Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

skkn rèn LUYỆN kĩ NĂNG GIAO TIẾP CHO học SINH THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 28 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU
I.1. Lý do chọn đề tài:
Bàn về lời ăn tiếng nói, phải khẳng định rằng ông bà ta sâu sắc biết chừng nào
khi đúc kết:
"Chim khôn kêu tiếng rảnh rang
Người ngoan ăn nói dịu dàng dễ nghe"
Lời nhắc nhở trên đã phần nào cho ta thấy được vai trò của lời nói trong hoạt
động giao tiếp. Bởi quá trình này không chỉ giúp chúng ta trao đổi thông tin, tư
tưởng, tình cảm mà nó còn là một trong những yếu tố, phương tiện hữu hiệu giúp ta
tồn tại, thành công trong cuộc sống. Dù rằng ai cũng biết, con người khi sinh ra nếu
không mắc phải khiếm khuyết về khả năng phát âm thì ai cũng có thể nói được tiếng
mẹ đẻ của mình (chưa kể có những người có thể sử dụng nhiều ngôn ngữ trên thế
giới). Nhưng có khi nào chúng ta tự hỏi tại sao trong "túi khôn" của ông cha ta ngày
trước lại căn dặn rằng: "Học ăn, học nói, học gói, học mở". Chuyện "ăn, nói, gói,
mở" đâu phải là một việc làm gì khó khăn đối với một người bình thường, thậm chí
nó còn rất dễ dàng dù là với một đứa trẻ lên năm, lên mười. Nhưng có lẽ sự kết luận
nào ở đây đi nữa cũng là quá vội vàng. Bởi đúng là đứa trẻ lên năm, lên mười nào
cũng có thể "ăn, nói, gói, mở" nhưng "ăn, nói, gói, mở" theo đúng nghĩa (thể hiện
được sự hiểu biết và cả sự khéo léo) của người nói thì tôi có thể khẳng định đó hoàn
toàn không phải chuyện dễ. Vì để nói cho được hay không phải là một phản ứng vô
điều kiện. Mà để có được khả năng đó, để có thể nói "Cho vừa lòng nhau" thì nó đòi
hỏi cả một quá trình học tập, rèn luyện rất nghiêm túc và lâu dài. Một ví dụ rất rõ là
chỉ riêng về lời nói, cách nói thôi, thì ông cha ta cũng đã cho cho con cháu đời sau
như chúng ta biết bao bài học:
"Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau"
Kinh nghiệm đó cũng đủ cho ta hiểu thấu vai trò của cách nói, cách giao tiếp của
chúng ta hằng ngày. Trong khi đó lại có những người (thậm chí là rất nhiều) khi nói
năng, giao tiếp bị nhận xét là: Nói như đấm vào lỗ tai hay nói như dùi đục chấm
mắm cáy. Từ đó, chúng ta càng có đủ cơ sở để khẳng định: Nói thì ai cũng nói được
nhưng để làm sao nói cho đúng, rồi từ đó nói cho hay thì quá trình này đòi hỏi bản


thân mỗi chúng ta phải có ý thức "học nói" thật nghiêm túc.
Tuy nhiên, một điều khiến chúng ta không khỏi lo lắng trước thực trạng ngày
nay là khi đất nước ngày mỗi đi lên, ngày một phát triển, ngày một giàu đẹp thì
tiếng Việt của chúng ta lại đang đứng trước nguy cơ bị mất dần đi sự trong sáng. Mà
theo tôi nguyên nhân chính ở đây là do sự thiếu ý thức của người sử dụng (đa số là
giới trẻ). Hằng ngày, ta sẽ rất dễ dàng bắt gặp tình huống sử dụng từ mượn, ngôn
ngữ Chat, biệt ngữ xã hội một cách tùy tiện. Ví dụ: Thay bằng nói: Xin chào lại
dùng hello, hi; tạm biệt (mình về đây, về nghe,..) lại dùng goodbye, bye,...
Điều đó đã và đang làm tổn hại đến tài sản vô giá của đất nước (ngôn ngữ) và
về lâu về dài còn ảnh hưởng tới văn hóa giao tiếp của cả thế hệ tương lai. Bản thân
1


là một giáo viên Ngữ văn, tôi thấu hiểu tại sao nhà văn Pháp An - phông - xơ Đô đê lại khẳng định: "Khi một đất nước rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ
vững được tiếng nói của mình, thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù".
Bởi tiếng nói chính là linh hồn dân tộc. Vì thế, ý thức bảo vệ sự giàu đẹp và trong
sáng của tiếng Việt là một điều vô cùng hệ trọng.
Bên cạnh đó, tôi thiết nghĩ rằng tiếng nói chẳng phải là một vật hữu hình để ta
có thể cho vào rương, hòm để cất giữ. Cho nên, việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng
Việt phụ thuộc vào việc sử dụng ngôn ngữ của mọi người trong giao tiếp, học tập,
làm việc,... Nói tóm lại là trong quá trình nói và viết. Vậy mà một thực tế đau lòng
vẫn tồn tại đó là khi tôi đã không ít lần chứng kiến việc học sinh mắc rất nhiều lỗi
chính tả, lỗi diễn đạt trong các bài viết của mình. Còn khi được cô thầy kiểm tra
(bằng hình thức vấn đáp) thì khả năng nói (giao tiếp) của các em còn yếu kém hơn.
Nhiều em ấp a ấp úng, lúng búng như ngậm hột thị, có em thì lại nói dây cà ra dây
muống,...Vậy thử hỏi với cách nói năng như thế, sử dụng ngôn ngữ như thế và khả
năng giao tiếp như thế sẽ có ảnh hưởng xấu như thế nào nếu sau này các em bước
vào đời. Trong khi mục tiêu giáo dục hiện nay, xã hội hiện nay đòi hỏi con người
phải phát triển một cách toàn diện, phải luôn trau dồi, thích nghi với guồng quay hối
hả của cuộc sống năng động và hiện đại. Từ đó, đã đặt ra một yêu cầu cho học sinh

ở tất cả các bậc học là trong thời gian ngồi trên ghế nhà trường, các em không chỉ
phải tiếp thu lượng kiến thức khổng lồ mà các em còn phải học và được trang bị các
kĩ năng sống cơ bản. Đó có thể là kĩ năng phòng tránh tai nạn thương tích, giữ gìn
vệ sinh, bảo vệ môi trường, giao tiếp,...để các em có thể tự tin đối mặt với muôn vàn
vấn đề khó khăn trong cuộc sống thực tại.
Với lòng mong mỏi của bản thân có thể góp phần nhỏ bé trang bị cho các em
khả năng tự tin trong giao tiếp với thầy cô, bạn bè và rộng ra là trong tất cả các mối
quan hệ trong xã hội, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: "RÈN LUYỆN KĨ NĂNG GIAO
TIẾP CHO HỌC SINH THCS". Với mục tiêu giúp các em rèn giũa khả năng giao
tiếp để có thể tự tin, tự nhiên trong giao tiếp với mọi người xung quanh. Và đây
cũng chính là nền tảng vững chắc nhất cho các em khi bước vào đời.
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:
Tôi thiết nghĩ, để thực hiện mong muốn rèn luyện cho các em khả năng giao tiếp
thì đây là một việc làm lâu dài và phụ thuộc vào nhiều yếu tố (môi trường sống, môi
trường học tập, sự giáo dục của gia đình, cách thức giao tiếp giữa thầy cô và học
sinh,..). Bản thân là giáo viên Ngữ văn (vừa trực tiếp đứng lớp, vừa làm công tác
chủ nhiệm) nên tôi tập trung vào việc giáo dục, rèn luyện kĩ năng giao tiếp cho các
em trong phạm vi nhà trường, tức là qua những giờ lên lớp, các tiết sinh hoạt lớp,
các tiết hoạt động ngoại khóa, các trò chơi, hoạt động tập thể,...Tôi đã tìm hiểu kĩ
những mặt mạnh, mặt yếu của từng em, những khó khăn các em thường gặp phải
trong vấn đề giao tiếp để có thể tư vấn, hướng dẫn các em những cách khắc phục
hiệu quả nhất. Từ đó, giúp các em dần hình thành khả năng giao tiếp một cách tự tin
trong môi trường học tập cũng như trong đời sống thường nhật.
2


Bên cạnh đó, qua đề tài tôi còn nêu ra các biện pháp, giải pháp thực hiện công
việc cụ thể. Đồng thời, cũng làm rõ kĩ năng nào được tập trung, ưu tiên rèn luyện,
đối tượng cần rèn luyện là ai, đặc điểm nào cần chú ý, nhiệm vụ nào cần hoàn thành
và kết quả nào cần hướng đến và đạt được sau khi thực nghiệm. Và cuối cùng, đề tài

còn có nhiệm vụ là cung cấp cách thức, giải pháp thực hiện, kết quả của quá trình
thực nghiệm trong việc áp dụng. Để từ đó có thể nhân rộng và áp dụng đề tài vào
thực tiễn nhằm không chỉ rèn luyện cho một lớp học, khóa học nào đó mà còn có thể
rèn luyện ngày càng nhiều hơn nữa những thế hệ học trò vững kiến thức và vững cả
khả năng hòa nhập trong cuộc sống.
I.3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: "RÈN LUYỆN KĨ NĂNG GIAO TIẾP CHO
HỌC SINH THCS" là các em học sinh từ độ tuổi 11 đến 15 tuổi. Cụ thể trong đề
tài này là học sinh từ lớp 6 đến lớp 9 của trường THCS Trần Hưng Đạo, xã Tam
Giang. Với nội dung trọng tâm là rèn luyện kĩ năng giao tiếp với thầy cô, bạn bè,
những người xung quanh; rèn luyện khả năng lựa chọn từ ngữ thích hợp với từng
tình huống giao tiếp, đối tượng giao tiếp cụ thể nhằm đạt hiệu quả tốt nhất cho mỗi
cuộc giao tiếp nhất định.
I.4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu:
Đề tài: "RÈN LUYỆN KĨ NĂNG GIAO TIẾP CHO HỌC SINH THCS" có
giới hạn và phạm vi nghiên cứu đó là tập trung giáo dục cho các em biết cách nói
năng, ứng xử hợp lí, khôn khéo với từng tình huống đặt ra.
I.5. Phương pháp nghiên cứu:
Để đạt được những kết quả như mong muốn, tôi đã cùng lúc vận dụng, kết hợp
nhiều phương pháp nghiên cứu như:
- Phương pháp quan sát;
- Phương pháp tìm hiểu;
- Phương pháp trò chuyện;
- Phương pháp điều tra (Câu hỏi tình huống, yêu cầu tạo lập văn bản, tái hiện hoặc
xây dựng cuộc thoại…);
- Phương pháp tổng hợp;
- Phương pháp đánh giá;
- Phương pháp kết luận,...
II. Nội dung:
II.1. Cơ sở lí luận:

Thiết nghĩ, chúng ta phải khẳng định với nhau rằng con người được xem là tiến
hóa hơn các loài động vật khác bởi chúng ta có ngôn ngữ, chữ viết để trao đổi thông
tin, tâm tư tình cảm với nhau. Vì thế hoạt động giao tiếp bên cạnh hoạt động lao
động sản xuất là hoạt động quan trọng nhất của loài người. Có lẽ, sẽ chẳng có ai có
thể sống một cách đúng nghĩa nếu không giao tiếp với đồng loại:
"Một người đâu phải nhân gian
Sống chăng chỉ đốm lửa tàn mà thôi"
3


Cho nên, chúng ta đều thấy ngay đến những người bị khiếm khuyết về ngôn
ngữ, họ cũng không ngừng giao tiếp với những người xung quanh, thế giới xung
quanh. Từ đó, ta dễ dàng lí giải tại sao hoạt động giao tiếp lại được đề cập, bàn luận
trong hầu hết các lĩnh vực của cuộc sống: Kinh tế học, Ngôn ngữ học, Chính trị học,
Triết học, Văn học,...Trong mỗi lĩnh vực ngôn ngữ giao tiếp đều được nghiên cứu
một cách rất nhiêm túc, bài bản để nâng hoạt động nói năng của con người trở thành
một nghệ thuật. Đặc biệt, trong cuộc sống hiện đại ngày nay khi mà nghệ thuật giao
tiếp có thể được xem là một yếu tố vô cùng quan trọng, có thể quyết định sự thành
bại trong sự nghiệp của một con người, vận mệnh của một dân tộc.
Ví dụ: - Vào những giờ phút căng thẳng trên bàn đàm phán tại Giơ - ne - ver
chẳng phải là nhờ sự khôn khéo của các nhà ngoại giao (cộng thêm chiến thắng lừng
lẫy Điện Biên Phủ) mà chúng ta đã buộc kẻ thù phải kí kết vào bản hiệp định để
miền Bắc nước ta được bước sang một trang sử mới.
- Nhờ chiến lược ngoại giao khôn khéo mà chúng ta đã buộc Trung Quốc
rút giàn khoan Hải Dương 981 ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế trên biển Đông, tránh
đụng độ về quân sự và làm thất bại phần nào dã tâm của chúng.
Xin nói thêm là cũng chẳng cần phải bàn đến những vấn đề đao to búa lớn đó
mà chỉ cần đơn cử đến vấn đề hết sức nhỏ nhặt, thường nhật diễn ra hằng ngày
quanh chúng ta như khi ta muốn một ai đó thuận theo yêu cầu của ta, chẳng phải ta
phải nói năng cho thật khéo léo, thật vừa lòng người đó sao?

Qua đó, tôi chắc rằng tất cả mọi người đều thật sự thấy rõ giao tiếp, nghệ thuật
giao tiếp là môn học quan trọng, là một kĩ năng sống không thể thiếu trong hành
trang của mỗi người. Điều này, đã được kiểm nghiệm một cách hết sức nghiêm túc
qua các bài viết, bài nghiên cứu, cẩm nang cũng như trong thực tiễn cuộc sống của
chính chúng ta.
II.2. Thực trạng:
a) Thuận lợi, khó khăn:
* Thuận lợi:
- Môi trường học tập rộng mở và có nhiều thuận lợi;
- Điều kiện kinh tế phát triển giúp các em có điều kiện đi nhiều, tiếp xúc nhiều;
- Ngành giáo dục đã xây dựng chương trình Giáo dục kĩ năng sống toàn diện cho
học sinh ở tất cả các cấp học;
* Khó khăn:
- Gia đình chưa chú trọng lắm đến việc điều chỉnh hành vi nói năng cho trẻ;
- Trong quá trình giao tiếp hằng ngày, các em ít được sự quan tâm uốn nắn với
những cách nói chưa đúng, chưa hay;
- Môi trường xã hội phức tạp là tấm gương xấu cho các em học theo;...
- Sự giao lưu, hòa nhập quốc tế đang diễn ra khá mau lẹ đã ảnh hưởng nhiều đến lối
sống, hành vi, ngôn ngữ của các em.
b) Thành công, hạn chế:
* Thành công:
4


- Giúp các em hiểu vai trò to lớn của kĩ năng giao tiếp;
- Nắm rõ được các nguyên tắc trong giao tiếp;
- Biết được các cách thức giao tiếp;
- Có kĩ năng sử dụng ngôn ngữ hiệu quả và tự tin trong giao tiếp với mọi người
xung quanh.
* Hạn chế:

- Việc áp dụng đề tài còn hạn hẹp trong môi trường học tập;
- Việc kết hợp rèn luyện kĩ năng giao tiếp và các kĩ năng khác còn nhiều khó khăn;
- Thời gian áp dụng đề tài chỉ mới bắt đầu được một thời gian ngắn;
- Sự kết hợp giữa nhà trường, các giáo viên bộ môn, gia đình, cộng đồng để rèn
luyện kĩ năng giao tiếp còn chưa thật nhuần nhuyễn,...
c) Mặt mạnh, mặt yếu:
* Mặt mạnh:
- Đề tài đã đề cập đến vấn đề vô cùng quan trọng và cần thiết đối với học sinh
THCS nói riêng và con người nói chung;
- Đề tài đem lại nhiều lợi ích thiết thực, nhiều mặt cho cá nhân mỗi học sinh để tăng
khả năng biểu lộ tâm tư, tình cảm, nhận thức, tư duy, học hỏi cho các em học sinh;
- Đề tài đã áp dụng những tình huống cụ thể, gần gũi thường gặp để các em có cơ
hội thực hành, vận dụng hiệu quả những phần lí thuyết được học vào đời sống riêng
của mình;
* Mặt yếu:
- Đối với một số em khả năng làm việc nhóm, sự tự tin, kĩ năng ứng phó với căng
thẳng còn hạn chế thì sự tiến bộ của các em là chưa thật rõ rệt.
d) Các nguyên nhân, yếu tố tác động:
- Giao tiếp là hoạt động vô cùng cần thiết trong cuộc sống, chúng ta không thể sống
mà không có sự giao tiếp với mọi người và thế giới xung quanh.
- Sự trăn trở của một người dạy về ngôn ngữ, nghệ thuật sử dụng ngôn từ mà đôi khi
phải chứng kiến cảnh học sinh ăn nói một cách vụng về hoặc không biết làm thế nào
để diễn tả suy nghĩ của bản thân.
- Bản thân tôi nhận thức được vai trò to lớn của giao tiếp.
e) Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.
Đất nước ta sau 40 năm độc lập đã đem đến cho mỗi người dân Việt Nam được
quyền tự do, mưu cầu hạnh phúc như Bác Hồ kính yêu hằng mong muốn. Nhưng có
lẽ, điều hạnh phúc hơn cả là sự thống nhất này tạo điều kiện thuận lợi để cho bao
thế hệ con em của chúng ta được sống trong một thế giới thật sự an toàn. Hòa cùng
với sự phát triển hằng ngày, hằng giờ của đất nước, các em cũng có nhiều hơn các

cơ hội để học tập, giao lưu, học hỏi cùng bạn bè khắp nơi. Nếu như không nhìn sâu
vào vấn đề này, ta ngỡ như đây là chuyện hết sức bình thường. Nhưng nếu suy
ngẫm một cách nghiêm túc thì ta sẽ thấy rõ đây là một cơ hội to lớn. Vì rõ ràng
rằng, môi trường học tập của một con người không chỉ bó hẹp trong phạm vi nhà
trường hay trong sách vở mà môi trường học tập của các em hiện hữu ở mọi lúc,
5


mọi nơi bởi "Học thầy không tày học bạn". Do đó, hoạt động vui chơi, giao lưu sẽ
giúp hình thành và rèn luyện kĩ năng giao tiếp cho các em một cách tự nhiên, không
gò bó, cứng nhắc. Hiện nay, các nhà nghiên cứu giáo dục không ngừng áp dụng các
mô hình giáo dục tiên tiến cùng với mô hình giáo dục truyền thống đã giúp cho cả
thầy lẫn trò thay đổi về tư duy dạy - học. Đây không phải là một quá trình truyền
thụ tri thức từ thầy đến trò nữa mà là quá trình học sinh chủ động tìm hiểu và chiếm
lĩnh tri thức dưới sự hướng dẫn của người thầy.

Phương pháp này thật sự phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
học sinh. Đồng thời cũng buộc các em phải vận dụng khả năng giao tiếp để trao đổi,
tiếp nhận thông tin từ các hoạt động học tập với nhóm học tập của mình. Vì mục
tiêu giáo dục của chúng ta hiện nay không phải là đào tạo ra những con "mọt sách"
mà là những thế hệ khỏe cả về thể lực lẫn trí lực. Các em không chỉ được trang bị về
kiến thức mà còn được trang bị đầy đủ kĩ năng sống trong đó có kĩ năng giao tiếp.
Đây chính là nguyên nhân để giúp các em phát triển một cách toàn diện. Bên cạnh
đó, các em còn được tạo nhiều điều kiện để thâm nhập cuộc sống, trực tiếp trải
nghiệm những gì đã được học trong sách vở qua các hoạt động ngoại khóa. Chính
điều này đã rèn luyện cho các em khả năng hòa nhập, linh hoạt xử lí các tình huống
thường xảy ra, phát triển khả năng giao tiếp trong xã hội.
Đồng thời, sự phát triển kinh tế cũng giúp cho các bậc phụ huynh có nhiều điều
kiện chăm lo cho con cái của họ về mọi mặt. Thay vì phải tất bật với chuyện chén
cơm manh áo, họ đã có nhiều thời gian hơn để quan tâm sâu sát đến việc phát triển

toàn diện cho con em mình. Ngoài đầu tư cho việc học các em còn có cơ hội đi tham
quan, tìm hiểu về đất nước, tham gia các lớp học năng khiếu, có cơ hội tự trải
6


nghiệm các hoạt động từ thiện,...Từ đó, chính bản thân các em cũng đã thu nhận
được nhiều bài học, phát triển tư duy của bản thân và đặc biệt qua đó vốn sống, vốn
hiểu biết, vốn ngôn ngữ của các em cũng được tăng lên.

Tuy nhiên, một thực trạng mà ta cũng dễ thấy đó là dù điều kiện để chăm lo và
đầu tư cho con cái đã có nhiều thuận lợi nhưng kĩ năng của của các bậc phụ huynh
trong quá trình uốn nắn, điều chỉnh hành vi giao tiếp phải nói còn có nhiều vấn đề
cần bàn. Nếu các bậc cha mẹ của chúng ta đều biết phải chăm sóc con cái cẩn thận
về nhu cầu dinh dưỡng để con có một cơ thể khỏe mạnh thì việc chú ý đến hành vi
giao tiếp của các em chưa được quan tâm đúng mức. Những cách nói năng chưa đẹp
hằng ngày của chúng ta ảnh hưởng không tốt đến các em.
Ví dụ: - Các bà mẹ thường hay la mắng con gay gắt khi chúng mắc lỗi.
- Hành vi nói tục bừa bãi trong gia đình hay nơi công cộng.
Những cách giao tiếp tiêu cực này cũng sẽ được hình thành trong vốn sống của
trẻ và chúng cũng sẽ có xu hướng lặp lại như người lớn đã làm vì gia đình chính là
nơi hình thành nhân cách cho trẻ.
Trong khi đó các em lại ít được rèn giũa, uốn nắn từ những hành vi giao tiếp
đơn giản nhất như gặp người lớn mà không chào; khi ăn phải biết mời người lớn,
nói năng với người vai trên mà thiếu lễ phép,...Thêm vào đó, môi trường xã hội
ngày càng phức tạp, các nét đẹp về truyền thống văn hóa, thuần phong mĩ tục của
dân tộc cũng đang bị bào mòn, lối nói kiểu dân "anh chị" trên các trang mạng xã hội
làm mất đi vẻ đẹp trong giao tiếp của người Việt chúng ta. Rồi sự giao lưu văn hóa
một cách không chọn lọc cũng đã và đang khiến cho hành vi ngôn ngữ của các em
có nhiều sự thay đổi theo hướng tiêu cực. Có em thì khả năng giao tiếp phát triển
nhanh nhưng đó lại là "lợi thế" để các em xảo biện; Có em tư duy ngôn ngữ giao

tiếp lại chậm phát triển trở nên rất rụt rè, nhút nhát và ngại giao tiếp với mọi người
7


nhất là người lạ. Như vậy, thì dù là chiều hướng thế nào đi chăng nữa cũng có ảnh
hưởng không tốt đến học sinh. Đồng thời cũng tạo nhiều khó khăn hơn trong quá
trình rèn luyện kĩ năng giao tiếp tích cực cho các em.
Tuy nhiên, một điều thật đáng mừng là trong quá trình thực nghiệm đề tài, bản
thân tôi đã ghi nhận được nhiều sự thay đổi, tiến bộ của các em mà cụ thể là đối
tượng học sinh tôi trực tiếp giảng dạy và đảm nhận công tác chủ nhiệm. Trước hết là
đề tài đã phần nào thay đổi cách suy nghĩ, nhìn nhận của các em về vai trò của giao
tiếp trong cuộc sống. Giúp các em hiểu giao tiếp là điều kiện tiên quyết giúp con
người có thể tồn tại.
Ví dụ: Em Hồ Thị Mỹ Quyên lớp 9B tôi đã theo dạy em từ lớp 6 năm học 2012 2013. Lần đầu tiên tôi gọi em lên bảng trả bài, tôi đã thật sự ngạc nhiên bởi em chỉ
đứng yên mà không có một lời nói đáp trả lại các câu hỏi tôi đưa ra. Tìm hiểu lí do
thì tôi biết em gặp vấn đề rất lớn trong giao tiếp với mọi người. Em chỉ giao tiếp với
người thân quen trong gia đình còn với người lạ (kể cả bạn bè trong lớp) thì em có
rất ít sự giao lưu. Những ngày tiếp theo, tôi thấy em gần như cô độc trong khi các
bạn cùng lớp thì vui tươi, hiếu động.
Từ trường hợp đó đã cho thấy nhờ có sự giao tiếp thì chúng ta mới có thể giao
lưu tình cảm, thấu hiểu lẫn nhau, mới tạo ra sự ràng buộc và gắn kết trong cộng
đồng.
Bên cạnh việc giúp mỗi học sinh hiểu được vai trò to lớn của giao tiếp thì đề tài
cũng cho các em nắm rõ được các nguyên tắc trong giao tiếp. Để thực hiện điều này
tôi đã hướng dẫn các em phải xác định rõ mình đang nói với ai? Nói cái gì? Nói để
làm gì? Nói như thế nào? Xác định rõ những câu hỏi này sẽ giúp các em có thái độ,
cách thức, ngôn ngữ phù hợp với từng tình huống giao tiếp.
Ví dụ: Xây dựng cho các em tình huống cụ thể như:
- Ở vai ngang hàng, bạn bè:
+ Quan hệ thân quen:

Nam: Đi đâu thế?
Khoa: Đi chơi.
+ Quan hệ sơ (chưa thân thiết):
Nam: Xin lỗi, cho mình mượn cây thước được không?
Khoa: Ồ được, bạn lấy đi.
Nam: Cám ơn bạn nhé!
- Ở vai trên hoặc dưới:
Bác Ba: Cháu ơi, cho bác hỏi ai chủ nhiệm lớp 9C vậy cháu?
Lan: Dạ thưa bác! Giáo viên chủ nhiệm lớp 9C là cô Từ ạ.
Như vậy qua các nguyên tắc giao tiếp cụ thể sẽ giúp các em có thể điều chỉnh,
điều khiển hành vi ngôn ngữ của mình cho thật phù hợp với các chuẩn mực của xã
hội, quan hệ xã hội. Từ đó, giúp các em tự tin hơn trong việc tham gia một cuộc
thoại, kinh nghiệm của bản thân cũng được nâng lên và từ đó đời sống tâm lý cũng
được phát triển phong phú hơn.
8


Rõ ràng, đề tài đã tạo ra nhiều sự chuyển biến trong lối nói, lối giao tiếp của học
sinh. Tuy vậy, bản thân cũng nhận thấy một số hạn chế nhất định bộc lộ trong quá
trình áp dụng đề tài trong cuộc sống. Trước hết, mong muốn của tôi là tập trung vào
các đối tượng học sinh mà tôi trực tiếp giảng dạy và phụ trách. Cho nên, đối tượng
của đề tài bị thu hẹp trong môi trường học tập, qua các mối quan hệ giao tiếp giữa
thầy với trò; trò với trò. Mà đây lại là một môi trường khá chuẩn mực và lành mạnh.
Vì thế nó chưa thể tạo ra được các tình huống phức tạp để đòi hỏi các em bộc lộ các
cách thức giao tiếp, ứng xử của mình. Cho nên, việc dự báo cũng như đưa các ví dụ
cụ thể về những vấn đề trong cuộc sống chưa được thường xuyên mà chủ yếu là qua
các tiết luyện nói, hoạt động ngoài giờ lên lớp,...
Thêm vào đó, việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THCS tuy đã được coi
trọng nhưng hiệu quả mang lại vẫn chưa như mong muốn. Minh chứng là vẫn có rất
nhiều em chưa có kĩ năng tự bảo vệ mình.

Ví dụ: - Làm mẹ bất đắc dĩ khi còn ngồi trên ghế nhà trường;
- Là nạn nhân của bạo lực học đường mà không biết tìm sự giúp đỡ;
- Bị tai nạn đuối nước;
- Chưa có ý thức bảo vệ môi trường;..
Tất cả những sự yếu và thiếu kĩ năng sống đó sẽ gây ra những hậu quả khôn
lường và còn ảnh hưởng tiêu cực trong quá trình rèn luyện kĩ năng giao tiếp vì một
khi con người thiếu sự tự tin, bản lĩnh, vốn sống thì nghiễm nhiên khả năng giao
tiếp cũng không thể tốt được. Thêm vào đó, tôi cũng nhận thấy học sinh THCS đang
ở một giai đoạn phát triển tâm lí hết sức đặc biệt, những tác động dù là nhỏ của môi
trường xung quanh cũng dễ khiến các em có thể bị kích động. Mà để tạo cho các em
một lối giao tiếp linh hoạt, hiệu quả thì không phải chỉ ngày một, ngày hai là làm
được mà nó đòi hỏi cả một quá trình lâu dài để tạo cho hoạt động đó trở thành một
phản xạ có ý thức.
Trong khi thời gian áp dụng đề tài cũng còn ngắn, chủ yếu là trong các hoạt
động tại trường. Bên cạnh đó, việc áp dụng đề tài cũng chưa có sự đồng bộ cao, nhà
trường cũng chưa xây dựng được nhiều hoạt động bổ ích (đi thăm gia đình thương
binh liệt sĩ, các hoạt động bảo vệ môi trường,...). Giữa giáo viên các bộ môn trong
việc phối hợp giáo dục kĩ năng giao tiếp cũng chưa sâu sát. Có giáo viên còn chưa
chú ý nhiều đến cách nói chuyện, cách trả lời hay câu cú còn lủng củng, thiếu chủ
ngữ của các em. Thêm vào đó, địa bàn trường THCS Trần Hưng Đạo chúng tôi
đóng tại một xã xa trung tâm, bà con nơi đây chủ yếu là làm nông. Vì thế, cho dù
tạo mọi điều kiện cho con ăn học nhưng với tư tưởng "Trăm sự nhờ thầy" nên việc
chú ý uốn nắn hành vi của con cái trong giao tiếp cũng còn hạn chế. Một điều đáng
bàn ở đây là cách ăn nói hằng ngày của chính các bậc phụ huynh đôi khi còn ảnh
hưởng xấu đến các em (nói tục, cãi nhau,...).
Nhưng phải khẳng định, điều thúc đẩy tôi thực hiện đề tài này là xuất phát từ
chính tác dụng to lớn mà đề tài sẽ mang lại cho tất cả học sinh của tôi. Bởi như tôi
đã đề cập rèn luyện kĩ năng giao tiếp là vấn đề vô cùng quan trọng và cần thiết đối
9



với học sinh THCS nói riêng và con người nói chung. Qua giao tiếp, các em có thể
tham gia vào các mối quan hệ đa chiều, phức tạp của xã hội. Từ đó, giúp các em
lĩnh hội các nét đẹp văn hóa, chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực xã hội và thông qua
giao tiếp để các em hình thành năng lực tư duy, năng lực tự ý thức. Xuất phát từ
điều đó, tôi đã xây dựng các qui tắc rõ ràng, dễ áp dụng, xây dựng các tình huống cụ
thể, gần gũi thường gặp để các em có cơ hội thực hành, vận dụng hiệu quả những
phần lí thuyết được học vào đời sống riêng của mình. Biến những kinh nghiệm của
mọi người thành cái của riêng mình, vận dụng theo quan điểm và lối suy nghĩ của
bản thân chứ không phải vận dụng một cách máy móc.
Tuy vậy, trong quá trình thực nghiệm tôi cũng nhận thấy rằng, đối với những
học sinh còn yếu về kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng ứng phó với căng thẳng thì sự
tiến bộ của các em chưa được như ý muốn của bản thân.
Ví dụ: Em Nguyễn Văn Lâm lớp 9A từ một học sinh hết sức nhút nhát, rụt rè.
Trong bài luyện nói môn Ngữ văn năm em học lớp 6, khi tôi gọi lên bảng, em không
thể tự giới thiệu bất cứ một điều gì về bản thân và gia đình của mình thì hiện tại em
đã tự tin hơn khi giao tiếp với thầy cô. Tuy nhiên, sự linh hoạt, sức biểu lộ tình cảm,
cảm xúc của em vẫn chưa bằng các bạn cùng lớp.
Tuy nhiên, sự tiến bộ của học sinh (dù là rất nhỏ) cũng chính là động lực cho tôi
trong nghiên cứu. Bởi tôi nhận thức rất rõ con người không thể sống nếu không có
sự giao tiếp với mọi người và thế giới xung quanh. Giao tiếp là nhu cầu lâu bền nhất
của chúng ta từ khi sinh ra đến khi nhắm mắt xuôi tay. Có thể nói, ở đâu có con
người ở đó có giao tiếp. Bên cạnh đó là sự thôi thúc của nghề, tôi - một người dạy
về ngôn ngữ, nghệ thuật sử dụng ngôn từ mà đôi khi phải chứng kiến cảnh học sinh
ăn nói một cách vụng về hoặc không biết làm thế nào để diễn tả suy nghĩ của bản
thân thì làm sao không khỏi lo lắng cho các em. Rồi sau này khi các em trưởng
thành có nghề nghiệp, lao động để kiếm sống các em cũng phải giao tiếp; muốn
hành nghề được cũng phải có nghệ thuật giao tiếp. Từ đó các em mới có cơ hội tồn
tại và thành công trong cuộc sống.
* Kết quả khảo sát trước khi áp dụng chuyên đề:

Khảo sát 1: cho 160 em học sinh khối 6, 7 vào tháng 12/2013 làm bài trắc
nghiệm hiểu biết về vai trò của kĩ năng giao tiếp. (Trong tiết Hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp).
Nội dung câu hỏi:
Câu 1: Em có thường giao tiếp hằng ngày không?
a) Có
b) Không (Tại sao)
Câu 2: Khi giao tiếp chúng ta có mục đích không?
a) Có
b) Không
Câu 3: Trong giao tiếp không cần có nghệ thuật?
a) Đúng
b) Sai
Câu 4: Ngôn ngữ và cách thức giao tiếp trong các cuộc thoại có phong phú không?
a) Có
b) Không
10


Câu 5: Khi đối tượng và hoàn cảnh giao tiếp thay đổi thì cách thức thức giao tiếp và
ngôn ngữ giao tiếp không thay đổi ?
a) Đúng
b) Sai
Nội dung cần đạt:
Câu 1: a) Có
Câu 2: a) Có
Câu 3: b) Sai
Câu 4: a) Có
Câu 5: b) Sai
Kết quả khảo sát


TSHS
được
sát
160

khảo Nội dung khảo sát

Tốt
TS

Vai trò của kĩ năng
125
giao tiếp

Chưa tốt
%

TS

%

78.1

35

21.9

II.3. Các giải pháp, biện pháp:
3.a. Mục tiêu của giải pháp:

Qua việc nhận thức được tầm quan trọng của kĩ năng giao tiếp đối với học
sinh THCS nói riêng và tất cả chúng ta nói chung, đề tài: "RÈN LUYỆN KĨ NĂNG
GIAO TIẾP CHO HỌC SINH THCS" hướng tới mục tiêu làm rõ thế nào là kĩ
năng giao tiếp? Kĩ năng giao tiếp có vai trò cụ thể như thế nào? Các nguyên tắc cần
có khi giao tiếp của cả giáo viên và học sinh. Đồng thời, đề tài cũng đặt ra một số
tình huống cụ thể để học sinh có thể thực hành kĩ năng giao tiếp thông qua các hoạt
động tại trường, qua các bài học và cả thông qua các hoạt động vui chơi tập thể.
3.b. Nội dung và cách thực hiện các giải pháp, biện pháp.
3.b1. Đối với giáo viên:
Việc hướng đến người giáo viên trong việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
THCS có thể khiến cho mọi người cảm thấy ngạc nhiên. Nhưng tôi thiết nghĩ, việc
học của con người là việc làm cả đời (ngay với người giáo viên cũng vậy). Vì thế
việc bồi dưỡng kĩ năng giao tiếp cho giáo viên sẽ có ý nghĩa hết sức tích cực. Điều
đó, sẽ giúp khoảng cách giữa thầy và trò được thu hẹp lại, kĩ năng giao tiếp sẽ giúp
cho người thầy có thể thấu hiểu được suy nghĩ, khả năng nhận thức của học trò cũng
như biết điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với từng đối tượng học sinh.
Để đạt được hiệu quả cao trong cuộc giao tiếp, theo tôi người giáo viên cần chú
ý đúng mức đến những kĩ năng giao tiếp sau:
* Trong cuộc giao tiếp thầy/cô cần chú ý vào đối tượng giao tiếp. (có thể nhìn
vào mắt, không nhìn đi chỗ khác):
Điều này tưởng chừng như nhỏ nhặt nhưng cử chỉ này lại khiến cho học sinh đối tượng giao tiếp nhận thấy họ thật sự quan trọng trong cuộc thoại đó và người
giao tiếp đang rất tôn trọng, chú ý đến mình. Đồng thời, còn khiến cho học sinh tập
trung và chú ý tối đa đến điều mà thầy/cô đang nói, trao đổi.
11


Ví dụ: Khi ta trò chuyện với học sinh về một vấn đề trong học tập hay cuộc
sống, phải đảm bảo cho các em thấy rằng bạn thật sự đang tập trung vào đề tài giao
tiếp bằng cách không nhìn đi chỗ khác hoặc chú ý đến vấn đề nào đó xung quanh.
Vì việc bạn chú ý đến người khác sẽ khiến các em nghĩ bạn đang không muốn nói

hoặc không hứng thú với vấn đề mà giữa thầy trò đang đề cập.
* Thầy/cô nên thường xuyên động viên, khích lệ các em:
Chêm xen vào các lời thoại của học sinh chúng ta có thể dùng các từ ngữ biểu
thị sự đồng ý như "đúng rồi, cô/thầy hiểu, phải,..." hoặc các cử chỉ như "gật đầu,
mỉm cười,..." những từ ngữ hay cử chỉ này sẽ giúp học sinh có thể cảm nhận, đoán
biết thái độ của chúng ta. Từ đó, các em có thể tự tin trình bày điều mình đang có ý
định nói hoặc điều chỉnh nội dung cho phù hợp.
Ví dụ: Khi chúng ta gọi học sinh lên bảng (đứng dậy trả bài) trong khi học sinh
trả lời yêu cầu chúng ta, hãy khuyến khích các em bằng nụ cười, cái nhìn thân thiện
để các em bình tĩnh và tự tin. Với cử chỉ đó, chắc chắn chúng ta có thể giúp các em
bớt run sợ để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
* Thầy/cô cần chắc chắn rằng học sinh hiểu được nội dung mà thầy/cô đang
nói:
Chúng ta đều biết, quá trình giao tiếp không đơn thuần là một hệ thống phát và
thu, truyền và nhận thông tin một cách máy móc. Mà là sự trao đổi công việc giữa
hai chủ thể tích cực, hai con người, hai nhân cách. Do vậy, muốn giao tiếp thành
công, muốn thực hiện được quá trình trao đổi thông tin giữa hai chủ thể thì phải sử
dụng chung một hệ thống tín hiệu, được mã hóa bởi người gửi và giải mã bởi người
nhận. Tính chất của thông tin không chỉ là thông báo thuần túy, mà trong giao tiếp
thông tin đó phải tác động đến tâm lí người nhận. Để từ đó, thay đổi hành vi, suy
nghĩ của đối tượng giao tiếp. Điều đó mới nói lên hiệu quả của giao tiếp. Vì thế, khi
phát đi thông tin, chúng ta phải đảm bảo được học sinh tiếp nhận và giải mã được
thông tin đó và đây mới chính là mục đích cuối cùng và quan trọng nhất mà ta cần
đạt được.
Ví dụ: Trong một tiết học, bạn nên đặt ra các câu hỏi lật ngược vấn đề kiểu như:
ý kiến của em thế nào? Em hiểu vấn đề đó ra sao? Tại sao em lại cho là như vậy?
Để kiểm tra sự tiếp thu và cách hiểu của học sinh.
* Thầy/cô cần nói có trọng tâm:
Để làm được điều này, cách thức giao tiếp là vô cùng quan trọng. Đừng nói dài
dòng, lan man, hãy nói thật ngắn gọn, có trọng tâm, đi thẳng vào vấn đề, mà thầy/cô

đang muốn nói. Cách nói này vừa giúp học sinh có thể tiếp thu nhanh, chính xác
thông tin. Đồng thời còn giúp cho các em học tập được kĩ năng giao tiếp khoa học
từ chính thầy/cô.
* Thầy/cô cần tạo cơ hội cho học sinh phản hồi, trình bày quan điểm của bản
thân:
Như tôi đã trình bày, quá trình giao tiếp diễn ra giữa hai chủ thể, hai nhân cách,
hai con người, hai suy nghĩ cho nên không chỉ thầy/cô có quyền đưa ra ý kiến mà
12


trong mọi trường hợp chúng ta phải dành thời gian và phải nhận phản hồi từ phía
học sinh. Bởi đó là cách nhìn nhận của các em về tín hiệu mà thầy cô vừa phát đi.
Nhận được những phản hồi đó sẽ giúp thầy/cô điều chỉnh hành vi của mình cho phù
hợp.
Ví dụ: Trong tuần lớp của thầy/cô bị giờ xấu, vào giờ sinh hoạt lớp thầy cô đưa
vấn đề này ra giải quyết. Chúng ta không nên chỉ trách mắng ý thức học tập cũng
như việc rèn luyện nề nếp của các em một cách xối xả. Mà phải để cho các em có cơ
hội trình bày lí do, cảm nhận của các em về giờ xấu đó (bởi đôi khi các em vẫn chưa
thật sự tâm phục khẩu phục trước đánh giá giờ dạy của giáo viên). Nếu chúng ta có
thể kiểm soát cảm xúc của mình, lắng nghe các em kể cả khi chúng mắc lỗi. Chắc
chắn rằng, thầy/cô sẽ chiếm trọn sự tin tưởng, tôn trọng của học sinh dành cho
mình. Trong mắt các em thầy/cô sẽ trở thành người cầm cân nảy mực đáng tin cậy.
Từ đó, tôi chắc chắn rằng việc giáo dục của thầy/cô sẽ nhẹ nhàng và hiệu quả gấp
bội.
* Thầy/cô phải ý thức được việc "lựa lời" khi nói:
Tôi luôn tâm đắc với câu nói của một nhà triết học là những điều bạn không
muốn người khác làm với mình thì hãy đừng làm điều đó với người khác. Câu châm
ngôn này đã cho ta một bài học sâu sắc. Cho ta hiểu rằng trong cuộc sống ai cũng
muốn được yêu thương, tôn trọng. Chẳng ai muốn bị những người xung quanh chỉ
trích, xúc phạm hay làm điều gì đó mà trái ý chúng ta. Điều này là dễ hiểu nhưng có

bao giờ chúng ta tự đặt mình vào đối tượng giao tiếp của mình để xem khi nghe điều
mình nói họ sẽ có cảm giác ra sao? Nếu chúng ta ý thức tốt được điều này thì trong
bất cứ một cuộc giao tiếp nào ta cũng dễ dàng đạt được thành công và mối quan hệ
của chúng ta sẽ trở nên thật sự tốt đẹp.
3.b2. Đối với học sinh:
* Giáo dục cho học sinh hiểu biết thế nào là giao tiếp? Kĩ năng giao tiếp?
Khi bắt tay vào đề tài, tôi không nghĩ rằng bất cứ một em nào trong số học sinh
của tôi không ý thức được: Thế nào là giao tiếp? Bởi lẽ, ngày nào các em cũng thực
hiện hành vi này. Nhưng để giao tiếp một cách tự tin thì tôi chắc không phải em nào
cũng làm được. Điều này được minh chứng rõ ràng qua khảo sát mà tôi đã tiến hành
đối với 115 học sinh các lớp 9A, 9B, 9C năm học 2015 - 2016. Kết quả đã cho thấy
90/115 em cho rằng bản thân tự tin trong giao tiếp với người thân và thầy cô và có
đến 105/115 em cảm thấy chưa tự tin trong giao tiếp với người lạ.
Câu hỏi khảo sát:
Câu 1: Giao tiếp là gì?
Câu 2: Giao tiếp có vai trò gì đối với em và mọi người?
Câu 3: Em đã tự tin trong giao tiếp chưa? Nếu chưa thì điều gì khiến em không tự
tin trong giao tiếp?
Từ đó cho thấy, khoảng cách giữa nhận thức và hành động luôn khá lớn. Việc
biết và việc vận dụng điều mình biết vào hoạt động thực tiễn lại là hai việc hoàn
toàn khác nhau. Cho nên, có nhiều người thường nói: "Tôi biết nhưng khổ lắm tôi
13


không làm được". Vì thế, giáo dục cho các em hiểu một cách thấu đáo về giao tiếp,
kĩ năng giao tiếp là vô cùng quan trọng. Qua các tình huống cụ thể gắn với đời sống
sẽ giúp các em có quá trình thực hành và trải nghiệm bản thân. Từ đó, giúp nâng cao
năng lực giao tiếp hằng ngày. Đây sẽ là nhịp cầu nối giữa kiến thức, sự hiểu biết với
hành vi.
Theo tiến sĩ Bùi Phương Nga thì giao tiếp là sự chia sẻ ý nghĩ, tình cảm, thông

tin với một hoặc nhiều người. Nhưng nó không đơn giản là nói chuyện mà trong đó
còn bao hàm rất nhiều vấn đề khác như: Bạn nói như thế nào? Bạn hiểu đối tượng
giao tiếp với mình như thế nào? Làm thế nào để hai bên có thể hiểu rõ về các thông
tin cùng trao đổi? Bạn làm thế nào để lần giao tiếp đó đạt được kết quả như bạn
mong đợi,...Hiểu và làm được điều đó đồng nghĩa với viêc chúng ta đã hình thành kĩ
năng giao tiếp. Vì kĩ năng giao tiếp được hiểu là khả năng tiếp xúc, trao đổi thông
tin, mong muốn, suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc,...là khả năng thể hiện mối quan hệ
tương tác giữa người này với người khác về các vấn đề khác nhau.
Đồng thời cũng cần cho các em hiểu quá trình giao tiếp diễn ra như thế nào? Vì
đó không đơn thuần là quá trình thu, phát thông tin giữa hai chủ thể mà đó là quá
trình có mục đích nhất định. Cho nên theo cuốn Tâm lý - Đại học Y Hà Nội để cuộc
giao tiếp thành công thì cả hai chủ thể phải cùng sử dụng chung một hệ thống tín
hiệu được mã hóa và thông tin đó không chỉ mang tính chất thông báo mà còn phải
tác động đến tâm lí và thay đổi hành vi của cả hai chủ thể.
* Giáo dục cho học sinh hiểu vai trò to lớn của giao tiếp trong đời sống:
Dù rằng, bản thân mỗi học sinh đều ít nhiều hiểu về vai trò của giao tiếp nhưng
khi các em chưa có ý thức rèn luyện kĩ năng này trong cuộc sống hằng ngày thì tôi
vẫn khẳng định các em chưa ý thức đầy đủ vai trò to lớn của hoạt động này. Phải
cho các em thấy được chúng ta sống không thể thiếu sự giao tiếp. Giao tiếp chính là
điều kiện tồn tại của chúng ta, tạo nên các mối quan hệ, sự ràng buộc lẫn nhau trong
cuộc sống. Và quan trọng hơn qua hoạt động này có thể giúp các em hình thành và
phát triển nhân cách
Ví dụ: Chúng ta có sự giao tiếp với người xung quanh, môi trường xung quanh
từ khi sinh ra, khi một đứa trẻ được hai đến ba tháng tuổi chúng đã biết giao tiếp với
người lớn và chỉ khi ta chết đi thì quá trình này mới ngừng lại (thậm chí loài người
còn tìm cách giao tiếp với người đã chết - linh hồn).
Bên cạnh đó, cần cho các em thấy nếu chúng ta không giao tiếp thì ta sẽ không
thể nhận thức, tư duy, học hỏi,...Nếu kĩ năng giao tiếp của chúng ta không tốt sẽ hạn
chế đi phần nào khả năng nhận thức, suy nghĩ, tư duy vì qua giao tiếp ta cũng có thể
xác định mức độ hiểu biết của đối tượng, thu nhận được kinh nghiệm, tiến bộ xã hội

để làm vốn kinh nghiệm cho mình,...Giao tiếp càng tốt bao nhiêu thì khả năng nhận
thức càng tốt và hiệu quả bấy nhiêu; Khả năng tiếp thu và học tập của các em ngày
càng tăng. Bởi trong cuộc sống không có ai tự nhiên hay dễ dàng chia sẻ cho ta
những kinh nghiệm quý báu của họ. Như vậy, có thể thấy rõ giao tiếp ngoài ý nghĩa
đối với đời sống xã hội nói chung thì đối với mỗi cá nhân trong xã hội đó, giao tiếp
14


là điều kiện để chúng ta phát triển và hoàn thiện nhân cách, lối sống cho bản thân.
Đồng thời, qua hoạt động giao tiếp còn giúp chúng ta được thỏa mãn những nhu cầu
về thông tin, về việc thu hút sự quan tâm của cộng đồng và cả nhu cầu được thừa
nhận.
* Giáo dục cho học sinh những cách giao tiếp trong đời sống:
- Giao tiếp bằng lời:
Như tôi đã đề cập, ngôn ngữ quả là tài sản vô giá của mỗi quốc gia. Nhờ có
ngôn ngữ mà các giá trị của vật chất và tinh thần được lưu lại cho các thế hệ tương
lai. Ngôn ngữ cũng chính là phương tiện hữu hiệu để biểu đạt ý nghĩ của mỗi người.

Ví dụ: Khi chúng ta muốn nói chuyện hoặc trao đổi thông tin với một ai đó thì
chúng ta phải sử dụng ngôn ngữ để truyền tải thông tin mà chúng ta muốn bày tỏ.
Vậy ngôn ngữ là công cụ giao tiếp mà ta luôn sử dụng hằng ngày. Và việc sử
dụng ngôn ngữ, việc giao tiếp có hiệu quả, truyền tải thông tin một cách rõ ràng,
chiếm được tình cảm của người khác thì ai cũng muốn nhưng không phải ai cũng
làm được.
Ví dụ: - Em Lê Thị Yến Nhi lớp 9A, một học sinh giỏi toàn diện. Em có khả
năng lãnh đạo tốt, khả năng giao tiếp khá tự tin. Nhưng theo tâm sự của em, tôi
được biết trước đây em gặp nhiều trở ngại trong giao tiếp và điều đó khiến em rất
ngại ngùng trong giao tiếp đặc biệt là đối với người lạ. Theo em, sự trở ngại lớn
nhất là do giọng Huế của em. Nhi nghĩ giọng Huế vừa nặng, vừa khó nghe, vừa khó
biểu đạt tình cảm, ngữ điệu cũng không phong phú nên khi tham gia các hoạt động

giao lưu do Liên đội tổ chức em rất ngại và không dám giao tiếp với mọi người.
- Hay trường hợp của em Cao Ngọc Bảo lớp 9A, em cũng là học sinh giỏi.
Theo đánh giá của tôi, em cũng là một học sinh năng động, hoạt bát có khiếu ăn nói.
Nhưng khi trả lời câu hỏi khảo sát của tôi thì em bộc bạch, em vẫn không tự tin lắm
trong giao tiếp vì các lí do: Sợ lời nói của mình khiến người đối diện cảm thấy khó
chịu; Quên những điều mình nói; Sợ cách nói của mình bị nhận xét thô tục; Sợ đám
15


đông; Do khoảng cách giữa em và người nói chuyện, không tự tin vào bản thân, sợ
họ không hiểu mình,...
Như vậy, phần đông hoc sinh của chúng ta vẫn còn gặp nhều vấn đề trong quá
trình sử dụng ngôn ngữ. Để khắc phục điều này tôi đã chỉ rõ cho các em thấy những
lưu ý khi sử dụng ngôn ngữ, cụ thể như sau:
+ Về âm điệu của lời nói: vừa phải, dễ nghe, không cao giọng quá, nói to quá hoặc
nhỏ quá.
+ Khi nói chuyện nên tập trung vào chủ đề thảo luận, tránh phân tán để vừa hiểu nội
dung câu chuyện, vừa thể hiện sự tôn trọng đối phương.
+ Khi đối tượng giao tiếp đang nói thì ta nên lắng nghe, tuyệt đối tránh ngắt lời hoặc
cướp lời khi họ chưa nói hết ý.
+ Trong giao tiếp nên tránh nói nhiều quá mà không chú ý đến thái độ của đối tượng
giao tiếp hoặc đưa ra nhiều câu hỏi cùng một lúc khiến người khác không kịp trả lời.
+ Không nên bảo thủ chỉ coi trọng ý kiến của mình mà không tôn trọng ý kiến của
người khác.
+ Cần xác định rõ vai xã hội của mình để lựa chọn ngôn ngữ cho thật phù hợp,....
- Giao tiếp không lời:
Ngoài lời nói, chúng ta cũng biết rằng ngôn ngữ của cơ thể cũng đóng góp một
phần quan trọng vào cuộc thoại. Trong tình huống giao tiếp bất kì cái gật đầu, lắc
đầu, xua tay, vẫy tay, mỉm cười, nhăn mặt, ánh mắt,...đều có thể giúp chúng ta biểu
đạt tâm trạng, thái độ tình cảm mà không cần dùng lời nói.

Khi biểu thị sự đồng tình ta có thể dùng cử chỉ gật đầu, ánh mắt vui vẻ. Khi biểu
thị sự bất bình ánh mắt của ta sẽ tức giận. Từ đó cho thấy, ngôn ngữ cơ thể có một
sức mạnh vô cùng to lớn, tác động mạnh mẽ đến đối tượng giao tiếp.

Ví dụ: - Em Lê Thị Thu Hằng lớp 9A cảm thấy không tự tin trong giao tiếp vì sợ
thái độ khó chịu và hành động của người khác; Do run sợ; Cảm thấy khó chịu khi
phải đối mặt với đối phương,...
16


- Với em Phạm Thị Bằng Khuyên lại sợ thái độ nghiêm khắc, sợ cử chỉ lơ
đi hoặc hắt hủi của đối phương; Sợ hơi thở không thơm mát tạo sự khiếm nhã,..
Như vậy, ta thấy kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cơ thể quan trọng không kém ngôn
ngữ lời nói vì nó sẽ giúp cho việc giao tiếp của chúng ta đạt hiệu quả cao hơn. Vì
thế, ta cần hướng dẫn cho học sinh cố gắng kết hợp việc giao tiếp không dùng ngôn
ngữ với những gì các em đang nói để thông tin các em truyền đi sẽ có hiệu quả cao
hơn. Để sử dụng tốt giao tiếp không lời cần nhấn mạnh để các em chú ý những điều
sau:
+ Trong khi nói chuyện hoặc trao đổi một vấn đề nào đó nên quay mặt hướng về
người giao tiếp ở tư thế ngang tầm có thể cùng đứng hoặc cùng ngồi.
+ Nét mặt luôn thể hiện sự niềm nở, biểu thị sự quan tâm của mình tới lời nói của
đối tượng, tùy theo nội dung câu chuyện mà thể hiện sự lo lắng, đồng cảm hoặc vui
vẻ,...
+ Trong khi giao tiếp nên nhìn vào mắt đối tượng và duy trì ánh mắt thiện cảm.
+ Có những biểu hiện tán đồng hoặc thể hiện sự lắng nghe như gật đầu.
Với những định hướng, chỉ dẫn cụ thể cộng với ý thức rèn luyện của bản thân
mỗi em sẽ giúp kĩ năng giao tiếp của các em tiến bộ và được cải thiện trông thấy.
Điều đó có ý nghĩa rất lớn bởi các em rút ngắn thời gian mày mò, tìm hiểu, giúp các
em tự tin hơn trong các mối quan hệ của mình. Từ đó, cha mẹ của các em cũng có
thể yên tâm hơn để tập trung cho hoạt động lao động, công tác vì con cái của họ đã

biết cách ứng xử, tự lập,...
* Giáo dục kĩ năng giao tiếp thông qua các môn học:
Như chúng ta đã biết, mục đích của hoạt động học hiện nay không chỉ dừng lại ở
phần kiến thức các em thu nhận được, mà hơn hết chúng ta còn hướng tới các kĩ
năng như giao tiếp, kĩ năng hợp tác, kĩ năng nhận thức, kĩ năng giải quyết vấn
đề,...Điều này được thể hiện rất rõ trong mục tiêu của mô hình trường học mới. Qua
đây, tạo điều kiện cho các em hình thành kĩ năng sống. Bên cạnh đó, phương pháp
dạy học tích hợp cũng đã và đang được quan tâm. Theo đó các thầy/cô giáo không
chỉ truyền đạt nội dung bài học mà thông qua từng nội dung cụ thể còn liên hệ, tích
hợp tới các vấn đề nội dung liên quan. Bản thân tôi thấy qua quá trình áp dụng
những phương pháp dạy học tích cực đem lại nhiều tác dụng. Trong đó, việc rèn
luyện kĩ năng giao tiếp thông qua các môn học như Ngữ văn, Giáo dục công dân,
Địa lí, Lịch sử,... là một việc có nhiều thuận lợi và đem lại hiệu quả trông thấy.
- Qua môn Ngữ văn:
Là một giáo viên Ngữ văn tôi hiểu sâu sắc giá trị của ngôn ngữ đối với con
người. Qua từng tác phẩm văn học giúp cho các em rèn luyện tư duy thẩm mỹ, nâng
cao năng lực cảm thụ và giúp cho tâm hồn được phong phú; qua từng bài Tiếng việt
cho các em hiểu ý nghĩa của câu "Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt
Nam" và qua từng kiểu bài Tập làm văn lại cho các em biết thế giới đời sống nội
tâm phức tạp của bản thân mình. Từ đó có thể khẳng định môn học này có thuận lợi
lớn trong việc rèn luyện kĩ năng sống cho các em.
17


Với kết cấu phân môn gồm có ba phần, ở mỗi phân môn lại cho các em những kĩ
năng cụ thể, mức độ từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp theo chương trình
học của từng khối lớp.
Như ở phần Văn bản sẽ giúp các em rèn luyện khả năng đọc, nói sao cho diễn
cảm. Đây có lẽ là vấn đề gây trở ngại nhiều nhất cho các em khi giao tiếp vì rất
nhiều em sợ giọng của mình không hay sẽ bị người khác chê cười nên rất ngại giao

tiếp với người lạ. Thêm vào đó, các văn bản còn giúp các em nâng cao khả năng
cảm thụ, cảm nhận. Rèn giũa cho các em lòng yêu quê hương, đất nước, hiểu về tình
cảm thiêng liêng của con người về gia đình, thầy cô, bạn bè. Chính qua hoạt động
này giúp sự tư duy của các em được nhạy bén và sâu sắc hơn. Để từ đó, các em biết
ứng xử tế nhị, lịch sự và có thể nắm bắt được tâm lí của đối tượng giao tiếp.
Ví dụ: Qua bài "Tức nước vỡ bờ" trích "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố
Cai lệ: Thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền
sưu! Mau!
Chị Dậu: Nhà cháu đã túng lại phải đóng cả suất sưu của chú nó nữa...Hai ông
làm phúc nói với ông lí cho cháu khất...

Qua văn bản "Lão Hạc" của nhà văn Nam Cao
Ông giáo: Cụ cứ tưởng thế đâý chứ nó chẳng hiểu gì đâu!...Ta giết nó chính là
hóa kiếp cho nó nó đấy, hóa kiếp để nó làm kiếp khác.
Lão Hạc: Ông Giáo dạy phải! Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hóa kiếp cho nó
để nó làm kiếp người, may ra có sung sướng hơn một chút...kiếp người như kiếp tôi
chẳng hạn.
Qua lời thoại của các nhân vật, các em sẽ nhận thấy sự khác biệt rõ nét về ngôn
ngữ của Cai lệ và chị Dậu; Ngôn ngữ của lão Hạc và ông Giáo để từ đó cho các em
hiểu ngôn ngữ thể hiện một cách rõ ràng nhất tính cách, thái độ, địa vị, sự hiểu biết
của một con người. Thế nên mới có câu:
18


"Người khôn ăn nói nửa chừng
Để cho người dại nửa mừng nửa lo"
Bên cạnh đó, phân môn tiếng Việt lại cho các em cơ hội trau dồi vốn từ, làm
giàu vốn từ. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng để làm tăng vốn từ phải thông qua các
hoạt động: nghe, hỏi, thấy, xem, ghi. Qua các tiết học về Từ và cấu tạo của từ tiếng
Việt; Sự phát triển của từ vựng;...sẽ giúp các em làm giàu vốn từ của mình. Để từ

đó, các em có nhiều sự lựa chọn từ ngữ cho phù hợp với ngữ cảnh và đối tượng giao
tiếp. Bởi trong cuộc sống quan hệ xã hội của mỗi người rất đa dạng nên vai xã hội
cũng đa dạng, nhiều chiều. Khi tham gia hội thoại các em phải có ý thức lựa chọn
cách nói và ngôn ngữ thật uyển chuyển. Đồng thời với việc trau dồi vốn từ thì chúng
ta cũng phải hướng cho các em trong việc sử dụng từ cho chính xác cả về nghĩa,
tránh việc diễn đạt không đúng điều cần nói.
Ví dụ: a) Việt Nam ta có nhiều thắng cảnh đẹp.
--> Thừa từ "đẹp" vì thắng cảnh cũng có nghĩa là đẹp.
b) Về khuya, đường phố rất im lặng.
--> Dùng sai "im lặng" (để nói về con người) phải dùng từ "yên tĩnh,.."
c) Những hoạt động từ thiện của ông ấy khiến chúng tôi rất cảm xúc.
--> Sai từ "cảm xúc" (đây là danh từ) phải dùng tính từ "xúc động"
Còn đối với phân môn Tập làm văn sẽ giúp cho các em vận dụng những kiến
thức đã tích lũy vào tình huống giao tiếp cụ thể thông qua các hoạt động của tiết
luyện nói. Với yêu cầu từ thấp đến cao qua các tiết luyện nói kết hợp với các
phương thức biểu đạt của chương trình các em sẽ được thực hành kĩ năng giao tiếp
trước lớp.
Ví dụ: Lớp 6: Các em được giới thiệu bản thân và gia đình.
Lớp 7: Các em được phát biểu cảm nghĩ về một đối tượng hoặc một tác
phẩm văn học.
Sau khi học văn bản Thạch Sanh yêu cầu học sinh tái hiện lại cảnh Thạch Sanh
đánh Chằn tinh nhưng không dùng ngôn ngữ.

19


--> Các yêu cầu cần đạt: dùng hành động của tay, chân, các miếng võ, cảnh vật
lộn, chém, ánh mắt để tái hiện cảnh đánh nhau ác liệt đã xảy ra.
Như vậy, để thực hiện tốt yêu cầu của bài học các em không chỉ cần có kiến
thức mà còn cần cả kĩ năng vận dụng kiến thức; kĩ năng ứng phó với căng thẳng; kĩ

năng thuyết trình, ngôn ngữ lời nói, ngôn ngữ cơ thể và qua đây kĩ năng giao tiếp tự
tin của các em đã được hình thành.
- Qua môn Giáo dục công dân:
Cũng như môn Ngữ văn, môn Giáo dục công dân có một vai trò đặc biệt vì đây
là môn học giáo dục cho con người cách làm người, cách làm việc đúng với chuẩn
mực đạo đức của xã hội, đúng với qui phạm của pháp luật. Bên cạnh đó, cũng cho
các em những bài học về giao tiếp vô cùng bổ ích và thiết thực.
Ví dụ: Trong bài "Lịch sự - Tế nhị" cho tình huống.
Trống đã vào học thầy đang say sưa giảng bài thì Hùng và Nam chạy ào vào lớp
và nói rất to "Em chào thầy ạ". Trong lúc đó, Tuyết đứng nép ở ngoài cửa, nghe
thầy ngừng giảng, mới bước ra trước cửa, nghiêm chào thầy và nói "Em xin lỗi thầy,
em đến chậm. Xin thầy cho em vào lớp"
- Qua tình huống đó ai là người không lịch sự, tế nhị? Ai là người lịch sự, tế nhị?
--> Hùng và Nam là người không lịch sự, tế nhị; Tuyết là người lịch sự, tế nhị.
Qua các tình huống rất gần gũi nhưng dễ gặp ấy sẽ giúp cho các em nhiều bài
học về kĩ năng giao tiếp cho mình một cách tự nhiên, không gò bó, cứng nhắc.
* Giáo dục kĩ năng giao tiếp thông qua các hoạt động khác:
- Hoạt động của Liên đội:
Hằng năm, để tạo cho các em có nhiều hoạt động ý nghĩa, Liên đội của trường
đã tổ chức nhiều chương trình như thăm và tặng quà cho các gia đình Thương binh
liệt sĩ, dọn dẹp nghĩa trang, văn nghệ, cắm trại, tổ chức các cuộc thi, tuyên truyền về
an toàn giao thông.

20


Qua các hoạt động đó các em có thêm cơ hội được giao lưu, tìm hiểu, học cách
làm việc nhóm, mở rộng vốn sống thực tế, tăng khả năng thuyết trình trước đám
đông. Từ đó sẽ giúp các em tự tin, có khả năng giải quyết các vấn đề nảy sinh và
đặc biệt là tạo được sự linh hoạt trong giao tiếp.

- Các tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp:
Ngoài nội dung hoạt động theo chủ đề của từng tháng, tôi đã lồng ghép các tình
huống cụ thể để các em rèn luyện kĩ năng giao tiếp của mình qua lời chào hỏi
thường ngày.
Ví dụ: Đối với học sinh lớp 6.
Để chuẩn bị tâm thế cho các em bước vào năm học thật tự tin tôi đã lồng ghép tổ
chức hoạt động "Chào hỏi và làm quen". Khi tiến hành hoạt động này tôi kết hợp kĩ
thuật dạy học Bể cá:
Chia lớp thành 4 nhóm, có 2 nhóm số lượng bằng nhau và 2 nhóm ít hơn 1 em
so với 2 nhóm kia. Sau đó các nhóm tạo thành vòng, nhóm ít người sẽ làm vòng
tròn phía trong nhóm nhiều người. Quay mặt vào nhau, giới thiệu tên, gia đình, địa
chỉ. Sau khi giới thiệu xong với bạn đối diện vòng ngoài sẽ di chuyển về phía tay
phải còn vòng trong di chuyển về phía tay trái và tiếp tục làm quen vói bạn kế tiếp.
Kết thúc phần giới thiệu, giáo viên mời một số học sinh lên trình bày đặc điểm
chung của lớp mình (địa bàn cư trú, nghề nghiệp của cha mẹ,...).
Đối với học sinh lớp 9 trong tháng chủ điểm "Tiến bước lên Đoàn" cũng hình
thức tổ chức trò chơi đó nhưng giáo viên có thể cho các em nói về ước mơ hoặc dự
định sau khi tốt nghiệp THCS của các em. Từ đó cho các em những định hướng
đúng đắn (tích hợp với giáo dục hướng nghiệp).
Như vậy, các em sẽ chủ động trong cả hoạt động học, chủ động đưa thông tin
của bản thân cho người đối diện chứ không chỉ thụ động tuân theo chỉ dẫn của giáo
viên. Đồng thời chúng ta còn có thể uốn nắn, cho các em những lời tư vấn bổ ích về
định hướng tương lai. Từ đó, tiết học cũng trở nên sôi nổi, lôi cuốn, thiết thực.
- Các tiết sinh hoạt lớp:
Chúng ta đều biết hình thức tổ chức giờ sinh hoạt lớp hiện nay thật sự có nhiều
điều đáng bàn, đáng quan tâm. Dẫu biết rằng, học sinh sẽ có em ngoan ngoãn, nghe
lời thầy cô, có em sẽ chưa ngoan còn vi phạm nội qui trường lớp nhưng chúng ta
cũng phải thừa nhận một thực tế có tình trạng như vậy do rất nhiều nguyên nhân.
Nếu giáo viên chủ nhiệm có phương pháp giáo dục tốt thì có thể giúp các em và đưa
tập thể lớp tiến bộ nhưng nếu phương pháp giáo dục của giáo viên không phù hợp

có thể dẫn đến tình trạng xấu hơn. Cụ thể là có những em sẽ chống đối hoặc trở nên
lì lợm, khó bảo. Trong khi đó, cách tổ chức giờ sinh hoạt lại tương đối nghèo nàn
thường thiên về khuyết điểm, tồn tại và xử phạt. Hình thức đơn điệu, nội dung nhàm
chán. Điều này có thể tạo cho các em tâm lí sợ hãi, lo lắng. Hay tạo không khí nặng
nề trong lớp. Bên cạnh đó còn tác động không tốt đến tâm lí của những học sinh
ngoan mà các em học sinh chưa ngoan cũng chưa chắc đã có sự tiến bộ.

21


Ví dụ: Có những học sinh vì phạm lỗi nên cứ đến ngày thứ 7 (có tiết sinh hoạt
lớp là các em xin nghỉ với lí do bị ốm).
Vì thế, để thay đổi hình thức sinh hoạt đồng thời tạo bầu không khi tích cực cho
lớp học, tôi đã lồng ghép giáo dục kĩ năng giao tiếp bằng việc cho các em tổ chức
thảo luận các chủ đề như: Tình bạn, tình yêu, game online,..để thông qua đó các em
thể hiện quan điểm, suy nghĩ đánh giá của mình. Chính qua cách tổ chức như vậy,
tôi thấu hiểu các em hơn, có những định hướng cụ thể cho những suy nghĩ tiêu cực
và đưa ra được những phương pháp giáo dục phù hợp cho học sinh của mình.

Ví dụ: Chủ đề Bạo lực học đường
- Định hướng yêu cầu:
+ Em hiểu thế nào là Bạo lực học đường?
+ Tại sao trong môi trường học tập tình trạng Bạo lực học đường vẫn xảy ra thậm
chí là còn phổ biến?
+ Biểu hiện của hiện tượng Bạo lực học đường?
+ Tác hại của Bạo lực học đường như thế nào?
+ Làm gì để xóa bỏ hiện tượng này?
- Định hướng trả lời:
+ Khái niệm: bạo lực học đường là những hành vi cố ý, sử dụng vũ lực hoặc quyền
lực đối với người khác, thể gây ra nhưng tổn thương về mặt tinh thần hoặc thể xác

cho người bị hại.
+ Lí do: sống không hòa đồng; thấy bạn khó ưa quá nổi trội; kiêu căng; xích mích
trên face book; bị nói xấu;...
+ Biểu hiện: bắt nạt, lạm dụng thân thể, lạm dụng bằng lời nói, ẩu đả, bắn,...
+ Tác hại: người bị Bạo lực học đường sẽ cảm thấy lo sợ, cô đơn, lạc lõng, tinh thần
suy sụp, khóc lóc một mình, phải xin chuyển lớp, chuyển trường,..
22


+ Biện pháp: Để tránh bị Bạo lực học đường chúng ta cần sống hòa đồng, tích cực
tham gia các phong trào của lớp để hiểu nhau hơn; Khi bị Bạo lực học đường nên
tâm sự với gia đình, bạn bè, giáo viên chủ nhiệm hay thầy cô khác để được giúp đỡ.

Trong quá trình thảo luận tôi chú ý đến vấn đề đưa ra phải gần gũi với các em,
môi trường thảo luận luôn an toàn, thoải mái, dân chủ và đặc biệt là thật sự tôn
trọng ý kiến các em đưa ra. Qua đó, tiết học trở nên thiết thực, tăng sự gắn kết giữa
thầy và trò, các em được rèn luyện nhiều kĩ năng sống và giáo viên cũng có nhiều
biện pháp giáo dục tích cực thay cho những hình thức kỉ luật nặng nề.
3.c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp.
Khi tiến hành chuyên đề “RÈN LUYỆN KĨ NĂNG GIAO TIẾP CHO HS
THCS” chúng tôi đã có nhiều điều kiện thuận lợi như chúng tôi có thể áp dụng đề
tài một cách trực tiếp và thường xuyên với đối tượng nghiên cứu. Bởi bản thân vừa
là người trực tiếp đứng lớp, vừa là giáo viên phụ trách Chi đội. Điều này đã giúp
cho chuyên đề đem lại nhiều hiệu quả. Bên cạnh đó, tôi cũng có thể bổ sung, đúc rút
kinh nghiệm qua mỗi lần áp dụng.
3.d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp:
“RÈN LUYỆN KĨ NĂNG GIAO TIẾP CHO HS THCS” bản thân tôi đã chú
trọng đến việc phối kết hợp với việc giáo dục các kĩ năng sống khác như kĩ năng
ứng phó với căng thẳng, kĩ năng hợp tác. Đồng thời tôi còn chú trọng đến việc cùng
với Liên đội, Chi đoàn, các giáo viên trong trường để tạo ra một môi trường học tập

rộng lớn cho các em. Từ đó, các em có thể tự tin hơn trong giao tiếp, sống hòa đồng
cùng tập thể, sẵn sàng hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm, tự tin trình bày suy nghĩ, mong
muốn của mình trước đám đông.
3.e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:
Trong thời gian tổ chức giáo dục “RÈN LUYỆN KĨ NĂNG GIAO TIẾP CHO
HS THCS” thực tế đã cho thấy, các em từ chỗ nhút nhát, không dám đưa ra ý kiến
23


của bản thân, nói năng ấp úng, ít tham gia các hoạt động của lớp, của trường nay đã
mạnh dạn hơn, tự tin hơn. Các em đã biết cách tự tổ chức các hoạt động và các kỹ
năng sống của mỗi em đã dần được hình thành và phát triển một cách rõ rệt.
* Kết quả khảo sát sau khi áp dụng chuyên đề:
Nội dung khảo sát:
Câu 1: Giao tiếp có vai trò như thế nào trong cuộc sống?
Câu 2: Nêu các cách giao tiếp?
Câu 3: Em đã tự tin trong giao tiếp chưa? Sự tự tin đem lại cho em lợi ích gì?
TSHS
được khảo Nội dung khảo sát
sát

Kết quả khảo sát
Tốt
TS

Chưa tốt
%

TS


%

Kiến thức hiểu biết
130
89
16
11
về KN giao tiếp
Hệ thống câu hỏi khảo sát có tính chất gần gũi, sát với đời sống thường ngày
mà các em đã trải qua. Đồng thời, các câu hỏi đó còn đòi hỏi học sinh phải vận dụng
những hiểu biết, kinh nghiệm của bản thân (trong cuộc sống đời thường và trong
học tập) để trả lời. Từ đó, tôi có thể đánh giá một cách chính xác năng lực tư duy,
cũng như mức độ hiểu biết trong cách giao tiếp của từng em. Qua đó, chuyên đề đã
cho thấy sự chuyển biến rõ rệt trong tư duy cũng như cách vận dụng ngôn ngữ giao
tiếp của học sinh sau khi tôi áp dụng đề tài. Đây là kết quả tích cực, đáng ghi nhận
mà đề tài đã mang lại.
II.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:
Với cái tâm của nhà giáo, mỗi thầy cô trường THCS Trần Hưng Đạo chúng tôi
luôn quan tâm tới việc giáo dục toàn diện học sinh. Để sau này các em trở thành
những công dân tương lai mạnh về thể lực, khỏe về tinh thần, biết yêu cái đẹp và
biết lên án cái xấu. Cụ thể, chúng tôi không chỉ quan tâm giáo dục về tri thức mà
còn giúp các em rèn luyện, hình thành kỹ năng sống nói chung và kĩ năng giao tiếp
nói riêng, trang bị cho các em hành trang vững chắc để tự tin bước vào cuộc sống,
tạo dựng tương lai thành công cho mình trong thời đại hội nhập Quốc tế.
III. Phần kết luận, kiến nghị:
III.1. Kết luận:
Ở các nước phát triển, thanh thiếu niên luôn được chú trọng trong việc giáo
dục kỹ năng sống. Vì đây là cách giáo dục hiệu quả nhất để các em biết cách đối
diện và đương đầu, vượt qua những khó khăn, cũng như biết cách sống có trách
nhiệm. Còn ở nước ta, tuy vấn đề này trong những năm gần đây đã được chú trọng

nhưng phải nói hiệu quả mang lại vẫn chưa được như mong đợi. Với Trường THCS
141

24


Trần Hưng Đạo, bằng những việc làm đơn giản và thiết thực, chúng tôi đã dành
nhiều tâm sức, thời gian nghiên cứu và triển đề tài “RÈN LUYỆN KĨ NĂNG GIAO
TIẾP CHO HS THCS”. Từ những điều đơn giản, đời thường, gần gũi với các em
như: chào hỏi, cám ơn, xin lỗi, quan sát, lắng nghe, giữ gìn vệ sinh môi trường, chấp
hành luật an toàn giao thông,...nhưng đã giúp các em nhận ra giá trị của mình, biết
cách điều chỉnh hành vi, thái độ, biết sống có trách nhiệm, sống có văn hoá, biết
cách tự bảo vệ mình và biết giải quyết những vấn đề khó khăn trong cuộc sống.
III.2. Kiến nghị:
- Liên đội: Cần phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể, tổ chức nhiều hoạt động như trò
chơi, cuộc thi mang tính giải trí cao nhưng vẫn đầy tính giáo dục hay tổ chức các
chuyến tham quan dã ngoại để giúp các em tự rèn luyện nhân cách, khả năng tự lập
và khả năng giao tiếp trong cuộc sống.
- Nhà trường: Cần có kế hoạch để tổ chức áp dụng đề tài vào mọi khối, lớp.
Cuối cùng, tôi rất mong muốn nhận được sự kết hợp nhiệt tình của những
đồng nghiệp có cùng quan điểm để tạo ra những thế hệ học sinh phát triển toàn diện
thông minh trong ứng xử khi đứng trước các tình huống của cuộc sống./.
Rất mong quý đồng nghiệp góp ý chân thành!
Tôi xin cám ơn!
Tam Giang, ngày 22. 10. 2015
Người thực hiện

Hoàng Ngọc Hà

25



×