Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật theo luật tố tụng hình sự việt nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh đắk lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (445.64 KB, 19 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

V VN T

NGUYÊN TắC BảO ĐảM QUYềN BìNH ĐẳNG CủA MọI CÔNG DÂN
TRƯớC PHáP LUậT THEO LUậT Tố TụNG HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2015


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

V VN T

NGUYÊN TắC BảO ĐảM QUYềN BìNH ĐẳNG CủA MọI CÔNG DÂN
TRƯớC PHáP LUậT THEO LUậT Tố TụNG HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: GS. TS NGC QUANG

H NI - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn
đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất
cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo
quy định của Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội.
Vậy, tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Vũ Văn Tú


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC BẢO
ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA MỌI CÔNG DÂN
TRƯỚC PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ............... 5
1.1.

Những khái niệm có liên quan ........................................................ 5


1.1.1.

Khái niệm bình đẳng và quyền bình đẳng của mọi công dân
trước pháp luật ................................................................................... 5

1.1.2.

Khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công
dân trước pháp luật ............................................................................ 9

1.2.

Cơ sở pháp lý và nội dung của nguyên tắc bảo đảm quyền
bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật trong tố tụng
hình sự.......................... ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.

1.2.1.

Cơ sở pháp lý hình thành nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng

của mọi công dân trước pháp luật trong tố tụng hình sựERROR! BOOKMAR
1.2.2.

Nội dung của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi
công dân trước pháp luật trong tố tụng hình sựERROR! BOOKMARK NOT

Chương 2: TÌNH HÌNH XÂY DỰNG VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ THEO NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM
QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA MỌI CÔNG DÂN TRƯỚC

PHÁP LUẬT ............... ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.


2.1.

Tình hình xây dựng pháp luật tố tụng hình sự theo nguyên tắc

bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luậtERROR! BOOK
2.1.1.

Những kết quả trong xây dựng pháp luật tố tụng hình sự có liên

quan đến bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luậtERROR! BOOKM
2.1.2.

Những tồn tại trong xây dựng pháp luật tố tụng hình sự có liên

quan đến bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luậtERROR! BOO
2.2.

Tình hình thực thi pháp luật tố tụng hình sự theo nguyên tắc

bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luậtERROR! BOOK
2.2.1.

Những kết quả trong thực thi pháp luật tố tụng hình sự có liên

quan đến bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luậtERROR! BOO
2.2.2.


Những tồn tại trong thực thi pháp luật tố tụng hình sự có liên

quan đến bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luậtERROR! BOO
2.2.3.

Những nguyên nhân gây nên những tồn tại trong thực hiện
nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước
pháp luật........................ ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.

Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
HIỆN NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG

CỦA MỌI CÔNG DÂN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC PHÁP LUẬTERROR! BOOK
3.1.

Quan điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước về thực hiện
nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân

trước pháp luật theo tinh thần cải cách tư phápERROR! BOOKMARK NO
3.2.

Giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự liên quan
đến nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công
dân trước pháp luật .... ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.

3.3.

Các giải pháp khác...... ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.

KẾT LUẬN ................................. ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 11


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS:

Bộ Luật hình sự

BLTTHS:

Bộ Luật tố tụng hình sự

VKSNDTC:

Viện Kiểm sát nhân dân tối cao


DANH MỤC BẢNG
Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1. Số lượng vụ án hình sự được điều tra, truy

ERROR!

tố, xét xử từ năm 2010 đến 2014


BOOKMARK
NOT
DEFINED.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Điều 14 Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị năm 1966 (International
Covenant on Civil and Political Rights - ICCPR) đã ghi nhận:
Mọi người đều bình đẳng trước các tòa án và cơ quan tài
phán. Mọi người đều có quyền được xét xử công bằng và công khai
bởi một tòa án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập
ra trên cơ sở pháp luật để quyết định về lời buộc tội người đó trong
các vụ án hình sự, hoặc để xác định quyền và nghĩa vụ của người đó
trong các vụ kiện dân sự… [10].
Đây là cơ sở cao nhất về quyền bình đẳng trước pháp luật được ghi nhận
trong một trong những văn kiện quốc tế nền tảng về quyền con người. Trong
pháp luật Việt Nam, quyền bình đẳng trước pháp luật trong hoạt động tố tụng
hình sự là một nội dung của quyền bình đẳng trước pháp luật - một quyền đã
được Hiến pháp Việt Nam ghi nhận tại Khoản 1 Điều 16 Hiến pháp năm
2013. Quyền bình đẳng trước pháp luật và cụ thể là bình đẳng trong hoạt động
xét xử và tố tụng hình sự được hiểu là quyền bình đẳng trong việc đưa ra các
chứng cứ, đưa ra các yêu cầu tranh luận trước tòa án và phải được tòa án tôn
trọng, tạo điều kiện. Điều 19 Bộ luật Tố tụng hình sự (Bộ luật TTHS) quy
định về bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án như sau:
Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi
của đương sự đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ,

tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Toà án.
Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền đó
nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án [17, Điều 19].

1


Để bảo đảm được quyền bình đẳng trước tòa án, trong quá trình xét xử, người
tiến hành tố tụng phải thực sự khách quan, điều khiển phiên tòa đúng quy định
của pháp luật, không được thiên vị hay gây trở ngại cho bất cứ bên nào. Tuy
nhiên những vụ việc gây xôn xao dư luận gần đây liên quan tới hành vi vi
phạm nguyên tắc hiến định này trong hoạt động tố tụng hình sự cho thấy thực
tiễn thực thi và kiểm sát tư pháp liên quan tới nguyên tắc này hiện nay vẫn còn
nhiều bất cập, chưa thực sự tạo ra niềm tin, tính thuyết phục của các phán quyết
của cơ quan xét xử và thực thi pháp luật. Với lý do trên, tác giả mạnh dạn lựa
chọn đề tài luận văn: “Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công
dân trước pháp luật theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở số
liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)”, để tiến hành nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan tới nguyên tắc bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật
trong tố tụng hình sự, có thể kể tới một số công trình nghiên cứu khoa học có
ý nghĩa lý luận như: Luận án Tiến sĩ Luật học “Nguyên tắc tranh tụng trong tố
tụng hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của TS. Nguyễn
Văn Hiển, Học viện Khoa học xã hội, năm 2011; Luận án Tiến sĩ Luật học
“Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trong xét xử hình sự ở Việt Nam
hiện nay” của TS. Hoàng Hùng Hải, Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia
Hồ Chí Minh, năm 2012; Luận văn Thạc sĩ Luật học “Địa vị pháp lý của
người bào chữa trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, những vấn đề lý luận
và thực tiễn” của TS Đỗ Đình Nghĩa, năm 2004…cùng nhiều công trình
nghiên cứu có giá trị khác.

Tuy nhiên, thực tế các công trình nghiên cứu trực tiếp về nguyên tắc
bình đẳng trước pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự hiện này còn hiếm
hoi, cơ sở dữ liệu lí luận và thực tiễn còn hạn chế nên phạm vi nghiên cứu của
đề tài sẽ góp phần đào sâu các nội dung lí luận liên quan để bổ sung vào kho
lí luận phong phú trong lĩnh vực tố tụng hình sự Việt Nam.

2


3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi, phương pháp nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các khía cạnh lí luận về nguyên tắc bảo
đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật trong pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam thông qua quá trình phân tích, làm rõ nội dung nguyên
tắc trong từng giai đoạn tố tụng, áp dụng với từng đối tượng chủ thể tham gia
tố tụng, các quy định pháp luật cụ thể được áp dụng trong quy trình tố tụng.
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu và tham khảo các ví dụ thực tiễn liên quan, các
trường hợp vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc “bảo vệ quyền bình đẳng của
mọi công dân trước pháp luật” trong quá trình tiến hành tố tụng cũng là một
mục đích của luận văn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, hệ thống hoá các công trình khoa học của các
tác giả đi trước có liên quan đến đề tài luận văn, tác giả kế thừa có chọn lọc và
phát triển ý tưởng khoa học, từ đó đưa ra những luận điểm của mình về vấn
đề nghiên cứu. Nhiệm vụ nghiên cứu mà luận án hướng tới cụ thể sau:
Một là, làm rõ những nội hàm lí luận của nguyên tắc “bảo vệ quyền bình
đẳng của mọi công dân trước pháp luật” trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Hai là, phân tích và làm rõ thực tiễn tố tụng áp dụng nguyên tắc “bảo
vệ quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật”.
Ba là, trên cơ sở lí luận và thực tiễn để khái quát các nội dung liên quan

và đề xuất các cơ chế để thực hiện nghiêm túc nguyên tắc “bảo vệ quyền bình
đẳng của mọi công dân trước pháp luật” trong pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam thời gian tới.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các lí luận về nguyên tắc “bảo vệ quyền
bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật” trong pháp luật tố tụng hình sự.
Đồng thời, luận văn cũng nhấn mạnh những quy định pháp luật tố tụng hình

3


sự liên quan tới các nội dung của nguyên tắc “bảo vệ quyền bình đẳng của
mọi công dân trước pháp luật”.
3.4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được hoàn thành trên cơ sở vận dụng các phương pháp luận
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lê nin và quan điểm
của Đảng cộng sản Việt Nam. Luận văn cũng sử dụng những phương pháp
nghiên cứu luật học truyền thống như phương phương pháp phân tích, phương
pháp tổng hợp, pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử, tư
duy logic, phương pháp quy nạp, diễn giải… nhằm làm sáng tỏ nội dung và
phạm vi nghiên cứu của đề tài.
4. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Với cơ sở và thành quả lí luận và thực tiễn được nghiên cứu, luận văn
mong muốn đóng góp những kết quả khái qua tổng quan cũng như cung cấp
những khía cạnh lí luận mới liên quan tới nguyên tắc “bảo vệ quyền bình
đẳng của mọi công dân trước pháp luật” trong pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam. Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu khoa học
tham khảo, tài liệu giảng dạy hoặc cơ sở tham khảo phục vụ công tác nghiên
cứu khoa học hoặc tham vấn lập chính sách và xây dựng pháp luật.
5. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
có 3 chương:
Chương 1.

Những vấn đề chung về nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng của mọi công dân trước pháp luật trong tố tụng hình sự.

Chương 2. Tình hình xây dựng và thực thi pháp luật tố tụng hình sự
theo nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công
dân trước pháp luật.
Chương 3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc bảo
đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật
trong tố tụng hình sự.

4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM
QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA MỌI CÔNG DÂN
TRƯỚC PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Những khái niệm có liên quan
1.1.1. Khái niệm bình đẳng và quyền bình đẳng của mọi công dân
trước pháp luật
Bình đẳng trước pháp luật là những nguyên lý của pháp luật được thể
hiện qua các quy phạm pháp luật về quyền được đối xử một cách như nhau,
công bằng giữa mọi công dân trước pháp luật, theo đó, mọi công dân thuộc
các dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội khác nhau trong
một quốc gia đều không bị phân biệt đối xử trong việc hưởng quyền, nghĩa vụ
và chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật.

Lý tưởng bình đẳng dựa trên nguyên lý căn bản là con người sinh ra
đều như nhau, đều có chung dòng máu đỏ và nước mắt mặn và đều xứng đáng
được hưởng quyền lợi như nhau. Mọi ranh giới như: giai cấp, màu da, chủng
tộc, giới tính, trình độ, địa vị … không thể quyết định và thay đổi bản chất
bình đẳng giữa mọi người. Qua đó cho thấy “bình đẳng” là một nguyên lý căn
bản được chấp nhận bởi mọi quốc gia, mọi dân tộc. “Bình đẳng” là một khái
niệm chung của cả nhân loại, nó hướng đến việc khẳng định quyền lợi ngang
nhau của mọi người, mọi đối tượng, mọi nhóm người trong xã hội. Bình đẳng
là mục tiêu phấn đấu của mọi dân tộc, mọi xã hội tiến bộ và là lý tưởng chung
của mọi cuộc cách mạng trên thế giới. Bình đẳng có nghĩa là bình đẳng về cơ
hội, nghĩa là mọi người đều được tạo một cơ hội như nhau để phấn đấu và
vươn lên trong xã hội, nếu ai nỗ lực nhiều hơn, học giỏi hơn, làm việc hiệu
quả hơn, tất nhiên sẽ thu được nhiều lợi ích hơn. Hơn nữa, bình đẳng cũng

5


bao gồm cả việc tạo điều kiện cho những nhóm người có khó khăn hơn như
người nghèo, người già, trẻ em, người tàn tật, dân tộc thiểu số, người ở vùng
sâu vùng xa… giảm bớt những khó khăn của họ. Bình đẳng, là nền tảng, cơ sở
và là nguyên lý cơ bản của mọi thiết chế xã hội, mọi quy định, luật lệ. Xã hội
càng tiến bộ thì tính bình đẳng giữa mọi công dân càng cao. Trong một xã hội
dân chủ pháp trị, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, kể cả tổng
thống, nếu vi phạm pháp luật cũng phải ra tòa như một thường dân. Bình đẳng
là mục tiêu ban đầu và lâu dài của mọi nỗ lực xây dựng xã hội, là thước đo
trình độ văn minh và tiến bộ của một đất nước. Theo Ths. Đinh Thế Hưng Viện Nhà nước và Pháp luật, bình đẳng là cội nguồn của tự do còn pháp luật
là sự giới hạn cần thiết cho cả tự do và bình đẳng. Bình đẳng được xét dưới
hai góc độ là bình đẳng thực tế và bình đẳng pháp lý. Mác đã nói: “Về bản
chất, pháp luật chỉ có thể là sự vận dụng một đại lượng ngang bằng với
những người khác nhau”. Đại lượng ngang bằng ở đây là pháp luật. Bởi lẽ,

các giá trị về bình đẳng trong mọi lĩnh vực của cuộc sống được xã hội thông
qua nhà nước và thể chế hóa thành pháp luật. Trong cùng một điều kiện như
nhau, công dân được hưởng quyền và nghĩa vụ như nhau, có tư cách pháp lý
như nhau. Bình đẳng về trách nhiệm pháp lí là bất kỳ công dân nào vi phạm
pháp luật đều bị xử lí bằng các chế tài theo quy định của pháp luật. Như vậy
có thể hiểu, bình đẳng là sự ngang nhau về quyền và nghĩa vụ của mọi công
dân trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Khi nói đến quyền bình đẳng của mọi công dân là nói đến sự ghi nhận
quyền này trong pháp luật. Pháp luật trở thành thước đo mang tính chuẩn mực
cho sự bình đẳng bởi đỉnh cao nhất của các hệ thống lập pháp quy gọn vào hai
mục tiêu: Tự do và bình đẳng. Quyền bình đẳng là thành quả đấu tranh lâu dài
của nhân loại tiến bộ qua các thời kì lịch sử khác nhau, là một quyền cơ bản
của mọi công dân, cũng là một trong những nguyên tắc cơ bản được thể chế

6


hóa trong nhiều văn kiện quốc tế và quốc gia. Điều 6 và Điều 7 Tuyên ngôn
nhân quyền năm 1948 tuyên bố “Mọi người đều có quyền được công nhận tư
cách là con người trước pháp luật ở mọi nơi”. “Mọi người đều bình đẳng
trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có
bất cứ sự phân biệt nào”. Điều 26 Công ước về quyền dân sự, chính trị năm
1966 của Liên Hợp quốc (Việt Nam gia nhập Công ước này ngày 24/9/1982)
cụ thể hóa hơn về cơ chế bảo vệ quyền bình đẳng trước pháp luật như sau:
Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và có quyền được
pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân
biệt đối xử nào. Về mặt này, pháp luật phải nghiêm cấm mọi sự
phân biệt đối xử và đảm bảo cho mọi người sự bảo hộ bình đẳng và
có hiệu quả chống lại những phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da,
giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm

khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân
hoặc các địa vị khác [10, Điều 26].
Dưới góc độ pháp lý, quyền con người trong đó có quyền bình đẳng trước
pháp luật là một quan hệ pháp luật mà mỗi bên tham gia quan hệ đó đều có
quyền và nghĩa vụ pháp lý. Quan hệ về bình đẳng chỉ được xác lập trên cơ sở
của tự do và tự nguyện. Khi giải thích về quyền bình đẳng trước pháp luật, Lênin
cho rằng: “Khi những người theo chủ nghĩa xã hội nói về bình đẳng thì có nghĩa
là sự bình đẳng mang tính xã hội, bình đẳng về địa vị xã hội chứ không phải sự
bình đẳng về khả năng thể chất hoặc tinh thần”. Từ đó có thể thấy, quyền bình
đẳng trước pháp luật là quyền tự nhiên của con người trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội và nó phải được ghi nhận và bảo vệ bằng pháp luật.
Ở Việt Nam, câu đầu tiên trong Tuyên ngôn độc lập của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa khẳng định: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền
bình đẳng”. Ý tưởng về sự bình đẳng này được trích dẫn từ tuyên ngôn độc

7


lập của Mỹ và Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng
Pháp. Thực tế, quyền bình đẳng trước pháp luật được ghi nhận nhất quán
trong các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và 1992 – đạo luật có giá trị
pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp lý Việt Nam. Điều 6, 7 Hiến pháp năm
1946 – bản hiến pháp đầu tiên sau ngày độc lập với nhiều tư tưởng lập hiến
tiến bộ của Hồ Chủ tịch có quy định:
Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương
diện: chính trị, kinh tế, văn hóa”. “Tất cả công dân Việt Nam đều bình
đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc
kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình [13, Điều 6,7].
Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001 tiếp tục khẳng định “Công dân
có quyền bình đẳng trước pháp luật” (Điều 51). Trước xu thế hội nhập quốc tế,

Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã được sửa đổi, bổ sung phù hợp, với những
điểm mới quan trọng, nổi bật là đề cao quyền con người. Cụ thể Hiến pháp sửa
đổi năm 2013 đã quy định quyền con người tách khỏi quyền công dân và được
quy định tại Chương II - Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân. Theo đó, nội dung của nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật được quy
định tại Điều 16 “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân
biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”.
So với các quy định của các bản Hiến pháp trước đây thì quy định Hiến
pháp sửa đổi năm 2013 về quyền bình đẳng trước pháp luật được thể hiện đầy
đủ, cụ thể hơn. Hiến pháp sửa đổi năm 2013 khẳng định bình đẳng trước pháp
luật là quyền con người theo hướng mở rộng đối tượng có quyền bình đẳng
trước pháp luật; khẳng định quyền bình đẳng trước pháp luật của mọi người
được công nhận trong tất cả lĩnh vực, bao gồm đời sống chính trị, dân sự, kinh
tế, văn hóa, xã hội. Pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng, không phân biệt đối
xử đối với mọi người trong việc hưởng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ

8


do “Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác” (Điều 15 khoản
2). Công dân ở bất kỳ địa vị nào dù là cán bộ, công chức hay người lao động,
dù là người có chức, có quyền hay là một người dân bình thường đều phải
chịu trách nhiệm trước nhà nước, trước pháp luật về mỗi hành vi, mỗi việc
làm của mình. Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật. Công
dân có hành vi vi phạm pháp luật đều bị xử lý bằng các chế tài theo quy định
của pháp luật không phân biệt chức vụ, nghề nghiệp, tuổi tác và địa vị xã hội.
Như vậy, quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật là bình
đẳng về quyền, nghĩa vụ của công dân theo quy định của pháp luật, bao hàm
cả việc bình đẳng về trách nhiệm pháp lý của công dân mà không có sự phân

biệt về giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội, lứa
tuổi, chức vụ, nghề nghiệp.
1.1.2. Khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công
dân trước pháp luật
Nguyên tắc, theo từ điển Tiếng Việt được hiểu là “những quy định,
phép tắc, tiêu chuẩn làm cơ sở để làm việc, xem xét” [26]. Tuy nhiên nguyên
tắc trong tố tụng còn có những cách hiểu khác nhau. Có quan điểm cho rằng:
Những nguyên tắc của luật tố tụng hình sự là kinh chỉ nam
cho mọi hoạt động tố tụng và được quy định trực tiếp trong Bộ luật
tố tụng hình sự. Chính vì vậy, nói đến nguyên tắc của luật tố tụng
hình sự phải hiểu đó là những nguyên tắc của một ngành luật độc
lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Những nguyên tắc này
không chỉ định hướng cho hoạt động tố tụng hình sự, mà còn cho
hoạt động xây dựng pháp luật tố tụng hình sự trong thực tiễn [24].
Do vậy, trong các giáo trình Luật tố tụng hình sự của một số trường
luật và khoa luật đều đặt với cái tên là: "Những nguyên tắc cơ bản của Luật tố
tụng hình sự.

9


Quan điểm khác không đồng ý với nội dung của quan điểm thứ nhất về
cách gọi những nguyên tắc này là:
Những nguyên tắc của luật tố tụng hình sự, mà là Những
nguyên tắc của tố tụng hình sự, với lý do, trong thực tiễn và ngay cả
trong sách báo pháp lý, cho đến nay vẫn không ít người sử dụng
khái niệm các nguyên tắc của luật tố tụng hình sự. Sự nhầm lẫn này
bắt nguồn từ việc coi tố tụng hình sự và pháp luật tố tụng hình sự là
một. Trong lúc đó thì chính nguyên tắc tố tụng hình sự lại chính là
tiền đề, là căn cứ để xây dựng luật pháp tố tụng hình sự chứ không

phải ngược lại [24].
Như vậy, đang tồn tại hai cách hiểu về "Những nguyên tắc cơ bản"
được quy định tại Chương 2 Bộ luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên, để hiểu như
thế nào cho đúng về hệ thống những nguyên tắc cơ bản này cần thiết xác định
vị trí của các điều luật này trong Bộ luật tố tụng hình sự, với tư cách là một
văn bản pháp luật nói chung. Chúng tôi đồng ý với quan điểm thứ hai vì,
trước tiên, nguyên tắc là những quy định, phép tắc, tiêu chuẩn làm cơ sở để
làm việc, xem xét. Những nguyên tắc trong pháp luật bao giờ cũng là sự thể
hiện hệ thống quan điểm của nhà nước về pháp luật nói chung. Dựa trên
những quan điểm này, các quy phạm pháp luật trong một văn bản luật được
soạn thảo nhằm đạt được những mục tiêu nhất định.
Tiếp theo, hoạt động tố tụng hình sự và pháp luật tố tụng hình sự là hai
phạm trù khác nhau. Hoạt động tố tụng hình sự bao gồm hoạt động khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự của những người tiến hành tố tụng. Còn
pháp luật tố tụng hình sự là hệ thống những văn bản pháp luật tố tụng bao
gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh những hành vi tố tụng của những
người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng trong quá trình khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Điều đó có nghĩa rằng, hệ thống

10


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

H.Giang (2014), Phòng, chống oan, sai trong tố tụng hình sự: Điểm đến
của cải cách tư pháp, Chuyên mục Nghiên cứu trao đổi – Cổng thông tin
điện tử Bộ tư pháp.

2.


H.Giang, Bảo Hương (2014), Hội thảo “Quyền im lặng trong tố tụng
hình sự và các quy định về bào chữa trong dự thảo Bộ luật Tố tụng hình
sự (sửa đổi)”, Chuyên mục Nghiên cứu trao đổi – Cổng thông tin điện
tử Bộ tư pháp.

3.

Lê Thị Hương Giang (2012), Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
trước toà án trong Tố tụng hình sự, Khoá luận tốt nghiệp, Hà Nội.

4.

Bùi Ngọc Hải (2010), Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo là người chưa thành niên trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam,
Khoá luận tốt nghiệp, Hà Nội.

5.

Chu Thị Hải (2012), Hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về
địa vị pháp lý của người bào chữa, Khoá luận tốt nghiệp, Hà Nội.

6.

Nguyễn Văn Hải (2011), “Tiếp tục đấu tranh phòng, chống tham
nhũng”, Tạp chí xây dựng Đảng (12).

7.

Nguyễn Văn Hậu (2014) Bàn về quyền im lặng của bị can, bị cáo, Báo

điện tử Thanh Niên.

8.

Nguyễn Duy Hưng (2011), Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự để nâng cao hiệu quả nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có
hội thẩm tham gia, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội.

9.

Lê Thị Hường (2012), Thực hiện nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong luật tố tụng hình sự Việt Nam,
Khoá luận tốt nghiệp, Hà Nội.

10. Liên Hợp quốc (1966), Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị.

11


11. Đỗ Đình Nghĩa (2004), Địa vị pháp lý của người bào chữa trong Luật
Tố tụng hình sự Việt Nam, những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn
thạc sĩ luật học, Hà Nội.
12. Võ Thị Kim Oanh (chủ biên) (2013), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt
Nam, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; Nxb Hồng Đức.
13. Quốc hội (1946), Hiến pháp, Hà Nội.
14. Quốc hội (1959), Hiến pháp, Hà Nội.
15. Quốc hội (1980), Hiến pháp, Hà Nội.
16. Quốc hội (1988), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.
17. Quốc hội (1992), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.
18. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.

19. Quốc hội (1998), Các quy định pháp luật về tố tụng hình sự, Nxb Chính trị
Quốc gia.
20. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.
21. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
22. Bình Sơn (2014), “Nhức nhối oan sai, nhục hình, bức cung”, Tạp chí
Dân chủ pháp luật, (271).
23. Hoàng Thị Minh Sơn (chủ biên) (2006), Giáo trình Luật tố tụng hình sự
Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội; Nxb Tư pháp.
24. Hoàng Thị Sơn, Bùi Kiên Điện (1999), Những nguyên tắc cơ bản của
luật Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
25. Mã Nguyệt Thu (2011), Tranh tụng trong Tố tụng hình, sự, Khóa luận
tốt nghiệp, Hà Nội.
26. Bùi Đức Tịnh (2002), Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thông tin, tr.589
27. Nguyễn Quốc Việt (1997), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự,
Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý; Nxb TP. Hồ Chí Minh.

12



×