Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

tiểu luận cao học Tư tưởng HCM về vị trí vai trò, sứ mệnh lịch sử của đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.07 KB, 28 trang )

I.

MỞ ĐẦU

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển mạnh sang giai
đoạn chủ nghĩa đế quốc. Chúng tiến hành vơ vét lợi nhuận độc quyền, bóc lột tàn
tệ giai cấp vô sản và những người lao động trong nước, đồng thời mở rộng việc
xâm chiếm thuộc địa, áp đặt và thực hiện chế độ thực dân đối với các nước nhỏ,
nghèo, kém phát triển ở châu Á, châu Phi và nhiều nơi khác nhằm mở rộng thị
trường, khai thác sức người, sức của vì lợi ích kinh tế và mưu đồ chính trị tàn bạo
của giai cấp tư sản của các nước đế quốc, thực dân.
Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc, thực dân,
phong trào yêu nước và cách mạng ở các nước thuộc địa trở thành một nội dung
lớn của thời đại.
Trong bối cảnh đó, loài người đã chứng kiến một sự kiện rung chuyển thế
giới - Cách mạng tháng Mười Nga 1917. Đó là cuộc cách mạng vô sản do Đảng
Cộng sản Bônsêvích và Lênin lãnh đạo đã chặt đứt mắt xích yếu nhất trong chuỗi
xích của chủ nghĩa đế quốc, mở ra thời đại mới của lịch sử nhân loại - thời đại quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, hiện thực hóa lý luận của chủ nghĩa Mác, biến chủ nghĩa
xã hội từ khoa học thành hiện thực.
Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược từ năm 1858. Với việc ký hòa ước
Patơnốt (Patennôtre) với triều đình phong kiến nhà Nguyễn ngày 6/6/1884, thực
dân Pháp đã đặt được ách thống trị và biến Việt Nam thành thuộc địa của Pháp.
Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp ngày càng gay gắt, dẫn tới
bùng phát nhiều phong trào đấu tranh chống thực dân giành độc lập suốt từ cuối
thế kỷ XIX và 30 năm đầu thế kỷ XX.

1


Tất cả các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp theo các xu hướng


khác nhau (phong kiến, nông dân, dân chủ tư sản và tiểu tư sản) trên đây, qua khảo
nghiệm lịch sử đều lần lượt thất bại.
Trong bối cảnh lịch sử đó Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh vì Tổ quốc
(5/6/1911) ra nước ngoài xem người ta làm như thế nào để trở về giúp đồng bào
mình, đó là sự khởi đầu của quá trình đi tìm con đường cứu nước đúng đắn. Và đến
với chủ nghĩa Mác – Lê nin như một lẻ đúng đắn, Người đã tích cực hoạt động
trong phong trào cộng sản quốc tế đồng thời truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê Nin về
Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc kết luận: Cách mạng trước hết phải có Đảng cách mạng.
Thấy rõ sự cần thiết đó, với uy tín chính trị trong dân tộc và vai trò, trách nhiệm
trong Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị hợp nhất
các tổ chức cộng sản họp từ ngày 6/1 - 7/2/1930 tại Hương Cảng (Trung Quốc) để
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đó là thời điểm có ý nghĩa bước ngoặt lịch sử, xác lập vai trò, vị trí lãnh đạo
duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vai trò, vị trí đó được không ngừng củng
cố và phát triển từ thực tiễn lãnh đạo đấu tranh cách mạng của Đảng suốt từ năm
1930 đến nay.
Đó không chỉ là thành quả của sự sàng lọc, lựa chọn của chính lịch sử mà
thể hiện sứ mệnh và trách nhiệm nặng nề của Đảng trước vận mệnh của đất nước
giai cấp và dân tộc, trước toàn thể nhân dân Việt Nam.
Vai trò, vị trí lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản đối với cách mạng Việt
Nam không phải tự nhiên được xác định. Đó là kết quả của quá trình chuẩn bị công
phu, khoa học về mọi mặt và sự trải nghiệm thực tiễn từ quá trình đấu tranh cách
mạng.

2


Nhằm để làm rõ hơn về vị trí vai trò và sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng Sản
Việt Nam, em xin chọn đề tài nghiên cứu “ Tư Tưởng HCM về vị trí vai trò, sứ

mệnh lịch sử của Đảng Cộng Sản Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu kết thúc môn
học .

II.Tính tất yếu,quy luật hình thành và vai trò của ĐCS,liên hệ với
tính tất yếu quy luật ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
1. Khái niệm Đảng Cộng Sản.
Đảng cộng sản là chính đảng của gai cấp công nhân.Nó là đội tiên phong,bộ
tham mưu chiến đấu,lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân,đại biểu trung thành
cho lợi ích giai cấp công nhân,của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng cộng
sản bao gồm những bộ phận tiên tiến của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân
dân lao động. Đảng cộng sản lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho hành động,lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ
chức cơ bản của mình.

2. Tính tất yếu ra đời của Đảng Cộng Sản
Đảng Cộng Sản ra đời là tất yếu lịch sử của phong trào đấu tranh của giai
cấp công nhân. Bởi vì, khi chưa có Đảng cộng sản lãnh đạo, giai cấp công nhân
chỉ có thể đấu tranh tự phát, đấu tranh vì mục đích kinh tế, vì cơm ăn áo mặc, cải
thiện sinh hoạt, chứ không phải đấu tranh với tư cách là một giai cấp nhằm thực
hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Chỉ khi nào giai cấp công nhân đạt tới trình độ tự
giác bằng việc tiếp thu lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin
thì mới đưa cuộc đấu tranh tự phát lên cuộc đấu tranh tự giác, đấu tranh chính trị,
đấu tranh với tư cách là một giai cấp có thể thực hiện sứ mệnh của mình. Muốn

3


vậy, điều kiện quan trọng trược tiên là giai cấp công nhân phải tự xây dựng lên
chính Đảng chính trị của mình, đó là Đảng Cộng Sản.


3. Quy luật ra đời của Đảng Cộng Sản.
Sự thâm nhập của Chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân dẫn đến sự hình
thành chính Đảng của giai cấp công nhân. V.I. Lênin chỉ ra rằng, Đảng Cộng Sản
là sản phẩm của sự kết hợp Chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân.
Nhưng trong mỗi nước, sự kết hợp ấy là sản phẩm của lịch sử lại được thực
hiện bằng những con đường đặc biệt, tùy theo điều kiện không gian và thời gian. Ở
nhiều nước thuộc địa thì Đảng cộng sản ra đời là kết quả của sự kết hợp Chủ nghĩa
Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Đảng cộng sản ra đời đánh dấu sự phát triển nhảy vọt của phong trào công
nhân từ tự phát lên tự giác, cuộc đấu tranh vì lợi ích kinh tế trong giới hạn của Chủ
Nghĩa Tư Bản cho phép chuyển sang cuộc đấu tranh chính trị nhằm lật đổ giai
cấp tư sản, xóa bỏ Chủ Nghĩa Tư Bản, xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội, Chủ Nghĩa
cộng sản.

4. Vai trò của Đảng cộng sản.
Đảng cộng sản là nhân tố quyết định trong việc thực hiện sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân.
Trong lịch sử không có giai cấp nào giành được địa vị thống trị,giữ vai trò
lãnh đạo xã hội mà không tạo ra được trong hang ngũ của mình một đảng chính
trị,lực lượng tiên phong để lãnh đạo toàn bộ cuộc đấu tranh.Trong cuộc đấu tranh
chống giai cấp tư sản,chừng nào và chỉ khi nào giai cấp công nhân tự tổ chức ra
chính đảng của mình để lãnh đạo cuộc đấu tranh thì mới đảm bảo giành được thắng
lợi trọn vẹn,hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình. Nếu không có chính đảng
4


lãnh đạo,giai cấp công nhân chỉ có thể đấu tranh tự phát,đấu tranh vì mục đích kinh
tế,chứ không phải là cuộc đấu tranh tự giác,vì mục đích chính trị. Chính vì
vậy,đảng cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu đảm bảo cho giai cấp công
nhân hoàn thàng sứ mệnh lịch sử của mình.

Với một đảng cộng sản chân chính thì sự lãnh đạo của đảng chính là sự lãnh
đạo của giai cấp công nhân. Đảng với giai cấp thống nhất,nhưng đảng có độ lý luận
và tổ chức cao nhất để lãnh đạo giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc thực hiện sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.Để làm tròn vai trò đó,đảng cộng sản phải là
một đảng kiểu mới,một đảng Mácxít-Lêninnít .

5. Tính tất yếu và quy luật ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam:
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời ngày 03/02/1930. Do hoàn cảnh của Việt
Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là sản
phẩm của sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước của ở nước ta. Đảng cộng sản Việt Nam đã đem lại yếu tố tự giác
vào phong trào công nhân,làm cho phong trào cách mạng nước ta có 1 bước nhảy
vọt về chất,lên 1 tầng cao mới.
Đảng cộng sản Việt Nam là một đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt
Nam.đại biểu trung thành của lợi ích của giai cấp công nhân,nhân dân lao động và
của dân tộc Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng hồ chí minh làm nền tảng tư tưởng,kim chỉ nam cho hành động,lây nguyên
tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản,lấy sự nghiệp giải phóng dân
tộc,giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động làm mục đích tối cao của
mình.
Từ khi ra đời cho đến nay, Đảng cộng sản Việt Nam đã thể hiện vai trò lành
đo,tinh thần phụ trách trước giai cấp và dân tộc trong tiến trình cách mạng Việt
5


Nam. Trong từng giai đoạn cách mạng,đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối
chiến lược ,sách lược,phương pháp cách mạng và lãnh đạo nhân dân Việt Nam
hoàn thành từng mục tiêu của sứ nghiệp cách mạng,hoàn thành cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước và đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đảng cộng sản Việt Nam đã đề xướng và lãnh

đạo công cuộc đổi mới đất nước nhằm tạo ra bước ngoặt lịch sử,đưa đất nước thoát
khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội,xây dựng nước ta theo mục tiêu” dân
giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh”
Để đưa sự nghiệp đổi mới đến thắng lợi để đảm đương được vai trò lãnh
đạo,đảng cộng sản Việt Nam coi việc tự đổi mới,tự chỉnh đốn đảng và nâng cao
năng lực lãnh đạo là yêu cầu quan trọng hàng đầu,đảm bảo cho đảng luôn luôn
ngang tầm nhiệm vụ cách mạng.”Đảng phải vững mạnh về chính trị tư tưởng và tổ
chức phải thường xuyên tự đổi mới,tự chỉnh đốn,ra sức nâng cao trình độ trí
tuệ,năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đàon kết,thống nhất trong đảng,đảm
bảo đầy đủ dân chủ và kỉ luật trong sinh hoạt đảng. Thường xuyên phê bình và tự
phê bình,đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân,chủ nghĩa cơ hội và mọi hành vi chia
rẽ bè phái. Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ,đảng viên trong sạch có phẩm
chất,có năng lực,có sức chiến đấu cao.Đảng quan tâm bồi dưỡng,đào tạo lớp người
kế tục sự nghiệp cách mạng của đảng và nhân dân”

III.Tư Tưởng HCM về Vị Trí, Vai Trò của Đảng Cộng Sản Việt
Nam.
1.Vai trò của Hồ Chí Minh Trong Quá Trình Thành Lập Đảng

6


Cuối thế kỷ XIX, sau khi bình định xong Việt Nam, thực dân Pháp bắt tay
thực thi các chính sách thực dân hà khắc, biến nước ta từ một nước phong kiến độc
lập trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Sự thống trị tàn bạo của thực dân Pháp đã làm cho mâu thuẫn dân tộc diễn ra
hết sức gay gắt, hàng loạt phong trào yêu nước theo các khuynh hướng khác nhau
liên tiếp nổ ra nhằm giải quyết mâu thuẫn chủ yếu đó. Tiêu biểu là phong trào Cần
Vương do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết khởi xướng; phong trào Đông Du
của Phan Bội Châu; phong trào cải cách của Phan Chu Trinh, khởi nghĩa Yên Thế

do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo...Các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc tuy diễn ra
quyết liệt, song cuối cùng đều bị thất bại, vì thiếu một đường lối cứu nước đúng
đắn, thiếu một tổ chức lãnh đạo có khả năng tập hợp sức mạnh của toàn dân tộc.
Trong bối cảnh đó, tháng 6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất
Thành đã rời Tổ quốc ra đi tìm con đường cứu nước giải phóng dân tộc. Năm 1920
Nguyễn Tất Thành- Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin; đây không
chỉ là bước ngoặt đối với cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, mà
còn là bước ngoặt của cách mạng Việt Nam. Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin đã
soi rọi cho Nguyễn Ái Quốc: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc thì trước hết
phải có “Đảng cách mệnh” để “trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì
liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”. Từ nhận thức đó Nguyễn
Ái Quốc ra sức chuẩn bị mọi mặt cho việc thành lập một chính đảng vô sản ở Việt
Nam, Người từng bước truyền bá có hệ thống chủ nghĩa Mác-Lênin vào trong
nước, đưa phong trào công nhân chuyển dần từ trình độ tự phát lên tự giác; đưa
phong trào yêu nước chuyển dần sang lập trường cộng sản.
Tháng 3-1929, Chi bộ Cộng sản đầu tiên được thành lập ở số nhà 5D, Hàm
Long, Hà Nội, gồm có Trần Văn Cung, Trịnh Đình Cửu, Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức
Cảnh, Đỗ Ngọc Du, Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn Văn Tuân và Dương Hạc Đính.
7


Ngày 1-5-1929, tại Đại hội toàn quốc của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên ở Hương Cảng, đoàn đại biểu Bắc Kỳ đưa ra đề nghị thành lập Đảng Cộng
sản. Đề nghị đó không được chấp nhận, trở về nước, ngày 17-6-1929, những đảng
viên trong Chi bộ Cộng sản 5D Hàm Long đã tuyên bố thành lập Đông Dương
Cộng sản Đảng. Ngày 25-7-1929 An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam
Kỳ. Tháng 9-1929 Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ.
Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được tuyên bố
thành lập. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng ở
Việt Nam. Song sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một

quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng là cần
có một Đảng thống nhất lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc, người chiến sĩ cách mạng lỗi
lạc của dân tộc Việt Nam, người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu
đó của lịch sử: thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở
Việt Nam.
Từ ngày 03 đến 07-02-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản họp tại
Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái
Quốc. Tham gia Hội nghị có các đồng chí Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh (đại
biểu DDCSD); Nguyễn Thiệu, Châu Văn Liêm (đại biểu (ANCSĐ). Đại biểu
ĐDCSLĐ không đến kịp. Hội nghị nhất trí thành lập đảng thống nhất, lấy tên là
Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng. Ngày 3 tháng 2 năm 1930 trở
thành Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như
là Đại hội thành lập Đảng. Đảng được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh giai
cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX; là sản phẩm
của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
8


nước; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và là kết
quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể
chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Đó là một mốc lớn
đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc
khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm. Trong Chánh cương
vắn tắt, Sách lược vắn tắt do đồng chí Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, được Hội nghị
thành lập Đảng thông qua đã xác định cách mạng Việt Nam phải tiến hành cách
mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội là con đường cách mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Sự ra đời của

Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ
giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.

2.Vị Trí của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
2.1 Theo Tư tưởng HCM.
Theo Người: Đảng Cộng sản là hạt nhân chính trị trung tâm là nhân tố quyết
định hàng đầu, để đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi. Thể hiện tư tưởng này,
Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng “ trước hết phải có Đảng cách mệnh, để
trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp
bức và vô sản giai cấp mọi nơi”.
Cách mạng là sự nghiệp của “ cả dân chúng chứ không phải của một hai
người”, nhưng sức mạnh của dân chúng chỉ trở thành vô địch, “ không một quân
lính, súng ống nào thắng nổi” khi được giác ngộ, được tổ chức, được lãnh đạo.
Khi thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam
là đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
có khả năng “tập hợp”, “lôi kéo” các tầng lớp nhân dân khác đoàn kết đứng lên
9


làm cách mạng. Khi Đảng ra hoạt động công khai với tên là Đảng Lao động Việt
Nam, Hồ Chí Minh đã phát triển thêm: “Đảng Lao động Việt Nam là đảng của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là đảng của dân tộc
Việt Nam”. Như vậy, Đảng “là đội tiên phong là bộ tham mưu của giai cấp vô sản,
của nhân dân lao động và của dân tộc”. Hơn nữa, nó còn là “đội tiền phong dũng
cảm và bộ tham mưu sáng suốt”, để xứng đáng với vai trò lãnh đạo cách mạng Việt
Nam trong thời kỳ lịch sử mới.
Hồ Chí Minh giải thích: “ Muốn thắng lợi thì cách mạng phải có một Đảng
lãnh đạo, Đảng phải làm cho quần chúng giác ngộ vì đâu mà họ bị áp bức bóc lột;
phải dạy cho quần chúng hiểu các quy luật phát triển của xã hội, để họ nhận rõ mục
đích gì mà đấu tranh, chỉ rõ con đường giải phóng cho quần chúng, cổ động cho

quần chúng kiên quyết cách mạng; làm cho quần chúng tin chắc cách mạng nhất
định thắng lợi”. Đồng thời Người còn chỉ rõ: “ Cách mạng là cuộc đấu tranh rất
phức tạp. Muốn khỏi đi lạc phương hướng, quần chúng phải có Đảng lãnh đạo để
nắm rõ tình hình, đường lối và định phương châm cho đúng. Cách mạng là cuộc
đấu tranh rất gian khổ, lực lượng kẻ địch rất mạnh. Muốn thắng lợi thì quần chúng
phải tổ chức rất chặt chẽ, chí khí phải kiên quyết. Vì vậy, phải có Đảng để tổ chức
và giáo dục nhân dân thành một đội quân thật mạnh; để đánh đổ kẻ địch, tranh lấy
chính quyền. Hồ Chí Minh kết luận: “ Đảng có vững cách mệnh mới thành công
cũng như người cầm lái có vững, thuyền mới chạy”. Mặt khác, “ cách mạng thắng
lợi rồi, quần chúng vẫn cần có Đảng lãnh đaọ, vì: Dù nhân dân đã nắm chính
quyền, nhưng giai cấp, đấu tranh giai cấp trong nước và mưu đồ đế quốc xâm lược
vẫn còn. Vì phải xây dựng kinh tế, quốc phòng, văn hóa, xã hội, cho nên Đảng vẫn
phải tổ chức lãnh đạo, giáo dục quần chúng để đưa nhân dân lao động đến thắng
lợi hoàn toàn”.

10


2.2 Thực tế cách mạng đã khẳng định vị trí của Đảng Cộng Sản Việt
Nam.
Tiếp thu tư tưởng đó Đảng ta chỉ rõ Đảng Cộng sản Việt Nam-đội tiên phong
của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của cả dân tộc. Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị nhưng lại
là hạt nhân lãnh đạo của toàn bộ hệ thống chính trị. Đảng đề ra Cương lĩnh chính
trị, đường lối, chiến lược, những quan điểm, chủ trương phát triển kinh tế-xã hội.
Đảng lãnh đạo xã hội chủ yếu thông qua Nhà nước và các đoàn thể quần chúng.
Ngoài ra, Đảng lãnh đạo bằng phương pháp giáo dục, thuyết phục và nêu
gương, làm công tác vận động quần chúng, lãnh đạo thực hiện tốt quy chế dân
chủ...
Cũng giống như các vĩ nhân và các nhà cách mạng tiền bối, Hồ Chí Minh đã

khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Nhưng, theo Người quần
chúng nhân dân phải được giác ngộ, được tổ chức, được lãnh đạo thì mới trở thành
lực lượng to lớn, như nhiều chiếc đũa bó thành một bó chứ không phải “mỗi chiếc
một nơi”. Đảng là người phải làm nhiệm vụ trọng đại đó. Hồ Chí Minh đã khẳng
định một vấn đề cốt tử nhất: Cách mạng trước hết phải có đảng cách mệnh để trong
thì vận động và tổ chức quần chúng, ngoài thì liên hệ với các dân tộc bị áp bức và
giai cấp vô sản mọi nơi. Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người
cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng đó phải là một đảng cách mạng chân
chính: Đảng Cộng sản.
Dù tên gọi của Đảng có lúc thay đổi, nhưng bản chất của Đảng vẫn là một.
Bao giờ Đảng cũng vẫn là đảng cách mạng chân chính, Đảng Mácxít–Lêninnít
chân chính. Bao giờ Đảng cũng tận tâm, tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân,
trung thành tuyệt đối với lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc. Ngoài lợi
ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng không có một lợi ích gì khác.
11


Độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, cho mỗi người, xây dựng đất
nước giàu mạnh đi lên chủ nghĩa xã hội, sống hòa bình hữu nghị với tất cả các dân
tộc. Đó là mục tiêu, lý tưởng của Đảng.

3. Vai Trò của Đảng Cộng Sản Việt Nam
3.1 Theo Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Theo Người. Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiền phong của cách mạng, đi
đầu lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động đấu tranh giành độc lập, vai
trò đó không phải tự nhiên mà có mà phải trải qua thực tiễn đấu tranh mới có được
từ khi mới ra đời Vai trò, vị trí lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản đối với cách
mạng Việt Nam không phải tự nhiên được xác định. Đó là kết quả của quá trình
chuẩn bị công phu, khoa học về mọi mặt và sự trải nghiệm thực tiễn từ quá trình
đấu tranh cách mạng.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng,
do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo (3/2/1930) đã nhằm vào giải quyết triệt để mâu
thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp, xác định mục tiêu đánh đổ sự thống trị của
chủ nghĩa đế quốc và chế độ phong kiến giành độc lập hoàn toàn cho dân tộc,
ruộng đất cho dân cày, đi tới xã hội cộng sản.
Cương lĩnh cũng xác định phải tập hợp đoàn kết lực lượng của toàn dân tộc,
nhất là công nhân, nông dân; xác định những mục tiêu bước ngoặt về dân sinh, dân
chủ, phương pháp đấu tranh, mối quan hệ quốc tế và nhấn mạnh vấn đề xây dựng
Đảng và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Tiếp đó là Luận cương chính trị tháng 10/1930, sự phát triển hoàn chỉnh
đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng qua các Hội nghị Trung ương
(11/1939), (11/1940) và nhất là Hội nghị Trung ương do Nguyễn Ái Quốc chủ trì
(5/1941) đã tạo nên cao trào cách mạng toàn quốc rộng lớn, mạnh mẽ dẫn tới thắng
lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945.
12


Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp, Luận cương cách mạng Việt
Nam thông qua tại Đại hội II của Đảng (2/1951) đã dẫn tới thắng lợi của kháng
chiến mở đường để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối cách mạng miền
Nam và kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã dẫn đến toàn thắng, 30/4/1975 hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước. Không có Cương lĩnh,
đường lối đúng đắn không thể có được những thắng lợi vẻ vang đó.
Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc do Đại hội III của Đảng
(9/1960) đề ra và đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước được xác định
tại Đại hội IV của Đảng (12/1976) đã bước đầu thực hiện mục tiêu xây dựng chủ
nghĩa xã hội mà các cương lĩnh trước đây đã đề ra. Quá trình xây dựng đó có
những thành công nhưng cũng bộc lộ nhiều khuyết điểm.

3.2 Thực tế cách mạng khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng

Sản Việt Nam.
Những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo
của Đảng.
Hơn 7 thập kỷ qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân
ta đã vượt qua một chặng đường đấu tranh cách mạng cực kỳ khó khăn, gian khổ
nhưng đã giành được những thắng lợi rất vẻ vang:
Một là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
mở ra một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội.
Hai là, thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo
vệ Tổ quốc, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

13


Ba là, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm, tổng kết sáng kiến của nhân
dân, Đảng ta đã đề ra và lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ Tổ quốc phù hợp với thực tiễn Việt Nam và bối cảnh quốc tế mới.
Với những thắng lợi giành được trong thế kỷ XX, nước ta từ một nước thuộc
địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển kinh tế theo
con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan
trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành
người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn,
lạc hậu đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Những thắng lợi to lớn có ý nghĩa chiến lược của cách mạng Việt Nam giành
được trong hơn 7 thập kỷ qua bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó nhân tố hàng
đầu quyết định là sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng ta- Đảng Cộng sản

Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện - một Đảng cách mạng
thực sự vì nước, vì dân, ngoài lợi ích đó Đảng không có lợi ích nào khác. Giành
độc lập cho dân tộc, tự do hạnh phúc cho nhân dân là mục tiêu lý tưởng của Đảng.
Vì vậy, vượt lên mọi thách thức, trong phong ba bão táp, Đảng ta vẫn kiên định
vững vàng không xa rời mục tiêu lý tưởng, không run sợ trước kẻ thù, không nhụt
chí trước những khó khăn chồng chất, không hạ thấp vị trí tiên phong chiến đấu và
trách nhiệm của người lãnh đạo, người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng, một
lòng một dạ phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Đường lối cách mạng đúng đắn và sáng tạo của Đảng - nhân tố hàng đầu bảo
đảm vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Đảng lãnh đạo trước hết và chủ yếu bằng cương lĩnh, đường lối, bằng chủ
trương, chính sách của Đảng. Đường lối chính trị đúng là cơ sở để đoàn kết thống

14


nhất ý chí và hành động của toàn Đảng, toàn dân, tạo nên sức mạnh của Đảng và
của cách mạng.
Đường lối chính trị đúng đắn nghĩa là đường lối đó phải phản ánh được xu thế
vận động của lịch sử, đồng thời phù hợp với nguyện vọng và lợi ích chân chính của
đa số nhân dân. Sức mạnh của Đảng chính là sự đồng tình ủng hộ của nhân dân,
mà sự đồng tình và tin cậy của nhân dân đối với Đảng trước hết nhờ có đường lối
đúng đắn của Đảng.
Đường lối cách mạng của Đảng có vai trò to lớn trong việc thống nhất về chính
trị, tư tưởng và tổ chức, củng cố niềm tin vào Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi những
khuynh hướng sai lầm về chính trị và tư tưởng làm cho Đảng ngày càng vững
mạnh.
Sở dĩ Đảng ta có đường lối chính trị đúng đắn vì: Đảng có một nền tảng lý luận
vững chắc, một lý luận tiên phong dẫn đường, đó là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh như Lênin đã nói: "Không có lý luận cách mạng không có

phong trào cách mạng..." Chỉ Đảng nào có được một lý luận tiên phong hướng dẫn
thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong. Trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng, Đảng ta đã nắm vững, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn của cách mạng Việt Nam để đề ra đường lối
đúng đắn phù hợp với sự phát triển của lịch sử, phù hợp với nguyện vọng của nhân
dân.
Hơn thế nữa, Đảng ta luôn quán triệt sâu sắc quan điểm cách mạng là sáng tạo,
chân lý là cụ thể. Vì vậy, trong lãnh đạo Đảng ta luôn ý thức vận dụng một cách
độc lập, sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam. Một trong những bài học được Đảng ta
rút ra là phải luôn luôn xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng thực tế, kết hợp nhuần
nhuyễn sự kiên định về nguyên tắc với sự linh hoạt, sáng tạo về phương pháp, đó
là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Mọi sự giáo điều, chủ quan
15


duy ý chí, xa rời thực tiễn cũng như xa rời các nguyên tắc, mục tiêu cơ bản của
cách mạng thì sẽ dẫn đến nguy cơ sai lầm, làm mất sự lãnh đạo của Đảng.
Để đảm bảo vai trò lãnh đạo của mình, Đảng luôn quan tâm tới việc xây dựng
đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng có phẩm chất, đạo đức cách mạng và năng lực
công tác, thật sự là những chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp
công nhân.
Mỗi đảng viên của Đảng phải luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và
bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân, trung thành với lợi ích của giai
cấp và của dân tộc, một đời hy sinh phấn đấu vì lý tưởng của cách mạng và lợi ích
của nhân dân.
Để giữ vững vai trò lãnh đạo, phải xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, lấy tự phê bình và phê
bình làm vũ khí đấu tranh để làm cho Đảng ngày càng vững mạnh. Đồng thời, luôn
củng cố, giữ vững và tăng cường sự đoàn kết trong Đảng, đảm bảo sự nhất trí cao
về mục tiêu lý tưởng của Đảng, để làm cho Đảng ngày càng vững mạnh, đủ sức

lãnh đạo cách mạng. Trong quá trình lãnh đạo, bên cạnh những ưu điểm, trong
Đảng cũng còn những yếu kém, thậm chí có lúc sai lầm, khuyết điểm, song điều
quan trọng, Đảng đã sớm phát hiện ra những yếu kém của mình. Đảng công khai tự
phê bình nhận khuyết điểm trước nhân dân, quyết tâm sửa chữa và sửa chữa có kết
quả. Vì vậy, Đảng vẫn được nhân dân tin yêu, thừa nhận là đội tiên phong chính trị,
người lãnh đạo duy nhất của dân tộc. Thực tiễn lịch sử đã khẳng định rằng: ở nước
ta, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, không có lực lượng nào khác có đủ sức mạnh
lãnh đạo cách mạng. Với tất cả tinh thần khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta
vẫn có quyền tự hào nói rằng: Đảng ta thật vĩ đại.
Học tập, nghiên cứu để hiểu biết về quá trình đấu tranh cách mạng và truyền
thống của Đảng không phải chỉ để tự hào về Đảng, mà quan trọng hơn là thanh
16


niên cần nâng cao hơn nữa niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, ra sức phấn đấu
thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, để công cuộc đổi mới giành thắng lợi to
lớn hơn. Trên những vị trí công tác, lao động và học tập của mình, thanh niên phải
góp phần tích cực vào công tác xây dựng, bảo vệ Đảng, góp phần làm cho Đảng
ngày càng trong sạch, vững mạnh; ra sức học tập, rèn luyện phấn đấu để trở thành
những đảng viên của Đảng, đem tài năng và sức trẻ cống hiến cho sự nghiệp của
Đảng, làm cho những thành tựu và truyền thống của Đảng ngày càng phát triển và
phong phú hơn.
Để khẳng định lại điều đó Điều 4 của Hiến pháp Việt Nam (1992, sửa đổi)
khẳng định vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng lên Nhà nước và xã hội:
Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại
biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả
dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh
đạo Nhà nước và xã hội.

IV.Tư tưởng HCM về sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng Sản Việt Nam


1.Quan điểm của Hồ Chí Minh về sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng
Sản Việt Nam.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 là kết quả tất yếu của cuộc
đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc trong thời đại mới; là sản phẩm của sự kết
hợp chủ nghĩa Mác- Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử; là kết

17


quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của các chiến sĩ
cách mạng đứng đầu là Bác Hồ kính yêu của chúng ta.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng tỏ rằng: Giai cấp công nhân
Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Đó cũng là cột mốc lớn
đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Cuộc khủng
hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm đã được giải quyết. Từ đây,
cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng
Mác- Lênin chân chính với đường lối cách mạng khoa học và sáng tạo là cơ sở lý
luận vững chắc đảm bảo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đáp ứng đầy đủ
yêu cầu của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và công cuộc phát triển của đất
nước.
Ngay từ khi mới ra đời đảng ta đã thể hiện rõ được sứ mệnh lịch sử của mình
bằng uy tín và kinh nghiệm cách mạng của mình, với sự phân tích sâu sắc của lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc về vai trò, trách nhiệm của những người cộng sản trước vận
mệnh dân tộc đã đem lại sự đoàn kết nhất trí cho những người cộng sản Việt Nam,
hướng mọi chiến sĩ cách mạng về một mục tiêu chung.
Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Ðảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và
được Hội nghị hợp nhất thông qua tuy vắn tắt song đã nêu được những vấn đề cơ
bản về đường lối cách mạng Việt Nam. Ðó là lời tuyên bố về sự lựa chọn con

đường cách mạng của Ðảng khi mới ra đời. Cương lĩnh đã xác định rõ sự lựa chọn
con đường tiến lên của cách mạng Việt Nam là thực hiện cách mạng giải phóng
dân tộc, dân chủ, tiến lên xã hội cộng sản.
Ðược Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, Ðảng Cộng sản Việt Nam
đã trở thành một Ðảng cách mạng chân chính, lãnh đạo nhân dân Việt Nam hoàn
thành thắng lợi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và đưa đất nước tiến lên con
đường xây dựng CNXH. Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chiến thắng Ðiện
18


Biên Phủ năm 1954, Ðại thắng mùa xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ
Chí Minh lịch sử. Công cuộc đổi mới đất nước do Ðảng ta khởi xướng và lãnh đạo,
bắt đầu từ Ðại hội VI của Ðảng (1986). Ðó là những mốc son chói lọi trong lịch sử
dân tộc. Những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử đó đều bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng
đắn, từ việc xây dựng Ðảng xứng đáng là người lãnh đạo nhân dân trong cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc để đi tới CNXH.
Trong xây dựng Ðảng từ khi chưa giành được chính quyền đến khi trở thành
Ðảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ðảng ta đã vận dụng sáng tạo những
quan điểm của Mác-Lênin về Ðảng cộng sản, cũng như những kinh nghiệm của
các Ðảng cộng sản khác về xây dựng Ðảng phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể
của Việt Nam. Ðiều đó thể hiện trong việc lấy tên Ðảng là Ðảng Cộng sản Việt
Nam ngay khi thành lập, trong việc xác định Ðảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ
nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Ðiều ấy còn được thể hiện trong những quyết định táo bạo như Ðảng tuyên bố tự
giải tán (thực chất là rút vào bí mật) tháng 11-1945 - khi Ðảng vừa trở thành Ðảng
cầm quyền, trong việc đổi tên Ðảng thành Ðảng Lao động Việt Nam và xác định:
Ðảng là Ðảng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, khi
Ðảng trở lại hoạt động công khai năm 1951.
Cùng với những nội dung trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng sớm chỉ ra những
nguy cơ bên trong đối với một Ðảng cầm quyền ngay trong năm đầu tiên của chính

quyền cách mạng cũng như trong những giai đoạn cách mạng sau, nêu rõ các
nguyên tắc xây dựng Ðảng, các mặt của công tác xây dựng Ðảng và các quy luật
tồn tại và phát triển của Ðảng nhằm xây dựng Ðảng một cách toàn diện... Người đã
làm phong phú thêm lý luận về Ðảng và về xây dựng Ðảng của chủ nghĩa MácLênin.

19


2. Sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng Sản Việt Namqua từng thời kỳ
đấu tranh cách mạng.
Đảng đã lãnh đạo đấu tranh và khởi nghĩa giành chính quyền
Tháng Tám năm 1945 .
Với đường lối cách mạng, cứu nước đúng đắn, Đảng ta đã quy tụ đoàn kết
xung quanh mình tất cả các giai cấp và tầng lớp yêu nước không phân biệt dân tộc,
tôn giáo xây dựng nên lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp trong cả nước, đấu
tranh chống thực dân Pháp xâm lược và bọn phong kiến tay sai. Qua 15 năm
(1930-1945) lãnh đạo cách mạng, trải qua đấu tranh gian khổ, mặc dù gặp phải
những tổn thất hy sinh to lớn nhưng Đảng vẫn giữ vững ý chí chiến đấu, kiên định
cách mạng, trung thành với mục tiêu lý tưởng của mình. Ba cao trào cách mạng lớn
(1930-1931; 1936-1939; 1939-1945) là ba cuộc tổng diễn tập cách mạng chuẩn bị
lực lượng, tạo cơ sở giành thắng lợi cho cuộc chiến đấu mới. Nắm chắc thời cơ lịch
sử, với một nghệ thuật lãnh đạo và tổ chức khởi nghĩa tài tình, Đảng ta đã lãnh đạo
cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công trọn vẹn. Chỉ
trong một thời gian ngắn, nhân dân Việt Nam đã vùng lên đập tan xiềng xích nô lệ
của chế độ thực dân, lật nhào chế độ phong kiến tay sai, giành chính quyền về tay
nhân dân.
Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa- Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân, đưa dân tộc ta bước sang một kỷ nguyên mới- kỷ nguyên độc lập, tự do
tiến lên CNXH. Đánh giá ý nghĩa lịch sử của thắng lợi này, Chủ tịch Hồ Chí Minh

viết: "Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào mà
giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng:
Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa

20


thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm
chính quyền toàn quốc".

Đảng lãnh đạo toàn dân kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (19451954).
Vừa mới ra đời, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã bị các nước đế quốc, các thế
lực phản động cấu kết với nhau chống phá rất quyết liệt hòng tiêu diệt chính quyền
cách mạng còn non trẻ. Nhà nước ta lúc này hết sức khó khăn: Nền kinh tế nghèo
nàn xơ xác, nạn đói hoành hành, đất nước bị bao vây bốn phía; vận mệnh của Tổ
quốc như "ngàn cân treo sợi tóc". Song, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã kịp thời đề ra những chủ trương, quyết sách đúng đắn, toàn diện trên tất
cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng... Với đường lối
cực kỳ sáng suốt, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lược, Đảng đã
huy động được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc vượt qua muôn vàn khó khăn, nguy
hiểm, củng cố giữ vững chính quyền cách mạng, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng
chiến lâu dài chống thực dân Pháp.
Bất chấp nguyện vọng yêu chuộng hòa bình của nhân dân ta, mặc dù chúng
ta đã nhân nhượng, chúng ta càng nhân nhượng thực dân Pháp càng lấn tới, vì
chúng muốn cướp nước ta một lần nữa. Ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Đáp lời kêu gọi đó, nhân dân cả nước đã
nhất tề đứng lên với quyết tâm: "Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn
diện, đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, vừa kháng chiến vừa kiến quốc,
Đảng ta đã tổ chức, lãnh đạo nhân dân vượt qua mọi khó khăn, giành thắng lợi vĩ

đại trong cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược.

21


Chiến thắng Điện Biên Phủ (tháng 5-1954) đã đi vào lịch sử dân tộc ta như
một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa của thế kỷ XX, đi vào lịch sử thế
giới như một chiến công chói lọi, đột phá thành trì của đế quốc, báo hiệu sự sụp đổ
hoàn toàn không tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân cũ. Đánh giá ý nghĩa lịch sử
của thắng lợi này, Hồ Chủ tịch viết: "Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc
địa nhỏ yếu đã thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là thắng lợi vẻ vang của
nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là thắng lợi của các lượng hòa bình, dân chủ
và CNXH thế giới"...
Thắng lợi đó đã làm sáng tỏ một chân lý: Trong điều kiện thế giới ngày nay,
một dân tộc dù nhỏ yếu nhưng một khi đoàn kết đứng lên, kiên quyết đấu tranh
dưới sự lãnh đạo của chính Đảng Mác-Lênin để giành độc lập và dân chủ thì có
đầy đủ lực lượng để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược và
đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược (1954-1975).
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng Việt Nam
bước vào thời kỳ mới với đặc điểm: Đất nước tạm thời chia cắt làm hai miền với
hai chế độ chính trị - xã hội đối lập nhau. Miền Bắc đã có hoà bình, dưới sự lãnh
đạo của Đảng đang bắt đầu xây dựng một xã hội mới. Miền Nam vẫn còn dưới ách
đô hộ, áp bức của chủ nghĩa đế quốc. Con đường phát triển của cách mạng nước ta
lúc này được Đảng ta xác định là phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược:
Một là, tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn
cứ địa vững chắc của cả nước.
Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, chống đế
quốc Mỹ xâm lược và tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Như vậy, đặc điểm lớn nhất, nét độc đáo của cách mạng Việt Nam thời kỳ này là

một Đảng thống nhất lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ
22


chiến lược. Tuy mỗi miền thực hiện một nhiệm vụ chiến lược khác nhau nhưng có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó cách mạng miền Bắc giữ vai trò quyết
định nhất đối với toàn bộ sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Cách mạng miền
Nam giữ vị trí quan trọng, tác động trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền
Nam thống nhất đất nước.
Hơn 20 năm cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, mặc dù gặp
nhiều khó khăn trở ngại chồng chất, đặc biệt từ năm 1965 trở đi miền Bắc phải trực
tiếp đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại rất ác liệt của đế quốc Mỹ, nhưng
dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân miền Bắc đã kiên cường trong sản xuất và
chiến đấu, giành được những thành tựu to lớn, đồng thời chi viện đắc lực cho miền
Nam...Hàng triệu tấn lương thực và vũ khí, trang bị; hàng vạn thanh niên nam nữ
hăng hái lên đường vào miền Nam chiến đấu. Miền Bắc đã dốc sức vào chiến tranh
cứu nước và giữ nước với toàn bộ sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, đã làm
tròn một cách xuất sắc nghĩa vụ căn cứ địa của cách mạng cả nước, xứng đáng là
pháo đài vô địch của chủ nghĩa xã hội.
Đế quốc Mỹ, đã dùng mọi thủ đoạn, thử nghiệm mọi chiến lược, sử dụng
mọi vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại trong cuộc chiến tranh xâm lược
Việt Nam. Qui mô, tính chất cũng như mức độ ác liệt của cuộc chiến tranh mà nhân
dân ta phải đương đầu chịu đựng chưa từng có trong lịch sử. Song, nhân dân miền
Nam đã kiên cường chịu đựng gian khổ hy sinh, kiên quyết đánh thắng đế quốc Mỹ
xứng đáng với danh hiệu “Thành đồng Tổ quốc", sát cánh cùng đồng bào miền Bắc
đánh bại mọi âm mưu, chiến lược của đế quốc Mỹ, góp phần trực tiếp giải phóng
miền Nam thống nhất đất nước.
Trải qua 21 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước đã chiến đấu
kiên cường anh dũng với sự đồng tình ủng hộ của bạn bè quốc tế; bằng cuộc Tổng
tiến công nổi dậy mùa xuân 1975, với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân ta

23


đã kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước. "Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự
nghiệp đánh Mỹ cứu nước sẽ mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một
trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của
chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, đi vào lịch sử thế giới như
một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn
và có tính thời đại sâu sắc".
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã kết thúc vẻ vang 30
năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; hoàn thành cách mạng dân
tộc dân chủ trong cả nước, mở ra thời kỳ mới - thời kỳ cả nước độc lập thống nhất
đi lên chủ nghĩa xã hội.

Đảng tiến hành và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước từ 1986 – nay.
Đại hội VI của Đảng đã nghiêm khắc kiểm điểm, chỉ ra những yếu kém trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đề ra đường lối đổi mới toàn diện,
mở ra bước ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) đã thông qua Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược ổn
định và phát triển kinh tế- xã hội 1991 - 2000, các Nghị quyết của Đại hội VII, Đại
hội VIII và các Nghị quyết Trung ương sau đó đã cụ thể hoá hơn nữa đường lối đổi
mới ở nước ta. Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước ta đã vượt
qua một giai đoạn thử thách gay go, cách mạng nước ta không những đứng vững
mà còn vượt lên đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nước
ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, nhưng còn một số mặt chưa vững chắc.
Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho
công nghiệp hoá hoàn thành về cơ bản, cho phép chuyển sang thời kỳ phát triển
24



mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn.
Trong 5 năm (1996-2001), thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, đất
nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng:
Kinh tế tăng trưởng khá. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân
hàng năm là 7%. Nông nghiệp phát triển liên tục. Giá trị sản xuất công nghiệp bình
quân hàng năm tăng 13,5%. Hệ thống kết cấu hạ tầng, các ngành dịch vụ, xuất
nhập khẩu đều phát triển.
Văn hoá, xã hội có những tiến bộ; đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện.
Giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ có chuyển biến tích cực. Các hoạt động văn
hoá, văn nghệ, công tác chăm sóc sức khoẻ và những chính sách xã hội khác đều
được coi trọng, đạt những kết quả to lớn.
Tình hình chính trị - xã hội cơ bản được ổn định; quốc phòng, an ninh được
tăng cường, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Quan hệ đối ngoại ngày càng được mở rộng, hội nhập quốc tế được tiến hành
chủ động và đạt được nhiều kết quả, vị thế của nước ta trên trường quốc tế ngày
càng được nâng cao.
Công tác xây dựng Đảng được chú trọng, hệ thống chính trị được củng cố;
quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực được phát huy, một số chính sách và
quy chế dân chủ của nhân dân trước hết là ở cơ sở, bước đầu được thực hiện.
Những thành tựu tron hơn 25 năm (1966 – 2012) đã tăng cường sức mạnh tổng
hợp, làm thay đổi bộ mặt của đất nước và cuộc sống của nhân dân, củng cố vững
chắc độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế và uy tín của nước
ta trên trường quốc tế.

25



×