Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA SỬ DỤNG THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT LÂN HỮU CƠ VÀ CACBAMAT LÊN SỨC KHOẺ NÔNG DÂN TRỒNG LÚA Ở TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.35 KB, 7 trang )

NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA SỬ DỤNG THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT
LÂN HỮU CƠ VÀ CACBAMAT LÊN SỨC KHOẺ NÔNG DÂN TRỒNG LÚA
Ở TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Trần Bình Thắng1 Võ Văn Thắng2 Hoàng Trọng Sĩ 2
Bùi Thức Thắng2, Nguyễn Nhật Châu3, Phan Văn Anh4, Phan Trung Thuấn5
1
Trung Tâm hợp tác QT về NCSKCĐ, ĐH Y Dược Huế
2
Khoa Y tế Công cộng, ĐH Y Dược Huế
3
Trung Tâm Y Tế Dự phòng tỉnh Đồng Nai
4
Trung tâm Sức Khỏe nghề nghiệp Tỉnh Đồng Nai
5
Trường Cao Đẳng Y Tế Cần Thơ
Abstract
Introduction: Organophosphates and carbamates are two common types of pesticides in Vietnam. Prolonged exposure
to pesticides can affect on the health of farmers. Objective: To describe the working conditions of rice-farmers in Thua
Thien Hue province who contact directly pesticides. To estimate the cholinesterase concentrations and other factors
that relate to chronic poisoning of the farmers by organophosphate and carbamate pesticides. Methodology: A
descriptive study was carried out on 300 rice-farmers contacting pesticides directly in three communes in Thua Thien
Hue province. Questionaires about working conditions to pesticides such as type of pesticides, the duration of exposure
to pesticides, the use of personal protective equipment, storage and disposal of pesticides and signs related to
pesticides were interviewed. The concentrations of serum cholinesterase were analyzed by enzyme catalytic method.
Results: On average, rice-farmers use 10 different types of pesticides, consisting of mainly carbamates and
organophosphates. About the working conditions of farmers related to pesticides: duration of exposure to pesticides for
more than 15 years (85.8%), using personal protective equipments when spraying pesticides (83.0%), using mixture of
two or more types of pesticides (70.3%), personal hygiene practices when spraying pesticides: bathing (98.7%), take
off their clothes (86.7%), washing hands with soap (91.0%). There are 23 signs and symptoms that farmers were
recalled after one round of pesticide spray. mainly including fatigue discomfort (55.7%), headache (51.0%), itching
(49.7%), dazzle (38, 3%), dizziness (36.7%) and a lot of sweating (37.0%). Cholinesterase concentration (8364±1310


U/L) in the blood of the control group (n = 30) were higher exposure groups (n= 242) with pesticides (8094±1830
U/L). But this difference was not statistically significant (p> 0.05). There were a relationship between concentrations
of cholinesterase in the blood of farmers with some factors such as: using personal protective equipments, the duration
of exposure to pesticides, the signs of pesticide poisoning of farmers (p < 0.05). Conclusions: Although the use of
pesticides has many advances. long-term exposure to organophosphate and carbamate pesticides may affect the health
of rice farmers significantly.
Keywords: poisoning, pesticides, cholinesterase.

1. Mở đầu
Sử dụng thuốc bảo vệ thực vật là điều kiện tất yếu trong sản xuất nông nghiệp. Chính nhờ
vào hiệu quả diệt trừ sâu bệnh và cỏ dại của thuốc bảo vệ thực vật, trong nhiều năm qua sản lượng
lương thực, đặc biệt là lúa gạo, ở Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới, ngày càng gia tăng.
Tuy nhiên mặt trái của việc sử dụng bảo vệ thực vật như gây ô nhiễm môi trường sống, tồn dư
thuốc bảo vệ thực vật trong cây trồng, gây nhiễm độc cấp và mãn tính cho người sử dụng....Trong
đó, tình trạng nhiễm độc cấp và mãn tính cho người trực tiếp phun thuốc bảo vệ thực vật trong cộng
đồng là điều gây lo lắng nhất. Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy nhiễm độc thuốc bảo vệ thực vật
luôn là vấn đề hàng đầu trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng dân cư nông nghiệp. Trên thế giới ước
tính có khoảng 39 triệu người có thể bị ngộ độc mãn và cấp tính hàng năm do sử dụng thuốc bảo vệ
thực vật trong nông nghiệp. Trong đó có khoảng 3 triệu người bị ngộ độc cấp tính nghiêm trọng và
220 nghìn người tử vong mỗi năm [1]. Song song với số lượng thuốc bảo vệ thực vật sử dụng tăng
là số người ngộ độc thuốc bảo vệ thực vật cũng tăng.
Tình trạng nhiễm độc thuốc bảo vệ thực vật tại Việt Nam vẫn còn nghiêm trọng. Thống kê
sơ bộ tại 38 tỉnh, thành phố, trong năm 2007 đã xảy ra gần 4.700 vụ, với 5.207 trường hợp bị nhiễm
độc thuốc bảo vệ thực vật và 106 người đã tử vong. Năm 2009 có 4.372 vụ nhiễm độc với 4.515
trường hợp, tử vong 138 trường hợp chiếm tỷ lệ 3,05 %. Theo Hà Minh Trung và cộng sự, cả nước
hiện có 11,5 triệu hộ nông nghiệp, số người tiếp xúc nghề nghiệp với thuốc bảo vệ thực vật ít nhất
cũng tới 11,5 triệu người. Với tỷ lệ nhiễm độc thuốc bảo vệ thực vật mạn tính là 18,26 % thì số
người bị nhiễm độc mạn tính trong cả nước có thể lên tới 2,1 triệu người [2].
Mặt khác, theo Chi cục bảo vệ thực vật tỉnh Thừa Thiên Huế, hiện nay ở tỉnh Thừa Thiên
Huế, trên 90% loại thuốc trừ sâu được nông dân sử dụng thuộc nhóm photpho hữu cơ và cacbamat

1


[3]. Song, do người nông dân chưa coi trọng việc sử dụng phương tiện bảo hộ lao động khi phun
thuốc và ít hiểu biết về thuốc trừ sâu đã khiến không ít trường hợp nông dân trực tiếp phun thuốc bị
nhiễm độc mãn tính mà họ không hay biết [4]. Điều này sẽ ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ của nông
dân trực tiếp sản xuất ra lương thực cho chúng ta tiêu dùng. Đây là vấn về đang quan tâm của Đảng
và Nhà nước (nông nghiệp, nông thôn và nông dân). Trong đề tài này chúng tôi muốn tìm hiểu thực
trạng sử dụng, bảo quản, điều kiện lao động khi phun/pha thuốc trừ sâu và ảnh hưởng của thuốc trừ
sâu lên sức khoẻ nông dân, từ đó đề xuất một số giải pháp phòng ngừa nhằm khắc phục những hậu
quả xấu lên sức khoẻ của nông dân. Mục tiêu:
1. Mô tả điều kiện lao động với thuốc trừ sâu của nông dân trồng lúa ở tỉnh Thừa Thiên
Huế
2. Xác định nồng độ cholinesterase trong máu và những yếu tố liên quan ở nông dân trực
tiếp phun thuốc trừ sâu tại địa bàn nghiên cứu.
2. Vật liệu và phương pháp
Chọn 3 huyện chuyên canh tác nông nghiệp tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Ở mỗi huyện chọn 1
xã có tỷ lệ nông dân trồng lúa cao. Tại mỗi xã nghiên cứu, chọn ngẫu nhiên 100 nông dân trực tiếp
phun thuốc trừ sâu vào mẫu nghiên cứu.
Phỏng vấn nông dân trồng lúa về điều kiện lao động với thuốc trừ sâu như: loại thuốc trừ sâu
đã sử dụng, thời gian tiếp xúc với thuốc trừ sâu , số lần phun thuốc/vụ mùa, sử dụng dụng cụ bảo hộ
lao động, kỹ thuật phun thuốc trừ sâu , xử lý bao bì đựng thuốc trừ sâu , xử trí khi bị nhiễm độc
thuốc trừ sâu , dấu hiệu và triệu chứng (nhớ lại của nông dân) sau đợt phun thuốc trừ sâu .
Lấy mẫu máu. Lấy 2mL máu tĩnh mạch, gởi về phòng thí nghiệm ngay, tách lấy huyết
thanh, bảo quản ở -200C trước khi và phân tích cholinesterase. Định lượng cholinesterase bằng
phương pháp động học xúc tác enzym với thuốc thử butyrythiocholine, thực hiện trên máy phân tích
tự động (Roch/Hitachi cobas c 501 analyzer) tại Khoa Sinh hoá Bệnh viện Trung ương Huế. Giá trị
cholinesterase ở người bình thường 6442-11847 U/L. Mức cholinesterase trong máu của nông dân
(n1 = 272) được so sánh với mức cholinesterase của nhóm đối chứng (n 2 = 30) gồm những nông dân
khoẻ mạnh không tiếp xúc với thuốc trừ sâu. Xử lý số liệu bằng phương pháp thống kê với phần

mềm SPSS version 16.0. Sử dụng test χ2 để so sánh 2 hay nhiều tỷ lệ. Chọn mức có ý nghĩa thống
kê: p < 0,05.
3. Kết quả và bàn luận
3.1. Đặc trưng cá nhân
Bảng 1. Đặc trưng cá nhân của mẫu (n = 300)
Biến số
Tần số
Tỷ lệ
Giới
Nam
243
81.0
Nữ
57
19.0
Tuổi
18-30
12
4.0
31-45
91
30.3
46-60
197
65.7
Học vấn
Tiểu học
98
32.7
Trung học cơ sở

141
47.0
Trung học phổ thông
61
20.3
Loại thuốc BVTV đang sử dụng
Trừ sâu
- Diazinon
149
49.7
- Carbofuran
280
93.9
- Buprofezin
182
60.7
Trừ nấm
- Validamycin
214
71.3
- Carbendazim
153
51.0
2


- Furadan
165
55.0
Trừ cỏ

- Butachlor
119
39.7
- Quinclorac
103
34.3
- Padan
165
55.0
Thời gian tiếp xúc với thuốc BVTV
- < 10 năm
33
11.0
- 10-15 năm
23
7.7
- > 15 năm
244
81.3
Số lần phu thuốc BVTV/vụ mùa
- < 6 lần
150
50.0
- 7-9 lần
51
17.0
- > 10 lần
99
33.0
Mẫu nghiên cứu gồm 300 nông dân trực tiếp phun thuốc bảo vệ thực vật, nam giới chiếm

81,% cao hơn nữ giới 19,0%. Có lẽ do công việc phun thuốc BVTV nặng nhọc và độc hại nên phụ
nữ ít tham gia công việc này. Tỷ lệ về giới trong nghiên cứu này phù hợp với nhiều nghiên cứu
trước đây. K’ Vởi và Đỗ Văn Dũng, qua nghiên cứu Kiến thức, thái độ và thực hành về hoá chất
bảo vệ thực vật của người trồng rau tại thành phố Đà Lạt tỉnh Lâm Đồng năm 2008 cho biết, tỷ lệ
nam giới tham gia vào mẫu nghiên cứu chiếm 78,0%, còn lại là nữ giới [4]. Tuổi của nông dân được
phân thành 3 nhóm: 18-30, 31-45 và 46-60. Trong đó, nhóm tuổi 46-60 chiếm tỷ lệ cao nhất
(65,7%). Số nông dân có mức học vấn bậc trung học cơ sở chiểm tỷ lệ cao nhất 40,7%, tiếp đến là
bậc tiểu học chiếm 32,7% và số còn lại đạt mức trung học phổ thông. Địa bàn nghiên cứu là các xã
thuần nông nghiệp. Cây trồng chủ yếu là lúa (87,3%), những loại cây khác như: cây ăn quả, hoa
màu chiếm tỷ lệ thấp hơn. Cây trồng có liên quan đến loại thuốc bảo vệ thực vật do nông dân sử
dụng. Đây là vùng chuyên canh lúa nên các loại thuốc bảo vệ thực vật cũng chỉ sử dụng cho cây lúa
chủ yếu là 2 nhóm: lân hữu cơ, cacbamat và một ít nhóm clo hữu cơ (thuốc diệt cỏ dại và diệt nấm).
Có 10 chủng loại thuốc bảo vệ thực vật hiện đang được nông dân tại địa bàn nghiên cứu sử
dụng trong nông nghiệp. Trong đó, các nhóm được sử dụng nhiều nhất là: Sofid 93,3%; Validacin
71,3%; Padan (60,7%). Các nhóm thuốc Bbảo vệ thực vật này tập trung vào 2 gốc hoá học chính là
cacbamat và photpho hữu cơ. Theo Chi cục bảo vệ thực vật Thừa Thiên Huế và Chi nhánh Công ty
thuốc sát trùng Việt Nam tại Thừa thiên Huế, hiện ở tỉnh Thừa Thiên Huế có khoảng 30 chủng loại
thuốc bảo vệ thực vật khác nhau, với số lượng tiêu thụ khoảng 300-400 tấn [3].
3.2. Điều kiện làm việc của nông dân với thuốc trừ sâu
Bảng 2. Điều kiện làm việc của nông dân với thuốc trừ sâu
Biến số
Tần số
Tỷ lệ
Kỹ thuật pha thuốc bảo vệ thực vật
- Pha thuốc hướng dẫn
264
88.0
- Pha theo kinh nghiệm
73
24.3

- Pha hỗn hợp hai hoặc nhiều loại thuốc
211
70.3
- Chỉ Pha 1 loại thuốc BVTV
50
16.7
Kỹ thuật phun thuốc BVTV
- Phun thuốc BVTV ngược chiều gió
178
59.3
- Mặc quần áo ướt khi phun thuốc BVTV
81
27.0
- Có hút thuốc khi phun thuốc BVTV
5
1.7
- Thuốc BVTV dính vào da khi đi phun thuốc
31
10.3
Loại bảo hộ lao động được dùng khi phun thuốc
- Găng tay
71
23.7
- Ủng
18
6.0
- Khẩu trang
161
53.7
- Áo mưa

249
83.0
Xử lý bao bì đựng thuốc BVTV
- Chôn
68
22.7
3


- Đốt
42
14.0
- Súc rửa dùng lại
7
2.3
- Vứt bỏ ngoài ruộng, vườn
183
61.0
Xử trí khi bị nhiễm độc thuốc BVTV
- Tắm rửa sạch sẽ
141
47.0
- Uống nước đường
119
39.7
- Ăn cháo đậu xanh
20
6.7
- Gây nôn
3

1.0
- Đến cơ sở y tế
92
30.7
Trong nghiên cứu này, tỷ lệ nông dân tuân thủ qui định về số lần phun thuốc bảo vệ thực vật
trên vụ mùa (1-3 lần/vụ mùa) chiếm khá thấp 7,7%. Tỷ lệ nông dân phun 4-6 lần thuốc bảo vệ thực
vật trong một vụ mùa chiếm 42,3%. Và có đến 33,0% nông dân phun trên 10 lần trong một vụ mùa.
Qua trao đổi với nông dân về vấn đề này, họ cho rằng, số lần phun thuốc BVTV trên vụ mùa còn
tuỳ thuộc nhiều yếu tố như: dịch bệnh, sâu rầy, loại cây trồng...nên khó tuân thủ giới hạn 1-3 lần
phun thuốc bảo vệ thực vật/vụ mùa như qui định của ngành bảo vệ thực vật. Mặc dù có 88,0% nông
dân được hướng dẫn pha/phun thuốc, song vẫn còn 24,3% nông dân pha thuốc theo ước chừng và
theo kinh nghiệm; và có đến 70,3% nông dân pha hỗn hợp hai hoặc nhiều loại thuốc bảo vệ thực
vật. Về kỹ thuật phun thuốc bảo vệ thực vật cho thấy một tỷ lệ thấp nông dân chưa tuân thu qui định
của Cục bảo vệ thực vật về phun thuốc bảo vệ thực vật trên đồng ruộng. Vẫn còn 1,7% nông dân
hút thuốc lá khi đi phu thuốc, 27,0% nông dân mặc áo quần ướt khi pha/phun thuốc và 10,3% nông
dân để thuốc BVTV dính vào da khi đi phun thuốc bảo vệ thực vật. Trên đây là những yếu tố thuận
lợi ảnh hưởng đến sức khoẻ của nông dân trong quá trình sử dụng thuốc bảo vệ thực vật. Một thực
tế hiện nay, việc nông dân vứt chai, lọ, bao bì đựng thuốc bảo vệ thực vật bừa bãi ra môi trường khá
phổ biến ở nhiều vùng nông thôn. Chúng tôi nhận thấy, vẫn còn 61,0% nông dân vứt bỏ bao bì đựng
thuốc bảo vệ thực vật ngoài ruộng, vườn; chôn (22,7%), đốt (14,0%) và 2,3% nông dân súc rửa bao
bì đựng thuốc BVTV để tái sử dụng. Kết quả điều tra của Cục Y tế Dự phòng Việt Nam tháng 11
năm 2001 tại các tỉnh Hà Nam, Hà Nội, Thái Nguyên, Hưng Yên... cho thấy tỷ lệ vứt bỏ ngoài vườn
lại khá cao 42,7% chôn dưới đất 38,3%; đốt 18,2%, và còn 1,5% là súc rửa rồi dùng lại [5]. Việc
xử trí khi bị nhiễm độc thuốc bảo vệ thực vật là rất cần thiết và quan trọng đối với nông dân trực
tiếp pha/phun thuốc. Sử dụng đúng phương pháp loại bỏ chất độc, tăng cường chất bổ dưỡng cho cơ
thể, là những vấn đề cơ bản mà nông dân cần nắm vững trong khi sử dụng thuốc BVTV trong nông
nghiệp. Tỷ lệ nông dân dùng các phương tiện để xử trí khi bị nhiễm độc thuốc bảo vệ thực vật như
sau: tắm rửa sạch sẽ (47,0%), uống nước đường (39,7%), ăn cháo đậu xanh (6,7%), gây nôn (1,0%)
và đến cơ sở y tế (30,7%). Tỷ lệ này thấp hơn một ít so với những nghiên cứu trước đây [4].
Bảng 3. Dấu hiệu và triệu chứng liên quan đến nhiễm độc thuốc trừ sâu của nông dân và

mức cholinesterase
Triệu chứng liên quan đến Giá trị ChE thấp hơn Giá trị ChE bình Tổng số mẫu
nhiễm độc thuốc BVTV
bình thường (n=39)
thường (n = 203)
(n = 242)
Mệt mỏi, khó chịu
28 (71,8%)
139 (68,5%)
167 (69,0%)
Ra nhiều mồ hôi
27 (69,2%)
84 (41,3%)
111 (45,9%)
Nhức đầu
26 (66,7%)
82 (40,4%)
108 (44,6%)
Chóng mặt
25 (64,1%)
81 (39,9%)
106 (43,8%)
Hoa mắt
24 (61,5%)
78 (38,4%)
102 (42,1%)
Sẩn da, ngứa
22 (56,4%)
77 (37,9%)
99 (40,9%)

Khô họng
20 (51,3%)
61 (30,0%)
81 (33,5%)
Mất cảm giác mùi vị
20 (51,3%)
39 (19,2%)
59 (24,4%)
Buồn nôn
19 (48,7%)
37 (18,2%)
56 (23,1%)
Nhức mắt
18 (46,2%)
34 (16,7%)
52 (21,5%)
3.3. Dấu hiệu và triệu chứng liên quan đến nhiễm độc thuốc BVTV
Việc chẩn đoán nhiễm độc mãn tính thuốc bảo vệ thực vật gốc photpho hữu cơ và cacbamat
là rất khó khăn, các dấu hiệu lâm sàng phần lớn là chủ quan. Theo y văn dấu hiệu và triệu chứng
nhiễm độc mạn tính thuốc bảo vệ thực vật gốc photpho hữu cơ và cacbamat bao gồm: nhức đầu,
4


choáng váng, cảm giác nặng đầu, nhức thái dương, giảm trí nhớ, dễ mệt mỏi, ngủ không ngon giấc,
ăn kém ngon, chóng mặt. Ở một số trường hợp, có rối loạn tinh thần và trí tuệ, giật nhãn cầu, run
tay và một số triệu chứng rối loạn thần kinh khác [6]. Trong nghiên cứu này, qua phỏng vấn (dưới
hình thức nhớ lại) nông dân về những dấu hiệu và triệu chứng sau một đợt đi phun thuốc BVTV,
chúng tôi ghi nhận được 23 dấu hiệu/triệu chứng mà nông dân trực tiếp phun/pha thuốc báo cáo lại.
Trong đó những dấu hiệu, triệu chứng chiếm tỷ lệ cao là: mệt mỏi khó chịu (55,7%); nhức đầu
(51,0%); sẩn da, ngứa (49,7%); hoa mắt (38,3%); chóng mặt (36,7%) và ra nhiều mồ hôi (37,0%).

Phạm Bích Ngân và Đinh Xuân Thắng [7], qua phỏng vấn nông dân trồng rau tại ngoại
thành TP.Hồ Chí Minh (2006) đã ghi nhận được 20 dấu hiệu/triệu chứng nhiễm độc mãn tính thuốc
BVTV, trong đó một số người có dấu hiệu nhiễm độc mãn tính với tỷ lệ cao như sau: mệt mỏi khó
chịu (87,7%), đau đầu (66,4%), ra nhiều mồ hôi (50,3%), chóng mặt (85,2%), da ngứa mẩn đỏ
(41,3%), rối loạn giấc ngủ (36,8%), buồn nôn (43,8%), da tái xanh (45,8%). Nghiên cứu của
Nguyễn Tuấn Khanh (2010) về ảnh hưởng của thuốc BVTV lên sức khoẻ người chuyên canh chè ở
Thái nguyên cho biết, tỷ lệ nông dân còn nhớ các dấu hiệu ảnh hưởng lên sức khoẻ sau đợt
pha/phun thuốc BVTV như sau: chóng mặt (78,4%), mệt mỏi (77,9%), đau đầu (73,1%), mất ngủ
(33,8%), ngứa da (23,1%), nhìn mờ (43,1%) [5].
Nghiên cứu của Aunu Rauf [8] ở Indonesia trên đối tượng nông dân trồng cải bắp có sử
dụng thuốc BVTV gốc lân hữu cơ và cacbamat, cho biết nông dân bị nhiễm độc mãn tính với các
dấu hiệu như sau: nhức đầu (78,6%), mệt mỏi (16,0%), ngứa da (24,0%), mắt nhìn mờ (20,0%) đau
dạ dày (16,0%). Susmita Dasgupta, Nhan Thi Lam, Khuc Xuyen và cộng sự qua nghiên cứu tình
hình nhiễm độc thuốc BVTV lân hữu cơ và cacbamat ở nông dân trồng lúa Đồng bằng sông Cửu
Long (2005) cho biết có 21,0% nông dân bị nhiễm độc mãn tính với dấu hiệu/triệu chứng như sau:
da kích thích (62,5%), nhức đầu (60,0%), kích thích mắt (56,7%), chóng mặt (52,4%%), khó thở
(46,6%) [9]. Nghiên cứu của Aftab Turabi và cộng sự [10], về tiếp xúc mãn tính với thuốc BVTV
lẫn hữu cơ ở người dân sống gần vùng canh tác nông nghiệp ở Karachi (Pakistan) cho biết 59,1%
người dân giảm sự thèm ăn, 45,8% đau bụng, 41,8% tiêu chảy. Neice Müller, Xavier Faria và cộng
sự qua nghiên cứu tình hình nhiễm độc thuốc BVTV lân hữu cơ ở gia đình nông dân trồng trái cây ở
Brazil, tác giả cho biết người dân còn nhớ lại được 21 dấu hiệu/triệu chứng liên quan đến tiếp xúc
mãn tính với thuốc BVTV lân hữu cơ, trong đó những dấu hiệu/triệu chứng chiếm tỷ lệ cao như sau:
kích ứng mắt (27,5%), nhức đầu (13,6%), da dị ứng (7,3%), chóng mặt (3,8%), ra nhiều mồ hôi
(9,8%), tiêu hoá khó (3,%), nôn mữa (5,6%), đau bụng (5,1%) [11].
3.4. Nồng độ cholinesterase và yếu tố liên quan
Bảng 4. Nồng độ cholinesterase huyết thanh
Nhóm nghiên cứu
Giá trị cholinesterase (U/L)
Trung bình
Trung Cực tiểu-cực đại

Số mẫu có mức
vị
cholinesterase thấp hơn
khuyến cáo (6442 U/L)
Nhóm tiếp xúc (n =242) 8053 ± 1830 7565
5546-13621
39 (16.1%)
Nhóm so sánh (n=30)
6558-11874
100%
8364 ± 1310 8026
Lân hữu cơ và cacbamat là 2 nhóm thuốc BVTV ức chế mạnh enzym cholinesterase. Enzym
này có nhiệm vụ phân giải chất dẫn truyền thần kinh acetylcholine. Cơ chế bệnh sinh quan trọng
nhất đối với lân hữu cơ là ức chế enzym cholinesterase không hồi phục do enzym cholinesterase bị
photphoryl hoá. Hậu quả là làm ứ đọng acetylcholin gây rối loạn dẫn truyền hệ cholinergic.
Trong nghiên cứu này chúng tôi nhận thấy có 39 mẫu huyết thanh của nông dân có nồng độ
cholineterase thấp hơn giá trị khuyến cáo (6442 U/L), chiếm tỷ lệ 16,1%. Nồng độ cholinesterase
trong huyết thanh của nhóm đối chứng (không tiếp xúc với thuốc BVTV) cao hơn nồng độ của nông
dân phun thuốc BVTV. Tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Theo y
văn nồng độ cholinesterase trong máu thường liên quan đến nhiều yếu tố như: bệnh tật (gan,
glaucoma, Alzheimer, suy dinh dưỡng..), giới, biến đổi từ cá thể này đến cá thể khác....đặc biệt là
thời gian ngừng tiếp xúc với thuốc trừ sâu. Thường với thời gian sau 2 tuần, nếu ngưng tiếp xúc với
nhóm lân hữu cơ thì men cholinesterase trong cơ thể bắt đầu phục hồi chậm. Trong nghiên cứu này,
mẫu được chọn ngẫu nhiên, nên rất nhiều nông dân đã ngưng phun thuốc BVTV với thời gian sau 2
5


tuần, chính vì thế, tỷ lệ mẫu huyết thanh có nồng độ cholineterase giảm (16,1%) ít hơn so với những
nghiên cứu khác. Nghiên cứu của Dilshad A Khan và cộng sự (2008) [12] cho kết quả như sau: giá
trị trung bình cholineterase của nông dân trồng thuốc lá (5596UI/L) giảm đáng kể so với nhóm

chứng (6821UI/L). Suphan Soogarun và cộng sự (2003) nghiên cứu nồng độ cholineterase trong
huyết tương của 35 nông dân trồng rau ở Chiang Mai-Thái Lan (và nhóm chứng gồm 35 người dân
khoẻ mạnh sinh sống ở Bangkok) cho biết nồng độ cholineterase trung bình của nhóm nông dân
trồng rau (17700±7000 UI/L) thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p < 0,01) so với nồng độ cholineterase
ở nhóm chứng (24700± 12400 UI/L) [13]. Prasit Kachaiyaphum và cộng sự (2010) đã đánh giá
cholineterase huyết thanh trên 350 nông dân trồng ớt huyện Chatturat, tỉnh Chaiyaphum-Thái Lan
cũng cho biết có 32,0% mẫu nghiệm có giá trị cholineterase bất bình thường; có sự liên quan giữa
nồng độ cholineterase huyết thanh với những dấu hiệu liên quan đến nhiễm độc mãn tính lân hữu cơ
ở nông dân trồng ớt ở địa phương nghiên cứu [14].
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự với nghiên cứu của Nguyễn Văn Tư và cộng sự
(2004). Theo đó, qua nghiên cứu nồng độ cholineterase trong huyết thanh của 60 nông dân chuyên
canh chè ở Thái Nguyên [15] tác giả cho biết giá trị trung bình cholineterase của nông dân trồng chè
ở 2 huyện Sông Cầu (4988,50±1372,41U/L) và Minh Lập (5128,80±1423,45U/L) thấp hơn so với
nhóm chứng (30 công nhân nhà máy X79) 5839,67±1411,60UI/L, (p > 0,05). Mặc dù số mẫu
nghiên cứu còn hạn chế, tuy vậy, trong nghiên cứu này chúng tôi vẫn nhận thấy có sự liên quan giữa
nồng độ cholinesterase trong huyết thanh của nông dân với những yếu tố như: sử dụng bảo hộ lao
động, thời gian tiếp xúc với thuốc BVTV, dấu hiệu (nông dân còn nhớ lại, sau đợt phun thuốc
BVTV) liên quan đến nhiễm độc thuốc BVTV lân hữu cơ và cacbamat (p < 0,05).
4. Kết luận
Mặc dù có một tỷ lệ cao nông dân trồng lúa tại địa bàn nghiên cứu tuân thủ những điều kiện
an toàn khi sử dụng thuốc BVTV. Tuy nhiên tiếp xúc lâu dài với thuốc trừ sâu vẫn ảnh hưởng lên
sức khoẻ nông dân trực tiếp pha/phun thuốc BVTV. Nồng độ cholinesterase trong máu của nông
dân tiếp xúc với thuốc BVTV thấp hơn nhóm không tiếp xúc và những dấu hiệu, triệu chứng mà
nông dân còn nhớ lại sau đợt phun thuốc BVTV là những bằng chứng về ảnh hưởng của sử dụng
thuốc BVTV photpho hữu cơ và cacbamat lên sức khoẻ nông dân.
Tài liệu tham khảo
[1]. Cục Y tế dự phòng và Môi trường (2010), "Báo cáo công tác y tế lao động, bệnh nghề nghiệp
năm 2009, hội nghị tổng kết công tác Y tế lao động, bệnh nghề nghiệp năm 2009, triển khai
công tác năm 2010", Bộ Y tế, Hà Nội.
[2]. Hà Minh Trung và Cs (2000), Nghiên cứu ảnh hưởng của hoá chất độc hại dùng trong nông

nghiệp tới sức khoẻ con người, các biện pháp khắc phục, Đề tài cấp Nhà nước 11-08, Bộ NN &
PTNN.
[3]. Công ty Cổ phẩn Thuốc sát trùng Việt Nam (2007), Sổ tay sử dụng nông dược, Nhà xuất bản
nông nghiệp.
[4]. K’Vởi, Đỗ Văn Dũng (2008), “Kiến thức, thái độ, thực hành về hóa chất bảo vệ thực vật của
người dân trồng rau tại Thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng năm 2008”, Tạp chí Y học TP. Hồ Chí
Minh, tập 14, số1 năm 2010, trang 109-115.
[5]. Nguyễn Tuấn Khanh (2010), Đánh giá ảnh hưởng của sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật đến
sức khỏe người chuyên canh chè tại Thái Nguyên và hiệu quả của các biện pháp can thiệp, Luận án
tốt nghiệp Tiến sĩ Y học, Trường Đại học Thái Nguyên.
[6]. Prakash, D (2008), Pseudocholinesterase Diagnostic and Pronostic value in
Organophosphorus Poisoning, Dissertation submitted to the Rajiv Gandhi University of Health
Sciences, Karnataka, Bangalore.
[7]. Phạm Thị Bích Ngân, Đinh Xuân Thắng (2006), “Nghiên cứu ảnh hưởng của hóa chất trừ sâu
đến sức khỏe của nông dân vùng chuyên canh rau TP. Hồ Chí Minh”, Tạp chí phát triển khoa học
và công nghệ, số 2, tập 9, tr: 72-80.

6


[8]. Aunu Rauf, Djoko Prijono et al (2004), “Survey of pest control pratices of carbage farmers in
west Java, Indonesia, Cabbage Pest Control Survey Report”, Department of Plant Pests and
Diseases, Bogor Agricultural University, Indonesia.
[9]. Susmita Dasgupta, Craig Meisner, David Wheeler, Nhan Thi Lam, Khuc Xuyen (2005).
Pesticide poisoning of farm workers: implications of blood test results from Vietnam, World Bank
Policy Research Working Paper 2005; 3624.
[10]. Aftab Turabi, A. Danyal et al (2007), “Evaluation of suspected chronic pesticide poisoning
among residents near agriculture fields”, Biomedica, Vol 23, pp: 77-82.
[11]. Neice Müller Xavier Faria et al (2009), “Poisoning by pesticides among family fruit farmers,
Bento Gonçalves, Southern Brazil”, Rev Saúde Pública, No 43, Vol 2, pp: 1-10.

[12]. Dilshad A Khan, Mahwish M Bhatti et al (2000), “Adverse Effects of Pesticides Residues on
Biochemical Markers in Pakistani Tobacco Farmers”, J Clin Exp Med, No 1, pp:274-282.
[13]. Suphan Soogarun, Viroj Wiwanitkit and Jamsai Suwansaksri (2003), “Report on Blood
cholineterase among vegetable growers”, Southeast Asian J Trop Med Public Health, Vol 34 No 3,
pp: 687-689.
[14]. Prasit Kachaiyaphum, Nopporn Howteerakul et al (2010), “Serum Cholinesterase Levels of
Thai Chilli-Farm Workers Exposed to Chemical Pesticides: Prevalence Estimates and Associated
Factors”, J Occup Health, No 52: pp 89-98.
[15]. Nguyễn Văn Tư, Lô Thị Hồng Lê (2004), “Nghiên cứu một số chỉ số huyết học và hoạt tính
enzym cholinesterase của người canh tác chè tại Sông Cầu, Minh Lập, huyện Đồng Hỷ, Thái
Nguyên”, Tạp chí Sinh lý học Việt Nam, tập 8, số 2, tr: 25-27.

7



×