Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

tiểu luận cao học tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.68 KB, 21 trang )

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU

Trên thế giới cũng như ở Việt Nam hiện nay, hoạt động xuất bản được coi là
nhân tố hàng đầu góp phần thúc đẩy sự phát triển của trình độ văn hóa, khoa học
kỹ thuật của mỗi quốc gia. Hoạt động xuất bản chính là đầu mối để phổ biến rộng
rãi các tri thức khoa học về mọi mặt đời sống xã hội mà con người đã tích lũy được
trong quá trình phát triển của mình. Ngày nay, công nghệ thông tin đã giúp cho
việc trao đổi thông tin của con người đơn giản đi rất nhiều. Chính khoa học công
nghệ đã giúp con người tiến lại sát gần nhau, xóa nhòa đi những khoảng cách về
không gian, thời gian.
Trong thời đại bùng nổ thông tin ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của
khoa học công nghệ, việc bảo vệ quyền tác giả nói riêng, quyền sở hữu trí tuệ nói
chung đang là một vấn đề ngày càng trở nên nóng bỏng. Đứng trước yêu cầu đó và
thực tế phát triển kinh tế xã hội của nước ta, việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đang
được Nhà nước ta quan tâm. Đặc biệt khi năm 2004 Việt Nam ra nhập công ước
Berne về Bảo hộ quyền tác giả và sau đó năm 2006 Việt Nam trở thành thành viên
chính thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) trong đó quyền sở hữu trí tuệ
là một bộ phận quan trọng trong các nội dung được đem ra đàm phán.
Bên cạnh đó, hiện nay tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nói chung
và quyền tác giả nói riêng đang tiếp tục gia tăng gây ra những hậu quả xấu đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy để khắc phục tình trạng vi phạm bản quyền
hiện nay cần phải tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền tác giả.

2


NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở lý luận


1. Khái niệm tác giả và chủ sở hữu tác phẩm
Bộ Luật Dân sự năm 1995 về Quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công
nghệ quy định trong Quyền tác giả đã quy định chi tiết về Quyền tác giả, trong đó
tác giả và chủ sở hữu tác phẩm được quy định như sau:
Điều 745. Tác giả
1- Tác giả là người trực tiếp sáng tạo toàn bộ hoặc một phần tác phẩm văn
học, nghệ thuật, khoa học.
2- Những người sau đây cũng được công nhận là tác giả:
a) Người dịch tác phẩm từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác là tác giả tác
phẩm dịch đó;
b) Người phóng tác từ tác phẩm đã có, người cải biên, chuyển thể tác phẩm
từ loại hình này sang loại hình khác là tác giả của tác phẩm phóng tác, cải biên,
chuyển thể đó;
c) Người biên soạn, chú giải, tuyển chọn tác phẩm của người khác thành tác
phẩm có tính sáng tạo là tác giả của tác phẩm biên soạn, chú giải, tuyển chọn đó.
Điều 746. Chủ sở hữu tác phẩm
1- Chủ sở hữu tác phẩm bao gồm:

3


a) Tác giả là chủ sở hữu toàn bộ hoặc một phần tác phẩm do mình sáng tạo,
trừ trường hợp tác phẩm sáng tạo theo nhiệm vụ được giao, theo hợp đồng;
b) Các đồng tác giả là chủ sở hữu chung tác phẩm do họ cùng sáng tạo, trừ
trường hợp tác phẩm sáng tạo theo nhiệm vụ được giao, theo hợp đồng;
c) Cơ quan, tổ chức giao nhiệm vụ cho tác giả là chủ sở hữu toàn bộ hoặc
một phần tác phẩm do tác giả sáng tạo theo nhiệm vụ mà cơ quan hoặc tổ chức
giao;
d) Cá nhân hoặc tổ chức giao kết hợp đồng sáng tạo với tác giả là chủ sở
hữu toàn bộ hoặc một phần tác phẩm do tác giả sáng tạo theo hợp đồng;

đ) Người thừa kế theo di chúc hoặc người thừa kế theo pháp luật của tác giả
là chủ sở hữu tác phẩm được thừa kế trong trường hợp tác giả đồng thời là chủ sở
hữu tác phẩm đó;
e) Cá nhân hoặc tổ chức được chủ sở hữu tác phẩm quy định tại các điểm a,
b, c, d và đ khoản 1 Điều này, chuyển giao các quyền của mình đối với tác phẩm
theo hợp đồng là chủ sở hữu quyền được chuyển giao.
2- Tác giả sáng tạo tác phẩm theo nhiệm vụ được giao hoặc theo hợp đồng
quy định tại điểm c và điểm d khoản 1 Điều này có các quyền quy định tại Điều
752 của Bộ luật này.
2. Khái niệm quyền tác giả
Khái niệm quyền tác giả đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học
được tiếp cận dưới hai góc độ: chủ quan và khách quan.
Về phương diện chủ quan, quyền tác giả là quyền dân sự cụ thể của chủ thể
với tư cách là tác giả, của chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ
4


thuật, công trình khoa học và quyền khởi kiện hay không khởi kiện khi quyền của
mình bị xâm phạm.
Về phương diện khách quan, quyền tác giả là tổng hợp các quy phạm pháp
luật nhằm xác nhận và bảo vệ quyền tác giả, của chủ sở hữu quyền tác giả, xác
định các nghĩa vụ của các chủ thể trong việc sáng tạo và sử dụng các tác phẩm văn
học, nghệ thuật, khoa học, quy định trình tự thực hiện và bảo vệ các quyền đó khi
có hành vi xâm phạm.
Khái niệm quyền tác giả cũng được quy định trực tiếp tại điều 750, 751
trong Bộ Luật Dân sự 1995 như sau:
Điều 750. Quyền của tác giả
Quyền của tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả
đối với tác phẩm do mình sáng tạo.
Điều 751. Các quyền của tác giả đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm

1- Tác giả đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm có các quyền nhân thân đối với
tác phẩm của mình bao gồm:
a) Đặt tên cho tác phẩm;
b) Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút
danh khi tác phẩm được công bố, phổ biến, sử dụng;
c) Công bố, phổ biến hoặc cho người khác công bố, phổ biến tác phẩm của
mình;
d) Cho hoặc không cho người khác sử dụng tác phẩm của mình;

5


đ) Bảo vệ sự toàn vẹn tác phẩm, cho phép hoặc không cho phép người khác
sửa đổi nội dung tác phẩm.
2- Tác giả đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm có các quyền tài sản đối với tác
phẩm của mình bao gồm:
a) Được hưởng nhuận bút;
b) Được hưởng thù lao khi tác phẩm được sử dụng;
c) Được hưởng lợi ích vật chất từ việc cho người khác sử dụng tác phẩm
dưới các hình thức sau đây:
- Xuất bản, tái bản, trưng bày, triển lãm, biểu diễn, phát thanh, truyền hình,
ghi âm, ghi hình, chụp ảnh;
- Dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể;
- Cho thuê;
d) Nhận giải thưởng đối với tác phẩm mà mình là tác giả, trừ trường hợp
tác phẩm không được Nhà nước bảo hộ.
Chương 2. Cơ sở pháp lý về quyền và nghĩa vụ của tác giả và bên sử
dụng đối với tác phẩm
Quyền tác giả tại Việt Nam đã được quy định chi tiết trong Bộ Luật Dân sự
năm 1995, Luật Sở hữu trí tuệ và Nghị định 76/CP/1996 của Chính phủ quy định

chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự Luật Sở hữu trí tuệ
về quyền tác giả và quyền liên quan.
1. Các quyền của tác giả, quyền của chủ sở hữu tác phẩm

6


Các quyền của tác giả, quyền của chủ sở hữu tác phẩm được quy định trong
Bộ Luật Dân sự năm 1995 nằm ở mục 2 của chương I (Quyền tác giả) từ điều 750
đến điều 766.
Nội dung là nêu ra các quyền của tác giả và quyền của chủ sở hữu tác phẩm.
Điều 750. Quyền của tác giả
Quyền của tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả
đối với tác phẩm do mình sáng tạo.
Điều 751. Các quyền của tác giả đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm
1- Tác giả đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm có các quyền nhân thân đối với
tác phẩm của mình bao gồm:
a) Đặt tên cho tác phẩm;
b) Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút
danh khi tác phẩm được công bố, phổ biến, sử dụng;
c) Công bố, phổ biến hoặc cho người khác công bố, phổ biến tác phẩm của
mình;
d) Cho hoặc không cho người khác sử dụng tác phẩm của mình;
đ) Bảo vệ sự toàn vẹn tác phẩm, cho phép hoặc không cho phép người khác
sửa đổi nội dung tác phẩm.
2- Tác giả đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm có các quyền tài sản đối với tác
phẩm của mình bao gồm:
a) Được hưởng nhuận bút;
b) Được hưởng thù lao khi tác phẩm được sử dụng;


7


c) Được hưởng lợi ích vật chất từ việc cho người khác sử dụng tác phẩm
dưới các hình thức sau đây:
- Xuất bản, tái bản, trưng bày, triển lãm, biểu diễn, phát thanh, truyền hình,
ghi âm, ghi hình, chụp ảnh;
- Dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể;
- Cho thuê;
d) Nhận giải thưởng đối với tác phẩm mà mình là tác giả, trừ trường hợp
tác phẩm không được Nhà nước bảo hộ.
…………………………………………….
2. Hợp đồng sử dụng tác phẩm
Được quy định từ điều 767 đến điều 772 trong Bộ Luật Dân sự năm 1995.
Trong đó bao gồm các nội dung:
- Hợp đồng sử dụng tác phẩm
- Nghĩa vụ của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm
- Quyền của tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm
- Nghĩa vụ của bên sử dụng tác phẩm
- Quyền của bên sử dụng tác phẩm
Được quy định cụ thể như sau:
Điều 767. Hợp đồng sử dụng tác phẩm
1- Hợp đồng sử dụng tác phẩm là sự thoả thuận giữa tác giả hoặc chủ sở
hữu tác phẩm về việc chuyển giao tác phẩm thuộc sở hữu của mình cho cá nhân,
tổ chức khác (gọi là bên sử dụng tác phẩm) sử dụng tác phẩm.
8


2- Hợp đồng sử dụng tác phẩm phải được lập thành văn bản, trừ trường hợp
có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

Điều 768. Nội dung của hợp đồng sử dụng tác phẩm
Tuỳ theo từng loại hợp đồng sử dụng tác phẩm, các bên thoả thuận những
nội dung chủ yếu sau đây:
1- Hình thức sử dụng tác phẩm;
2- Phạm vi, thời hạn sử dụng tác phẩm;
3- Mức nhuận bút hoặc thù lao và phương thức thanh toán;
4- Trách nhiệm của mỗi bên khi vi phạm hợp đồng;
5- Các nội dung khác do các bên thoả thuận.
Điều 769. Nghĩa vụ của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm
Theo hợp đồng sử dụng tác phẩm, tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm có các
nghĩa vụ sau đây:
1- Chuyển giao tác phẩm cho bên sử dụng tác phẩm theo đúng thời hạn, địa
điểm đã thoả thuận; phải bồi thường thiệt hại cho bên sử dụng tác phẩm do việc
chuyển giao tác phẩm không đúng thời hạn, địa điểm gây ra;
2- Không được chuyển giao tác phẩm cho cá nhân, tổ chức khác sử dụng khi
chưa hết hạn hợp đồng, trừ trường hợp được bên sử dụng tác phẩm cho phép; nếu
vi phạm quy định này mà gây thiệt hại cho bên sử dụng tác phẩm, thì phải chấm
dứt hành vi vi phạm và bồi thường thiệt hại.
Điều 770. Quyền của tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm

9


Theo hợp đồng sử dụng tác phẩm, tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm có các
quyền sau đây:
1- Yêu cầu bên sử dụng tác phẩm nêu tên hoặc bút danh của tác giả khi sử
dụng tác phẩm;
2- Yêu cầu bên sử dụng tác phẩm trả đủ nhuận bút hoặc thù lao theo đúng
thời hạn và phương thức đã thoả thuận;
3- Được chuyển giao tác phẩm cho nhiều người sử dụng, trừ trường hợp có

thoả thuận khác với bên sử dụng tác phẩm.
Điều 771. Nghĩa vụ của bên sử dụng tác phẩm
Bên sử dụng tác phẩm có các nghĩa vụ sau đây:
1- Sử dụng tác phẩm theo đúng hình thức, phạm vi và thời hạn đã thoả
thuận;
2- Không được chuyển giao tác phẩm cho cá nhân hoặc tổ chức khác sử
dụng, nếu không được tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm cho phép;
3- Trả đủ nhuận bút hoặc thù lao cho tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm
theo đúng thời hạn và phương thức đã thoả thuận;
4- Bồi thường thiệt hại cho tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm, nếu vi phạm
nghĩa vụ quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này.
Điều 772. Quyền của bên sử dụng tác phẩm
Bên sử dụng tác phẩm có các quyền sau đây:
1- Công bố, phổ biến tác phẩm trong thời hạn đã thoả thuận;

10


2- Sử dụng tác phẩm theo đúng hình thức, phạm vi và thời hạn đã thoả
thuận;
3- Đơn phương huỷ bỏ hợp đồng và có quyền yêu cầu tác giả hoặc chủ sở
hữu tác phẩm phải bồi thường thiệt hại, nếu tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm đã
không chuyển giao tác phẩm theo đúng thời hạn, địa điểm đã thoả thuận;
4- Đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng và yêu cầu tác giả hoặc chủ sở
hữu tác phẩm bồi thường thiệt hại, nếu tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm vi phạm
nghĩa vụ quy định tại khoản 2 Điều 769 của Bộ luật này.
Chương 3. Thực trạng bảo vệ quyền tác giả ở Việt Nam hiện nay
1. Một số vấn đề về bảo vệ quyền tác giả ở Việt Nam hiện nay
Quyền tác giả là một lĩnh vực phức tạp và còn mới mẻ đối với Việt Nam tuy
ý tưởng về quyền tác giả đã hình thành ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946

và được tiếp tục ghi nhận tại các bản Hiến pháp sau. Ngoài ra, tại Luật Báo chí,
Luật Xuất bản, Luật Hải quan, Bộ luật Hình sự và các luật, văn bản pháp quy khác
cũng đã có các quy định về quyền tác giả.
Các quy định pháp luật Việt Nam về quyền tác giả về cơ bản đã đáp ứng
được yêu cầu bảo hộ quyền tác giả nói chung và thực thi các hiệp định song
phương về quyền tác giả, Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ nói riêng. Nó
đã xác lập được hành lang pháp lý an toàn, khuyến khích các hoạt động sáng tạo,
bảo hộ quyền tác giả của những tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học do lao
động của tư duy sáng tạo ra. Nó bảo đảm việc điều chỉnh hầu hết các quan hệ xã
hội ở lĩnh vực này, phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế, dự báo được xu thế
phát triển trong nước và trên trường quốc tế. Vì vậy, nó thể hiện tư tưởng tiến bộ,
nhân văn về quyền con người của Nhà nước Việt Nam. Trong những năm qua,
11


pháp luật về quyền tác giả đã phát huy tác dụng tích cực trên các mặt. Pháp luật đã
tạo lập môi trường khuyến khích tự do sáng tạo các giá trị văn học, nghệ thuật và
khoa học, thúc đẩy phong trào nghiên cứu, sáng tạo nói chung, trong giới trí thức,
văn nghệ sĩ nói riêng. Pháp luật là phương tiện để tác giả bảo vệ lợi ích hợp pháp
của mình, là công cụ để quản lý, giữ gìn trật tự xã hội về quyền tác giả, ngăn chặn
những sản phẩm văn hóa độc hại, bất lợi cho cộng đồng và lợi ích quốc gia.
Ở hầu hết các lĩnh vực, từ báo chí, xuất bản, điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn,
nghệ thuật tạo hình đến phát thanh, truyền hình đều tôn trọng các quyền đặt tên tác
phẩm, quyền đứng tên tác giả trên tác phẩm, quyền cho phép khai thác, sử dụng tác
phẩm, quyền bảo vệ sự toàn vẹn tác phẩm và quyền được hưởng nhuận bút, thù lao
và các lợi ích vật chất khác phát sinh từ việc cho phép khai thác, sử dụng tác phẩm
của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm.
Với việc tham gia công ước Berne về Bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ
thuật, Việt Nam đã cam kết với thế giới về xây dựng và tuân thủ các biện pháp bảo
hộ quyền tác giả, đấu tranh chống nạn vi phạm bản quyền tác giả, tác phẩm văn

học, nghệ thuật. Tuy nhiên sau bốn năm vào Công ước Berne, tình trạng vi phạm
quyền tác giả trong lĩnh vực xuất bản ở nước ta vẫn còn đáng báo động.
Xâm phạm quyền tác giả sẽ triệt tiêu sự sáng tạo và kìm hãm sự phát triển
của ngành xuất bản. Có rất nhiều loại hành vi xâm phạm quyền tác giả trong lĩnh
vực xuất bản và phát hành xuất bản phẩm đang tồn tại khá phổ biến, đó là: xuất
bản tác phẩm không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả; sử chữa, cắt xén
hoặc xuyên tạc tác phẩm gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả; làm tác
phẩm phái sinh mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; xuất
khẩu, nhập khẩu, phân phối bản sao tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu
quyền tác giả; sử dụng tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác
12


giả, không trả tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác theo quy định của
pháp luật; nhân bản, sản xuất bản sao, phân phối, trưng bày hoặc truyền đạt tác
phẩm đến công chúng qu mạng truyền thông và các phương tiện kĩ thuật số mà
không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả; cố ý hủy bỏ hoặc làm vô hiệu các
biện pháp kĩ thuật do chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả
đối với tác phẩm của mình. Trong tất cả các hành vi xâm phạm quyền tác giả trong
lĩnh vực xuất bản thì hành vi in lậu vẫn là phổ biến nghiêm trọng nhất. Sách bán
chạy thường bị in lậu rất nhanh. Hậu quả là thiệt hại kinh tế và thiệt hại uy tín cho
tác giả và nhà xuất bản. Đây thực sự là nỗi lo thường trực cho các nhà xuất bản
Việt Nam.
Trong thời gian qua, in lậu, xâm phạm quyền tác giả đã trở thành vấn nạn,
ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngành xuất bản cũng như quyền lợi của tác giả. Hành
vi in lậu không chỉ gây thiệt hại về kinh tế cho nhà xuất bản do không tiêu thụ
được hoặc tiêu thụ được ít hơn xuất bản phẩm, đồng thời có thể gây thiệt hại khác,
chẳng hạn về uy tín. Mà đối với tác giả, hành vi in lậu còn là hành vi tước đoạt lợi
ích kinh tế của tác giả (chủ sở hữu quyền tác giả) mà lẽ ra tác giả có thể thu được
khi cho phép sử dụng tác phẩm, đồng thời có thể gây thiệt hại khác, ví dụ về uy tín.

Nạn in lậu nói riêng, xâm phạm quyền tác giả nói chung còn gây thiệt hại cho nhà
nước vì không thu được thuế, đồng thời thường đi kèm với việc sử dụng lợi nhuận
bất chính cho hoạt động tội phạm khác. Và trên thực tế, việc phát hiện, đấu tranh
chống nạn xâm phạm quyền tác giả phức tạp hơn và khó khăn hơn so với nạn in
lậu. Việc xâm phạm quyền tác giả có thể xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau,
không chỉ khi in lại toàn bộ một xuất bản phẩm. Hành vi xâm phạm quyền tác giả
có thể được thực hiện do cố ý hoặc vô tình, có thể liên quan đến quyền tài sản hoặc
quyền nhân thân.

13


Trong ngành xuất bản Việt Nam đang tồn tại sự cạnh tranh thiếu lành mạnh,
thiếu sự hợp tác cùng ngành nghề. Thông tin không đầy đủ và ý thức cạnh tranh
thiếu lành mạnh nhiều khi dẫn đến tranh mua bản quyền, tạo điều kiện cho đối tác
nước ngoài ép giá, gây thiệt hại cho chính các nhà xuất bản của ta. Cần tạo hình
thức nào đó để các nhà xuất bản có đầy đủ thông tin và có thể hợp tác với nhau để
bảo về quyền lợi của mình, tránh lãng phí hoặc làm thiệt hại đến lợi ích của nhau
trong việc mua bản quyền nước ngoài. Để giải quyết vấn đề này thì vai trò của hiệp
hội xuất bản là rất quan trọng.
Tuy nhiên, tình trạng vi phạm quyền tác giả cũng đã diễn ra ở hầu hết các
lĩnh vực kể trên, có vụ việc nghiêm trọng. Thị trường băng, đĩa âm thanh, băng, đĩa
hình được báo động về tình trạng nhập lậu qua biên giới, sao chép tùy tiện không
phép đã gây thiệt hại cho các chủ sở hữu tác phẩm. Việc sử dụng tác phẩm không
xin phép tác giả, chủ sở hữu tác phẩm vẫn diễn ra, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất
băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình. Tình trạng in lậu sách vẫn chưa
được chấm dứt. Việc sao chép, sử dụng không phép các chương trình phần mềm
đang là vấn đề gây ảnh hưởng đến chính sách đầu tư phát triển công nghệ thông tin
của Nhà nước, làm thiệt hại cho tác giả, chủ sở hữu tác phẩm.
Hội chợ sách của Việt Nam chưa là nơi trao đổi, mua bán quyền tác giả. Hội

chợ sách ở nước ta thiên về chợ bán lẻ, bán sách hạ giá. Tư duy kiểu “chợ sách”
này còn được chúng ta mang sang thể hiện tại các hội chợ sách quốc tế ở nước
ngoài. Cần thay đổi tư duy và cách thức tổ chức và thamh gia hội chợ sách theo
đúng thông lệ quốc tế để hội chợ sách thực sự là nơi trao đổi, mua bán bản quyền,
kí kết hợp đòng kinh doanh và đồng thời là nơi gặp gỡ, trao đổi thông tin giữa các
nhà xuất bản, các nhà phát hành, các tác Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông
tin như hiện nay, các loại hình tác phẩm đều có thể tồn tại trong môi trường kĩ
thuật số. Qua internet và các công nghệ khác của “thời đại số”, người ta dễ dàng
14


sao chép và phổ biến tác phẩm. Vì vậy công nghệ này cũng tạo cơ hội cho việc
phát sinh các hình thức khai thác và sử dụng bất hợp pháp mới, ví dụ đăng tải tác
phẩm qua internet mà không được sử đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả. Đây
cũng là các thách thức mới trong công tác thực thi bảo hộ quyền tác giả, chủ sở
hữu quyền tác giả và công chúng.
Vấn đề vi phạm bản quyền đang diễn ra hết sức trầm trọng. Nhiều nhà xuất
bản đã tự ý cấp giấy phép xuất bản tác phẩm mà chưa có sự đồng ý của tác giả.
Điều này ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ sở hữu bản quyền. Theo Luật Sở hữu
trí tuệ thì hành động phát hành hay lưu thông ấn bản vi phạm bản quyền cũng bị
xếp chung vào hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Fahasa đã phải nếm trải
điều này khi đầu năm 2009, đại diện hãng Disney đã yêu cầu đơn vị phải thu hồi
các ấn phẩm không có bản quyền của Disney đang bày bán trong các nhà sách trên
toàn quốc nếu không muốn đối mặt với các vụ kiện từ trong nước đến quốc tế. Và
đơn vị đã phải thu hồi các bản sách đang bày bán dù các ấn bản đó về danh nghĩa
có giấy phép xuất bản hợp pháp.
Trong bối cảnh internet đang ngày càng phát triển, vấn đề vi phạm bản
quyền tác giả lại càng trở nên bức thiết. Vi phạm bản quyền trên internet, môi
trường kĩ thuật số, kể cả trong truyền thông là vấn đề cả thế giới đang quan tâm.
Việc truyền đạt tác phẩm trên môi trường kĩ thuật số đang vi phạm rất nghiêm

trọng, thực sự đáng báo động. Hầu hết các website kinh doanh về xuất bản phẩm
đưa các tác phẩm lên chưa thực hiện nghĩa vụ của mình với chủ thể quyền tác giả.
Họ đưa lên với nhiều động cơ, có thể để lấy tiền quảng cáo, hay phục vụ
việc download của người tiêu dùng nhằm kiếm tiền, sinh lợi, nhưng không thanh
toán tiền nhuận bút, thù lao cho người nắm giữ bản quyền. Các website cũng xâm

15


phạm quyền của nhau, ví dụ sử dụng các tác phẩm, bản ghi từ một website khác về
website của mình nhưng không có sự thỏa thuận, xin phép tác giả.
Vấn đề phát hiện, xử lí vi phạm cũng là thách thức cho cơ quan thực thi. Bởi
vì việc này liên quan đến công nghệ. Chính vì vậy cần phải tổ chức các lớp tập
huấn, trang bị các kiến thức điều tra mạng, vào mạng để điều tra các hành vi xâm
phạm quyền tác giả, nhưng lực lượng này vẫn chưa vươn tới để đáp ứng yêu cầu
kiểm tra, xử lí.

2. Nguyên nhân
Hệ thống pháp luật Việt Nam về cơ bản đã đồng bộ, tương thích với điều
ước quốc tế và luật pháp các quốc gia, tuy nhiên tình trạng vi phạm bản quyền tác
giả vẫn diễn ra phức tạp bởi nhiều nguyên nhân.
Công tác quản lí chưa hiệu quả và chế tài xử phạt nhẹ là các nguyên nhân
khiến nạn in lậu sách vẫn hoành hành. Việc xử lí vi phạm quyền tác giả xuất bản
phẩm phải nhằm tới tất cả các đối tượng từ khâu in sách lậu tới khâu tiêu thụ sách
lậu mới có thể đẩy được nguồn sách lậu ra thị trường khỏi tiêu thụ sách. Và cần
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật xử lí vi phạm quyền tác giả có tính răn
đe hơn. Tại các nước trên thế giới, chế tài xử lí các vi phạm kiểu này thường rất
nghiêm khắc, những kẻ xâm hại quyền tác giả có thể bị xử lí hình sự.
Ý thức tự giác của người sử dụng chưa cao. Một cuốn sách được phô tô trình
bày bắt mắt, giá thấp vẫn luôn là sự lựa chọn đầu tiên của độc giả. Họ chưa ý thức


16


được hậu quả của việc sử dụng và tiêu thụ sách lậu, chưa đề cao ý nghĩa của quyền
tác phẩm trong cơ chế thị trường ở Việt Nam.
Về phía tác giả bị vi phạm bản quyền. Yếu tố này rất quan trọng, bởi chính
tác giả là người trực tiếp bị xâm phạm. Nói đúng hơn, họ phải hành động thiết thực
để “đứa con” của mình khỏi bị vi phạm. Tuy nhiên, việc bảo hộ quyền sở hữu lại bị
xem nhẹ. Khi phát hiện bản quyền bị xâm phạm, tác giả lại vướng vào thủ tục kiện
tụng rườm ra, mất thời gian, chí phí nên bảo vệ quyền tác giả họ chưa quan tâm
đúng mức, thậm chí bỏ ngõ quyền lợi chính đáng của mình.
Lực lượng thanh tra, kiểm tra bản quyền tác giả lĩnh vực này còn mỏng so
với thực tế. Mặt khác, những quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ còn dài trải.
Cụ thể, trong quá trình quản lý, xử lý vi phạm có đến 6 cơ quan là UBND các cấp,
thanh tra khoa học và công nghệ, thanh tra văn hóa, cảnh sát kinh tế, quản lý thị
trường, hải quan được phép xử lý. Điều này gây ra sự chồng chéo, thiếu tính đồng
bộ trong quá trình thanh tra, kiểm tra bản quyền tác giả bị xâm phạm.
Nhận thức về vai trò, vị trí của vấn đề quyền tác giả chưa được chú trọng
đúng mức. Tổ chức tư vấn đăng ký quyền tác giả còn ở mức khiêm tốn. Tâm lý bảo
vệ quyền tác giả vẫn chưa được các tác giả lưu tâm nên vô tình tiếp tay cho việc
xâm phạm quyền tác giả ngày càng nhiều và công khai.
Các tổ chức sử dụng, khai thác bản quyền bất chấp pháp luật, bất chấp đạo
đức kinh doanh xâm hại nghiêm trọng đến quyền tác giả.
3. Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền sâu rộng luật Sở hữu trí tuệ đến với quần
chúng nhân Để quyền tác giả được quan tâm đúng mức cần phải có những hành
17



động cụ thể như đưa vào giảng dạy bắt buộc môn học Pháp luật sở hữu trí tuệ ở
trường đại học. Giới thiệu về nguyên tắc bảo vệ sở hữu trí tuệ, phương thức trích
dẫn đúng luật, hình thức xử phạt nếu vi phạm quyền tác giả…
Phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan liên quan như: Cục sở hữu trí
tuệ, cơ quan an ninh… tạo cơ chế pháp lý giúp ngăn chặn hiện tượng vi phạm
quyền tác giả trong lĩnh vực xuất bản.
Để xây dựng môi trường lành mạnh cho hoạt động xuất bản tại Việt Nam,
ngoài việc đấu tranh chống xâm phạm chủ thể quyền còn phải cải thiện ý thức và
thái độ ứng xử đối với tác giả và chủ sỡ hữu quyền tác giả. Phải đặt mạng lưới tác
giả và cộng tác viên vào vai trò quyết định thành bại của hoạt động xuất bản. Các
quy định và chính sách xuất bản của ta chưa thể hiện đầy đủ sự gắn kết quyền lợi
của tác giả và nhà xuất bản, thể hiện ngay trong phương pháp trả nhuận bút trên cơ
sở tổng giá bán lẻ và số lượng bản in (ở các nước khác, người ta tính nhuận bút
trên cơ sở tổng số bán lẻ và số lượng sách tiêu thụ. Làm như vậy sẽ có sự gắn kết
hơn về quyền lợi giữa tác giả và nhà xuất bản).
Đơn giản hóa tổ chức và hoạt động của cơ quan giám sát, thanh tra vi phạm
quyền tác giả. Nhà nước nên quy định chỉ một cơ quan duy nhất xử lý cá nhân, tổ
chức vi phạm trong lĩnh vực bản quyền tác giả. Có như vậy mới tránh khỏi tình
trạng chồng chéo trong quá trình giám sát hoạt động lĩnh vực này. Đồng thời, về
quy định của pháp luật, nên quy định trong một văn bản luật nhất định. Hạn chế sự
dàn trải những quy định của pháp luật về lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
Từ thực trạng pháp luật Việt Nam hiện nay, làm một phép so sánh nhỏ sẽ dễ
dàng thấy rằng lợi nhuận mà những người vi phạm tác quyền thu về lớn hơn nhiều
lần trách nhiệm mà họ phải gánh chịu trước pháp luật. Do đó, để đảm bảo hạn chế
tới mức tối đa tình trạng vi phạm bản quyền tràn lan như hiện nay, thiết nghĩ các
18


chế tài trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả cần phải mạnh hơn nữa. Ngoài ra, dư
luận xã hội cần lên tiếng đối với những hành vi đó, thậm chí phải tẩy chay không

sử dụng các sản phẩm xuất bản mà không được sự đồng ý của tác giả. Thứ sáu,
tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quyền tác giả. Bản chất của việc bảo hộ
quốc tế quyền tác giả là sự liên kết, phối hợp cùng hành động mang tính liên quốc
gia. Cụ thể, chúng ta cần tích cực tham gia hoạt động có hiệu quả hơn các chương
trình hành động trong khuôn khổ WIPO; tranh thủ sự ủng hộ của tổ chức cho việc
thực thi Công ước Berne tại Việt Nam; cử các chuyên gia đi học hỏi kinh nghiệm
trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ; tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức phi chính phủ,
các tổ chức nước ngoài.
Điều đó cho thấy, bảo vệ quyền tác giả đang là vấn đề cấp thiết cần được cơ
quan nhà nước mạnh tay chấn chỉnh để thúc đẩy sự sáng tạo của công dân trong
các lĩnh vực khoa học, văn học, nghệ thuật, tạo ra một môi trường bản quyền lành
mạnh, thu hút đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam.

19


KẾT LUẬN

Thực hiện nguyên tắc: “Báo chí, xuất bản nước ta đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng, quản lý của Nhà nước và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật”, trong năm
qua, báo chí, xuất bản tiếp tục khẳng định vị trí quan trọng của mình trong đời
sống xã hội.
Lĩnh vực xuất bản có những chuyển biến tích cực và ngày càng thích ứng
với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Cơ sở vật chất, năng lực xuất bản ngày càng được tăng cường, chất lượng
xuất bản phẩm được nâng lên đáp ứng tốt hơn nhu cầu về xuất bản phẩm của xã
hội. Điều này đã góp phần tích cực vào công tác tuyên truyền tư tưởng của Đảng,
cung cấp một khối lượng kiến thức, thông tin to lớn về nhiều lĩnh vực cho nhân
dân, góp phần nâng cao dân trí, làm phong phú đời sống văn hóa tinh thần cho toàn
xã hội.

Vấn đề bảo vệ bản quyền tác giả đã và đang là vấn đề được nhiều người
quan tâm vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của tác giả (hoặc chủ sở hữu) và
bên sử dụng đối với tác phẩm. Cần phải tăng cường công tác quản lý chặt chẽ hơn
nữa về vấn đề bản quyền tác giả đồng thời phải nâng cao ý thức, trách nhiệm của
người dân hơn nữa.
Bài tiểu luận nhỏ này đã giúp cho chúng em, những biên tập viên, những
phóng viên tương lai hiểu rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của tác giả và bên sử dụng
đối với tác phẩm. Đồng thời giúp chúng em thấy được vai trò của Luật pháp trong
việc quản lý các vấn đề xã hội.

20


Do trình độ còn hạn chế lại không có nhiều thời gian để tìm hiểu kĩ hơn về
vấn đề này, vì vậy bài tiểu luận khó tránh khỏi những khuyết điểm về nội dung
cũng như hình thức thể hiện. Chính vì vậy chúng em rất mong nhận được sự đóng
góp chỉ bảo của thầy cô và các bạn để bài tiểu luận hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

21



×