vốn đầu tư, cấp bù lỗ (nếu doanh nghiệp bị
lỗ), không cho các nhà đầu tư khác tham gia.
- Doanh nghiệp do Nhà nước cần ưu tiên đầu tư: Công trình thuỷ điện,
các ngành dịch vụ Tài chính, Bảo hiểm, Đường sắt, Bưu chính viễn thông...
thì Nhà nước có thể đầu tư toàn bộ vốn hoặc cùng các thành phần kinh tế khác
tham gia đầu tư.
- Những doanh nghiệp có thời gian thu hồi vốn chậm không muốn để
nhà đầu tư nước ngoài chiếm cổ phần chi phối như khai thác dầu khí, than...
thì vốn nhà nước chiếm tỷ trọng lớn, giữ vai trò chủ đạo [18].
Hiện nay, Trung Quốc tiếp tục tập trung cho việc cải cách cơ cấu đầu
tư, tích cực đẩy mạnh triển khai chính sách Tam nông (nông nghiệp – nông
thôn và nông dân), tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng về năng lượng, giao
thông, thuỷ lợi và thông tin, tích cực thúc đẩy các ngành kỹ thuật cao và ưu
25