Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

SKKN NANG CAO HIEU QUA CAC THI NGHIEM VAT LY TRONG DAY HOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.42 KB, 13 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT

ĐỀ TÀI:

NÂNG CAO HIỆU QUẢ THÍ NGHIỆM
TRONG DẠY HỌC VẬT LÍ

NGƯỜI THỰC HIỆN:
TỔ :

VẬT LÍ- KTCN

NĂM HỌC :

2011-2012

1


A. MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỂ TÀI
Làm các thí nghiệm vật lí ở nhà trường là một trong các biện pháp quan
trọng nhất để phấn đấu nâng cao chất lượng dạy và học Vật lí. Điều này quyết
định bởi đặc điểm của khoa học Vật lí vốn là khoa học thực nghiệm và bởi
nguyên tắc dạy học là nguyên tắc trực quan “học đi đôi với hành”.
Thường thì, do kinh nghiệm sống học sinh đã có một số vốn hiểu biết nào
đó về các hiện tượng Vật lí. Nhưng không thể coi những hiểu biết ấy là cơ sở
giúp họ tự nghiên cứu Vật lí bởi vì trước một hiện tượng vật lí, học sinh có thể
có những hiểu biết khác nhau, thậm chí là sai. Ví dụ: Học sinh nào cũng thấy
được mọi vật rơi là do Trái Đất hút, nhưng không ít học sinh lại cho rằng vật


nặng thì rơi nhanh hơn vật nhẹ. Vì vậy, khi giảng dạy Vật lí, giáo viên một mặt
phải tận dụng những kinh nghiệm sống của học sinh, nhưng mặt khác phải chỉnh
lí, bổ sung, hệ thống hoá những kinh nghiệm đó và nâng cao lên mức chính xác,
đầy đủ bằng các thí nghiệm Vật lí, nhờ đó mà tránh được tính chất giáo điều,
hình thức trong giảng dạy.
Làm các thí nghiệm Vật lí có tác dụng to lớn trong việc phát triển nhận
thức của học sinh, giúp các em quen dần với phương pháp nghiên cứu khoa học,
vì qua đó các em được tập quan sát, đo đạc, được rèn luyện tính cẩn thận, kiên
trì, điều đó rất cần cho việc giáo dục kỹ thuật tổng hợp, chuẩn bị cho học sinh
tham gia hoạt động thực tế. Do được tận mắt, tự tay tháo lắp các dụng cụ, thiết bị
và đo lường các đại lượng,..., các em có thể nhanh chóng làm quen với những
dụng cụ và thiết bị dùng trong đời sống và sản xuất sau này.
2


Đặc biệt, việc thực hiện các thí nghiệm Vật lí là rất phù hợp với đặc điểm
tâm – sinh lí và khả năng nhận thức của học sinh, đồng thời tạo điều kiện rèn
luyện cho học sinh các kỹ năng thực hành và thái độ ứng xử trong thực hành, cần
thiết cho việc học tập Vật lí ở các cấp học trên.
Bộ giáo dục đã triển khai thay sách giáo khoa với mục tiêu là để giảm tải
những kiến thức mang tính hàn lâm, tăng tính chủ động cho học sinh. Cụ thể,
phần lớn các kiến thức mới đều được rút ra từ các kinh nghiệm, nhiều tiết thực
hành đã được đưa vào chương trình với sự giúp đỡ đắc lực của các thiết bị đồ
dùng thí nghiệm.
II. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI.
Nhận thức sâu sắc được tầm quan trọng của thí nghiệm Vật lí trong việc
đáp ứng mục tiêu của bộ môn Vật lí, tôi đã chọn đề tài: “Tổ chức các thí nghiệm
Vật lí như thế nào để nâng cao chất lượng giờ học Vật lí” làm nội dung sáng kiến
của tôi. Đi vào nghiên cứu đề tài này, tôi xin được trình bày những nội dung
chính sau:

Phần I: Cơ sở lí luận.
Phần II: Biện pháp thực hiện.
Phần III: Đánh giá kết quả đạt được qua quá trình giảng dạy của bản thân.
Vì trình độ có hạn nên mặc dù có sự cố gắng nỗ lực của bản thân nhưng
bài viết chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Vì vậy tôi rất mong nhận được những ý
kiến đóng góp của bạn đọc, đặc biệt là các đồng nghiệp để tôi có thể nâng cao
hơn nữa chất lượng giảng dạy của tôi.
Tôi xin chân thành cảm ơn !

3


B. NỘI DUNG
PHẦN I: CƠ SỞ LÍ LUẬN
PHÂN LOẠI CÁC THÍ NGHIỆM VẬT LÍ
Trong dạy học Vật lí, mỗi thí nghiệm tiến hành trong tiết học đều được
quy về một trong hai dạng thí nghiệm sau:
I. THÍ NGHIỆM BIỂU DIỄN
Thí nghiệm biểu diễn là thí nghiệm do giáo viên trình bày ở trên lớp.
Căn cứ vào mục đích, có thể chia thí nghiệm biểu diễn thành 3 loại:
1.1. Thí nghiệm nêu vấn đề
- Thí nghiệm này nhằm nêu lên vấn đề cần nghiên cứu tạo ra tình huống
có vấn đề làm tăng hiệu quả của dạy học.
+ Ví dụ: Thí nghiệm tìm mối liên hệ giữa áp suất và thể tích của bài "Định
luật Bôi-Lơ-Ma-Ri-Ốt" vật lí 10 hay thí nghiệm thả vật nặng nhẹ, có kích thước
khác nhau rơi trong không khí trong bài " Rơi tự do" vật lí 10. Giáo viên nêu vấn
đề cho bài học: “Tại sao lại có hiện tượng đó? Để giải thích được, chúng ta đi
vào nghiên cứu bài mới.”
1.2. Thí nghiệm giải quyết vấn đề:
- Thí nghiệm thuộc bài này được thực hiện giải quyết vấn đề đặt ra sau

phần nêu vấn đề. Bao gồm hai loại thí nghiệm:
a. Thí nghiệm khảo sát
- Làm thí nghiệm tiến hành nghiên cứu vấn đề đặt ra thông qua đó giáo
viên hướng dẫn học sinh đi đến khái niệm cần thiết.
4


+ Ví dụ: Thực hành "Khảo sát sự rơi tự do. Đo gia tốc rơi tự do",
b. Thí nghiệm kiểm chứng
- Là thí nghiệm dùng để kiểm tra lại những kết luận được suy ra từ lí
thuyết.
+ Ví dụ: Thí nghiệm kiểm tra lại hiện tượng suy ra từ lí thuyết
Ví dụ: "Bài toán chuyển động của vật ném ngang" hay thí nghiệm lực
không đổi, thay khối lượng của vật để kiểm tra mối liên hệ giữa khối lượng và
gia tốc trong bài "Định luật II Niu-Tơn"
1.3. Thí nghiệm củng cố:
- Thí nghiệm thuộc loại này dùng để củng cố kiến thức đã nghiên cứu bao
gồm cả những thí nghiệm nói lên ứng dụng của kiến thức Vật lí trong đời sống
và trong kỹ thuật.
+ Ví dụ: Khi nghiên cứu lực đàn hồi, làm thí nghiệm giới hạn đàn hồi của lò xo
để chế tạo ra lực kế .
II. THÍ NGHIỆM THỰC HÀNH VẬT LÍ:
Thí nghiệm thực hành Vật lí là thí nghiệm do tự tay học sinh tiến hành
đưới sự hướng dẫn của giáo viên.
*Phân loại:
Với dạng thí nghiệm này có nhiều cách phân loại, tuỳ theo căn cứ để phân
loại:
2.1. Căn cứ vào nội dung:
Có thể chia thí nghiệm thực hành làm hai loại:
a. Thí nghiệm thực hành định tính.

- Loại thí nghiệm này có ưu điểm nêu bật bản chất của hiện tượng.
+ Ví dụ: Thí nghiệm trong bài "Quy tắc tổng hợp lực đồng quy, song
song" hay thí nghiệm tích và phóng điện trong bài "Tụ điện" vật lí 11
b. Thí nghiệm thực hành định lượng.
5


- Loại thí nghiệm này có ưu điểm giúp học sinh nắm được quan hệ giữa
các đại lượng vật lí một cách chính xác rõ ràng.
+ Ví dụ: Thí nghiệm trong bài "Quy tắc momen lực" để tìm quan hệ giữa
F và d (F1d1=F2d2) vật lí 10.
2.2. Căn cứ vào tính chất
Có thể chia thí nghiệm thực hành làm hai loại:
a. Thí nghiệm thực hành khảo sát.
- Loại thí nghiệm này học sinh chưa biết kết quả thí nghiệm, phải thông
qua thí nghiệm mới tìm ra được các kết luận cần thiết. Loại thí nghiệm này được
tiến hành trong khi nghiên cứu kiến thức mới.
- Ví dụ: Thí nghiệm trong bài "Hiện tượng cảm ứng điện từ" vật lí 11.
b. Thí nghiệm kiểm nghiệm
- Loại thí nghiệm này được tiến hành kiểm nghiệm lại những kết luận đã
được khẳng định cả về lí thuyết và thực nghiệm nhằm đào sâu vấn đề hơn.
+ Ví dụ: Thí nghiệm kiểm nghiệm mối quan hệ giữa lực, khối lượng và gia
tốc trong bài "Định luật II Niu-Tơn" đã nói ở trên.
2.3. Căn cứ vào hình thức tổ chức thí nghiệm:
Thí nghiệm thực hành đồng loạt.
-Loại thí nghiệm này tất cả các nhóm học sinh đều cùng làm một thí
nghiệm, cùng thời gian và cùng một kết quả. Đây là thí nghiệm được sử dụng
nhiều nhất hiện nay vì có nhiều ưu điểm. Đó là:
+ Trong khi làm thí nghiệm các nhóm trao đổi giúp đỡ nhau và kết quả
trung bình đáng tin cậy hơn.

+ Việc chỉ đạo của giáo viên tương đối đơn giản vì mọi việc uốn nắn
hướng dẫn, sai sót, tổng kết thí nghiệm đều được hướng dẫn đến tất cả học sinh.
Bên cạnh những ưu điểm, còn một số hạn chế:
+ Do trình độ các nhóm không đồng đều nên có nhóm vội vàng trong khi
thao tác dẫn đến hạn chế kết quả.
6


+ Đòi hỏi nhiều bộ thí nghiệm giống nhau gây khó khăn về thiết bị.
Ví dụ: Khảo sát chuyển động của vật rơi tự do đã nói ở trên.
PHẦN II: MỘT SỐ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN.
I. Đối với thí nghiệm biểu diễn:
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả của các thí nghiệm biểu diễn, bản
thân tôi luôn có gắng thực hiện tốt các nội dung sau:
1.1. Thí nghiệm phải đảm bảo thành công: Nếu thí nghiệm thất bại học
sinh sẽ mất tin tưởng vào bài học và ảnh hưởng xấu đến uy tín của giáo viên.
Muốn làm tốt được điều này, giáo viên phải:
-Am hiểu bản chất của các hiện tượng vật lí xảy ra trong thí nghiệm.
-Nắm vững cấu tạo, tính năng, đặc điểm của từng dụng cụ thí nghiệm cùng
với những trục trặc có thể xảy ra để biết cách kịp thời khi phải sửa chữa. Muốn
vậy, giáo viên phải làm trước nhiều lần trong khi chuẩn bị bài.
1.2. Thí nghiệm phải ngắn gọn một cách hợp lí. Nếu thí nghiệm kéo dài
sẽ khó tập chung sự chú ý của học sinh và dễ cháy giáo án. Muốn vậy giáo viên
phải hạn chế tối đa thời gian lắp ráp thí nghiệm. Thí nghiệm đảm bảo thành công
ngay không phải làm lại. Nếu thí nghiệm kéo dài có thể chia ra nhiều bước, mỗi
bước coi như một thí nghiệm nhỏ.
1.3. Thí nghiệm phải đảm bảo cho cả lớp quan sát. Để làm tốt điều này,
giáo viên cần phải:
-Chuẩn bị dụng cụ thích hợp, có kích thước đủ lớn, có cấu tạo đơn giản thể
hiện rõ được bản chất của hiện tượng cần nghiên cứu. Dụng cụ phải có hình

dáng. màu sắc đẹp, hấp dẫn học sinh, có độ chính xác thích hợp.
-Sắp xếp dụng cụ một cách hợp lí. Điều này biểu hiện:
+ Chỉ bày những dụng cụ cần thiết cho thí nghiệm, không bày la liệt
những dụng cụ chưa dùng đến hoặc chưa dùng xong.
7


+ Bố trí sao cho cả lớp đêu nhìn rõ. Muốn như vậy nên sắp xếp dụng cụ
trên mặt phẳng thẳng đứng. Nếu không được phải đem đến tận bàn cho học sinh
xem. Giáo viên cũng cần chú ý không che lấp thí nghiệm khi thao tác.
1.4. Sử dụng các vật chỉ thị thích hợp: Nhằm tập chung sự chú ý của học
sinh về những điều cần quan sát. Thí nghiệm phải có sức thuyết phục học sinh.
Muốn vậy thí nghiệm phải rõ ràng, chặt chẽ để học sinh không thể hiểu theo một
cách nào khác, phải loại bỏ triệt để những ảnh hưởng phụ, nếu không loại bỏ
được thì phải làm thêm thí nghiệm phụ để chứng tỏ ảnh hưởng phụ là không
đáng kể.
1.5. Thí nghiệm phải đảm bảo cho người và dụng cụ thí nghiệm. Đối với
các chất dễ cháy, nổ phải để xa ngọn lửa và nếu nó bốc cháy thì phải dùng cát
hoặc bao tải ướt phủ lên. Với những chất độc hại như thuỷ ngân thì phải hết sức
thận trọng không để vương vãi. Với các thí nghiệm điện, nếu dùng điện lưới
220V hay 110V thì mạch điện nhất thiết phải có cầu chì ngắt điện và không được
dùng dây trần. Phải nắm vững tính năng, cách bảo quản dụng cụ để không làm
hỏng dụng cụ.
1.6. Phải phát huy được tác dụng của thí nghiệm biểu diễn. Điều đó đòi
hỏi thì:
-Thí nghiệm phải được tiến hành hữu cơ với bài học, tuỳ vào mục đích của
bài học mà đưa thí nghiệm đúng lúc.
-Thí nghiệm phải tiến hành kết hợp với phương pháp giảng dạy khác nhất
là phương pháp đàm thoại và vẽ hình.
-Thí nghiệm chỉ có hiệu quả tốt khi có sự tham gia tích cực, có ý thức của

học sinh. Vì vậy giáo viên phải làm cho học sinh hiểu rõ mục đích của thí
nghiệm, cách bố trí thí nghiệm và các dụng cụ của thí nghiệm. Học sinh trực tiếp
quan sát và rút ra kết luận cần thiết.
II. Đối với thí nghiệm thực hành:

8


Để nâng cao chất lượng và hiệu quả của thí nghiệm thực hành, bản thân tôi
luôn cố gắng thực hiện tốt các nội dung sau:
2.1. Chuẩn bị tốt dụng cụ thí nghiệm thực hành, đảm bảo đủ vể số
lượng, chất lượng. Điều này đòi hỏi giáo viên cần nghiên cứu kĩ chương trình
thực hành ngay từ đầu năm học, xác định cần dụng cụ gì, số lượng bao nhiêu,
còn thiếu những gì để có kế hoạch giải quyết trong năm bằng cách mua thêm
hoặc tự làm hoặc hướng dẫn học sinh tự làm.
2.2. Trình tự tổ chức một thí nghiệm thựe hành. Tôi thường tiến hành
theo các bước sau:
a. Chuẩn bị
-Giáo viên cần đặt vấn đề vào bài, gợi ý để học sinh phát hiện được nội
dung kiến thức cần nghiên cứư, từ đó tiếp tục gợi ý đê học sinh nêu rõ mục đích
của thí nghiệm là gì.
-Giáo viên có thể dùng phương pháp đàm thoại kết hợp vẽ hình để học
sinh lập kế hoạch tiến hành thí nghiệm.
-Giáo viên giới thiệu dụng cụ thí nghiệm và các thao tác mẫu.
b. Tiến hành thí nghiệm
-Nhóm trưởng nhận dụng cụ, điều khiển nhóm tiến hành thí nghiệm. Các
nhóm học sinh tiến hành thí nghiệm. Giáo viên theo dõi chung và giúp đỡ nhóm
gặp khó khăn, nếu cần thì giáo viên yêu cầu cả lớp ngừng thí nghiệm để hướng
dẫn, bổ sung. Cần tránh trường hợp một số em chuyên làm thí nghiệm, một số
em chuyên ghi chép.

c. Xử lí kết quả thí nghiệm
-Với thí nghiệm thực hành khảo sát: Cả nhóm cùng dựa vào kết quả thí
nghiệm để thảo luận tìm ra kiến thức mới. Với thí nghiệm thực hành kiểm
nghiệm, nhóm (hoặc cá nhân) làm báo cáo kết quả thí nghiệm ghi rõ nhận xét và
so sánh kết quả thí nghiệm ghi rõ nhận xét và so sánh kết quả thí nghiệm với lí
thuyết đã học.
9


-Chú ý: Với những thí nghiệm có tính toán: Mỗi học sinh tính toán độc lập
theo số liệu đã thu được và so sánh trong nhóm để kiểm tra lại.
d. Tổng kết thí nghiệm:
-Giáo viên phân tích kết quả của học sinh và giải đáp thắc mắc.
-Giáo viên rút kinh nghiệm và cách làm thí nghiệm của cả lớp.
PHẦN III: ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC QUA QUÁ TRÌNH
GIẢNG DẠY.
Năm học 2011-2012 là năm học thứ 6 thực hiện theo chương trình sách
giáo khoa mới trên toàn quốc. Với sự trang bị tương đối đầy đủ các thiết bị đồ
dùng dạy học, cùng với sự cố gắng nỗ lực của bản thân, tôi đã đạt được một số
kết quả trong quá trình giảng dạy của mình. Cụ thể:
1. Về kiến thức
Học sinh nắm chắc những kiến thức cơ bản của các bài học dựa trên cơ sở
tái hiện lại được các thí nghiệm của bài học. Có mở rộng và nâng cao một số
kiến thức phù hợp cho đối tượng học sinh giỏi.
2. Về kĩ năng
Học sinh có kĩ năng quan sát các hiện tượng và quá trình vật lí để thu thập
các dữ liệu thông tin cần thiết. Kỹ năng sử dụng các dụng cụ đo lường Vật lí phổ
biến, lắp ráp và tiến hành các thí nghiệm Vật lí đơn giản. Kĩ năng phân tích, xử lí
các thông tin và các dữ liệu thu được để giải thích được một số hiện tượng Vật lí
đơn giản, để giải các bài tập Vật lí đòi hỏi những suy luận lôgíc và những phép

tính cơ bản cũng như để giải quyết một số vấn đề trong cuộc sống. Kỹ năng đề
xuất các dự án hoặc các giả thuyết đơn giản về các mối quan hệ về bản chất của
các hiện tượng hoặc sự vật Vật lí. Có khả năng đề xuất phương án thí nghiệm
đơn giản để kiểm tra dự đoán hoặc giả thuyết đã đề ra. Có kĩ năng diễn đạt rõ
ràng, chính xác bằng ngôn ngữ Vật lí.
3. Về tình cảm thái độ
10


Học sinh có hứng thú trong việc học tập bộ môn Vật lí cũng như áp dụng
các kiến thức kĩ năng vào các hoạt động trong cuộc sống gia đình và cộng đồng.
Có thái độ trung thực tỉ mỉ, cẩn thận, chính xác trong việc thu thập thông tin,
trong quan sát và thực hành thí nghiệm. Có tinh thần hợp tác trong học tập, đồng
thời có ý thức bảo vệ những suy nghĩ và việc làm đúng đắn.
Kết quả chất lượng đại trà đạt được của các lớp giảng dạy năm học 2010 –
2011 như sau:
Lớp

Sĩ số

Giỏi
SL
%

Khá
SL
%

TBình
SL

%

Yếu
SL
%

Kém
SL
%

C. KẾT LUẬN
Thực hiện đề tài này, bản thân tôi nhận thấy đề tài đã đạt được ở mức độ
nhất định về nhiều mặt. Cụ thể:
1. Về phương pháp nghiên cứu
Tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm cho bản thân về lí luận phương
pháp giảng dạy thí nghiệm Vật lí trên cơ sở đó có thể vận dụng vào công việc
giảng dạy của mình.
2. Về nội dung:
Đề tài đã giúp tôi có kiến thức cơ bản về cách thức tổ chức và tiến hành
một thí nghiệm Vật lí – dù là thí nghiệm biểu diễn hay thí nghiệm thực hành, từ
đó góp phần nâng cao chất lượng học cho học sinh.
Bên cạnh những kết quả đạt được đó, trong đề tài này còn bộ lộ một số
hạn chế như nội dung chưa thật đầy đủ, trình bày chưa thật khoa học... Bởi vậy

11


tôi luôn đặt cho mình nhiệm vụ không ngừng học hỏi, nghiên cứu để hoàn thành
tốt đẹp mục đích đã đề ra trong đề tài này
, ngày 9 tháng 4 năm 2012

Người viết

12


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Sách vật lí 10 cơ bản và vật lí10 nâng cao nhà xuất bản giáo dục.
2.Sách vật lí 11 cơ bản và vật lí11 nâng cao nhà xuất bản giáo dục.
3.Sách vật lí 12 cơ bản và vật lí12 nâng cao nhà xuất bản giáo dục.
4.Tài liệu bồi dưỡng Giáo viên vật lí 10;11;12 nhà xuất bản giáo dục.

13



×