1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ
VÕ NGUYỄN TRÚC BẠCH
Đề tài:
CÁC TỘI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA: 2008 – 2012
GV HƯỚNG DẪN: ThS. NGUYỄN THỊ ÁNH HỒNG
TP. HỒ CHÍ MINH, 2012
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
2
KHOA LUẬT HÌNH SỰ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Đề tài:
CÁC TỘI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
SVTH: VÕ NGUYỄN TRÚC BẠCH
KHÓA: 33 MSSV:0855030107
GVHD: ThS. NGUYỄN THỊ ÁNH HỒNG
TP. HỒ CHÍ MINH, 2012
Lời cảm ơn
3
Sau bốn năm học, bản thân tôi đã tích lũy được nhiều kiến thức pháp lý và kỹ
năng phục vụ cho nghề nghiệp trong tương lai. Môi trường tại Đại học Luật TP.HCM
đã cho tôi nhiều cơ hội để học tập, trao đổi kinh nghiệm, phát huy những thế mạnh vốn
có và đồng thời khắc phục những yếu điểm theo thời gian. Song song đó là sự quan
tâm, dạy dỗ và chia sẻ rất đáng quý đến từ đội ngũ giảng viên của nhà trường. Đây là
hành trang giúp tôi vững bước trên con đường sắp tới. Là sinh viên lớp Tiếng pháp
AUF nhưng tôi đã lựa chọn đề tài của Khoa Luật Hình sự để làm Khóa luận tốt nghiệp.
Với sự giúp đỡ, truyền đạt và hướng dẫn một cách tận tình của Thạc sỹ.Nguyễn Thị
Ánh Hồng_Giảng viên Khoa Luật hình sự, tôi đã hoàn thành đề tài nghiên cứu về “Các
tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong pháp luật hình sự Việt Nam”. Đồng thời
những tài liệu của nhiều tác giả cũng đã mang đến cho tôi nhiều kiến thức nhằm bổ
sung và làm phong phú hơn đề tài của mình. Những tài liệu trích dẫn đã được ghi nhận
rõ nguồn, tên tác giả, tác phẩm một cách trung thực và chính xác. Bên cạnh đó phải kể
đến sự ủng hộ, quan tâm và những lời nhận xét đến từ gia đình cũng như những người
bạn của tôi.
Nhân đây, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến cô Nguyễn Thị
Ánh Hồng cùng những người đã góp phần giúp tôi hoàn thiện đề tài này.
Những thiếu sót là không thể tránh khỏi, vì lẽ đó rất mong nhận được những ý
kiến đóng góp thẳng thắn đến từ các đọc giả. Điều này sẽ giúp cho nội dung của đề tài
được tốt hơn.
Tác giả đề tài
Võ Nguyễn Trúc Bạch
4
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
Từ viết tắt
Tên đầy đủ
1
Bộ luật dân sự
Bộ luật dân sự 2005.
2
Bộ luật hình sự
Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ
sung năm 2009.
3
Bộ luật tố tụng hình sự
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (sửa đổi, bổ
sung năm 2011).
4
BTA
Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ
ngày 14 tháng 7 năm 2000.
5
TRIPS
Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến
thương mại của quyền sở hữu trí tuệ.
6
Luật Sở hữu trí tuệ
Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 đã được sửa
đổi, bổ sung theo Luật số: 36/2009/QH12.
7
PLHSVN
Pháp luật hình sự Việt Nam.
8
Thông tư liên tịch số 01/2008
Thông tư liên tịch số 01/2008/TTLT-
TANDTC- VKSNDTC- BCA- BTP ngày
29/02/2008 của liên Bộ Toà án nhân dân tối
cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ
Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn việc truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi
xâm phạm quyền Sở hữu trí tuệ.
9
WIPO
Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới .
5
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 8
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
1.1. Khái quát về quyền sở hữu trí tuệ và những quy định về quyền sở hữu trí tuệ
trong pháp luật Việt Nam 12
1.1.1.Khái quát về quyền sở hữu trí tuệ 12
1.1.2.Những quy định về quyền sở hữu trí tuệ trong pháp luật Việt Nam 14
1.1.2.1. Pháp luật dân sự 15
1.1.2.2. Pháp luật hành chính 18
1.1.2.3. Pháp luật hình sự 19
1.1.2.4. Các Điều ước quốc tế 21
1.1.2.5. Sự phù hợp của pháp luật Việt Nam với các Điều ước quốc tế quy định
về quyền sở hữu trí tuệ 26
1.2.Pháp luật hình sự về các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ ở một số quốc gia
1.2.2.Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 27
1.2.3.Vương quốc Thụy Điển 28
1.3. Khái niệm về các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ 29
1.4.Lịch sử các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ 31
1.4.1.Bộ luật hình sự 1985 32
1.4.2.Bộ luật hình sự 1999 34
1.4.3.Bộ luật hình sự 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) 37
6
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PLHSVN VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ
HỮU TRÍ TUỆ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA
PLHSVN VỀ CÁC TỘI PHẠM NÀY
2.1.Quy định của PLHSVN về các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ 40
2.1.1.Tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp 41
2.1.1.1. Khái niệm về Tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp (Điều 170) 41
2.1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý 41
2.1.1.3. Hình phạt 47
2.1.2. Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan (Điều 170a) 49
2.1.2.1. Khái niệm về Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan 49
2.1.2.2. Các dấu hiệu pháp lý 50
2.1.2.3. Hình phạt 57
2.1.3. Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 171) 59
2.1.3.1. Khái niệm về Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp 59
2.1.3.2. Các dấu hiệu pháp lý 59
2.1.3.2. Hình phạt 65
2.2.So sánh với các tội phạm khác có liên quan trong pháp luật hình sự hiện hành
2.2.1.Tội lừa đảo, chiếm đoạt tài sản (Điều 139) 67
2.2.2.Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140) 68
2.2.3.Tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 142) 69
2.2.4.Tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 156, 157, 158) 70
2.2.5.Tội lừa dối khách hàng (Điều 162) 72
2.2.6.Tội vi phạm các quy định về xuất bản, phát hành sách, báo, đĩa âm thanh, đĩa
hình, băng hình hoặc các ấn phẩm khác (Điều 271) 73
7
2.3. Thực trạng vi phạm pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ và một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện quy định của PLHSVN về các tội xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ
2.3.1. Thực trạng vi phạm pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ 75
2.3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của PLHSVN về các tội xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ 84
2.3.2.2. Hoàn thiện những quy định của PLHSVN về các tội xâm phạm quyền
sở hữu trí tuệ 84
2.3.2.3. Những kiến nghị khác 88
KẾT LUẬN 93
8
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nếu từ giai đoạn sơ khai con người chỉ tạo ra được các sản phẩm vật chất từ lao
động bằng chân tay, bằng cơ bắp thì dần dần con người đã biết sáng tạo ra những sản
phẩm của khối óc, của trí tuệ. Những sản phấm ấy được xem như một đòn bẩy thúc
đẩy xã hội loài người ngày càng tiến bộ và vượt ra khỏi khả năng vốn có. Chính khả
năng sáng tạo và tìm tòi không ngừng đã mở rộng chân trời hiểu biết cho nhân loại
cũng như mang đến những sản phẩm giúp đời sống của con người được tốt hơn. Có thể
kể đến là các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học…hay các giải pháp hữu ích, kiểu
dáng công nghiệp…Trong giai đoạn hiện nay, các sản phẩm trí tuệ ngày càng gia tăng
không chỉ về mặt số lượng mà cả về chất lượng. Đó là những sản phẩm được tạo ra bởi
hoạt động trí óc và mang giá trị tri thức hàm chứa rất cao. Để cho ra đời được những
sản phẩm như thế thì phải mất rất nhiều “chất xám”, thời gian cũng như tiền bạc. Vì
vậy, pháp luật đã có những quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
những người được xem là tác giả hay chủ sở hữu của các sản phẩm đó. Quyền này
được pháp luật gọi tên là quyền sở hữu trí tuệ.
Quyền sở hữu trí tuệ nhận được sự bảo vệ từ các ngành luật khác nhau trong hệ
thống pháp luật Việt Nam. Bằng chứng là quyền này thuộc phạm vi điều chỉnh của
pháp luật dân sự, pháp luật hành chính và cả pháp luật hình sự. Mỗi ngành luật điều
chỉnh quyền sở hữu trí tuệ ở một khía cạnh, bằng cách thức riêng và nhằm những mục
tiêu khác nhau. Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp hình sự vẫn còn hạn chế so với các
biện pháp khác khi có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ xảy ra. Theo những số
liệu thống kê thì đến nay vẫn chưa có một hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nào
bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Hay nói cách khác, quy định của pháp luật hình sự về
các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ vẫn “nằm im trên giấy” sau khoảng 27 năm tính
từ khi được ghi nhận trong Bộ luật hình sự 1985 đến nay. Đây cũng là một trong
những nguyên nhân khiến cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về sở hữu trí
tuệ gặp nhiều khó khăn vì biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được
9
ghi nhận trong Bộ luật hình sự vẫn chưa được áp dụng vào thực tế. Do đó, việc xác
định rõ ranh giới để xử lý hình sự với các hình thức xử lý khác; các yếu tố cấu thành
tội phạm; ưu_ nhược điểm của những quy định trong pháp luật hình sự trong lĩnh vực
này là một điều rất cần thiết trong thời điểm hiện nay. Mặt khác giá trị của những đối
tượng sở hữu trí tuệ là rất lớn, do đó những hành vi xâm phạm chúng còn có thể ảnh
hưởng đến trật tự quản lý kinh tế nói riêng, cả nền kinh tế nói chung. Vì những lý do
trên mà tác giả đã lựa chọn đề tài này để nghiên cứu và mong muốn trả lời được những
câu hỏi còn vướng mắc trên.
2. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Quyền sở hữu trí tuệ là một khái niệm được xem là khá mới mẻ trong pháp luật
Việt Nam nói riêng và trong pháp luật quốc tế nói chung cả về mặt thời gian xuất hiện
cũng như số lượng của các quy định về lĩnh vực này. Hơn nữa, gắn liền với thực tiễn
của Việt Nam hiện nay đã có luật chuyên ngành về lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Do đó, khi
lựa chọn đề tài này tác giả xin phép bám sát những đối tượng thuộc quyền sở hữu trí
tuệ được quy định trong pháp luật dân sự Việt Nam về quyền sở hữu trí tuệ. Và thông
qua những nghiên cứu đó sẽ đưa ra sự so sánh, đối chiếu với nội hàm của những quy
định trong các ngành luật khác về cùng lĩnh vực. Trong bối cảnh Việt Nam ban hành
Luật Sở hữu trí tuệ cũng là một trong những bước nhằm được gia nhập và trở thành
thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO, vì thế sự ảnh hưởng của các Điều
ước quốc tế là không thễ chối cãi. Thế nhưng vẫn có một vài đối tượng sở hữu trí tuệ
không được đề cập trong pháp luật Việt Nam hoặc có đề cập nhưng chỉ nêu chung
chung. Vì vậy, tác giả sẽ không trình bày cũng như nghiên cứu tất cả các đối tượng
thuộc quyền sở hữu trí tuệ theo nghĩa rộng nhất mà chỉ tập trung vào những quy định
của pháp luật trong nước.
3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài này được tiến hành theo phương pháp thu thập và tổng hợp các tài liệu có
liên quan bao gồm những văn bản quy định về lĩnh vực sở hữu trí tuệ và các sách, tạp
10
chí, bài viết … Sau khi hệ thống hết những tài liệu đã tìm được, sử dụng phương pháp
phân tích và đối chiếu để chọn lọc ra những điểm giống cũng như khác nhau giữa các
tài liệu (nếu có) về cùng một vấn đề. Từ đó đưa ra những đặc điểm chung nhất của
nhóm các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nhằm xác định các tội phạm cụ thể theo
quy định của Bộ luật hình sự. Các tội phạm cụ thể này sẽ được phân tích các yếu tố
cấu thành và đồng thời đối sánh với nội hàm được pháp luật dân sự quy định về những
vấn đề có liên quan. Dựa trên những phân tích đó, tác giả sẽ đưa ra những kiến nghị
nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ.
4. Mục đích, ý nghĩa của đề tài
Sau khi nghiên cứu, tác giả mong muốn rằng sẽ mang đến cho người đọc những
hình dung sơ lược nhất về quyền sở hữu trí tuệ cũng như nội hàm, cách thức bảo vệ
quyền này trong pháp luật Việt Nam. Bên cạnh đó là những quy định về các tội xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ trong Bộ luật hình sự hiện hành với những phân tích cụ thể
nhằm xác định rõ các yếu tố cấu thành tội phạm, đối chiếu với những quy định của
pháp luật dân sự, các điều ước quốc tế…về cùng lĩnh vực. Đồng thời, tác giả cũng xin
đưa ra một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện hơn những quy định về các tội xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và bảo vệ bằng biện pháp hình sự
nói riêng là vấn đề cấp thiết hiện nay. Trong khi biện pháp hình sự đã có những quy
định cụ thể trong Bộ luật hình sự thì trên thực tế nó vẫn chưa lần nào được áp dụng
cho một hành vi vi phạm. Vì lẽ đó thông qua đề tài này, tác giả hướng đến việc đưa ra
những ý kiến xoay quanh quy định trong Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm quyền
sở hữu trí tuệ nhằm nâng cao khả năng áp dụng trong thực tế của những quy định này.
Từ đó, phần nào có thể nâng cao hiệu quả trong công tác đấu tranh, phòng chống, xử
lý những hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đang diễn ra hiện nay và đồng thời
bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể quyền này.
11
5. Cơ cấu đề tài
Ngoài phần lời nói đầu và kết luận, nội dung đề tài được kết cấu từ hai chương bao
gồm:
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
Chương 1 nhằm giới thiệu một cách khái quát về các tội xâm phạm quyền này
được quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam. Đầu tiên là xác định được khái niệm
quyền sở hữu trí tuệ để dựa vào đó xác định các quy định của pháp luật liên quan đến
quyền này. Pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật quốc tế đều có những quy định về
quyền sở hữu trí tuệ. Những quy định đó bao gồm nội dung, cách thức xác lập, chủ sở
hữu…của quyền sở hữu trí tuệ. Một trong các biện pháp bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
được đề cập đến chính là biện pháp hình sự. Để thực hiện biện pháp này, pháp luật
hình sự đã đưa ra những quy định về các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ mà cụ thể
là Bộ luật hình sự. Theo thời gian, những quy định cũng đã có sự thay đổi nhất định về
đối tượng tác động của tội phạm, hành vi khách quan…và cả số lượng các điều luật.
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PLHSVN VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ
HỮU TRÍ TUỆ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA
PLHSVN VỀ CÁC TỘI PHẠM NÀY
Nội dung của chương 2 chủ yếu xoay quanh các quy định của Bộ luật hình sự
Việt Nam hiện hành về các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Các tội phạm này sẽ
được trình bày và phân tích chi tiết về khái niệm, các dấu hiệu pháp lý và hình phạt.
Song song đó là so sánh các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ với một số tội phạm
khác có những điểm tương đồng nhất định được quy định trong Bộ luật hình sự. Sau
cùng, đề tài phản ánh về thực trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và đồng thời đưa ra
một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các
tội xâm phạm quyền này.
12
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU TRÍ
TUỆ
1.1. Khái quát về quyền sở hữu trí tuệ và những quy định về quyền sở hữu trí tuệ
trong pháp luật Việt Nam
1.1.1.Khái quát về quyền sở hữu trí tuệ
Quyền sở hữu là một khái niệm xuất hiện từ rất lâu đời, nó gắn liền với quá
trình con người hình thành sự tư hữu đối với những tài sản do mình tạo ra. Quyền sở
hữu hiểu một cách đơn giản là quyền của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu của
mình. Quyền sở hữu bao gồm ba loại quyền gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và
quyền định đoạt. Dần già, tài sản được hình thành từ nhiều nguồn hơn, có thể nhận
được từ tặng cho, thừa kế, mua bán… Đồng thời tài sản cũng ngày càng đa dạng,
phong phú hơn và được phân thành hai nhóm là động sản và bất động sản. Thế nhưng
tùy theo quan điểm của mỗi quốc gia mà việc chọn lựa, sắp xếp các loại tài sản vào hai
nhóm này cũng có sự khác nhau trong quy định pháp luật của các nước.
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, những sản phẩm được tạo ra
không đơn thuần chỉ là đáp ứng cho nhu cầu về mặt vật chất mà còn cả về mặt tinh
thần. Họ đã sử dụng trí tuệ, khối óc cùng với đôi tay để tạo ra những sản phẩm hết sức
đặc biệt không chỉ để phục vụ cho nhu cầu của riêng mình mà đôi khi là còn cho cả
nhân loại. Một trong những yếu tố khiến loại sản phẩm này trở nên đặc biệt chính là ở
yếu tố "vô hình”. Tuy những tài sản đó mang tính chất trừu tượng nhưng chúng đã có
những đóng góp rất to lớn cho cuộc sống của chúng ta. Chúng có thể là những tác
phẩm văn học, nghệ thuật… hay những phát minh, sánh chế của các nhà khoa học về
nhiều lĩnh vực… và chúng ta gọi chung đó là những sản phẩm của trí tuệ. Những sản
phẩm đó có thể được thể hiện dưới một dạng vật chất cụ thể, hữu hình nhưng đôi khi
chỉ dừng lại ở các ý tưởng được hình thành trong suy nghĩ của người sáng tạo ra nó.
Vậy quyền sở hữu trí tuệ có phải chỉ đặt ra đối với các hình thức vật chất ấy hay
không? Hơn nữa, tại sao quyền sở hữu trí tuệ lại không có quy định về quyền chiếm
hữu? Bởi lẽ để tạo ra một sản phẩm trí tuệ là cả một quá trình và không ít công sức, giá
trị của nó được khẳng định bởi hàm lượng tri thức nằm bên trong nó. Vì thế quyền sở
13
hữu trí tuệ được pháp luật bảo vệ không chỉ dành cho những sản phẩm vật chất cụ thể
mà còn là sự bảo vệ cho những gì được xem là sản phẩm của sự sáng tạo bên trong các
sản phẩm vật chất cụ thể đó. Và để bảo vệ được thành quả lao động của trí tuệ, pháp
luật đã mang đến cho người tạo ra chúng hay sở hữu chúng những quyền nhất định và
ta gọi nó là quyền sở hữu trí tuệ.
Mặc dù có rất nhiều các hiệp định và công ước quốc tế về sở hữu trí tuệ nhưng
hiện nay vẫn chưa có một định nghĩa chính thức nào về quyền sở hữu trí tuệ, do đó tác
giả xin trình bày một số các khái niệm về quyền sở hữu trí tuệ nhằm tìm ra điểm chung
nhất giữa các quan điểm như sau:
Căn cứ Điều 2 của Công ước Stockholm_ Công ước thành lập Tổ chức Sở hữu
trí tuệ thế giới (WIPO) ký ngày 14/7/1967 quy định: “Sở hữu trí tuệ bao gồm các
quyền liên quan đến các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học; các cuộc biểu
diễn của nghệ sĩ biểu diễn, các bản ghi âm và các chương trình phát sóng; các sáng
chế trong tất cả các lĩnh vực sáng tạo của con người; các khám phá khoa học; các
kiểu dáng công nghiệp; các nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ và các tên thương
mại; bảo hộ chống lại sự cạnh tranh không lành mạnh; và tất cả các quyền khác nảy
sinh từ kết quả của hoạt động trí tuệ thuộc các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học
và công nghiệp”. Định nghĩa này được đưa ra bằng cách liệt kê các phạm trù thuộc nội
hàm của quyền sở hữu trí tuệ.
Thông qua các đối tượng của quyền này, ta có thể đưa ra định nghĩa về quyền
sở hữu trí tuệ như sau: “ Quyền sở hữu trí tuệ là tập hợp các quyền đối với tài sản vô
hình là thành quả lao động sáng tạo hay uy tín kinh doanh của các chủ thể, được pháp
luật quy định bảo hộ” hay “Sở hữu trí tuệ là việc sở hữu các tài sản về trí tuệ, đó là
những sản phẩm được tạo ra từ quá trình lao động trí óc của con người, đó có thể là
các tài sản vô hình hoặc hữu hình và việc xác định đâu là một tài sản thuộc sở hữu trí
tuệ thì phải dựa vào các điều kiện nhất định của từng loại tài sản được liệt kê trong
nội hàm của sở hữu trí tuệ theo quy định của hệ thống pháp luật phù hợp.”[21]
14
Qua một số khái niệm vừa được nêu ra, chúng ta dễ dàng thấy rằng việc định
nghĩa về quyền sở hữu trí tuệ thật sự không đơn giản. Vì lẽ đó, tôi xin đưa ra khái
niệm như sau : “Quyền sở hữu trí tuệ là những quyền của chủ thể quyền sở hữu trí
tuệ đối với các sản phẩm được tạo ra bởi trí óc và tùy thuộc vào quy định của mỗi hệ
thống pháp luật mà nội hàm của các đối tượng thuộc quyền này sẽ có sự khác
nhau.” Theo quan điểm cá nhân, tôi cho rằng việc liệt kê các quyền thuộc quyền sở
hữu trí tuệ và các đối tượng thuộc quyền này là một cách quy định không khả thi.
Nguyên nhân là do bản chất của các đối tượng này đều xuất phát từ khả năng sáng tạo
của con người mà vốn dĩ đó là thứ mà chúng ta không thể kiểm soát hay nhận thức
được hết. Có thể sự liệt kê ấy sẽ làm triệt tiêu mọi ý tưởng mới hoặc nó sẽ trở thành
một “gọng kìm” hạn chế sự sáng tạo của con người. Thậm chí điều đó có thể khiến cho
xã hội loài người ngày càng thụt lùi, lạc hậu hơn nữa. Vì thế việc quy định mở và để
cho thực tế quyết định phạm vi của các đối tượng thuộc quyền sở hữu trí tuệ là một
điều thích hợp. Vấn đề thứ hai cần lưu ý chính là việc xác định quyền này thuộc về đối
tượng nào cũng rất cần thiết. Không hẳn người sáng tạo ra sản phẩm trí tuệ ấy sẽ có tất
cả các quyền sở hữu trí tuệ đối với chúng hay chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ cũng
thế. Do đó, chúng ta nên sử dụng thuật ngữ chủ thể quyền sở hữu trí tuệ sẽ đầy đủ hơn.
Tùy thuộc đối tượng quyền sở hữu trí tuệ mà chúng ta sẽ có các cách thức khác nhau
để xác định người nào là tác giả, người nào là chủ sở hữu.
1.1.2.Những quy định về quyền sở hữu trí tuệ trong pháp luật Việt Nam
Trong bối cảnh chung của thế giới, Việt Nam nhận thức được tầm quan trọng
của việc phải đưa ra những quy định về sở hữu trí tuệ nhằm hội nhập tốt hơn và đồng
thời việc hoàn thiện dần các quy định về sở hữu trí tuệ cũng là một bước trong lộ trình
xin gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới WTO của Việt Nam. Hơn nữa, mỗi
quốc gia không đứng một cách riêng lẻ mà đều tồn tại bên cạnh những mối quan hệ
quốc tế với các quốc gia khác, các tổ chức khu vực hay thậm chí là những tổ chức thế
giới. Vì thế, Việt Nam cũng đã trở thành thành viên của rất nhiều các Điều ước quốc
tế, tổ chức quốc tế về sở hữu trí tuệ. Có thể là cùng một quan hệ phát sinh thế nhưng
có nhiều nguồn luật có thể dùng để áp dụng đối với quan hệ đó. Ngày nay, để điều
15
chỉnh một quan hệ pháp luật thì không chỉ đơn giản là căn cứ vào pháp luật quốc gia
mà tùy thuộc vào những trường hợp cụ thể khác mà người ta còn phải lựa chọn hoặc
áp dụng những hệ thống pháp luật khác ngoài pháp luật của quốc gia ấy. Do đó, trong
quy định về áp dụng pháp luật của Việt Nam ở một số lĩnh vực nhất định đều có quy
định về các trường hợp xác định luật áp dụng như Điều ước quốc tế, pháp luật nói
chung hay luật chuyên ngành… Và lĩnh vực sở hữu trí tuệ cũng không phải là ngoại lệ
của quy luật này. Tại Điều 5 Luật Sở hữu trí tuệ đã có quy định như sau về áp dụng
pháp luật:
1. Trong trường hợp có những vấn đề dân sự liên quan đến sở hữu trí tuệ không
được quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ thì áp dụng quy định của Bộ luật dân
sự.
2. Trong trường hợp có sự khác nhau giữa quy định về sở hữu trí tuệ của Luật Sở
hữu trí tuệ với quy định của luật khác thì áp dụng quy định của Luật Sở hữu trí
tuệ.
3. Trong trường hợp Điều ước quốc tế mà Cộng hoàn xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là thành viên có quy định khác với quy định của Luật Sở hữu trí tuệ thì áp dụng
quy định của Điều ước quốc tế đó.
Qua đó, ta nhận thấy rằng những quy định về quyền sở hữu trí tuệ của pháp luật
Việt Nam không chỉ là pháp luật quốc gia mà còn có các Điều ước quốc tế_Việt Nam
là thành viên.
1.1.2.1.Pháp luật dân sự
* Bộ luật dân sự 2005:
Luật Dân sự Việt Nam là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt
Nam, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ tài sản
mang tính chất hàng hóa - tiền tệ và các quan hệ nhân thân trên cơ sở bình đẳng, độc
lập của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ đó và có hiệu lực pháp lý trên toàn bộ
lãnh thổ Việt Nam. Ngày 28/10/1995, tại kỳ họp thứ 8, Quốc Hội khóa IX đã thông
qua Bộ Luật dân sự 1995 chính thức thiết lập chế độ pháp lý cao nhất cho việc xác lập,
16
bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam. Theo sau đó là hàng loạt các văn
bản pháp luật quy định chi tiết về các đối tượng thuộc quyền sở hữu trí tuệ. Tháng 5
năm 2005, tại kỳ họp thứ 7, Quốc Hội khóa XI, đã thông qua Bộ Luật dân sự 2005
thay thế cho Bộ Luật dân sự 1995. Trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung cũng như ban
hành mới, các quy định về quyền sở hữu trí tuệ luôn có mặt xuyên suốt trong Bộ luật
dân sự.
Trong Bộ luật dân sự 2005 quyền sở hữu trí tuệ được quy định tại Phần sáu
Quyền sở hữu trí tuệ và quyền chuyển giao công nghệ. Quyền sở hữu trí tuệ trong Bộ
luật dân sự bao gồm: quyền tác giả (mục 1 chương XXXIV); quyền liên quan đến
quyền tác giả (mục 2 chương XXXIV); quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với
giống cây trồng (chương XXXV). Như vậy, quyền sở hữu trí tuệ đã có mặt trong Bộ
luật dân sự hay nói cách khác quyền sở hữu trí tuệ thuộc phạm vi điều chỉnh của Bộ
luật dân sự. Ta thấy rằng cách thức mà Bộ luật dân sự bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ là
đưa ra những quy định định về khái niệm; đối tượng quyền; nội dung quyền; thời điểm
phát sinh, cách xác lập và hiệu lực của quyền đối với các loại đối tượng thuộc quyền
đã được liệt kê bên trên. Tuy nhiên cần lưu ý là trong 18 điều luật từ Điều 736- Điều
753 Bộ luật dân sự vẫn chưa quy định như thế nào là hành vi xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ cũng như các biện pháp xử lý đối với những hành vi đó.
Trong Bộ luật dân sự các quyền sở hữu trí tuệ được quy định theo phân loại nội
hàm của quyền sở hữu trí tuệ. Nói cách khác, nội dung quyền được quy định chung
cho các đối tượng cùng thuộc một nhóm đối tượng quyền bao gồm quyền tác giả,
quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống
cây trồng. Sau đó, thông qua những quy định chung thì Bộ luật dân sự đã cụ thể hóa
một cách riêng biệt cho từng đối tượng. Tức là quy định theo hướng từ cái chung đến
cái riêng rồi từ cái riêng đến cái đơn nhất của từng đối tượng cụ thể. Do đó, các đối
tượng cùng thuộc một nhóm đối tượng quyền sở hữu trí tuệ thì có sự phân định khác
nhau một vài điểm về nội dung quyền của chủ thể quyền đối với chúng.
17
* Luật chuyên ngành: Luật sở hữu trí tuệ
Năm 2003, Luật Sở hữu trí tuệ đã được đưa vào chương trình làm luật của Quốc
Hội và nhận được rất nhiều ý kiến cũng như quan điểm khác nhau. Mặt khác, sự ra đời
của văn bản luật này cũng là hoạt động cần thiết trong lộ trình xin gia nhập Tổ chức
thương mại thế giới WTO của Việt Nam trong giai đoạn đó. Vì thế không thể hoãn
việc cho ra đời một văn bản chuyên ngành về sở hữu trí tuệ. Ngày 29/11/2005, tại kỳ
họp thứ 10, Quốc Hội khóa X, Luật Sở hữu trí tuệ đã được ban hành và có hiệu lực từ
ngày 01/7/2006. Từ vị trí là một chế định trong Bộ Luật dân sự, những quy định về sở
hữu trí tuệ đã hình thành một ngành luật độc lập_ ngành luật sở hữu trí tuệ trong hệ
thống pháp luật Việt Nam. Hay nói cách khác, đây là lần đầu tiên Việt Nam có một
đạo luật riêng về sở hữu trí tuệ ở tầm vóc là một đạo luật. Nó đã quy định một cách
đầy đủ và trọn vẹn về những vấn đề liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ trong giai đoạn
hiện nay. Luật sở hữu trí tuệ đã ra đời trên cơ sở tiếp thu những quy định về quyền sở
hữu trí tuệ trong Bộ Luật dân sự cũng như trong các Điều ước quốc tế có liên quan.
Đây là văn bản thể hiện rõ sự hội nhập cũng như dần hoàn thiện hệ thống pháp luật
nước ta khi gặp gỡ bạn bè trên trường quốc tế.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ:
“ Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ,
bao gồm: quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công
nghiệp và quyền đối với giống cây trồng”.
Ta thấy rằng nội hàm của quyền sở hữu trí tuệ trong Bộ luật dân sự và Luật Sở
hữu trí tuệ là hoàn toàn trùng khớp với nhau. Đó chỉ là sự cụ thể hóa và những quy
định nhằm để quyền này được thực hiện đồng thời được bảo vệ tốt hơn trong thực tế.
Thế nhưng có một điểm khác nhau đáng lưu ý giữa Luật Sở hữu trí tuệ và Phần thứ sáu
Bộ Luật dân sự chính là đối tượng điều chỉnh của hai văn bản luật này. Trong khi Bộ
luật dân sự chỉ đưa ra các quy định liên quan đến nội dung của quyền tác giả, quyền
liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây
trồng thì Luật sở hữu trí tuệ còn quy định thêm về các trình tự, thủ tục xác lập quyền
18
và cách thức thực thi quyền. Tức là Luật Sở hữu trí tuệ vừa là luật nội dung vừa là luật
hình thức.
Ngoài ra, tại “Phần thứ năm: Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ” đã có nhiều quy định
về các biện pháp chế tài nhằm xử lý những hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu trí tuệ
và tùy tính chất, mức độ của hành vi mà xác định loại chế tài phù hợp. Quy định này
được hướng dẫn cụ thể tại Nghị định 105/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ như sau:
1. Biện pháp dân sự được áp dụng để xử lý hành vi xâm phạm theo yêu cầu của
chủ thể quyền sở hữu trí tuệ hoặc của tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do hành vi xâm
phạm gây ra, kể cả khi hành vi đó đã hoặc đang bị xử lý bằng biện pháp hành chính
hoặc biện pháp hình sự.
2. Biện pháp hành chính được áp dụng để xử lý hành vi xâm phạm thuộc một
trong các trường hợp quy định tại Điều 211 của Luật Sở hữu trí tuệ, theo yêu cầu của
chủ thể quyền sở hữu trí tuệ, tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do hành vi xâm phạm gây
ra, tổ chức, cá nhân phát hiện hành vi xâm phạm hoặc do cơ quan có thẩm quyền chủ
động phát hiện.
3. Biện pháp hình sự được áp dụng để xử lý hành vi xâm phạm trong trường
hợp hành vi đó có yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự.
Trong trường hợp cần thiết, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể áp dụng
các biện pháp sau đây: biện pháp khẩn cấp tạm thời; biện pháp kiểm soát hàng hóa
xuất, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ; biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt
hành chính theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ và các quy định khác của pháp luật
có liên quan
1.1.2.2.Pháp luật hành chính
Trong giai đoạn đầu khi hình thành những quy định về quyền sở hữu trí tuệ thì
biện pháp hành chính đã được xác định là một trong ba chế tài cơ bản để xử lý các
hành vi xâm phạm quyền này. Nghị định 140/1991/HĐBT về xử lý buôn bán hàng giả,
19
NĐ 57/1997/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong lĩnh vực đo lường chất lượng hàng
hóa là những văn bản quy định riêng biệt về việc xử lý ngay khi Bộ luật dân sự 1995
chưa được ban hành. Và tiếp tục trong những giai đoạn sau đó với sự ra đời của Bộ
luật dân sự 1995, Bộ luật dân sự 2005 và cả Luật Sở hữu trí tuệ 2005 thì pháp luật
hành chính vẫn luôn tồn tại các văn bản quy định nhằm xử lý những hành vi xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ. Văn bản chung nhất có thể nói đến chính là Pháp lệnh xử lý
vi phạm hành chính luôn dành một phần cho các quy định về xử lý những hành vi xâm
phạm và chúng cũng được cụ thể hóa một cách chuyên biệt cho những đối tượng thuộc
quyền sở hữu trí tuệ trong một số văn bản đơn lẻ khác như: Nghị định số 47/2009/NĐ-
CP về việc quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan
ban hành ngày 13/5/2009; Nghị định 97/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2010 Xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp; Nghị định số
75/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong hoạt động văn hóa…Tại các văn bản này pháp luật hành chính đã đưa ra những
quy định về hành vi bị xử lý hành chính, chủ thể có thẩm quyền xử lý, mức phạt
tiền…tương ứng với từng hành vi. Các cơ quan chức năng được trao quyền thực hiện
các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Sở hữu công nghiệp bao
gồm: thanh tra chuyên ngành về Sở hữu công nghiệp thuộc Bộ khoa học công nghệ và
các Sở Khoa học công nghệ và môi trường; Cục Quản lý thị trường thuộc Bộ Công
thương, các Chi cục và Đội quản lý thị trường; Cảnh sát kinh tế; Tổng cục Hải quan và
hải quan tại các cửa khẩu…Các chế tài hành chính được quy định như: phạt tiền, tước
quyền sử dụng giấy phép kinh doanh, tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính, buộc loại bỏ các yếu tố vi phạm, …
1.1.2.3.Pháp luật hình sự
Với vai trò là một đạo luật quy định về tội phạm và hình phạt, pháp luật hình sự
là một trong những đạo luật ra đời sớm nhất trong hệ thống pháp luật của các quốc gia
trên thế giới. Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm; góp phần đắc lực vào việc bảo vệ độc lập, chủ
20
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức; góp phần duy
trì trật tự an toàn xã hội, trật tự quản lý kinh tế; bảo đảm cho mọi người được sống
trong một môi trường xã hội và sinh thái an toàn, lành mạnh, mang tính nhân văn cao.
Đồng thời, pháp luật hình sự góp phần tích cực loại bỏ những yếu tố gây cản trở cho
tiến trình đổi mới và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Pháp luật hình sự đưa ra cơ chế nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trước những hành vi được xem là tội
phạm được quy định trong văn bản cụ thể là Bộ luật hình sự.
Quyền sở hữu trí tuệ được chúng ta đề cập là một trong những quyền của công
dân được pháp luật bảo vệ. Trong quy định của các ngành luật khác cũng đã ghi nhận
những biện pháp bảo vệ quyền này như pháp luật dân sự, pháp luật hành chính mà tác
giả đã trình bày ở trên. Thế nhưng, trong thực tế có những hành vi nếu chỉ áp dụng
biện pháp dân sự hay hành chính thì không sẽ đủ sức răn đe. Vì vậy, biện pháp hình sự
cũng được ghi nhận là một trong những biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bên
cạnh các biện pháp khác. Cụ thể quy định tại Phần thứ năm Luật sở hữu trí tuệ, các
nhà làm luật đã đưa ra rất nhiều biện pháp nhằm bảo vệ quyền này và trong số đó có
biện pháp hình sự. Tuy nhiên Luật Sở hữu trí tuệ không quy định cụ thể hành vi xâm
phạm nào thì bị áp dụng chế tài hình sự, chỉ quy định cá nhân thực hiện những hành vi
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có yếu tố cấu thành tội phạm thì bị truy cứu trách
nhiệm hình sự. Vì thế muốn áp dụng chế tài hình sự chúng ta phải căn cứ vào các quy
định của Bộ luật hình sự để xem hành vi vi phạm đó đã cấu thành tội phạm hay chưa.
Khi một người thực hiện một hành vi đã được quy định trong Bộ Luật hình sự thì sẽ bị
áp dụng chế tài hình sự, vì hành vi này không chỉ xâm phạm lợi ích của chủ thể quyền
sở hữu trí tuệ mà đã xâm phạm đến lợi ích của toàn xã hội, vi phạm chính sách tội
phạm của nhà nước. Rõ ràng, đối với những hành vi xâm phạm ở mức độ cao, ảnh
hưởng đến nhiều đối tượng và mang tính chất nguy hiểm thì biện pháp hình sự là biện
pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ triệt để nhất. Trải qua các giai đoạn, trong Bộ luật
hình sự luôn có quy định về các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nhưng phạm vi áp
21
dụng, đối tượng áp dụng có sự thay đổi qua các văn bản. Việc sắp xếp các tội phạm
này vào chương nào là dựa trên cơ sở xác định khách thể bị xâm hại của tội phạm đó.
Ngoài ra, trong pháp luật hình sự còn có những quy định về tố tụng hình sự
nhằm xác định các trình tự, thủ tục khi truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội hoặc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong những trường hợp cần
thiết.
1.1.2.4.Các Điều ước quốc tế
Hiện nay các quốc gia không chỉ tồn tại riêng rẽ một mình mà còn có mối quan
hệ với các quốc gia khác. Do đó việc xuất hiện ngày càng nhiều các điều ước quốc tế
đa phương và song phương là một điều tất yếu. Điều đó không chỉ giúp cho mối quan
hệ gữa các quốc gia tốt hơn mà còn giúp cho hệ thống pháp luật của các nước “xích
lại” gần nhau hơn. Thông qua đó, tạo nên một môi trường pháp lý với những nét tương
đồng nhất định để thuận lợi hơn cho các quốc gia khi hợp tác với nhau trong các lĩnh
vực. Trên con đường hội nhập vào nền kinh tế thế giới, cũng giống như những quốc
gia khác, Việt Nam cũng đã trở thành thành viên của những Điều ước quốc tế. Ta có
thể xem đó là luật giữa các quốc gia nhằm tạo nên một sự tương đồng nhất định về mặt
pháp lý nhằm bảo vệ tốt nhất những vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ. Mặt khác,
pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam là một chế định khá mới mẻ vì vậy để
cho ra đời những quy định phù hợp thì việc dựa vào các Điều ước quốc tế là hết sức
cần thiết.
* Điều ước quốc tế đa phương
Điều ước quốc tế đa phương là thỏa thuận giữa các chủ thể luật quốc tế ( trên
hai chủ thể) về một hoặc một số vấn đề nhất định. Một chủ thể có thể là thành viên của
điều ước quốc tế đa phương bằng cách ký kết hoặc xin gia nhập và đồng thời là thành
viên của nhiều điều ước (nếu điều ước tham gia trước đó không cấm).
Việt Nam đã tham gia vào các Điều ước quốc tế đa phương về quyền sở hữu trí
tuệ từ khá lâu trong lịch sử. Nếu hai Công ước đầu tiên về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
22
là Công ước Paris 1883 về quyền sở hữu công nghiệp và Công ước Berne 1886 về
quyền tác giả, thì Việt Nam đã trở thành thành viên của Công ước Paris từ ngày
08/3/1949 dưới thời Bảo Đại và đã từng là thành viên của Công ước Berne dưới thời
Pháp thuộc. Hiện nay số lượng các Điều ước đa phương mà Việt Nam là thành viên
cũng tăng lên, có thể kể đến như Công ước Rome năm 1961 về bảo hộ người biểu
diễn, nhà xuất bản, ghi âm và tổ chức phát sóng; Hiệp ước hợp tác quốc tế về bằng
sáng chế năm 1970 (PCT); Công ước UPOV năm 1961 về bảo hộ giống cây trồng
mới… Qua một số điều ước Việt Nam đã tham gia và những điều ước quốc tế khác về
sở hữu trí tuệ, rõ ràng hiện nay có rất nhiều điều ước đã được ký kết và điều chỉnh
nhiều khía cạnh xung quanh quyền sở hữu trí tuệ. Có những điều ước đưa ra những
quy định chung cho các đối tượng thuộc quyền hoặc quy định chuyên biệt cho một đối
tượng hay một nhóm đối tượng nhất định. Tuy nhiên, những thỏa thuận này đều xác
định cách thức bảo vệ đối tượng quyền sở hữu trí tuệ bằng cách cho phép pháp luật
của các quốc gia thành viên được quy định những biện pháp xử lý với bất kì hành vi
xâm phạm nào.
Việc WIPO ra đời với tư cách là một trong các cơ quan chuyên môn của WTO
cũng là yếu tố giúp cho những điều ước này theo những tiêu chuẩn chung nhất. Hiệp
định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) năm
1994 trong khuôn khổ các văn kiện của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) ra đời
trên sự tổng hợp những quy định từ những điều ước mà WIPO đang giám sát. Cũng
như những điều ước quốc tế khác về thương mại, TRIPS cũng đưa ra những nguyên
tắc cơ bản gồm nguyên tắc đối xử công dân hay gọi là nguyên tắc đối xử quốc gia và
nguyên tắc đối xử tối huệ quốc. Đây là nguyên tắc mà các thành viên khi tham gia vào
điều ước phải thực hiện đối với những thành viên khác của điều ước.
Tại Chương III hiệp định đã đưa ra những quy định về thực thi quyền sở hữu trí
tuệ và riêng về chế tài hình sự theo Điều 61 TRIPS:“Các Thành viên phải quy định
những thủ tục tố tụng hình sự và hình phạt cần được áp dụng ít nhất trong các trường
hợp cố ý làm hàng giả nhãn hiệu hàng hoá hoặc vi phạm bản quyền với quy mô
thương mại. Những chế tài có thể áp dụng phải bao gồm tù giam và/ hoặc phạt tiền đủ
23
để răn đe xâm phạm, phù hợp với mức hình phạt áp dụng đối với tội phạm có mức độ
nặng nhẹ tương ứng. Trong những trường hợp thích hợp, những biện pháp chế tài có
thể áp dụng cũng phải bao gồm cả việc thu giữ, tịch thu và tiêu huỷ hàng hoá vi phạm
và bất kỳ nguyên liệu và phương tiện nào sử dụng chủ yếu để thực hiện tội phạm. Các
Thành viên có thể quy định những thủ tục hình sự và các hình phạt áp dụng cho những
trường hợp khác vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là trường hợp cố ý vi phạm và
vi phạm với quy mô thương mại”. Từ đây đối chiếu với quy định về các tội xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ trong Bộ luật hình sự, ta thấy rằng pháp luật Việt Nam đã đáp ứng
được những yêu cầu đặt ra từ TRIPS khi xác định biện pháp hình sự là một trong
những chế tài áp dụng đối với hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Ngoài ra, tại Công ước Geneve năm 1971 về bảo hộ nhà xuất bản, ghi âm chống
việc sao chép không được phép cũng ghi nhận tại Điều 4 và Điều 6 về biện pháp hình
sự là một trong những cách thức để quốc gia thành viên bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Tóm lại, TRIPS và những điều ước quốc tế khác về lĩnh vực sở hữu trí tuệ đã
phần nào giúp định hướng cho Việt Nam khi đưa ra những quy định về lĩnh vực mới
này. Qua đó, tạo nên những quy định nhằm bảo hộ, thực thi một cách tốt nhất và có
hiệu quả nhất quyền sở hữu trí tuệ trong nền kinh tế tri thức hiện nay. Hiển nhiên khi
tham gia vào các điều ước quốc tế thì các quốc gia phải thực hiện những gì đã cam kết
và họ hoàn toàn có thể lựa chọn bảo lưu những điều khoản mà họ cho rằng không phù
hợp hoặc đi ngược lại nguyên tắc pháp lý của nước mình. Thế nhưng, chính những
điều ước quốc tế là một bước hỗ trợ cho việc phát triển sự hợp tác giữa cá quốc gia khi
có nét tương đồng những quy định về quyền sở hữu trí tuệ nói riêng cũng như những
lĩnh vực khác nói chung.
*Điều ước quốc tế song phương
Điều ước quốc tế song phương là thỏa thuận giữa hai chủ thể luật quốc tế về
một hoặc một số vấn đề nào đó cần được điều chỉnh. Với xu hướng phát triển ngày
càng đa dạng các mối quan hệ thì giữa những chủ thể của luật quốc tế ngày càng hình
thành nhiều những thỏa thuận song phương. Điều này một mặt giúp cho các quốc gia
24
tạo thành những hành lang pháp lý thuận lợi hơn cho nhau mặt khác giúp cho sự tương
thích về trình độ lập pháp giữa họ dần dần được kéo giảm. Việt Nam hiện nay cũng đã
kí kết rất nhiều hiệp định song phương với các quốc gia khác về nhiều lĩnh vực và một
trong số đó chính là những vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ. Có thể kể đến như hiệp
định song phương với Thụy Điển, Thụy Sỹ, Nhật Bản…Trong đề tài này tác giả không
trình bày hết tất cả những hiệp định song phương liên quan đến sở hữu trí tuệ giữa Việt
Nam và các nước mà chỉ tập trung vào các hiệp định với Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
Hiệp định với Hợp chủng quốc Hoa Kỳ:
Hiệp định Việt Nam - Hoa Kỳ năm 1997 về thiết lập quan hệ quyền tác giả;
Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ ngày 14 tháng 7 năm 2000 (BTA);
Nhìn chung những quy định đã được nội luật hóa trong pháp luật Việt Nam về
quyền tác giả đều phù hợp với những gì đã được kí kết trong Hiệp định Việt Nam -
Hoa Kỳ năm 1997 về thiết lập quan hệ quyền tác giả. Từ việc tương đồng về nội dung
quyền và đối tượng thuộc quyền, hiệp định đã tạo tiền đề định hướng cho việc ra đời
những quy định trong pháp luật Việt Nam về sau như Bộ luật dân sự 2005 hay Luật Sở
hữu trí tuệ 2005.
BTA đã đề cập đến nhiều khía cạnh thương mại bao gồm hàng hóa, dịch vụ, sở
hữu trí tuệ và đầu tư. Bên cạnh những thuận lợi do Hiệp định mang đến cũng mang
theo cả những khó khăn, thách thức khi Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Với 18 điều được quy định tại Chương II BTA ta nhận thấy rằng Hiệp định đã dành
cho quyền sở hữu trí tuệ một phần riêng, cụ thể là một trong bảy chương của BTA.
Nhìn chung, những thỏa thuận giữa hai quốc gia về nội dung quyền hay thực thi
quyền đều tương đối phù hợp với những quy định của pháp luật Việt Nam mà cụ thể
là Luật Sở hữu trí tuệ. Các biện pháp chế tài mà BTA đề cập đều có mặt trong quy
định của pháp luật Việt Nam như: biện pháp hành chính, biện pháp dân sự, biện pháp
hình sự…
Đặc biệt là quy định của BTA về thủ tục tố tụng hình sự và hình phạt tại
Khoản 1 Điều 14 Chương II: “Mỗi Bên quy định các thủ tục tố tụng hình sự và hình
25
phạt được áp dụng ít nhất trong các trường hợp cố ý làm giả nhãn hiệu hàng hoá
hoặc xâm phạm quyền tác giả hoặc quyền liên quan nhằm mục đích thương mại. Mỗi
Bên quy định rằng các hình phạt có thể được áp dụng bao gồm phạt tù hoặc phạt tiền
hoặc cả hai, đủ để ngăn ngừa xâm phạm, phù hợp với mức hình phạt áp dụng đối với
tội danh có mức độ nghiêm trọng tương tự.” và Khoản 3 Điều 14 Chương II:“Mỗi
Bên có thể quy định rằng, trong những trường hợp thích hợp, các cơ quan tư pháp
của Bên đó có thể áp dụng các hình phạt hình sự đối với hành vi xâm phạm các loại
quyền sở hữu trí tuệ khác, ngoài những trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều
này, khi các hành vi đó được thực hiện một cách cố ý và nhằm mục đích thương
mại”. Khi đối chiếu quy định này vào Bộ luật hình sự hiện hành thì rõ ràng là quy
định của Việt Nam tại Điều 170a và Điều 171 đã đáp ứng được yêu cầu để đạt được
thỏa thuận. Tuy vậy, cũng cần chú ý là BTA yêu cầu xác định các chế tài hình sự luôn
có mặt đối với mọi loại đối tượng thuộc quyền nhưng trong Bộ luật hình sự Việt Nam
thì số lượng đối tượng này có phần hẹp hơn.
Hơn nữa, tuy có được những sự phù hợp với hiệp định khi ký kết và trong giai
đoạn thực hiện hiệp định nhưng cũng cần lưu ý rằng vấn đề thực thi quyền sở hữu trí
tuệ trong hệ thống pháp luật Việt Nam vẫn chưa có được sự quan tâm đúng mức. Sau
khi ký kết hiệp định, Việt Nam đã tham gia vào cá điều ước quốc tế cũng như ban
hành nhiều văn bản pháp luật nhằm thực hiện tốt các thỏa thuận nói riêng và quyền
sở hữu trí tuệ nói chung. Thế nhưng những quy định này chỉ mới dừng lại ở mức đáp
ứng yêu cầu về hình thức mà việc ứng dụng thực tiễn là khá hạn chế. Vì thế đặt ra
một vấn đề là những quy định sau khi có mặt còn phải được áp dụng trong thực tiễn
nhằm đạt được mục đích và hiệu quả như mong muốn. Đây cũng là một trong những
động lực để giúp nước ta vững càng hơn khi gia nhập nền kinh tế thế giới đồng thời
hoàn thiện những quy định của hệ thống pháp luật trong nước bằng con đường tiếp
thu, kế thừa những quy định trong các điều ước quốc tế.