Tải bản đầy đủ (.doc) (171 trang)

Hiệu quả giáo dục văn học đường cho sinh viên các trường đại học ở hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1014.61 KB, 171 trang )

BẢNG QUY ĐỊNH VIẾT TẮT
Cán bộ nhân viên

:

CBNV

Chủ nghĩa xã hội

:

CNXH

Giảng viên

:

GV

Giáo dục văn hóa học đường

:

GDVHHĐ

Hiệu quả giáo dục văn hóa học đường

:

HQGDVHHĐ


Sinh viên

:

SV

Văn hóa học đường

:

VHHĐ


1

MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại hội Đảng XI đã định
hướng phát triển văn hóa: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm, đà
bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu
sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và
thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội,trở thànhnền tảng tinh thần vững chắc,
sức mạnh nội sinh của sự phát triển..”[6; Tr.37].
Với vai trò quan trọng của mình, văn hóa được coi như nguồn lực mềm để
thúc đẩy phát triển kinh tế, làm hài hòa, lành mạnh các quan hệ xã hội. Do đó,
văn hóa bao giờ cũng gắn liền với giáo dục và giáo dục phải song hành với văn
hóa. Sinh viên là một lực lượng có vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng
và bỏa vệ tổ quốc. Trong lịc sử và hiện tại đã luôn được khẳng định, nhất là lại
được đặt trong bối cảnh sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, kinh tế

tri thưc, và toàn cầu hóa, thì vai trò đó càng rõ nét. Do đó, đào luyện lực lượng
sinh viên phát triển toàn diện cả đức, trí, thể mỹ chính là vun bồi một nguồn lực
quý báu của đất nước, là kiến tạo tiền đồ, tương lai của dân tộc. Đảng và Nhà
nước luôn quan tâm đến nhiệm vụ này, đã có 2 nghị quyết chuyên đề chỉ đạo
trong một nhiệm kỳ. Nghị quyết hội nghị trung ương 8 khóa XI ( Nghị quyết số

29-NQ/TW) “Về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng nhu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập”; Nghị quyết hội nghị trung ương 9 khóa XI ( Nghị

quyết số 33-NQ/TW) “Về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững đất nước” đã xác định những nội dung và

giải pháp xây dựng văn hóa con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của giai đoạn
phát triển mới. Đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, trụ cột của công
cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, mà trách nhiệm đó trước hết thuộc về ngành
giáo dục, nhất là giáo dục bậc đại học. Để thực hiện tốt nhiệm vụ đó, một trong


2

những biện pháp quan trọng là xây dựng trường đại học tật sự trở thành môi
trường văn hóa và làm những giá trị, chuẩn mực hành vi văn hóa đó thấm sâu và
chuyển hóa thành những phẩm chất và năng lực tốt đẹp trong sinh viên, định
hình nên nhân cách sinh viên phù hợp với mục tiêu giáo dục và đào tạo và đáp
ứng được yêu cầu của xã hội, thực hiện nhiệm vụ xây dựng, phát triển văn hóa,
con người Việt Nam theo Nghị quyết của Đảng.
Trên thực tế ở các trường đại học hiện nay, phần lớn sinh viên vẫn giữ
được những giá trị, nét đẹp văn hóa truyền thống như: tôn sư trọng đạo, tích cực,
chủ động, sáng tạo trong học tập; nêu cao ý thức trách nhiệm, rèn luyện phẩm

chất đạo đức, lối sống lành mạnh, dám đấu tranh chống lại những chuyện xấu xa,
tiêu cực; tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào tương lai của đất nước. Bên
cạnh đó, trước sự tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, sự bùng nổ thông tin
nhờ Internet, mạng xã hội; sự du nhập ào ạt các trào lưu văn hóa, quan niệm
sống lai căng cùng với sự chống phá, lôi kéo của các thế lực thù địch trên lĩnh
vực hệ tư tưởng, những sản phẩm mang danh văn hóa. Một bộ phận thanh niên,
trong đó có sinh viên trong các trường đại học chạy theo lối sống thực dụng, xa
lạ với các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, vô tổ chức, vô kỷ luật.. không có
ý chí vươn lên. Tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội trong sinh viên có chiều hư ớng gia tăng về quy mô, phức tạp về tính chất, gây nhức nhối cho gia đình, nhà
trường và xã hội. Nghị quyết Trung Ương 5 khóa VIII cấp báo: “Nhiều biểu hiện
tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo làm cho xã hội lo lắng như sự suy thoái
đạo lý trong quan hệ thày trò, bè bạn, môi trường sư phạm xuống cấp; lối sống
thiếu ly tưởng, hoài bão, ăn chơi, nghiện ma túy, tệ nạn xã hội…ở một bộ phận
học sinh, sinh viên; việc coi nhẹ giáo dục đạo đức, thẩm mỹ và coi các môn
chính trị, khoa học xã hội và nhân văn” [29, Tr.47].
Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là nhiều trường chỉ tập trung
vào việc dạy tri thức, kỹ năng… mà ít chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối
sống lành mạnh, tích cực cho sinh viên, làm đơn giản mục tiêu đào tạo con người
toàn diện cho xã hội. Kết quả là môi trường học đường nơi văn hoá đáng được coi
trọng lại đang diễn ra thực trạng thiếu văn hoá. Điều này cho thấy kết quả giáo dục


3

văn học đường chưa cao, nhận thức về văn hóa học đường chưa đúng, giáo dục văn
hóa học đường trong các trường đại học chưa thực sự đạt hiệu quả. Trong khi văn
hóa học đường hỗ trợ điều phối và kiểm soát hành vi của các cá nhân bằng các
chuẩn mực, thủ tục, quy trình, quy tắc và bằng dư luận, truyền thống do những thế
hệ trong nhà trường xây dựng lên. Nói cách khác, xây dựng và thực hiện vưn hóa
học đường là con đường ngắn nhất và cách làm tốt nhất để không ngừng nâng cao

chất lượng đào tạo
Nhận thức được việc nâng cao hiệu quả giáo dục văn học đường trong
trường đại học là điều kiện để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục và đào tạo và nâng
cao chất lượng đào tạo để đào tạo ra những sinh viên có đủ đức, đủ tài đáp ứng
yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới và xu thế hội nhập quốc tế . Do vấn
đề nghiên cứu giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên đại học ở Hà Nội, đối
tượng quá rộng với gần 50 trường đào tạo các khối ngành khác nhau, lịch sử
hình thành và phát triển khác nhau, sứ mệnh cũng như đối tượng tuyển sinh khác
nhau, vì vậy rất khó thực hiện nhiệm vụ của đề tài, nhất là khi đề xuất các giải
pháp giải quyết những vấn đề đặt ra. Hơn nữa xuất phát từ thực tế công tác hiện
tại nên tác giả chọn: Hiệu quả giáo dục văn học đường cho sinh viên các
trường đại học ở Hà Nội hiện nay (qua khảo sát một số trường đại học đào tạo
các ngành kỹ thuật) làm đề tài luận án tiến sĩ của mình. Kết quả nghiên cứu
thành công có thể ứng dụng ở nhiều trường đại học đào tạo các khối ngành khác
nhau. Đồng thời cũng sẽ góp thêm một căn cứ lý luận và thực tiễn vào hệ thống
những giải pháp thực hiện đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo thành
công
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về hiệu quả giáo dục văn hóa
học đường cho sinh viên, xây dựng những tiêu chí đánh giá hiệu quả giáo dục
văn hóa học đường và hệ thống giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục văn
hóa học đường cho sinh viên các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà


4

Nội hiện nay. Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng cho các trường đào tạo bậc đại
học khác ở Hà Nội hiện nay
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu, tác giả cần hoàn thành những nhiệm vụ:
- Tổng quan và có đánh giá, nhận định về tình hình nghiên cứu có liên quan
đến hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên các trường đại học.
- Làm rõ khái niệm, nội dung, biểu hiện đặc trưng của văn học đường và
giáo dục văn hóa học đường trong trường đại học. Xây dựng tiêu chí đánh giá
hiệu quả giáo dục văn học đường cho sinh viên ở các trường đại học.
- Khảo sát thực tế, phân tích thực trạng văn hóa học đường, giáo dục văn
hóa học đường và hiệu quả giáo dục văn học đường của sinh viên các trường đại
học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà Nội. Phát hiện nguyên nhân và những vấn
đề đặt ra trong giáo dục văn hóa học đường và hiệu quả giáo dục văn học đường
cho sinh viên các trường đại học ở Hà Nội.
- Xây dựng hệ thống giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục văn hóa
học đường cho sinh viên các trường đại học ở Hà Nội hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận án tập trung nghiên cứu hiệu quả giáo dục văn học đường cho sinh
viên các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà Nội hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Luận án tập trung nghiên cứu hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho
sinh viên các trường đại học ở Hà Nội qua khảo sát các trường : Đại học
Công nghiệp Hà Nội, Đại học Thành Đô, Đại học Giao thông vận tải, Đại học
Xây dựng, Đại học Kiến trúc Hà Nội
Thời gian nghiên cứu: từ 2010 đến nay. Các giải pháp đề xuất có giá trị đến
năm 2020.


5

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận

Luận án được thực hiện trên cơ sở những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng cộng sản
Việt Nam về phát triển văn hóa, con người trong điều kiện hiện nay, uật Giáo
dục đại học (2012).
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử và sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa
học: phương pháp phân tích và tổng hợp, logic và lịch sử; phương pháp so sánh;
các phương pháp những bộ môn liên quan như Văn hóa học, Quản lý văn hóa
- Tư tưởng, Tâm lý học, Giáo dục học và Xã hội học như: khảo sát, phỏng
vấn sâu…
5. Đóng góp mới của luận án
- Hệ thống hóa các tri thức về văn hóa học đường, chỉ ra rõ hơn vai trò và
nội dung của văn hóa học đường.
- Nhận diện những giá trị cốt lõi của văn hóa học đường trong trường đại
học so sánh với thực tiễn từ đó có các kết luận làm sơ sở để xây dựng phương
hướng, giải pháp để nâng cao hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh
viên.
- Rút ra những bài học có tính lý luận về giáo dục văn hóa học đường cho
sinh viên đại học
- Xây dựng hệ thống giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục văn hóa học
đường cho sinh viên trong các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà
Nội hiện nay. Những giải pháp đó có thể mở rộng sử dụng cho các trường đại
học khác


6

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của văn học đường cũng như sự

cần thiết phải nâng cao hiệu quả giáo dục văn hóa học đường, nhằm góp phần
nâng cao chất lượng đào tạo của các trường đại học, thực hiện mục tiêu giáo dục.
- Đề xuất một số phương hướng và những giải pháp cơ bản nhằm nâng
cao hiệu quả giáo dục văn học đường cho sinh viên của các trường đại học.
- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo và vận dụng trong nghiên cứu
và giảng dạy các ngành có liên quan: Triết học, CNXH khoa học, Chính trị học
Văn hóa học, Quản lý văn hóa, Công tác tư tưởng … ở hệ thống các học viện,
các trường đại học và cao đẳng của Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung của luận án được kết cấu thành 4 chương 11 tiết.


7

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Xuất phát từ vai trò của văn hóa học đường và thực trạng xây dựng văn hóa
học đường ở Việt Nam, trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu
có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài. Nâng cao hiệu quả giáo dục
VHHĐ đã thực sự trở thành vấn đề cấp thiết cả trên phương diện lý luận và thực
tiễn, nhận được sự quan tâm đặc biệt của các nhà quản lý, các nhà khoa học.
Trong phạm vi bao quát của chúng tôi, có thể khái quát một số công trình tiếp
cận đề tài theo các hướng:
1.1. Các công trình nghiên cứu về văn hóa học đường và giáo dục văn hóa học
đường
1.1.1. Những nghiên cứu về văn hoá và văn hóa học đường

Thuật ngữ “văn hóa” xuất hiện rất sớm trong ngôn ngữ loài người. Cùng

với sự phát triển của lịch sử nhân loại, nhận thức của con người về văn hóa,
khái niệm văn hóa cũng không ngừng thay đổi và luôn được bổ sung những
nội dung mới, những cách nhìn mới.
Chưa bao giờ vấn đề văn hóa lại giành được sự quan tâm như hiện nay cả
về phương diện lý luận và thực tiễn. Điều này càng chứng tỏ vai trò quan
trọng của văn hóa đối với sự phát triển của xã hội. Khái niệm “văn hóa”
(Cultura) có nguồn gốc từ phương Tây, theo tiếng Latinh có nghĩa là: cày,
cấy, vun trồng, làm ruộng, chăm bón, cải thiện, gìn giữ trong sản xuất nông
nghiệp. Xét theo nguồn gốc thuật ngữ, văn hóa là khái niệm gắn với lao động
sản xuất, một hoạt động sáng tạo mang bản chất người nhất. Về sau thuật ngữ
văn hóa được bổ sung thêm những nghĩa mới trừu tượng hơn, nói về tính có
học vấn, tính có giáo dục, sự mở mang trí tuệ của con người. Trước công
nguyên (khoảng năm 45) trong các cuộc hội đàm giữa Xixêrông (nhà triết học


8

La Mã cổ đại) và TuxcunLan đã nói đến triết học như là “văn hóa trí tuệ”.
Xixêrông khẳng định cần phải rèn luyện vun xới trí tuệ như vun xới đất đai.
Khi dùng động từ “vun xới” này, có thể ông đã nhìn thấy nội dung cơ bản của
văn hóa là sự phát triển năng lực người, là hoạt động tinh thần của con người.
Với hai nghĩa chủ yếu đó, thuật ngữ “văn hóa” đã đi vào hầu hết các ngôn
ngữ châu Âu.
Chủ nghĩa nhân văn thời Phục hưng đã đi tìm nội dung tích cực và bổ
sung những nhận thức mới mẻ về văn hóa. Thời kỳ này được xem như thời kỳ
phát hiện lại con người. Bởi vậy, “văn hóa” được nhìn nhận như lĩnh vực tồn
tại chân chính của con người, lĩnh vực “tính người” thật sự đối lập với lĩnh
vực “tính tự nhiên”, “tính động vật”. Văn hóa được xem như sự phát triển
của con người phù hợp với bản chất của nó.
Từ nguyên nghĩa của văn là xăm thân, và nghĩa gốc của văn hóa là nét

xăm mình mà qua đó người khác nhìn vào để nhận biết mình và phân biệt.
Thuật ngữ “văn hóa” theo cách triết tự Hán Việt (theo bộ Từ Hải năm 1989),
thì văn có nghĩa là “vẻ đẹp” (= có giá trị), hóa là “trở thành”, là “giáo dục”.
Như vậy, văn hóa có nghĩa là trở thành đẹp, giáo dục đẹp, thành có giá trị. Do
đó, văn hóa thường dùng với nghĩa: cái chứa cái đẹp, chứa các giá trị, nó là
thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người.
Theo quan điểm của C. Mác, văn hóa gắn liền với sức sáng tạo và năng lực
bản chất của con người. Sự sáng tạo đó bao giờ cũng bắt đầu từ lao động. Lao
động sáng tạo ra con người và xã hội loài người, làm cho con người ngày càng
trở thành thật sự người. Chính trong quá trình lao động đó văn hóa in dấu ấn của
mình và thẩm thấu trong từng yếu tố của lao động. Vì vậy, văn hóa là năng lực
tạo nên sáng tạo, chính là sự phát triển những năng lực bản chất của con người.
V.I. Lênin khi bàn về văn hóa cho rằng, nó là tổng thể các dạng hoạt động sáng
tạo của con người và tất cả giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo ra


9

trong quá trình lịch sử của chính mình. Theo đó, có thể hiểu văn hóa là “thiên
nhiên thứ hai” được “nhân hóa” qua thực tiễn của con người.
Văn hóa là toàn bộ những giá trị do con người sáng tạo ra trong quá trình
lịch sử bằng lao động của mình trên cả hai lĩnh vực sản xuất vật chất và sản xuất
tinh thần. Theo nghĩa này, tại “Mục đọc sách” viết xen tập “Nhật ký trong tù” Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã định nghĩa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc
sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức,
pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo
và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp mọi phương thức sinh
hoạt cùng sự biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với
những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [88, Tr. 431]

F.Gonzles quan niệm văn hóa bao gồm các giá trị, quan niệm, thái độ,
hành vi và các mối quan hệ tạo nên ý nghĩa, niềm tin và sự thống nhất của
một nhóm người [145]
Tiếp cận văn hóa dưới góc độ tổ chức Ehlers (2009) tổng hợp các tác
giả và cách tiếp cận văn hóa
Tác giả

Cách tiếp cận

Các yếu tố văn
hóa

Gerent
Hofstede (1991)

Văn hóa là quy ước về tinh
Biểu hiện, hình mẫu,
thần hôc chợ mọi người thực lễ nghi, giá trị
hiện thuận lợi các hoạt động
thông qua biểu hiện, nhân
cách, lễ nghi và giá trị

Edgar
Schein (1992)

Văn hóa là một lại qua
Giá trị, sự việc
ướccơ bản do một nhóm hữu hình, quy ước
người đưa ra để giỉa quyết
các vấn đề thích ứng với bên

ngoài và hòa hợp với bên
trong


10

Johannes
Rsegg (2002)

Văn hóa có thể so sánh
với các quy luật ngữ pháp và
ngữ nghĩa trong một hệ
thống quy ước của một
nhóm người

Quy tắc và giá
trị, quan điểm và thái
độ, hiện thực và huyền
thoại, cách nghĩ, thói
quen, ngôn ngữ, mong
đợi của tập thể

Gareth
Mogan (2002)

Văn hóa là một hiện Giá trị, kiến thức, niềm
tượng của tập thể và xã hội tin, chuẩn mực, lễ nghi
liên quan đến các ý tưởng,
giá trị và ảnh hưởng đến
hoạt động của một nhóm

người mà họ không nhận
thấy rõ

Bảng 1. Cách tiếp cận khác nhau về văn hóa [144, Tr.343-363]
Nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm xuất phát từ lý thuyết hệ thống,
trình bày mô hình văn hóa gồm ba thành tố cơ bản:
Văn hóa nhận thức: Mỗi nền văn hóa đều là tài sản của một cộng đồng
người nhất định - một chủ thể văn hóa. Trong quá trình tồn tại và phát triển, cộng
đồng người - chủ thể văn hóa đó luôn có nhu cầu tìm hiểu, tích lũy được một
lượng kinh nghiệm và tri thức phong phú về vũ trụ và bản thân con người - đó
chính là văn hóa nhận thức.
Văn hóa tổ chức: Là những giá trị văn hóa tổ chức của cộng đồng như văn
hóa tổ chức đời sống tập thể (những vấn đề liên quan đến tổ chức sản xuất trong
một quy mô rộng lớn như tổ chức nông thôn, đô thị, quốc gia) và văn hóa tổ
chức đời sống cá nhân (những vấn đề liên quan đến đời sống của mỗi con người
như tín ngưỡng, phong tục, tập quán, đạo đức, văn hóa giao tiếp, nghệ thuật...)
Văn hóa ứng xử (đối với tự nhiên và đối với xã hội): Cộng đồng người chủ thể văn hóa - tồn tại trong quan hệ với hai loại môi trường - môi trường tự
nhiên (thiên nhiên, khí hậu...v.v) và môi trường xã hội (hiểu ở đây là các xã hội,


11

dân tộc, quốc gia). Do đó có văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên và văn hóa
ứng xử với môi trường xã hội [114, Tr.28-29].
Vấn đề văn hóa hiện nay nhận được sự quan tâm cả về phương diện lý luận
và thực tiễn, điều đó nói lên tính phong phú, đa diện trong cách tiếp cận khái
niệm này. Khái niệm về văn hóa hiện nay được nhiều người sử dụng là do Tổng
giám đốc UNESCO Federico Mayor khái quát. Ông cho rằng: “Văn hóa là tổng
số sống động các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỷ,
hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống

và thị hiếu những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc” [114, Tr.20]
Tổng hợp các định nghĩa trên, cho thấy văn hóa bao gồm các nội dung sau:
- Văn hóa là hệ thống giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra.
- Văn hóa là hoạt động của con người, yếu tố quyết định sự hình thành và
phát triển của văn hóa.
- Văn hóa là sự thể hiện trình độ phát triển và đặc tính riêng của mỗi cộng
đồng người, mỗi dân tộc.
Văn hóa là sản phẩm của hoạt động người, là kết quả sáng tạo ra của nhiều
thế hệ nhằm thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần không ngừng tăng lên
của con người. Văn hóa bao gồm các giá trị văn hóa và hoạt động sáng tạo ra
những giá trị đó. Khi tạo ra thế giới văn hóa, con người không chỉ làm biến đổi
những điều kiện khách quan, mà còn làm biến đổi chính bản thân con người,
phát triển những năng lực tiềm tàng trong bản thân mình. Không chỉ có vậy, con
người còn có khả năng tự đánh giá trình độ phát triển của bản thân mình thông
qua các sản phẩm do chính mình tạo ra. Bởi vì trong quá trình hoạt động con
người đã đối tượng hóa bản thân mình vào các giá trị ấy. Mỗi giá trị văn hóa đều
hàm chứa trong bản thân nó năng lực trí tuệ, tinh thần, cảm xúc, những lực lượng
vật chất nhất định.
Văn hóa là khái niệm phức tạp, cách nhìn nhận về cấu trúc của văn hóa
cũng phong phú và đa dạng. Từ hướng tiếp cận của triết học, xem văn hóa như
cái được sinh ra từ sự tồn tại của con người trong hoạt động thực tiễn, con người
là chủ thể hoạt động và điểm khởi đầu của văn hóa, nhà triết học M.S. Kagan


12

[69, Tr. 188-208] đã mô tả cấu trúc của văn hóa như “vòng xoắn chập ba” (3
thành tố) gồm có: hoạt động mang tính vật thể của con người là cơ sở của văn
hóa; sự giao tiếp của con người diễn ra ở bình diện không gian văn hóa và thời
gian văn hóa xã hội và sự sáng tạo nghệ thuật, một phương thức để nhân đôi đời

sống hiện thực của con người, tạo nên một đời sống ảo và qua “ảo” để hiểu hiện
thực sâu sắc hơn.
Cũng có thể xem xét văn hóa với cấu trúc gồm văn hóa sinh hoạt vật chất,
văn hóa sinh hoạt tinh thần. Hoặc xem xét dưới góc độ văn hóa sản xuất, văn hóa
tiêu dùng. Văn hóa nếu tiếp cận từ những lĩnh vực cụ thể, sẽ có văn hóa doanh
nghiệp, văn hóa đạo đức, văn hóa thẩm mỹ, văn hóa nghệ thuật, văn hóa công sở,
văn hóa trang phục, văn hóa học đường, văn hóa giao thông,… Dù được diễn đạt
theo cách nào nó đều có nội dung chung: văn hóa là sự phát triển những năng lực
bản chất của con người hướng tới các giá trị nhân văn. Mỗi một hình thức cộng
đồng người, cộng đồng xã hội có một mô thức văn hóa riêng. Trường đại học là
một thiết chế xã hội, vì vậy việc hình thành văn hóa riêng để góp phần thực hiện
mục tiêu đào tạo, sứ mệnh của mình là một tất yếu khách quan.
Văn hoá là lĩnh vực được quan tâm trong các kỳ đại hội của Đảng cộng sản
Việt Nam, và đặc biệt được nhấn mạnh trong Nghị quyết Trung Ương 5 khoá
VIII, nghị quyết về xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bàn sắc dân
tộc: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” [29, Tr 55], tập trung vào những lĩnh vực
lớn: tư tưởng, đạo đức, lối sống, phong tục tập quán, giáo dục, khoa học, văn học
nghệ thuật, thông tin đại chúng, giao lưu văn hóa với thế giới, các thể chế và
thiết chế văn hóa. Nghị quyết này cũng nhìn nhận: “Văn hóa Việt Nam là thành
quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ
nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh
hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa
Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ
lịch sử vẻ vang của dân tộc”.[29, Tr 40].


13

Sau hơn 15 năm, từ năm 1998 đến năm 2014, nhận thức về văn hóa và vai

trò của văn hóa trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã phát
triển thêm một bước dài. Trong Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI, Đảng cộng
sản Việt Nam đã đưa ra 5 quan điểm chỉ đạo, trong đó có 2 quan điểm phát triển,
bổ sung rất sâu sắc. Đây là bước phát triển mới trong tư duy lý luận về văn hóa:
Một là, Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây
dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là
chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ
bản: Yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết cần cù, sáng tạo và quan
điểm: xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia
đình, cộng đồng.
Hai là, Phát triển hài hòa kinh tế và văn hóa, cần chú ý đầy đủ đến yếu tố
văn hóa và con người trong phát triển kinh tế.
Khi nghiên cứu văn hóa giới chuyên môn đã sử dụng phạm trù “môi trường
văn hóa” để thể hiện mối quan hệ giữa con người và văn hóa.
Trong cuốn “Cơ sở lý luận văn hóa Mác - Lênin” (1981, Nxb Văn hóa, Tr.
75) các tác giả quan niệm: “Môi trường văn hóa là một tổng thể ổn định những
yếu tố vật thể và nhân cách, nhờ đó các cá thể tác động lẫn nhau. Chúng ảnh
hưởng tới hoạt động khai thác và sáng tạo giá trị văn hóa, tới nhu cầu tinh thần,
hứng thú và định hướng giá trị của họ. Môi trường văn hóa không chỉ là tổng
hợp những yếu tố văn hóa vật thể mà còn có những con người hiện diện văn
hóa”.
Huỳnh Khái Vinh trong tác phẩm “Những vấn đề văn hoá Việt Nam đương
đại” nhấn mạnh: “Với tính chất là tổng thể (các hoạt động và sinh hoạt của con
người và các giá trị vật chất tinh thần cũng như điều kiện và cơ chế vận hành các
hoạt động và giá trị vật chất ấy), môi trường văn hóa luôn luôn can thiệp và quy
định các hoạt động sống, cách thức sống và cả lẽ sống của con người. Cái cốt lõi
tạo nên khuôn mẫu và chiều hướng vận động của môi trường văn hóa là chuẩn
mực giá trị xã hội” [135, Tr. 382]



14

Từ góc nhìn giá trị học, tác giả Đỗ Huy trong “Xây dựng môi trường văn
hóa ở nước ta hiện nay - Từ góc nhìn giá trị học” nhấn mạnh vai trò của con
người khi đưa ra định nghĩa: “Môi trường văn hóa chính là sự vận động của các
quan hệ của con người trong các quá trình sáng tạo, tái tạo, đánh giá, lưu giữ và
hưởng thụ các sản phẩm vật chất và tinh thần của mình” [64, Tr. 35]
Thủ tướng chính phủ ban hành Quyết định 129 ngày 2/8/2007 về Quy chế
văn hóa công sở tại các cơ quan nhà nước, Nó cũng có thể được xem như là căn
cứ xây dựng và thực hiện VHHĐ như một loại hình văn hoá cộng đồng cần được
đặc biệt quan tâm.
Thuật ngữ VHHĐ hay văn hóa trường học bắt đầu xuất hiện tại các nước
nói tiếng Anh vào những năm 1990. Một số nước như Mỹ, Úc đã có trung tâm
nghiên cứu, khảo sát thực tiễn và đánh giá vấn đề này. Từ điển Tiếng Anh định
nghĩa văn hóa trường học : school culture can be defined as the guiding beliefs and
values evident in the way a school operates (Văn hóa trường học học có thể được
định nghĩa là niềm tin hướng dẫn do những giá trị rõ ràng trong cách một trường
hoạt động) hay “school culture” can be used to encompass all the attitudes,
expected behavior and values that impact how the school operates (Văn hóa trường
học có thể được sử dụng bao gồm tất cả những thái độ, hành vi mong đợi và những
giá trị tác động đến cách hoạt động của trường). Dù có nhiều ý kiến khác nhau
nhưng đều thống nhất mỗi trường học ngoài là tấm gương phản chiếu những giá trị
văn hóa, sự phát triển chung của cộng đồng đều có những nét văn hóa riêng độc đáo
tác động đến hoạt động của nhà trường .
Nhiên cứu của GS Peter Smith Đại học Sunderlans cho thấy VHHĐ ảnh
hưởng vô cùng to lớn đối với chất lượng và hiệu quả hoạt động của một nhà
trường. các lý do cần phải nuôi dưỡng vun trồng VHHĐ tích cực, lành mạnh có
thể tóm tắt như sau:
-Sự phát triển của học sinh chịu ảnh hưởng rất lớn của môi trường văn hóa

–xã hội mà họ lớn lên
- Văn hóa học đường lành mạnh giảm bớt sự không hài lòng của giáo viên
và giúp giảm thiểu hành vi cử chỉ không lịch sự của học sinh


15

- Văn hóa học đường tạo ra môi trường thuận lợi hỗ trợ việc dạy và học,
khuyến khích GV và học sinh lỗ lực trong rèn luyện, học tập đạt thành tích mong
đợi...
Tổng hợp các quan niệm về VHHĐ của các học giả nước ngoài đã làm nổi
bật vị trí, vai trò của VHHĐ đối với sự duy trì và phát triển của trường học. Họ
đều khẳng định văn hóa là tài sản của tổ chức trường học nó luôn chi phối trực
tiếp đến sự phát triển và tiến bộ của nhà trường cũng như nét đặc sắc riêng của
từng trường.
Ở Việt nam thuật ngữ VHHD được sử dụng chưa lâu nhưng nội dung của
VHHĐ trong các nhà trường ở Việt Nam từ xa xưa đã có và trở thành các truyền
thống quý báu của dân tộc ta như: tôn sư trọng đạo, kính thầy yêu bạn, nhất tự vi
sư bán tự vi sư, kính trên nhường dưới,... Nhiều thập kỷ qua, các nhà trường ở tất
cả các cấp học đều liên tục cố gắng phấn đấu để “thầy ra thầy, trò ra trò, trường
ra trường” với mục tiêu giáo dục nhân cách cho học sinh, sinh viên, xây dựng
trường học lành mạnh. Văn hóa học đường trở thành mối quan tâm đặc biệt của
các nhà lý luận, và tùy góc độ tiếp cận, VHHĐ được thể hiện với những nội dung
khác nhau:
Phạm Thị Kim Anh trong bài viết Văn hóa học đường – một góc nhìn từ
thực tiễn đăng trên tạp chí Dạy và học ngày nay số 10-2007 có một cách nhìn
và cách tiếp cận độc đáo về VHHĐ. Theo tác giả, VHHĐ bao gồm 4 yếu tố
cụ thể là văn hóa ứng xử ; văn hóa dạy, văn hóa học; văn hóa thi cử.
Trên tạp chí Tâm lý học số 10 (10 - 2008) tác giả Đào Thị Oanh cho rằng:
VHHĐ là giá trị cần có của một nhà trường. Văn hóa học đường là một cấu trúc

gồm 3 thành tố có sự tác động ảnh hưởng lẫn nhau là:
- Hệ thống thái độ và niềm tin của những cá nhân trong và ngoài trường.
- Hệ thống các chuẩn mực văn hoá của nhà trường.
- Hệ thống các mối quan hệ qua lại giữa các cá nhân, thành viên bên trong
trường với nhau, giữa các cá nhân của trường với cộng đồng
Trên mục “Bàn tròn văn hóa”, báo Lao động số 117 ra ngày 26 tháng 5 năm
2008, các tác giả khẳng định “Xây dựng văn hóa học đường có ý nghĩa quyết


16

định chất lượng đào tạo của các trường đại học”, VHHĐ được nhìn nhận trên 2
khía cạnh là khung cảnh sư phạm bao gồm vị trí xây dựng trường học, cơ sở vật
chất… và môi trường sư phạm với nội hàm phong cách giao tiếp trong nhà
trường giữa thầy với trò, thầy với thầy, trò với trò.
Trên tạp chí Tuyên giáo tháng 11-2009, Nhà nghiên cứu Phạm Minh Hạc
cho rằng VHHĐ Việt Nam cần đảm bảo 3 yếu tố: cơ sở vật chất đảm bảo, môi
trường giáo dục tốt và văn hóa ứng xử, giao tiếp chuẩn mực (TC Tuyên giáo,
tháng 11 năm 2009, Tr.41). PGS.TS Phạm Ngọc Trung sau khi khảo cứu các
quan niệm đã được xã hội hóa và đúc rút qua thực tiễn giảng dạy, định nghĩa:
“Văn hoá học đường là hệ thống những giá trị vật chất và tinh thần được hình
thành và tích luỹ trong lịch sử bao gồm những suy nghĩ, quan niệm thói quen,
tập quán, tư tưởng, luật pháp... nhằm thiết lập mối quan hệ giữa thầy, trò và các
thành viên có liên quan để việc dạy và học đạt kết quả cao” [123,Tr 51].
Phạm Văn Khanh qua niệm trường học là một tổ chức vì vậy xem văn hóa
học đường là văn hóa tổ chức - một tổ chức sau khi được hình thành, tồn tại và
phát triển thì tự khắc nó sẽ dần dần hình thành nên những nề nếp, chuẩn mực, lễ
nghi, niềm tin và giá trị. Đó là sợi dây vô hình gắn kết các thành viên trong tổ chức
lại với nhau cùng phấn đấu cho những giá trị chung của tổ chức. Đó là nghi lễ, đồng
phục, không khí học tập trật tự, sinh hoạt nề nếp, đi học đúng giờ, tôn trọng luật

giao thông…Có thể nói, văn hóa tổ chức là yếu tố cơ bản trong văn hóa học đường,
nó hiện diện trong khắp các hoạt động của nhà trường. [ Bài phát biểu tại hội thảo
khoa học toàn quốc “Tâm lý học và vấn đề cải thiện môi trường giáo dục hiện nay” tại
Cần Thơ ngày 13-7-2013]
Cùng xuất phát từ góc độ tổ chức Phạm Thị Hường đưa ra văn hóa nhà trường
(VHHĐ): Văn hoá nhà trường là hệ thống niềm tin, giá trị, chuẩn mực, thói quen
và truyền thống hình thành trong quá trình phát triển của nhà trường, được các
thành viên trong nhà trường thừa nhận, làm theo và được thể hiện trong các hình
thái vật chất và tinh thần, từ đó tạo nên bản sắc riêng cho mỗi tổ chức sư phạm.
Trịnh Ngọc Toàn quan niệm văn hóa nhà trường (VHHĐ) là một tập hợp các
giá trị, niềm tin, hiểu biết, chuẩn mực cơ bản được các thành viên trong Nhà trường


17

cùng chia sẻ và tạo nên bản sắc của Nhà trường đó. Căn cứ theo hình thức biểu hiện
thì văn hóa nhà trường gồm phần nổi có thể nhìn thấy như: không gian cảnh quan
nhà trường, lôgô, khẩu hiệu, hành vi giao tiếp... và phần chìm không quan sát được
như: niềm tin, cảm xúc, thái độ...
Về góc độ tổ chức, văn hóa nhà trường được coi như một mẫu thức cơ bản,
tạo ra một môi trường quản lý ổn định, giúp cho nhà trường thích nghi với môi
trường bên ngoài, tạo ra sự hoà hợp môi trường bên trong. Một tổ chức có nền văn
hóa mạnh sẽ hội tụ được cái tốt, cái đẹp cho xã hội. văn hóa nhà trường sẽ giúp cho
Nhà trường thực sự trở thành một trung tâm văn hóa giáo dục, là nơi hội tụ sức
mạnh của trí tuệ và lòng nhân ái trong xã hội, góp phần quan trọng tạo nên sản
phẩm giáo dục toàn diện
Nhìn chung các tác giả, các nhà khoa học dù cách, góc độ tiếp cận khác nhau
nhưng đều thống nhất với nhau thứ nhất, VHHĐ liên quan đến toàn bộ hoạt động
vật chất, tinh thần của một nhà trường. Thứ hai, VHHĐ biểu hiện trước hết trong
tầm nhìn, sứ mạng, triết lý giáo dục, mục tiêu, các giá trị, phong cách lãnh đạo,

quản lý... bầu không khí tâm lý. Thứ ba, nó thể hiện thành hệ thống các chuẩn mực,
các giá trị, niềm tin, quy tắc ứng xử... được xem là tốt đẹp và được mỗi người trong
nhà trường chấp nhận. Thứ tư, VHHĐ có vai trò quan trọng góp phần nâng câo chất
lượng đào tạo của nhà trường, góp phần tích cực trong quá trình hoàn thiện , phát
triển nhân cách con người theo hướng Chân, Thiện, Mỹ
Nghiên cứu khái niệm VHHĐ còn có các quan niệm môi trường văn hóa học
đường, môi trường sư phạm....
Hồ Sĩ Lộc trong “Xây dựng văn hóa học đường trong một số trường đại
học ở Hà Nội hiện nay ” (Đề tài cấp bộ 2011, mã số B.11-20) quan niệm: Môi
trường văn hóa học đường đại học là tổng hòa các mối quan hệ (mang tính văn
hóa) giữa các cá nhân (giảng viên, sinh viên, cán bộ, công nhân viên) và các tổ
chức thành viên (khoa, phòng, ban, viện, trung tâm, lớp học) trong nhà trường
trên cả hai phương diện vật chất và tinh thần trong một thời gian xác định thuộc
phạm vi không gian trường đại học đó nhằm hướng tới mục tiêu đào tạo được
những cá nhân có trình độ chuyên môn vững vàng, có đạo đức nghề nghiệp,


18

khỏe mạnh về thể chất và phong phú về đời sống tinh thần đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của thị trường lao động và tham gia đóng góp vào sự nghiệp đổi mới
đất nước
Liên quan đến việc xây dựng văn hóa học đường, Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và đào tạo đã ra chỉ thị số 40/CT-BGD&ĐT về việc phát động phong trào thi đua
“Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực” trong các trường phổ thông
giai đoạn 2008-2013. Bộ Giáo dục và Đào tạo có Kế hoạch số 307/KHBGD&ĐT ngày 22/07/2008 nhằm triển khai chỉ thị nói trên. Đây là nội dung văn
hóa học đường trong các trường phổ thông, song nó sẽ là cơ sở quan trọng để
tiếp cận nội dung VHHĐ trong hệ thống giáo dục nói chung và các trường đại
học nói riêng. Nội dung cụ thể của phong trào thi đua “Xây dựng trường học
thân thiện - học sinh tích cực” gồm:

- Xây dựng trường, lớp xanh, sạch, đẹp, an toàn:
- Dạy và học có hiệu quả, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của học sinh giúp
các em tự tin trong học tập
- Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh
- Tổ chức các hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh
- Học sinh tham gia tìm hiểu, chăm sóc và phát huy giá trị các di tích lịch
sử, văn hóa, cách mạng ở địa phương: Nhận chăm sóc và phát huy giá trị các di
tích lịch sử, văn hóa, cách mạng ở địa phương. Thực hiện lồng ghép với các môn
học để giáo dục truyền thống văn hoá dân tộc, tinh thần cách mạng một cách có
hiệu quả nhất cho tất cả học sinh.
Như vậy, dù còn nhiều ý kiến khác nhau, dù bàn về các cấp độ và phạm vi
khác nhau nhưng các nhà khoa học, các nhà quản lý giáo dục đều thống nhất:
mỗi trường học cần có VHHĐ của mình. Văn hóa học đường là các hệ thống
chuẩn mực, giá trị giúp cán bộ quản lý nhà trường, thầy cô giáo, phụ huynh, học
sinh, sinh viên có cách thức suy nghĩ, tình cảm, hành động tốt đẹp.
Các nhà khoa học không chỉ nghiên cứu về văn hóa học đường mà còn
nghiên cứu về vai trò, thực trạng của văn hóa học đường, nhận thức rõ vai trò
quan trọng của VHHĐ đối với sự phát triển của các trường đại học nói riêng,


19

giáo dục đào tạo nói chung. Có nhiều hội thảo khoa học, không ít các công trình
đề cập đến vai trò của VHHĐ dưới nhiều góc độ khác nhau nhưng nhìn chung
đều khẳng định vai trò của VHHĐ là yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng
giáo dục, thậm chí được coi là yếu tố quyết định chất lượng trong mục tiêu giáo
dục của nhà trường.
Viện Nghiên cứu sư phạm trong đề tài cơ sở “Văn hóa học đường yếu tố
quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục” [132] xem VHHĐ là yếu tố quan
trọng để nâng cao chất lượng giáo dục.

Tác giả Trương Lưu trong tác phẩm “Văn hóa đạo đức và tiến bộ xã hội”,
[85] cho rằng: thông qua VHHĐ, sinh viên và thầy giáo nhận ra điểm mạnh và
điểm yếu của chính mình từ đó định hướng và hoàn thiện nhân cách, kỹ năng
cho phù hợp với yêu cầu của xã hội. Phạm Minh Hạc và Hồ Sĩ Quý trong bài
viết “Nghiên cứu con người, đối tượng và những hướng chủ yếu”, Niên giám
nghiên cứu số 1 (Nxb. Khoa học xã hội, 2002) cũng cho rằng: xây dựng VHHĐ
tạo điều kiện để đưa tiêu chí chân, thiện, mỹ vào trong trường đại học.
Kinh nghiệm Singapore là một nước có nền giáo dục được xem là toàn diện
và phát triển nhất Đông Nam Á. VHHĐ (văn hóa trường học) ở Singapore được
chú trọng xây dựng. Mỗi trường đều có logo, biểu tượng và khẩu hiệu hành động rõ
ràng. Các vấn đề về nghi thức, trang phục cũng được quan tâm. Vấn đề hợp tác, xây
dựng nhà trường thành tổ chức học tập là một trong những điểm cốt lõi trong định
hình VHHĐ ở quốc gia này. Bên cạnh trang bị cho học sinh các kiến thức và kỹ
năng cần thiết trong chương trình chính khoá, các trường học của Singapore cũng
có rất nhiều hình thức tổ chức hoạt động ngoại khoá lành mạnh và bổ ích, qua đó
xây dựng tinh thần đoàn kết, hợp tác, thân thiện giữa các học sinh.
Theo BBC, thành công của hệ thống giáo dục Phần Lan dường như là một
phần là do yếu tố văn hóa. Các học sinh được học trong một không khí thoải mái và
thân mật. Sự thành công của hệ thống giáo dục Phần Lan được xây dựng trên ý
tưởng học ít hiểu nhiều. Phần Lan tập trung vào các trường học cởi mở, không chịu
sự quy định về chính trị. Với sự kết hợp này, Phần Lan tin rằng không có trẻ em nào
bị bỏ lại phía sau.


20

Theo BBC, thành công của hệ thống giáo dục Phần Lan dường như là một
phần là do yếu tố văn hóa. Các học sinh được học trong một không khí thoải mái và
thân mật. Sự thành công của hệ thống giáo dục Phần Lan được xây dựng trên ý
tưởng học ít hiểu nhiều. Phần Lan tập trung vào tạo các trường học cởi mở, không

chịu sự quy định về chính trị. Với sự kết hợp này, Phần Lan tin rằng không có trẻ
em nào bị bỏ lại phía sau.
Từ những công trình khoa học đã phân tích chỉ ra rằng có nhiều cách tiếp cận
VHHĐ nên có nhiều định nghĩa khác nhau. Tùy theo mục đích, các nhà nghiên cứu
có thể nhấn mạnh khía cạnh này hay khía cạnh khác. Có ý kiến khẳng định VHHĐ
là tập hợp các chuẩn mực, giá trị và niềm tin, các lễ nghi và nghi thức, các biểu
tượng và truyền thống tạo ra “vẻ bề ngoài” của trường học. Ý kiến khác cho rằng:
VHHĐ là một cấu trúc, một quá trình, là các giá trị và chuẩn mực dẫn dắt giảng
viên và sinh viên đến việc giảng dạy và học tập có hiệu quả. Khuynh hướng thứ 3
tiếp cận VHHĐ đưa ra quan điểm về sự vận động, khẳng định văn hóa nhà trường
không phải là một thực thể tĩnh. Nó luôn được hình thành và định hình thông qua
các tương tác với người khác và thông qua những hành động đáp lại trong cuộc
sống nói chung. Văn hoá học đường phát triển ngay khi các thành viên tương tác
với nhau, thầy với thầy, trò với trò, nhà trường với xã hội, cá nhân với cộng đồng.
Nó trở thành chỉ dẫn cho hành vi giữa các thành viên của nhà trường. Theo đó,
VHHĐ có các chức năng biểu tượng, chức năng xây dựng, chức năng hướng dẫn
và chức năng gây cảm xúc. Nếu các chức năng ấy của VHHĐ được làm tốt,
nghĩa là mỗi thành viên trong các trường học vừa phải thấm nhuần, gìn giữ các
giá trị văn hóa truyền thống và những phẩm giá quy báu của dân tộc (tinh thần
yêu nước, ý thức độc lập dân tộc, tự lực, tự cường, đoàn kết vì đại nghĩa; tính
trung thực, cần cù sáng tạo trong mọi hoạt động; sự hiếu học và tôn sư trọng đạo;
lòng nhân ái, tình cảm vị tha và khoan dung; có hành động và thái độ rõ ràng đối
với những hiện tượng phản văn hóa).
Trong môi trường học đường, văn hóa được chia làm 2 nội dung là văn hóa
vật chất biểu hiện qua cơ sở vật chất nhà trường, khuôn viên trường và văn hóa
tinh thần như môi trường sống, tinh thần dân chủ, giao tiếp, ứng xử... Như vậy,
có thể hiểu VHHĐ là toàn bộ yếu tố vật chất (Giảng đường, phòng thí nghiệm,


21


xưởng thực hành, không gian, cảnh quan.) đảm bảo tính thẩm mỹ, giáo dục, góp
phần tạo nên môi trường và phương tiện giáo dục tốt nhất; nội quy, quy chế của
nhà trường phù hợp với chuẩn mực văn hóa chung của xã hội, phù hợp với nội
quy, quy định của môi trường học đường đảm bảo cho các hoạt động trong
trường học diễn ra lành mạnh, đạt mục tiêu giáo dục là đào tạo những con người
toàn diện, có đủ đức, trí, mỹ, thể, có tri thức và có hoài bão khát vọng vươn lên.
Xây dựng VHHĐ và giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên là một công việc vô
cùng quan trọng góp phần tạo nên những thành công lớn trong sự nghiệp giáo
dục cho các trường đại học. Một số nhà khoa học tuy có đề cập đến xây dựng môi
trường VHHĐ ở nhiều góc độ khác nhau nhưng nhìn chung đó là những vấn đề
mang tính tổng hợp và lý luận, chưa có nhiều công trình thực sự đi sâu vào nghiên
cứu VHHĐ trong trường đại học. Theo đó tiêu chí xây dựng VHHĐ trong trường
đại học tuy có được gợi mở nhưng lại chưa được xem xét một cách toàn diện với tư
cách là một đối tượng nghiên cứu của công trình khoa học.
1.1.2. Những nghiên cứu về giáo dục và giáo dục văn hóa học đường
Giáo dục với tư cách là một ngành khoa học không thể tách rời những truyền
thống giáo dục từng tồn tại trước đó. Trong xã hội, người đi trước, người có kiến
thức, kỹ năng giáo dục thế hệ tiếp theo, người chưa biết những kiến thức và kỹ
năng cần thiết. Sự phát triển văn hóa và sự tiến hóa của loài người, phụ thuộc
vào lề lối trao truyền tri thức này. Chiều sâu và độ rộng của kiến thức có thể
được bảo tồn và trao truyền gia tăng vượt bậc. Khi các nền văn hóa bắt đầu mở
rộng kiến thức vượt quá những kỹ năng cơ bản về giao tiếp, đổi chác, kiếm ăn,
thực hành tôn giáo, v.v..., việc giáo dục có tổ chức, theo chương trình, có mục
đích trở lên phổ biến. Giáo dục là một quá trình dạy và học nhằm chuẩn bị
những kiến thức và kỹ năng cần thiết hoặc làm thay đổi hành vi có hại bằng hành
vi có lợi. Giáo dục cũng là quá trình giao tiếp hai chiều qua đó người dạy và
người học cùng chia xẻ hiểu biết, kinh nghiệm và cùng học tập lẫn nhau.
Về môi trường giáo dục, theo “Từ điển giáo dục học” ( Bùi Hiển, Nguyễn
Văn Giao, Nguyễn Hữu Quỳnh, Vũ Văn Tảo, Nxb Từ điển bách khoa, HN 2001,

Tr 264) là “Tập hợp những không gian, những hoạt động xã hội và cá nhân,


22

những phương tiện về giao lưu, những quá trình, phối hợp lại với nhau và tạo
điều kiện thuận lợi để đạt những kết quả giáo dục có hiệu quả nhất”. Liên quan
đến khái niệm môi trường giáo dục còn có khái niệm môi trường nhà trường:
“Môi trường nhà trường, là tập hợp những con người, những cơ sở vật chất, kỹ
thuật và những phương tiện, thiết chế tổ chức quản lý, tương tác lẫn nhau một
cách thường xuyên, nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho sự thành công
của việc học ở nhà trường”. Môi trường nhà trường là nơi hoạt động giáo dục có
chủ đích, có kế hoạch của quốc gia, ảnh hưởng trực tiếp đến người học.
Trong giáo trình Giáo dục học, tập 1 [97], các tác giả đã đưa ra những vấn
đề chung về giáo dục như: làm rõ các quan niệm vai trò của giáo dục trong việc
hình thành nhân cách con người theo lứa tuổi cũng như vai trò của giáo dục đối
với sự phát triền xã hội. Kết quả của quá trình giáo dục gắn với quá trình hình
thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách của đối tượng theo mục đích của chủ
thể giáo dục và được xã hội chấp nhận.
Nhân cách là nội dung quan trọng của quá trình giáo dục đã được nhiều nhà
khoa học quan tâm như: Chủ nghĩa xã hội và nhân cách, của tập thể các nhà
khoa học Liên Xô (Nxb. Sách giáo khoa Mác - Lênin, 1983). Các tác giả đã
nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến sự hình thành và phát triển nhân cách
trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản
Trong cuốn sách Giáo dục với việc hình thành và phát triển nhân cách sinh
viên, tác giả Hoàng Anh [2] đã làm rõ tầm quan trọng của hoạt động giáo dục
đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách của sinh viên.
Các giá trị văn hóa tinh thần là một trong những nhân tố tác động đến quá
trình hình thành và phát triển nhân cách, đạo đức trong điều kiện kinh tế thị
trường hiện nay ở Việt Nam. Vấn đề này được nhiều tác giả nghiên cứu:

- Hoàng Đức Nhuận, “Kết quả điều tra về vai trò của nhà trường trong việc
hình thành và phát triển con người Việt Nam” (Đề tài KX-08, Hà Nội, 1995)
- Nguyễn Thế Kiệt, “Quan hệ giữa kinh tế và đạo đức trong việc định
hướng các giá trị đạo đức hiện nay" (Tạp chí Triết học, số 6/1996);


23

- Hoàng Chí Bảo: "Văn hóa và sự phát triển nhân cách của thanh niên" (Tạp
chí Nghiên cứu lý luận số 1/1997)
- Lê Thị Thủy, "Vai trò của đạo đức đối với sự hình thành nhân cách của
con người Việt Nam trong điều kiện đổi mới hiện nay" (Luận án tiến sĩ Triết học,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000) với thông điệp giáo
dục nghề nghiệp phải gắn liền với giáo dục văn hóa, đạo đức lối sống và phải
được thể hiện ngay trong cấu trúc, chương trình đào tạo, trong từng môn học.
- Trần Sĩ Phán, Giáo dục đạo đức đối với việc hình thành và phát triển nhân
cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay (Luận án tiến sĩ Triết học, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1999), v.v…
Các công trình kể trên đã đề cập nhiều đến việc giáo dục văn hóa nói
chung, văn hóa dân tộc với các khía cạnh: quá trình hình thành và phát triển; vai
trò, tác dụng của nó trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, trong công
cuộc xây dựng đất nước; những nội dung, khía cạnh cơ bản của văn hóa nói
chung và văn hóa dân tộc; những biểu hiện văn hóa trong các lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội.
Nghiên cứu về giáo dục văn hóa học đường là hướng đi của một số công
trình khoa học. Xác định tầm quan trọng của GDVHHĐ và sự cần thiết phải xây
dựng VHHĐ, các nhà khoa học đã nghiên cứu nội dung cơ bản của VHHĐ và
thực trạng giáo dục VHHĐ trong các trường đại học Việt Nam.
- Trong chuyên khảo Xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn
hóa ở thủ đô Hà Nội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất

nước, do Nguyễn Viết Chức chủ biên [20], các tác giả cho rằng ở các trường đại
học, nội dung cơ bản của xây dựng VHHĐ là: giáo dục nếp sống văn hóa lành
mạnh cho sinh viên và xử lý đúng đắn các mối quan hệ giữa thầy với thầy, thầy
với trò, trò với trò, giữa thầy, trò với cán bộ công nhân viên.
- Viện nghiên cứu Thanh niên, Trung tâm phát triển khoa học công nghệ tài
năng trẻ trong tập chuyên luận Thế hệ trẻ Việt Nam - Nghiên cứu lý luận và thực
tiễn, [133] đã nhấn mạnh sự cần thiết phải nâng cấp, cải tạo cơ sở vật chất trong
trường đại học là để đáp ứng nhiệm vụ giáo dục và đào tạo đạt chất lượng cao.


24

- Nhà nghiên cứu Phạm Minh Hạc trong tác phẩm Giáo dục Việt Nam
trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI [48] nhấn mạnh giáo dục nếp sống văn hóa cho
sinh viên trong học tập, sinh hoạt, văn hóa, tiêu dùng và trong ứng xử giữ vai trò
quan trọng.
Văn hóa học đường đang bị xuống cấp là nhận xét của đông đảo nhân dân
và các nhà khoa học. Điều này được thể hiện trong các bài viết:
- “Báo động văn hoá học đường xuống cấp”, Báo Lao động, ngày
13/12/2009;
- Hồng Đức, “Thực trạng văn hoá học đường”, Bản tin ĐHQG Hà Nội – số
174, tháng 8/2005;
- Trần Anh Quốc, “Văn hoá học đường ngày càng bị ô nhiễm”, Báo Lao
động, số 132 ngày 11/6/2007;
- Đỗ Huy (2001), Xây dựng môi trường văn hóa ở nước ta hiện nay từ góc
nhìn giá trị học, Viện văn hóa, Nxb Thông tin;
- Phạm Hồng Quang (2006), Môi trường giáo dục, Nxb Giáo dục;
- Viện Nghiên cứu sư phạm Trường Đhọc sinh PHN (9-2007), Hội thảo
khoa học: Xây dựng văn hoá học đường - Giải pháp nâng cao chất lượng giáo
dục trong nhà trường.

Văn hóa ứng xử trong VHHĐ là nội dung nhận được nhiều sự quan tâm của
các nhà khoa học :
- Nguyễn Thanh Tuấn trong sách Văn hóa ứng xử Việt Nam hiện nay (Nxb.
Từ điển bách khoa và Viện Văn hóa. HN, 2008) [120] cho rằng khái niệm lối
sống hay văn hóa lối sống tương đương với văn hóa ứng xử. Lối sống là cách
ứng xử của con người với môi trường sống, gồm môi trường tự nhiên và môi
trường xã hội.
- Nguyễn Tiến Thông trong chuyên luận Một số vấn đề giao tiếp [117] cho
rằng văn hóa ứng xử là tổng hòa những dạng hoạt động sống ổn định của con
người được vận hành theo một bảng giá trị xã hội nào đó trong sự thống nhất với
các điều kiện một hình thái xã hội nhất định.


×