Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

tiểu luận cao học truyền thông đại chúng với vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.88 KB, 30 trang )

MỞ ĐẦU
I .Khái niệm:
- Biến đổi khí hậu ( BĐKH) : là sự thay đổi của hệ thống khí hậu
gồm khí quyển, thủy quyển, sinh quyển, sinh quyển, thạch quyển bởi các
nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo. Sự biến đổi khí hậu có thể là sự biến
đổi bình quân hay sự thay đổi phân bố các sự kiện thời tiết quanh 1 mức
trung bình. Nó có thể giới hạn trong 1 vùng nhất định hay trên toàn địa cầu.
Hiện nay, biến đổi khí hậu được gọi chung là biến đổi toàn cầu.
- Thông điệp truyền thông : là nội dung thông tin mà ta muốn
chuyển tải đến đối tượng nhằm một mục đích nhất định. Các dạng thông
điệp thường sử dụng là: Tình cảm - Lý trí; Lạc quan - Bi quan; Đám đông Cá nhân; Hài hước - Nghiêm trang; Một chiều - Hai chiều; Chắc chắn - Mở
ngõ.
II. Lí do chọn đề tài
Ngày nay, một trong những vấn đề toàn cầu đang thu hút sự quan
tâm của nhiều quốc gia bởi những ảnh hưởng và hiểm họa trong tương lai
đối với xã hội loài người đó là biến đổi khí hậu(BĐKH). Theo công ước
chung của LHQ về biến đổi khí hậu: “Biến đổi khí hậu là những biến đổi
trong môi trường vật lý hoặc sinh học gây ra những ảnh hưởng có hại đáng
kể đến thành phần, khả năng phục hồi hoặc sinh sản của các hệ sinh thái tự
nhiên và được quản lý hoặc đến hoạt động của các hệ thống kinh tế - xã hội
hoặc đến sức khỏe và phúc lợi của con người”.
Biến đổi khí hậu được xem là một trong những vấn đề toàn cầu và
ngày càng uy hiếp trực tiếp đến sự sống của con người trên trái đất. Biến
đổi khí hậu kéo theo những hậu quả ngày càng trầm trọng như mưa lũ, bão
tố, sạt lở đất, giảm năng suất nông nghiệp, nhiệt độ trái đất tăng lên… làm
ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế - xã hội, an ninh –quốc
phòng của tất cả các nước trên thế giới.
1


- Nguyên nhân chính làm gia tăng biến đổi khí hậu, tiêu biểu là sự


nóng lên toàn cầu đã được khẳng định là do hoạt động của con người. Kể
từ thời kỳ tiền công nghiệp ( khoảng từ 1970) , con người đã sử dụng ngỳ
càng nhiều năng lượng, chủ yếu chủ các nguyên liệu hóa thạch ( than, dầu,
khí đốt ), qua đó đã thải vào khí quyển ngày càng tăng các chất khí gây
hiệu ứng nhà kính của khí quyển, dẫn đến tăng nhiệt độ của trái đất.
Dân số tăng nhanh, các nhà máy, khu công nghiêp tăng cường hoạt
độngđể đáp ứng các nhu cầu của con người ( nhu cầu ăn, măc, ở, thuốc
men,đi lại...). Con người đã sử dụng ngày càng nhiều năng lượng, chủ yếu
từcác nguồn nguyên liệu hóa thạch (than, dầu, khí đốt), qua đó đã thải
vàokhí quyển ngày càng tăng các chất khí gây hiệu ứng nhà kính của
khíquyển, dẫn đến tăng nhiệt độ của trái đất việc tiêu thụ năng lượng do
đốtnhiên liệu hóa thạch trong các ngành sản xuất năng lượng, công
nghiệp,giao thông vận tải, xây dựng… đóng góp khoảng một nửa (46%)
vào sựnóng lên toàn cầu, phá rừng nhiệt đới đóng góp khoảng 18%, sản
xuất nông nghiệp khoảng 9% các ngành sản xuất hóa chất (CFC,
HCFC)khoảng 24%, còn lại (3%) là từ các hoạt động khác.Hàm lượng các
khí nhà kính khác như khí mêtan ,cacbonic, ôxit nitơ...
-

Thực trạng :Những số liệu về hàm lượng khí C0 2 trong khí

quyển được xác định từ các lõi băng được khoan ở Greeland và Nam cực
cho thấy, trong suốt chu kỳ băng hà và gian băng ( khoảng 18 nghìn năm
trước), hàm lượng khí CO2 trong khí quyển c hỉ khoảng 180 – 200ppm
( phần triệu), nghĩa là chỉ khoảng 70% so với thời kỳ tiền công nghiệp
( 280ppm). Từ khoảng năm 1800, hàm lượng khí CO 2 bắt đầu tăng lên
vượt con số 300ppm và đạt 379ppm và năm 2005, nghĩa là tăng khoảng
31% so với tiền kỳ tiền công nghiệp, vượt xa mức khí CO 2 tự nhiên trong
khoảng 650 nghìn năm qua. Hàm lượng các khí nhà kính khác mê tan
( CH4) , ô xít ni tơ ( N 2O ) cũng tăng lần lượt từ 715ppb ( phần tỷ) và

270ppb trong thời kỳ tiền công nghiệp lên 1774ppb ( 515%) và
2


319ppb( 17%) vào năm 2005. Riêng các khí chlorofluoro carbon ( CFC s)
vừa là khí nhà kính với tiềm năng làm nóng lên toàn cầu lớn gấp nhiều lần
khí CO2 , vừa là chất phá hủy tầng ozon bình lưu. Từ năm 1840 đến 2004,
tổng sản lượng khí thải CO2 của các nước giầu chiếm tới 70% tổng lượng
phát thải khí CO2 toaanf cầu, trong đó ở Hoa Kỳ và Anh trung bình mỗi
người dân phát thải 1100 tấn, gấp khoảng 17 lần Trung Quốc và 48 lần ẤN
Độ. Riêng năm 2004, lượng khí thải CO2 của Hoa Kỳ là 6 tỷ tấn, bằng
khoảng 20% toàn cầu. Trung Quốc thải 5 tỷ tấn CO2, tiếp theo là Liên
Bang Nga, Đức và Nhật Bản...năm 1990, Việt Nam phát thải 21,4 triệu tấn
CO2. Năm 2004 phát thải khoảng 98,6 triệu tấn CO2, tăng gấp 5 lần, bình
quân đầu người 1,2 tấn 1 năm ( trung bình của thế giới là 4,5 tấn/năm,
singapo 12,4 tấn. Malaixia 7,5 tấn, Thái Lan 4,2 tấn, Trung Quốc 3,8 tấn.
In đô nê xi a 1,7 tấn, phi lip pn 1 tấn....) như vậy phái thải của Việt Nam
tăng khá nhanh trong 15 năm qua, song vẫn ở mức thấp so với trung bình
toàn cầu và nhiều nước trong khu vực. Dự tính lượng phát thải các khí nhà
kính của VN sẽ đạt 233,3 triệu tấn C02 tương đương vào năm 2020, tăng
93% so với năm 1998. ( số liệu của bộ TN&MT, tổng cục MT)
-

Ngày nay BĐKH đang bắt đầu có những biến đổi thất thường

như hiện tượng thời tiết cực đoan và thiên tai cả về số lượng và cường độ.
Nóng lên gay gắt kèm theo hạn hán trên diện rộng, các cơn bão có cường
độ mạnh cũng xuất hiện nhiều hơn, có quỹ đạo di chuyển thất thường, khó
dự đoán. Theo các chuyên gia bề mặt trái đất tăng từ 0,3 – 0,5 0C trong năm
2010, và từ 1 – 20C trong năm 2020. Nhiệt độ trung bình 50 năm qua

( 1952 – 2000) , nhiệt độ trung bình của VN tăng thêm 0,7 0C. Lượng mưa
trong 9 thập kỷ vừa qua( 1911- 2000) không rõ rệt theo các thời kỳ, có giai
đoạn tăng lên và có gia đoạn giảm xuống. Ngoài ra BĐKH còn gây rất
nhiều ảnh hưởng tới sức khỏe con người, kinh tế, sản xuất, đất đai.....( số
liệu của bộ TN&MT, tổng cục MT).
3


-

Trong 1 cuộc khảo sát gần đây, người ta thấy số lượng các bài

báo vầ BĐKH do con người tạo ra tại các nước đang phát triển ít hơn nhiều
sơ với nước phát triển. Tại Mỹ hơn 1/3 số bài viết vế vấn đề liên quan được
xuất bản trong thời gian nghiên cứu, trong khi đó tại Ấn Độ, Brazil và TQ
con số không đến 8%. Các tờ báo của Brazil và Ấn Độ và TQ chỉ đưa ra 3
bài xã luận trong khi chỉ riêng tờ báo tạo tại Mỹ lại đưa tới 13 bài xã luận.
-

Theo Báo cáo Phát triển con người năm 2007/2008 của

Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) thì người dân ở những
vùng nông thôn nghèo có nguy cơ bị tổn thương cao do biến đổi khí hậu;
biến đổi khí hậu sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới những tài nguyên trong hệ sinh
thái mà họ phải dựa vào để gìn giữ sinh kế (như các cây trồng, thủy sản,
nguyên liệu, nhiên liệu, v.v…) Hơn thế nữa, các thành tựu đạt được của
Các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ cũng có thể bị huỷ hoại.
Ở Việt Nam, trong khoảng 50 năm qua, nhiệt độ trung bình năm
đã tăng khoảng 0,7oC, mực nước biển đã dâng khoảng 20 cm. Hiện tượng
El-Nino, La-Nina ngày càng tác động mạnh mẽ đến Việt Nam. BĐKH thực

sự đã làm cho các thiên tai, đặc biệt là bão, lũ, hạn hán ngày càng ác liệt.
Theo tính toán, nhiệt độ trung bình ở Việt Nam có thể tăng lên 3oC và mực
nước biển có thể dâng 1 m vào năm 2100. Theo Bộ TN&MT, nếu mực
nước biển dâng 1 m, khoảng 40 nghìn km2 đồng bằng ven biển Việt Nam
sẽ bị ngập hàng năm, trong đó 90% diện tích thuộc các tỉnh Đồng bằng
sông Cửu Long bị ngập hầu như hoàn toàn.
Là một bán đảo thuộc khu vực nhiệt đới gió mùa Đông Nam Á, Việt Nam
được xác định là một trong những quốc gia có nhiều khả năng chịu các
tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu (bđkh). Trên thực tế Việt Nam
đã có những biểu hiện của bđkh về các yếu tố khí hậu cơ bản (nhiệt độ,
lượng mưa...) cũng như các yếu tố thời tiết cực đoan (bão, mưa lớn,
hạn hán...). Theo kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt
Nam do Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố năm 2009, nhiệt độ trên
4


tăng ít nhất 1,1 – 1,90C, nhiều nhất 2,1 – 3,60C, lượng mưa tăng ít
nhất 1,0 – 5,2% và nhiều nhất từ 1,8 – 10,1%, mực nước biển dâng ít
nhất 65 cm, nhiều nhất 100 cm so với trung bình thời kỳ 1980 - 1999.
Tác động tiềm tàng bđkh ở Việt Nam thể hiện trong tất cả các lĩnh vực
chủ yếu: tài nguyên nước, nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, năng
lượng, giao thông vận tải, sức khỏe.
-

Hậu quả của BĐKH đối với Việt Nam là nghiêm trọng và là

một nguy cơ hiện hữu cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo, cho việc thực hiện
các mục tiêu thiên niên kỷ và sự phát triển bền vững của đất nước. Các lĩnh
vực, ngành, địa phương dễ bị tổn thương và chịu tác động mạnh mẽ nhất
của biến đổi khí hậu là: tài nguyên nước, nông nghiệp và an ninh lương

thực, sức khoẻ; các vùng đồng bằng và dải ven biển.
-

Nhìn chung, tác động của biến đổi khí hậu là nghiêm trọng

nhất đối với nông nghiệp và tài nguyên nước. Báo chí có tác động mạnh
đến việc nhận thức của cộng đồng về mọi vấn đề của xã hội và biến đổi khí
hậu cũng không phải ngoại lệ. Báo chí đã đăng tải các vấn đề về biến đổi
khí hậu trong đó nguyên nhân chính là tàn phá môi trường tự nhiên của con
người. Nhắc lại vụ vi phạm nổi cộm gây bức xúc trong dư luận được báo
chí đề cập quyết liệt đó là vấn nạn ô nhiễm môi trường từ Công ty Vedan.
Nhiều nhà báo đã lên tiếng, hối thúc vì môi trường quá ô nhiễm. Không chỉ
một mà hiện nay, nhiều khu công nghiệp, doanh nghiệp cứ hoạt động
không theo quy luật và gây ô nhiễm môi trường với tính chất, mức độ ngày
càng tinh vi, nguy hiểm hơn. Trao đổi vấn đề này, một nhà báo cho rằng,
trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, ô nhiễm về môi trường là khó
tránh khỏi. Để báo chí thực sự là kênh thông tin quan trọng trong công tác
BVMT,thời gian qua, báo chí đã phối hợp với ngành tài nguyên và môi
trường (TN-MT) tăng cường, nâng cao hiệu quả tuyên truyền, phổ biến,
nhận thức cộng đồng về quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài
nguyên thiên nhiên gắn với BVMT, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả
5


công tác quản lý Nhà nước về TN-MT, bảo đảm mục tiêu phát triển bền
vững và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Có thể nói BĐKH đang là vấn đề đang được toàn thế giới quan
tâm.Tuy nhiên,đó mới chỉ dừng lại ở những hội thảo,hội nghị nhằm đề
phòng,ứng phó .
Ở VN hiện nay cũng vậy, báo chí mới chỉ dừng lại ở mức độ nhìn

nhận những vấn đề đang xảy ra trước mắt, những biểu hiện nhãn tiền mà
không thấy hiểm họa tương lai.
Vấn đề cốt lõi là cần nâng cao nhận thức cho người dân về BĐKH
còn chưa được quan tâm tuyên truyền nhất là trên những phương tiện thông
tin đại chúng đặc biệt là báo chí .
Người dân chưa hiểu rõ được tác hại của BĐKH hay có hiểu cũng
chỉ dừng lại ở mức độ nhất định nào đó. Chỉ khi người dân hiểu rõ vấn đề
này ho mới bắt đầu thay đổi lối sống, chuẩn bị tư thế để đối phó giảm thiểu
tác hại của nó trong tương lai.
Chính vì thế “ thông điệp về BĐKH” của báo chí hiện nay là vô cùng
quan trọng. Tìm hiểu được mức độ xuất bản của các thông cáo báo chí có
ảnh hưởng thế nào đến nhận thức thay đổi hành vi người dân là vấn đề
hàng đầu.
.Ông Trần Phong, Giámđốc Trung tâm Đào tạo và Truyền thông môi
trường cho rằng: Hiện nay,các hoạt động về môi trường đã rất rộng về
phạm vi, đa dạng về vấn đề,liên quan tới rất nhiều người và những tổ chức
khác nhau. Nếu không cóvai trò của truyền thông đại chúng thì sẽ khó giải
quyết những vấn đề liên quan tới môi trường. Các cơ quan có liên quan
cũng cần nỗ lựctrong việc chia sẻ thông tin với báo chí cũng như cung cấp
thông tin cho người dân bằng cách đưa báo chí đến với người dân. Nếu
người dân ởkhu dân cư được tiếp cận nhiều hơn với báo chí thì nhận thức
về BVMTcủa họ sẽ được nâng cao, hiệu quả của phong trào “Toàn dân
tham gia BVMT” mới thực sự đạt hiệu quả.
6


Vì vậy,với hi vọng là nâng cao nhận thức của người dân về BDKH
để từ đó đưa ra những điều chỉnh hành vi phù hợp với BĐKH,chúng tôi hi
vọng rằng cuộc điều tra này có thể giúp mọ người có cái nhìn toàn diện về
thông điệp của BDKH đối với đời sống của mình trên báo in-một trong

những phương tiện tuyền thông gần gũi với cuộc sống.Trên cơ sở nhằm
mục đích tìm hiểu vai trò và hiệu quả của truyền thông báo chí đối với nhận
thức của công chúng,trước hết chúng ta tìm hiểu thực trạng về quá trình
truyền tải thông điệp về biến đổi khí hậu trên báo in hiện nay.(Qua khảo sát
ba tờ báo: Tuổi trẻ Hồ Chí Minh,Thanh Niên,Tiền phong).
II.Tổng quan tài liệu.
BĐKH( thiên tai,lũ lụt,hạn hán,sa mạc hóa …)đang được coi là hiểm
họa đối với toàn thế giới.Vì vậy,nghiên cứu,tuyên truyền,phổ biến về
BĐKH không phải là trách nhiệm của cá nhân nào mà đó là trách nhiệm
của toàn thế giới.Với thông điệp”Hãy chung tay ứng phó với BĐKH”,cả
thế giới đang bắt tay vào nghiên cứu,tìm hiểu về BĐKH.
A.

Các nghiên cứu

- Việt Nam được coi là một trong năm Quốc gia trên thế giới chịu
ảnh hưởng nặng nề nhất do BDKH.Riêng năm 2007,tổng thiệt hại do thiên
tai gây ra trên toàn quốc ước tính lên đến 11600 tỷ đồng.Theo số liệu thống
kê của cục Bảo trợ xã hội Bộ LDTBXH cục trồng trọt-thủy lợi Bộ NN và
PTNT cho thấy thiệt hại do thiên tai gây ra ở nước ta giai đoạn 2006-2010
là:
Số người chết và mất tích trung bình hang năm là 415
Số người bị thương trung bình là 807
Số nhà bị đổ,sập,trôi là 19803…
Tổng thiệt hạ trung bình hang năm là 13802 tỉ đồng.
-

Trong bài luận văn thạc sĩ truyền thông đạ chúng”vấn đề tuyên

truyền BDKH trên báo in VN”của Nguyễn Thj Bích Hạnh-HVBC-TT đã

trình bày những vấn đề cơ bản về BDKH toàn cầu,thực trạng và dự báo về
7


BDKH ở VN;cơ sở pháp lý và tầm quan trọng của vấn đề tuyên truyền
BDKH.Thực trạng công tác tuyên truyền BDKH trên báo in hiện nay:đánh
giá thực trạng công tác tuyên truyền trên báo in về nội dung và hình thức
tuyên truyền.Từ đó nêu lên một số nhận xét về yêu cầu,chất lượng và hiệu
quả của các bài báo.Tuy nhiên,các bài chuyên nghiệp còn rất iits,ít thông
tin khoa học về BDKH ;nộ dung thông tin rời rạc,sơ sài.Một số vấn để đặt
ra và những khuyến nghị nhằm nâng cao công tác tuyên truyền BDKH trên
báo in hiện nay:nêu lên chủ trương,chnhs sách của Đảng và Nhà nước với
BDKH.Đánh giá chung thực trạng tuyên truyền và những yêu cầu đặt ra
trong thời kỳ mới đối với công tác này.
-

Ông Nguyễn Hữu Ninh,Giam đốc trung tâm nghiên cứu GD

và PT môi trường CERED-người đầu tiên được xướng tên trong lễ trao
giải Nobel hòa bình năm 2007 đã nói”môi trường và khí hậu quyết định sự
tồn vong của lòai người.Vì thế tôi cho rằng đây là một nghiên cứu tổng
hợp,khó,hấp dẫn và mạng lại lợi ích cho tất cả mọi người”.Theo lời ông
nói,khí hậu và môi trường vô cùng quan trọng đối với cuộc sống của chúng
ta.Vì vậy,chúng ta cần có những hiểu biết về chúng.
-

Ngày 26/2/2008 hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt

Nam tổ chức hội thảo”BĐKH toàn cầu và giải pháp ứng phó của Việt
Nam”nhằm xin ý kiến của các nhà khoa học xây dựng chương trình mục

tiêu Quốc gia về BĐKH và thống nhất thông tin cho cộng đồng hiểu đúng
và đầy đủ về vấn đề này.
-

Ngày 29/11 năm 2010,tổ chức ActionAid quốc tế VN đã phối

hợp với trung tâm NC Tài nguyên và môi trường ,ĐHQGHN tổ chức giới
thiệu “Báo cáo của BĐKH đến người nghèo VN và những ứng phó của
cộng đồng”
-

Theo các nghiên cứu vừa công bố ngày 8/1, tình trạng ấm lên

nhanh chóng ở châu Âu khiến nhiều loài bướm và chim không thể thích
nghi và phải chuyển đến những vùng khí hậu mát mẻ hơn, đồng thời gây ra
8


lo ngại nghiêm trọng về sự sinh tồn của nhiều loài thực vật trên dãy núi
Apls,.Các nghiên cứu trên tạp chí Nature Climate Change (Biến đổi khí hậu
trong thiên nhiên) là nghiên cứu lớn nhất ở dạng này được tai sư Vincent
Devictor của Trung tâm quốc gia nghiên cứu khoa học Pháp (CNRS) dẫn
đầu phát hiện ra rằng trong giai đoạn 1990-2008, nhiệt độ trung bình ở
châu Âu đã tăng thêm một độ C.Mức tăng này đặc biệt cao, hơn khoảng
25% so với mức tăng trung bình trên toàn cầu trong cả thế kỷ vừa qua.Theo
nghiên cứu, để tồn tại trong điều kiện mới, các loài quen khí hậu lạnh sẽ
phải di cư đến 249km về phía bắc. Tuy nhiên, do nhiều cản trở, những loài
bướm chỉ di chuyển được 114km và các loài chim là 37km.Các kết luận
này được rút ra từ những quan sát của mạng lưới hàng nghìn nhà tự nhiên
học nghiệp dư, tương đương với số thời gian ấn tượng 1,5 triệu giờ làm

việc thực địa
-

Nghiên cứu của tác giả Giáo sư Phạm Huy Dũng ,nguyên viện

trưởng viện sức khỏe môi trường phối hợp cùng diễn đàn các nhà báo môi
trường Việt Nam( VFFJ) và mạng lưới Báo chí Trái Đất thực hiện dưới sự
tài trợ của V.Kann Rasmussen Foundation và Quỹ Germeshausen Nghiên
cứu trên 5 tờ báo in ở Việt Nam.Từ năm 2006 đến nay, Giáo sư Dũng đều
thực hiện nghiên cứu về biến đổi khí hậu và sự nhận thức của giới truyền
thông Việt Nam đối với vấn đề này. Các cuộc khảo sát được thực hiện hàng
năm trong thời gian 2 tháng (tháng 9 và 10) tại 5 tờ báo in hàng ngày gồm
Lao động, Tuổi trẻ, Nhân dân, Hà Nội mới, Báo Đồng Nai và các chương
trình phát sóng: Tài nguyên và Môi trường phát hàng ngày của Đài Tiếng
nói Việt Nam và Tạp chí Môi trường và Tài nguyên phát hàng tuần trên
Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội.
Thực trạng biến đổi khí hậu ở Việt Nam theo nghiên cứu của
giáo sư .TSKH Nguyễn Đức Ngữ.Theo số liệu quan trắc, biến đổi khí hậu
ở Việt Nam có những điểm đáng lưu ý sau:
9


- Nhiệt độ: Trong khoảng 50 năm qua (1951 - 2000), nhiệt độ trung
bình năm (TBN) ở Việt Nam đã tăng lên 0,7oC. Nhiệt độ TBN của 4 thập
kỷ gần đây (1961 - 2000) cao hơn TBN của 3 thập kỷ trước đó (1931 1960). Nhiệt độ TBN của thập kỷ 1991 – 2000 ở Hà Nội, Đà Nẵng, TP. Hồ
Chí Minh đều cao hơn trung bình (TB) của thập kỷ 1931 – 1940 lần lượt là
0,8; 0,4 và 0,6oC. Năm 2007, nhiệt độ TBN ở cả 3 nơi trên đều cao hơn TB
của thập kỷ 1931 – 1940 là 0,8 – 1,3oC và cao hơn thập kỷ 1991 – 2000 là
0,4 – 0,5oC. - Lượng mưa: Trên từng địa điểm, xu thế biến đổi của lượng
mưa TBN trong 9 thập kỷ vừa qua (1911 – 2000) không rõ rệt theo các thời

kỳ và trên các vùng khác nhau, có giai đoạn tăng lên và có giai đoạn giảm
xuống. Trên lãnh thổ Việt Nam, xu thế biến đổi của lượng mưa cũng rất
khác nhau giữa các khu vực.
- Mực nước biển: Theo số liệu quan trắc trong khoảng 50 năm qua ở
các trạm Cửa Ông và Hòn Dấu cho thấy, mực nước biển trung bình đã tăng
lên khoảng 20cm.
- Số đợt không khí lạnh (KKL) ảnh hưởng tới Việt Nam giảm đi rõ
rệt trong hai thập kỷ gần đây (cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI). Năm 1994
và năm 2007 chỉ có 15-16 đợt KKL, bằng 56% trung bình nhiều năm. 6/7
trường hợp có số đợt KKL trong mỗi tháng mùa đông (XI-III) thấp dị
thường (0-1 đợt) cũng rơi vào 2 thập kỷ gần đây (3/1990, 1/1993, 2/1994,
2/1997, 11/1997). Một biểu hiện dị thường gần đây nhất về khí hậu trong
bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu là đợt KKL gây rét đậm, rét hại kéo dài
38 ngày trong tháng 1 và tháng 2 năm 2008 gây thiệt hại lớn cho sản xuất
nông nghiệp.
- Bão: Những năm gần đây, số cơn bão có cường độ mạnh nhiều
hơn, quỹ đạo bão dịch chuyển dần về các vĩ độ phía Nam và mùa bão kết
thúc muộn hơn, nhiều cơn bão có quỹ đạo di chuyển dị thường hơn.
- Số ngày mưa phùn TBN ở Hà Nội giảm dần trong thập kỷ 1981 –
1990 và chỉ còn gần một nửa (15 ngày/năm) trong 10 năm gần đây.
10


-

*Theo báo cáo phát triển con người 2007/2008: Biến đổi khí

hậu sẽ làm giá lương thực cao lên, số người nghèo gia tăng, người suy
dinh dưỡng ngày càng nhiều... Các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội sẽ
khó lòng đạt được

B.

Các hội thảo,hội nghị

-

Hội nghị Ngày 12/12/2007,Hội nghị quốc tế về BĐKH do

LHQ tổ chức tại Bali đã bắt đầu phiên họp cấp cao với sự tham dự của 6
nguyên thủ Quốc gia cùng 144 Bộ trưởng cao cấp của chính phủ các nước.
Hội nghị LHQ về BĐKH tại Bali đã công bố dự thảo Lộ trình Bali,đặt mục
tiêu đến năm 2012 tất cả các nước đang phát triển phải cắt giảm 25-40%
tổng lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính so với mức của năm 1990.
-

Trong hội nghị thượng đỉnh các thành phố lớn ở C40 về

BĐKH lần 3 diễn ra ngày 18-21/5/2009 ở Hàn Quốc,cựu Tổng thống Mỹ
Bil Clinton đã lên tiếng cảnh báo”Trái Đất sẽ phải đối mặt với tình huống
chết người nếu khí nhà kính không giảm xuống còn 80% năm 2050.
-

Một thông điệp gửi tới các nhà lãnh đạo thế giới tham dự Hội

nghị Thượng đỉnh về Biến đổi Khí hậu ở Copenhagen đã được đưa ra ngày
hôm 2/12 dưới hình của một “khối cầu tập thể” - một hình cầu bằng bạc lấp
lánh với đường kính chỉ 20cm nhưng chứa đựng tới 350 gigabyte những
câu chuyện, giọng nói, hình ảnh và hành động đã được tập hợp từ khắp nơi
trên thế giới nhằm thôi thúc những hành động chống biến đổi khí hậu tại
Copenhagen. “Khối cầu tập thể” thể hiện tinh thần hợp tác của toàn nhân

loại. Nó chuyển tải tiếng nói của người dân trên thế giới kêu gọi về một sự
thay đổi thực sự trong cuộc chiến toàn cầu chống lại biến đổi khí hậu”. Ông
Ridley đã nói.
-

Tuy nhiên,phải kể đến nghị định thư Kyoto đã đi được 2/3

quãng đường nhưng dường như việc thực thi những thỏa ước còn phập
phùng,manh mún.Vì li sợ sẽ tổn hại đến nên fkinh tế mà nhiều nền kinh tế
lớn đặc biệt như Mỹ đã chần chừ,thậm chí tránh né khi đặt bút kí vào nghị
11


định thư.Sắp đến thời hạn kết thúc nhưng việc buộc những nước công
nghiệp lớn như:Mỹ,EU,Nhật..phải cắt giảm 5.2% phát thỉ công nghiệp so
với năm 1990 dường như chua đạt được mong muốn.
-

Tham vấn quốc gia về biến đổi khí hậu

-

(TN) Hôm qua 18.3 tại TP.HCM đã diễn ra lễ kỷ niệm ngày

khí tượng thế
-

giới (23.3) vơi chủ đề “Khí hậu của chúng ta “, đồng thời Bộ

TN-MT đã tổ chức hội thảo tham vấn quốc gia liên quan đến kịch bản biến

đổi
khí hậu (BĐKH), nước biển dâng cho VN và chiến lược quốc gia về
BĐKH.
Mục tiêu của chiến lược quốc gia về BĐKH đến năm 2030 và nhìn đến
năm 2050 là làm thay đổi nhận thức, hành vi và cách ứng xử đúng đắn
của con người đối với thiên nhiên và quá trình phát triển kinh tế xã
hội trong bối cảnh BĐKH.
-

Mục tiêu cụ thể đến năm 2015 là triển khai ngay một số

nhiệm vụ, dự án ứng phó tích cực, cấp bách nhất, gồm quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế xã hội thích ứng với BĐKH vùng ĐBSCL, ĐBSH, củng
cố, nâng cấp hệ thống đê sông, đê biến, các dự án chống ngập tại các
thành phố lớn; chống xâm nhập mặn cho những vùng bị nặng nhất, ảnh
hưởng tơi an ninh lương thực.
-

Đến năm 2020, các khu vực bị ảnh hưởng sớm và nặng nề

nhất của BĐKH và nước biển dâng được bảo vệ và tiếp tục phát triển ,vùng
ĐBSCL và sông Hồng tiếp túc phát triển bền vững theo quy hoạch phù hợp
với ĐBKH và nước biển dâng .
C.

Truyền thông

- Chiều ngày 28/3/2012 Đài TNVN CÙNG Ban quản lýdự án”hỗ
trợ ĐTHVN sản xuất và phát song chương trình kịch truyền thanh daì kỳ
12



nhằm thay đổi hành vi ứng phó với BDKH”đã họp nhóm tư vấn vá nhóm
sáng tạo nghe báo cáo kết quả khởi động của dự án.
- Bên cạnh đó,ĐTHVN đang sản xuất bộ phim tài liệu”thông điệp
toàn cầu về BDKH”gửi tới người xem thông điệp toàn cầu về BDKH trên
phạm vi toàn Thế giới và Việt Nam.Bên cạnh đó,những vấn đề cơ bản
trong chiến lược phòng chống và giảm mọi tác hại của thiên tai,thời tiết và
BDKH cho cộng đồng.
- Cuộc thi sáng tác phim ngắn về biến đổi khí hậu dành cho sv do
báo SVVN và phái đoàn liên minh Châu Âu EU tại VN nhằm hưởng ứng
chương trình “ Những ngày Châu Âu 2011” về hđ tích cực để bảo vệ môi
trường ,ứng phó với biến đổi khí hậu của chiến dịch thanh niên tình nguyện
hè 2011
- Báo chí và công tác truyền thông về biến đổi khí hậu: Sáng 26/11,
tại thành phố Đà Nẵng, Bộ Thông tin & Truyền thông phối hợp tổ chức tập
huấn nâng cao năng lực phóng viên trong công tác truyền thông về biến đổi
khí hậu và các biện pháp giảm thiểu tác hại thiên tai.Dịp này, các học viên
đã được truyền đạt về biến đổi khí hậu trên toàn cầu, trong cả nước và tại
khu vực Duyên hải miền Trung. Đồng thời, thông tin về kết quả bước đầu
và tiến độ thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về triển khai
chương trình mục tiêu quốc gia ứng phóvới biến đổi khí hậu.
-

Dự án nghiên cứu “Truyền thông về rủi ro biến đổi khí hậu nhằm

nâng cao năng lực thích ứng cho cộng đồng khu vực duyên hải và đồng
bằng tại Việt Nam”, do Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Quốc tế (IDRC),
Canada tài trợ, do Viện Chiến lược và Chính sách Khoa học và Công nghệ
(NISTPASS) thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ và Trung tâm Nghiên cứu

Giảm nhẹ rủi ro thảm họa và Biến đổi khí hậu thuộc Viện Quản lý và Phát
triển Châu Á (AMDI), cùng phối hợp thực hiện. Dự án nghiên cứu bắt đầu
từ ngày 1 tháng 1 năm 2012 và sẽ tiến hành nghiên cứu ở các thành phố Đà
Nẵng, Quy Nhơn, và Cần Thơ trong vòng 3 năm. Sáng ngày 7/11, tại Hà
13


Nội, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tổ chức hội thảo Cập nhật và chia sẻ
thông tin về Biến đổi khí hậu (BĐKH) toàn cầu và ở Việt Nam với báo
chí .Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng
nặng nề nhất của BĐKH. Ở Việt Nam trong vòng 50 năm qua, nhiệt độ
trung bình đã tăng khoảng 0,5 độ C, mực nước biển đã dâng khoảng 20cm,
thiên tai, đặc biệt bão, lũ và hạn hán ngày càng khốc liệt. Đến năm 2100,
nhiệt độ trung bình có thể tăng từ 2 đến 3ºC; mực nước biển trung bình có
thể dâng lên 1 m. Các hiện tượng khí hậu cực đoan như bão, áp thấp nhiệt
đới, mưa lớn gây lũ, hạn hán nắng nóng, rét đậm… sẽ diễn biến ngày càng
phức tạp.Phần lớn dân số Việt Nam nằm trong các vùng bị ảnh hưởng
nặng, nhất là vùng ĐBSCL, đồng bằng sông Hồng và vùng ven biển. Hậu
quả của BĐKH đối với Việt Nam là nghiêm trọng và là một nguy cơ hiện
hữu cho mục tiêu xóa đói giảm nghèo, cho việc thực hiện các mục tiêu
thiên niên kỷ và sự phát triển bền vững của đất nước.Đến năm 2100, Việt
Nam phấn đấu trở thành một quốc gia thịnh vượng, văn minh, phát triển
bền vững với nền kinh tế các-bon thấp, ứng phó thành công với BĐKH và
có vai trò quan trọng trong khu vực và trên thế giới.Mục tiêu tổng quát là
tăng cường năng lực thích ứng với BĐKH của con người và các hệ thống
tự nhiên, phát triển nền kinh tế các-bon thấp nhằm bảo vệ và nâng cao chất
lượng cuộc sống, bảo đảm an ninh và phát triển bền vững quốc gia trong
bối cảnh BĐKH toàn cầu và tích cực cùng cộng đồng quốc tế bảo vệ hệ
thống khí hậu trái đất
- Cuối tháng 2/2008, Diễn đàn Nhà báo Môi trường Việt Nam

(VFEJ) đã phối hợp tổ chức hội thảo cho các thư ký tòa soạn báo - đài,
nhằm nâng cao nhận thức cũng như thực trạng truyền thông về biến đổi khí
hậu, đồng thời tăng cường kỹ năng phát hiện và định hướng cho phóng viên
viết về biến đổi khí hậu.Theo kết quả mới được công bố, số lượng các bản
in trên 5 tờ báo viết về biến đổi khí hậu đã tăng từ 24 lên 102 bài từ năm
2006 – 2008 và 343 vào năm 2009. Trong đó, nguồn thông tin thu thập
14


được từ chính phủ chiếm số lượng nhiều nhất (khoảng 44% trong 5 loại báo
in, tăng 15% so với năm 2008 và chiếm 43% các chương trình phát sóng).
Trong khi đó, nguồn thông tin khai thác từ người dân địa phương và các
nhà khoa học chỉ chiếm từ 3 – 7% ở mỗi loại phương tiện, giảm từ 6 – 20%
so với 2008.Cũng theo kết quả này, khoảng 1/3 các câu chuyện của biến
đổi khí hậu tập trung vào việc giảm nhẹ thiên tai và ứng phó với biến đổi
khí hậu. Trong đó, vấn đề xóa đói giảm nghèo và quản lý chất phát thải
được chú ý nhiều nhất (gần 1/4 những câu chuyện về biến đổi khí hậu năm
nay có liên quan đến hai chủ đề này). Có thể nói, các vấn đề về đói nghèo
và thiên tai đang ngày làm tăng thêm mối quan tâm của cộng đồng về biến
đổi khí hậu.
- Các nghiên cứu về truyền thông:Nghiên cứu của tổ chức
PANOS, một mạng lưới toàn cầu của các tổ chức phi chính phủ hợp tác về
truyền thông để thúc đẩy phát triển cho rằng các nước đang phát triển chịu
ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, tuy nhiên hoạt động truyền
thông của họ không mặn mà lắm trong việc đưa tin về thảm họa môi trường
này và Việt Nam cũng không nằm ngoài nhận xét trên.
- Nhóm nghiên cứu của mạng lưới này chỉ ra rằng: Trong một
tháng, chỉ có hơn 2 bài báo về những vấn đề, hiện tượng liên quan đến biến
đổi khí hậu. Kết quả trên được đưa ra sau hai tháng khảo sát 5 tờ báo in
hàng ngày gồm Lao động, Tuổi trẻ, Nhân dân, Hà Nội mới, Báo Đồng Nai

và các chương trình phát sóng: Tài nguyên và Môi trường phát hàng ngày
của Đài Tiếng nói Việt Nam và Tạp chí Môi trường và Tài nguyên phát
hàng tuần trên Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội.
Cũng trong kết quả nghiên cứu của Viện nghiên cứu sức khỏe,
môi trường và phát triển nhận xét rằng hiện nay, các cơ quan truyền thông
tại Việt Nam chỉ đưa tin về biến đổi khí hậu ở bề rộng ở mức độ quốc gia
và toàn cầu, không có mối liên quan giữa các vấn đề và hiện trạng ở địa
phương.
15


Mặc dù có rất nhiều bài báo đề cập đến các thảm họa thiên nhiên do
biến đổi khí hậu gây ra như lũ lụt, bão, nước ngầm nhưng chưa có nhà báo
nào chỉ ra mối liên hệ giữa các hiện tượng trên và biến đổi khí hậu.
Thêm vào đó, theo thông tin do Tổ chức Đông Tây hội ngộ (EMWF)
từng công bố trong kết quả nghiên cứu về “Sự thích ứng với BĐKH ở tỉnh
Quảng Nam”, thì có khoảng 49% người được phỏng vấn không biết về các
chính sách và quy trình của Nhà nước, 72% không biết về các kế hoạch
chuẩn bị phòng chống thiên tai… Vì thế, họ không có khả năng lên kế
hoạch và chuẩn bị ứng phó với thiên tai.
Kết quả nghiên cứu trên nằm trong khuôn khổ một dự án do Quỹ
FORD tài trợ trị giá 99.000 USD. Nghiên cứu được tiến hành trên 125 gia
đình ở 25 cộng đồng dân cư ở tỉnh miền trung Quảng Nam với địa bàn cư
trú bao gồm cả ven biển, núi cao và đồng bằng. Mục đích cuối cùng của dự
án nghiên cứu là để đưa ra một bộ tài liệu hướng dẫn để lập kế hoạch cho
các chương trình BĐKH.
Theo một cuộc khảo sát: những quan điểm hoài nghi về biến đổi khí
hậu do con người tạo nên có độ che phủ trên các mặt báo tại các nước đang
phát triển ít hơn nhiều so với tại Anh hay Mỹ.
Tại Mỹ, hơn 1/3 số bài báo viết về khí hậu được xuất bản trong thời

gian nghiên cứu, các tờ báo được lựa chọn đưa tin về các quan điểm hoài
nghi trong khi chỉ có không đến 8% bài báo với nội dung như thế tại Brazil,
Trung Quốc và Ấn Độ.
Theo các nhà nghiên cứu từ viện Nghiên Cứu Báo Chí Reuters tại
đại học Oxford, vương quốc Anh, lý do bao gồm sự sẵn sàng chấp nhận lớn
hơn đối với thẩm quyền của các chuyên gia khoa học, sự thiếu hụt các
nhóm vận động hành lang công nghiệp quyền lực và các nền văn hóa báo
chí khác nhau.
Các nhà khoa học gợi ý rằng, một nhân tố khác là các nước đang
phát triển đang phải trải qua các tác động của biến đổi khí hậu, và đang tập
16


trung những nỗ lực của mình vào việc đối phó với nó hơn là thảo luận về
việc liệu nó tồn tại hay do hoạt động của con người phải chịu trách nhiệm.
Cuộc khảo sát, 'Không có điểm chung - Báo cáo quốc tế về chủ
nghĩa hoài nghi khí hậu'- do Hội Đồng Anh tài trợ- được dựa trên một phân
tích hơn 3,000 bài báo trong 2 tờ báo từ mỗi nước trong số 6 nước: Brazil,
Trung Quốc, Pháp, Ấn Độ, Mỹ và Anh.
Nó tập trung vào một giai đoạn từ cuối năm 2009 đến đầu năm 2010,
trong đó bao gồm hội nghị khí hậu Copenhagen bất hạnh và cái gọi là vụ
‘Bê bối khí hậu’, khi các nhà nghiên cứu khí hậu tại Đại học Đông Anglia –
Anh bị cáo buộc thao túng dữ liệu trong các bài báo khoa học về biến đổi
khí hậu.
Các tờ báo của Brazil, Trung Quốc và Ấn Độ chỉ đưa 3 bài xã luận
về các quan điểm hoài nghi, tất cả số đó về cơ bản bác bỏ quan điểm của
họ. Ngược lại, chỉ riêng 1 tờ báo Mỹ, tờ Thời báo Phố Wall đã đưa 12 bài
xã luận chứa các các quan điểm hoài nghi, chỉ duy nhất một trong số đó
phản biện lại quan điểm hoài nghi.
James Painter, tác giả của cuộc khảo sát đã phát biểu tại lễ khởi động

cuộc khảo sát tại Luân Đôn rằng: Những quan điểm hoài nghi thường rất
hiếm trong 2 tờ báo của Brazil được xem xét, Folha de São Paulo và O
Estado de São Paulo, với tỷ lệ 1 và 3% tương ứng cho mỗi tờ. Điều này có
thể do cả hai tờ báo này đều có các bộ phận khoa học mạnh "rất có ảnh
hưởng đến cách họ [các tờ báo] theo dõi biến đổi khí hậu".
Ông bổ sung thêm rằng: Sự có mặt của các tổ chức môi trường phi
chính phủ mạnh và số lượng ít người hoài nghi về khí hậu tương ứng, cũng
như bức chân dung về biến đổi khí hậu thành công của chính phủ Ấn Độ
như là một vấn đề nằm trong các mối quan tâm của người dân Ấn Độ đang
bị đe dọa bởi các thế lực bên ngoài là một số lý do giải thích cho tỷ lệ quan
điểm hoài nghi thấp trong các tờ báo Ấn Độ.
17


Tại Trung Quốc, số lượng bài báo trích dẫn các quan điểm hoài nghi
đã giảm trong khoảng thời gian từ năm 2007 đến năm 2009.
II. Mục đích nghiên cứu.
• Thấy được mức độ quan tâm của truyền thông báo chí đối với vấn
đề biến đổi khí hậu hiện nay của Việt Nam cũng như của thế giới.
• Thấy được sức ảnh hưởng của những thông điệp mà báo chí đưa
ra đã tác động đến nhận thức của công chúng ra sao?
• Thấy được những thế mạnh và hạn chế của báo chí trong việc
truyền tải thông điệp biến đổi khí hậu đến với công chúng.
*Nhiệm vụ nghiên cứu:
Đọc tài liệu và các đề tài liên quan
Phân tích,đánh giá nội dung các bài viết liên quan
III/ Đối tượng,khách thể, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:thông điệp về biến đổi khí hậu trên báo chí
hiện nay
Khách thể nghiên cứu:3 tờ báo in: tuổi trẻ TPHCM,Thanh

Niên,Tiền Phong năm 2011.
Phạm vi nghiên cứu: các cơ quan truyền thông bao gồm cơ quan
báo Tuổi trẻ Hồ Chí Minh,Thanh Niên và Tiền phong,đồng thời các tài liệu
liên quan ở thư viện quốc gia.
*Tổng quan tài liệu:
Nghiên cứu của tác giả Giáo sư Phạm Huy Dũng ,nguyên viện
trưởng viện sức khỏe môi trường phối hợp cùng diễn đàn các nhà báo môi
trường Việt Nam( VFFJ) và mạng lưới Báo chí Trái Đất thực hiện dưới sự
tài trợ của V.Kann Rasmussen Foundation và Quỹ Germeshausen Nghiên
cứu trên 5 tờ báo in ở Việt Nam gồm :Lao động, Tuổi trẻ, Nhân dân, Hà
Nội mới, Báo Đồng Nai và các chương trình phát sóng: Tài nguyên và Môi
trường phát hàng ngày của Đài Tiếng nói Việt Nam và Tạp chí Môi trường
và Tài nguyên phát hàng tuần trên Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội.
18


CHỈ BÁO HÌNH THÀNH ĐỀ TÀI
1.Sự trả lời của Trái Đất đối với việc làm của con người với môi
trường
a.Thiên tai thường xuyên xảy ra
Bão lụt
Hạn hán
Sa mạc hóa
b.Nước biển dâng cao
Triều cường dâng
Lốc xoáy
c.Trái Đất nóng lên
Nhiệt độ trung bình của không khí tăng
Nhiệt độ trung bình của đạ dương tăng
2.Chính sách tuyên truyền và ứng phó với BDKH của Nhà nước.

a.Chính sách tuyên
Trên truyền hình
Trên báo
Trên Internet
b.Biện pháp ứng phó và nâng cao nhận thức của người dân
Đầu tư xây dựng CSHT-VCKT
Mở các lớp tập huấn.
Nâng cao hiệu quả truyền thông đến với công chúng
Phần 2:
a.Câu hỏi nghiên cứu
Vì sao công tác tuyên truyền của Nhà nước về BDKH đã được xúc
tiến nhưng nhận thức của người dân về BDKH còn rất hạn chế?
+Báo in đã thực sự đến tay từng người dân?
+Truyền hình đã thực sự tác động đến nhận thức của người dân?
19


b.Giả thuyết nghiên cứu
- Nhận thức của phóng viên,nhà báo đối với biến đổi khí hậu toàn
cầu
- Động cơ và những yếu tố nào tác động chủ yếu đến nhận thức và
hành vi của giới truyền thông trong quá trình truyền tải thông điệp biến đổi
khí hậu?
- Mức độ quan tâm của truyền thông như thế nào đối với vấn đề biến
đổi khí hậu?
- Công tác truyền thông hiện nay thực sự đã đạt hiệu quả trong
truyền tải thông điệp biến đổi khí hậu đến với người dân hay chưa?
IV.Thiết kế nghiên cứu.
A.Phương pháp thu thập thông tin.
a.Phỏng vấn sâu,thảo luận nhóm (nghiên cứu định tính)

Thực hiện phỏng vấn các phóng viên,nhà báo và các ban biên tập của
ba tờ báo in Tuổi trẻ Hồ Chí Minh,Thanh Niên,Tiền phong.
- Phỏng vấn sâu : Khi đi vào Phỏng vấn sâu nghiên cứu viên không
những chuẩn bị trước hệ thống câu hỏi chính mà còn tìm hiểu thêm các
tâm tư nguyện vọng của đối tượng được phỏng vấn về mong muốn sự quan
tâm của xã hội đối với vấn đề biến đổi khí hậu; muốn các kênh thông tin
đại chúng thay đổi như thế nào để có thể đạt hiệu quả cao hơn trong tuyên
truyền, giáo dục; cũng như tìm hiểu được chính nhận thức về biến đổi khí
hậu của người phóng viên trong đời sống hàng ngày, …
- Ngoài ra còn phải tạo cho đối tượng phỏng vấn một không gian và
tinh thần thoải mái để có điều kiện thuận lợi cho việc thu thập thông tin.
- Thảo luận nhóm: trong thảo luận nhóm tạo điều kiện cho nhóm có
không khí thoải mái khi bắt đầu buổi thảo luận để mọi người có thể tự tin
trao đổi các ý kiến cá nhân. Tuy không có thể không tìm hiểu được nhận
thức về vấn đề biến đổi khí hậu của từng người nhưng có thể lấy ý kiến
chung của đại đa số về những vấn đề cần nghiên cứu. Có thể đánh giá được
20


mặt tích cực cũng như tiêu cực của vấn đề cũng như xu hướng phát triển
của nó.
B. Công cụ thu thập thông tin
Trong quá trình phỏng vấn sâu,điều tra viên sử dụng giấy bút và các
phương tiện điện thoại ghi âm,chụp hình minh họa để thu thập và lưu giữ
thông tin.
- Hướng dẫn phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm: các hướng dẫn phải
thống nhất, đảm bảo thu thập được mọi thông tin cần thiết.
C. Tổ chức thu thập thông tin
Lựa chọn điều tra viên đến các cơ quan báo chí để thu thập thông tin.
- Lập kế hoạch tổ chức điều tra

+Lựa chọn địa điểm,thời điểm hợp lý nhất
+Chuẩn bị tài liệu, những giấy tờ cần thiết
D. Phân tích và xử lí thông tin
- Với phương pháp định lượng: Sử dụng chương trình máy tính
Nvivo và SPSS
- Với phương pháp định tính: Sử dụng các ghi chép, ghi âm để thu
thập và phân tích thông tin.
- Xử lý, thống kê các thông tin từ cá biệt đến tổng thể: Mô tả hình
thức tiếp nhận thông tin ,các yếu tố ảnh hưởng ,tác động của các phương
tiện truyền thông ,tuyên truyền của xã hội dẫn đến nhận thức của người
dân về biến đổi khí hậu,chỉ báo, những yếu tố định hướng để đầu tư,phát
triển nâng cao nhận thức của người dân.
V. Sản phẩm đầu ra của nghiên cứu.
Yêu cầu phải có 1 báo cáo khoa học về đề tài này. Do vấn đề nghiên
cứu xoay quanh tài xoay quanh “Thực trạng công tác truyền tải thông
điệp biến đổi khí hậu trên báo in hiện nay” , Vì vậy nghiên cứu phải nêu
ra thực trạng khách quan vấn đề , nhận thức chung của các cơ quan truyền
thông trước tình trạng ngày càng gia tăng của biến đổi khí hậu, tìm hiểu
21


nguyên nhân từ có đưa ra những giải pháp và xu thế phát triển chung của
vấn đề được nghiên cứu.Từ đó, qua số liệu và đánh giá có thể tìm ra giải
pháp định hướng chung cho vấn đề biến đổi khí hậu của toàn cầu. Phục vụ
cho Truyền thông, Môi trường, Giáo Dục, Dân số và một số ngành liên
quan khác.
Báo cáo thực trạng công tác truyền tải thông điệp biến đổi khí
hậu trên báo in thông qua cuộc khảo sát trên 3 tờ báo in Tiền
phong,Tuổi trẻ Hồ Chí Minh,Thanh Niên.
Câu 30 : Thực trạng biến đổi khí hậu trên thế giới được đề cập

frequency
Nhiệt độ
18
Lượng mưa 25
Vùng biến 31
đổi khí hậu
Tổng

292

Percent

Valid

Cumulative

4,3
6,0
7,5

percent
6,2
8,6
10,6

percent
6,2
14,7
25,3


70,4

100

Bảng 30 cho thấy thực trạng biến đổi khí hậu trên thế giới được đề
cập trên các báo in.Bảng số liệu phản ánh mức độ quan tâm của truyền
thông đến vấn đề biến đổi khí hậu ở Việt Nam cũng như trên thế giới trên
các khía cạnh nhiệt độ,lượng mưa,vùng biến đổi khí hậu.Qua bảng trên,ta
thấy rằng tần suất của những bài báo nói về các vùng biến đổi khí hậu
nhiều nhất với 31 lần đề cập,chiếm 10,6% trong tổng số 100 %.các bài về
biến đổi lượng mưa đứng vị trí thứ hai với tần suất 25 lần được đề cập
chiếm 8,6% trong tổng số 100%.Những bài báo nói về biến đổi nhiệt độ
xuất hiện 18 lần và chiếm tỉ lệ 6,2%.Điều đáng chú ý là trong tổng số 292
bài báo nói về biến đổi khí hậu có tới 218 bài báo không làm rõ vấn đề biến
đổi khí hậu nằm ở khía cạnh của sự thay đổi lượng mưa,nhiệt độ hay vùng
biến đổi khí hậu.có thể những bài báo này phản ánh hậu quả của thiên
tai,các chương trình hỗ trợ khắc phục thiên tai mà không đề cập đến
22


nguyên nhân,thực trạng của biến đổi khí hậu.Bảng số liệu cũng cho chúng
ta thấy được biến đổi khí hậu là một vấn đề bức thiết,yêu cầu và cần thiết
nhận được sự quan tâm của toàn xã hội,nhiệm vụ hàng đầu thuộc về giới
truyền thông trong công tác truyền tải thông điệp bảo vệ khí hậu đến với
công chúng.Tuy nhiên,số liệu trên phản ánh một thực trạng đáng lo ngại về
mức độ quan tâm của truyền thông Việt Nam với vấn đề nóng của thế giới
chưa thực sự sâu sát và hiệu quả truyền thông chưa đạt được như mong
đợi.Sự quan tâm còn mang tính hình thức do chương trình phát triển quốc
gia chỉ đạo.Mỗi phóng viên còn chưa ý thức cao độ về nhiệm vụ và sứ
mệnh của mình đối với vấn đề bảo vệ khí hậu đât nước cũng như nhân

loại.Điều đó thể hiện qua số liệu được thống kê ở trên.Có rất ít những bài
báo đề cập rõ ràng và hiệu quả đối với vấn đề biến đổi khí hậu.Thực trạng
đó phản ánh mức độ quan tâm của truyền thông còn chưa cao
và chính điều này đã mang lại hiệu quả truyền tải thông điệp bảo vệ
môi trường và khí hậu chưa hiệu quả ở Việt Nam.
Bảng 30.1.Nhiệt độ
frequency
Hiện

tượng

Percent

Valid

Cumulative
percent
5,3

14,6

19

4,6

percent
5,3

33


8,0

9,3

nóng lên toàn
câu
Biến đổi nhiệt

độ
khác
5
1,2
1,4
16
Không đề cập
299
72
84
100
Tổng
356
85,8
100
Bảng số liệu 30.1 phản ánh mức độ quan tâm của báo in về biến đổi
khí hậu trên khía cạnh nhiệt độ.Trong tổng số 356 bài báo về biến đổi khí
hậu,có 19 bài đề cập đến hiện tượng nóng lên toàn cầu chiếm 5,3 %.Số bài
23


đề cập đến biến đổi nhiệt độ là 33 bài chiếm 9,3%.Điều này cho thấy vấn

đề biến đổi nhiệt độ đang dần trở nên cấp thiết và đòi hỏi sự quan tâm của
nhân loại đặc biệt là giới truyền thông.Nhiệt độ Trái Đất đang nóng dần lên
trở thành mối đe dọa nghiêm trọng cho sự sống của toàn nhân loại.Giới
truyền thông Việt Nam đã dần ý thức được vấn đề này và đã đặt sự quan
tâm vào sự thay đổi nhiệt độ thất thường ở Việt Nam cũng như toàn
cầu.Bên cạnh vấn đề biến đổi khí hậu và sự nóng lên của toàn cầu thì còn
có những bài đề cập đến khía cạnh khác của vấn đề nhiệt độ Trái Đất ,trong
đó có 5 bài chiếm 1,4%.Điều đáng chú ý là trong tổng số 356 bài báo thì có
tới 299 bài không đề cập tới biến đổi nhiệt và sự nóng lên của toàn
cầu,chiếm tới 84% trong tổng số 100%.Số liệu này nói lên một thực trạng
về sự quan tâm của truyền thông đối với vấn đề biến đổi khí hậu đặc biệt là
sự nóng lên của toàn cầu và sự thay đổi của nhiệt độ Trái Đất.Sự quan tâm
của truyền thông với vấn đề biến đổi nhiệt độ nói riêng và sự biến đổi khí
hậu toàn cầu nói chung còn chưa thực sự sát sao,bảo vệ khí hậu Trái Đất
chưa là mối quan tâm hàng đầu của các nhà báo và phóng viên.
Bảng 30.2.Lượng mưa.
Valid
Biến đổi hoàn lưu khí quyển
và đại dương
Sự bốc hơi trên lục địa
và đại dương
Khác
Không đề cập

Frequency

Percent

Valid


Cumulative

percent

percent

17

4,1

4,9

4,9

9

2,2

2,6

7,5

15

3,6

4,3

11,8


307

74,0

88,2

100,
0

Tổng

348
24

83,9

100


Bảng 30.2 thể hiện thực trạng phản ánh của các báo in đối với lượng
mưa Viêt Nam cũng như trên toàn cầu.Trong tổng số 348 bài báo viết
lượng mưa ,trong đó số bài phản ánh biến đổi hoàn lưu khí quyển và đại
dương với 17 bài chiếm 4,9%.Sự bốc hơi trên lục địa và đại dương được đề
cập trong 9 bài báo với 2,6 %.Có 15 bài đề cập đến những vấn đề khác
ngoài hai vấn đề về sự bốc hơi và biến đổi hoàn lưu khí quyển chiếm tỉ lệ
4,3%.Có tới 307 bài không đề cập tới những chủ đề trên.Số liệu trong bảng
cho ta thấy các tờ báo in rất ít quan tâm đến vấn đề biến đổi khí hậu ở khía
cạnh sự thay đổi hoàn lưu khí quyển và đại dương cũng như về sự bốc hơi
trên lục địa và đại dương.hay nói cách khác hai vấn đề trên cũng không
phải là một vấn đề nóng được giới truyền thông quan tâm phản ánh.

Bảng 30.3 Vùng biến đổi khí hậu
valid

frequency

Percent

Valid

percent
Vùng biển
29
7.0
8.5
Đất liền
83
20
24.2
khác
10
2.4
2.9
total
343
82.7
100.0
Bảng 30.3 thể hiện các vùng biến đổi khí hậu được

Cumulative
percent

8.5
32.7
35.6
đề cập trên các

báo in.Có 29 bài đề cập đến biến đổi khí hậu trên vùng biển với 8.5 % tổng
số bài .Số lượng bài bài đề cập đến biến đổi khí hậu trên đất liền khá lớn
với 83 bài chiếm 24,2%.
Bảng 31.Thực trạng biến đổi khí hậu Việt Nam
valid

frequency

Percent

Valid

Cumulative

Nhiệt độ
31
Lượng mưa
81
Số đợt không 9

7.5
19.5
19.5

percent

8.4
21.9
2.4

8.4
30.3
30.3

khí lạnh
Vùng biến đổi 40

9.6

10.8

43.5

25


×