Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Hướng dẫn ôn thi tốt nghiệp đại học ngành giáo dục tiểu học toán cao cấp và phương pháp dạy học môn toán ở tiểu học phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 93 trang )

Phần II

PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
MÔN TOÁN Ở TIỂU HỌC

93


94


Chương 1

MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY
HỌC MÔN TOÁN Ở TIỂU HỌC
TÓM TẮT LÝ THUYẾT
1.1. VỊ TRÍ, MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ CỦA MÔN TOÁN Ở TIỂU
HỌC
1.1.1. Vị trí
Mỗi môn học ở tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển
những cơ sở ban đầu, rất quan trọng của nhân cách con người Việt Nam.
Trong các môn học ở tiểu học, cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán có vị trí
hết sức quan trọng bởi vì:
- Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán ở tiểu học có nhiều ứng dụng
trong đời sống; chúng rất cần thiết cho người lao động, rất cần thiết để học
tốt các môn học khác ở tiểu học và chuẩn bị cho việc học tốt môn Toán ở
bậc Trung học.
- Môn Toán giúp học sinh nhận biết những mối quan hệ về số lượng
và hình dạng không gian của thế giới hiện thực. Nhờ đó mà học sinh có
được phương pháp nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh và biết
cách hoạt động có hiệu quả trong học tập và trong đời sống.


- Môn Toán góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp
suy nghĩ, phương pháp giải quyết vấn đề; góp phần phát triển trí thông
minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt; khả năng ứng xử và giải quyết những
tình huống nảy sinh trong học tập và trong cuộc sống; nhờ đó mà hình thành
và phát triển cho học sinh các phẩm chất cần thiết và quan trọng của người
lao động mới.

1.1.2. Mục tiêu
Môn Toán ở tiểu học nhằm giúp học sinh:
1. Có những kiến thức cơ bản ban đầu về số học các số tự nhiên, phân
95


số, số thập phân; các đại lượng thông dụng; một số yếu tố hình học và thống
kê đơn giản.
2. Hình thành các kĩ năng thực hành tính, đo lường, giải bài toán có
nhiều ứng dụng thiết thực trong đời sống.
3. Góp phần bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận
hợp lý và diễn đạt đúng cách phát hiện và cách giải quyết các vấn đề đơn
giản, gần gũi trong cuộc sống; kích thích trí tưởng tượng; gây hứng thú học
tập toán; góp phần hình thành bước đầu phương pháp tự học và làm việc có
kế hoạch, khoa học, chủ động, linh hoạt, sáng tạo.
Ngoài ra, môn Toán còn góp phần hình thành và rèn luyện các phẩm
chất, các đức tính cần thiết của người lao động mới trong xã hội hiện đại.

1.1.3. Nhiệm vụ
1. Hình thành hệ thống các kiến thức cơ bản, đơn giản, có nhiều ứng
dụng trong đời sống của số học gồm: cách đọc, viết, so sánh các số tự nhiên,
phân số, số thập phân; một số đặc điểm của tập hợp số tự nhiên, phân số số
thập phân; các phép tính trong tập hợp số tự nhiên, số thập phân.

2. Có những hiểu biết ban đầu, thiết thực nhất về đại lượng cơ bản như
độ dài, khối lượng, thời gian, diện tích, thể tích, dung tích, tiền Việt Nam và
một số đơn vị đo thông dụng. Biết sử dụng các dụng cụ để thực hành đo
lường. Biết ước lượng các số đo đơn giản.
3. Rèn luyện để nắm chắc các kĩ năng thực hành tính nhẩm, tính viết
về bốn phép tính với các số tự nhiên, số thập phân, số đo các đại lượng.
4. Biết nhận dang và bước đầu biết phân biệt một số các hình hình học
thường gặp. Biết tính chu vi, diện tích, thể tích của một số hình. Biết sử
dụng các dụng cụ đơn giản để đo và vẽ hình.
5. Có những hiểu biết ban đầu, sơ giản về dùng chữ thay số, biểu thức
toán học và giá trị của biểu thức toán học, phương trình và bất phương trình
đơn giản. Biết tính giá trị các biểu thức số, giải một số phương trình và bất
phương trình đơn giản nhất bằng phương pháp phù hợp với tiểu học.
6. Có những hiểu biết ban đầu, sơ giản về dãy số liệu, bảng số liệu,
biểu đồ thống kê. Biết thu thập, nhận xét và sắp xếp số liệu trong một bảng
số liệu; biết thu thập và xử lý một số thông tin đơn giản trên một biểu đồ.
96


7. Biết cách giải và trình bày bài giải với các bài toán có lời văn. Nắm
chắc, thực hiện đúng quy trình giải bài toán. Bước đầu biết giải một số bài
toán bằng các cách khác nhau.
8. Thông qua các hoạt động học tập toán để phát triển đúng mức một
số khả năng trí tuệ và thao tác tư duy quan trọng nhất như: so sánh, phân
tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa, cụ thể hóa...
9. Hình thành tác phong học tập và làm việc có suy nghĩ, có kế hoạch,
có kiểm tra, có tinh thần hợp tác, ý chí vượt qua khó khăn, vươn lên trong
học tập và trong cuộc sống.

1.2. NỘI DUNG MÔN TOÁN Ở TIỂU HỌC

1.2.1. Cấu trúc nội dung môn Toán ở tiểu học
Nội dung môn Toán ở tiểu học gồm 4 chủ đề kiến thức sau:
1.2.1.1. Số học

1. Khái niệm ban đầu về số tự nhiên; số tự nhiên liền trước, liền sau, ở
giữa hai số tự nhiên; các chữ số từ 0 đến 9.
2. Cách đọc và ghi số tự nhiên; hệ ghi số thập phân.
3. Các quan hệ bé hơn (<), lớn hơn (>), bằng nhau (=) giữa các số tự
nhiên; so sánh các số tự nhiên; xếp thứ tự các số tự nhiên thành dãy số tự
nhiên. Một số đặc điểm của dãy số tự nhiên: rời rạc, xếp thứ tự tuyến tính...
4. Các phép tính cộng, trừ, nhân, chia các số tự nhiên: ý nghĩa, các
bảng tính, một số tính chất cơ bản của các phép tính, tính nhẩm và tính viết,
thứ tự thực hiện các phép tính trong biểu thức có nhiều phép tính, mối quan
hệ giữa các phép tính.
5. Giới thiệu bước đầu về phân số: khái niệm ban đầu, cách đọc, cách
viết, so sánh, thực hành cộng, trừ, nhân, chia các trường hợp đơn giản.
6. Khái niệm ban đầu về số thập phân: cách đọc, cách viết, so sánh và
xếp thứ tự các số thập phân...
7. Làm quen với việc dùng chữ thay số.
8. Giới thiệu biểu thức số và biểu thức chữ, tính giá trị của biểu thức,
bước đầu làm quen với biến số, mối quan hệ phụ thuộc giữa hai đại lượng.
9. Giải các phương trình đơn giản bằng phương pháp phù hợp với học
97


sinh tiểu học.
10. Lập các bảng số liệu thống kê đơn giản và nhận xét bảng số liệu:
tính tổng, tính giá trị trung bình.
11. Lập biểu đồ đơn giản, tập nhận xét một số đặc điểm đơn giản của biểu
đồ.

1.2.1.2. Đại lượng và đo đại lượng

1. Khái niệm ban đầu về các đại lượng thông dụng như: độ dài, khối
lượng, dung tích, thời gian, diện tích, thể tích, tiền Việt Nam.
2. Khái niệm ban đầu về đo đại lượng: một số đơn vị đo thông dụng
nhất, kí hiệu và quan hệ giữa một số đơn vị đo và việc chuyển đổi đơn vị đo.
3. Thực hành đo đại lượng: giới thiệu một số dụng cụ đo và thực hành đo
đại lượng.
4. Cộng, trừ, nhân, chia các số đo đại lượng cùng loại.
1.2.1.3. Các yếu tố hình học

1. Biểu tượng về các hình học đơn giản: điểm, đoạn thẳng, đường
thẳng, đường gấp khúc, góc...
2. Khái niệm ban đầu về chu vi, diện tích của các hình. Cách tính chu
vi, diện tích một số hình.
3. Cách tính diện tích xung quanh, diện tích toàn phần, thể tích hình
hộp chữ nhật, hình lập phương.
1.2.1.4. Giải bài toán có lời văn

1. Giải các bài toán đơn bằng một phép tính cộng, trừ, nhân, chia.
2. Giải các bài toán hợp. Trong số các bài toán hợp có một số dạng bài
toán có cấu trúc toán học giống nhau và có thể sử dụng phương pháp giải
giống nhau: các bài toán tìm số trung bình cộng, tìm hai số khi biết tổng và
hiệu của hai số đó...
Dạy học giải toán có lời văn giúp học sinh biết cách tự giải quyết các
vấn đề thường gặp trong đời sống, các vấn đề này được nêu dưới dạng các
bài toán có lời văn. Đây là sự vận dụng có tính chất tổng hợp các kiến thức,
kĩ năng, phương pháp suy nghĩ và giải quyết vấn đề đã học trong chương
trình môn Toán ở tiểu học.
98



1.2.2. Đặc điểm cấu trúc nội dung môn Toán ở tiểu học
1) Môn Toán ở tiểu học là một môn học thống nhất, không chia thành
phân môn. Hạt nhân của môn Toán ở tiểu học là số học, các chủ đề kiến
thức khác liên quan chặt chẽ với hạt nhân số học, gắn bó hỗ trợ lẫn nhau
tạo nên sự thống nhất của toàn bộ nội dung môn Toán ở tiểu học

- Chương trình môn Toán ở tiểu học tuy gồm 4 chủ đề kiến thức khác
nhau nhưng thống nhất trong một môn học từ lớp 1 đến lớp 5.
- Số học là nội dung cơ bản, trọng tâm của môn Toán ở tiểu học.
- Các nội dung về đại lượng và đo đại lượng, các yếu tố hình học, một
số yếu tố thống kê đơn giản và giải toán được sắp xếp xen kẽ với hạt nhân
số học nhằm tạo sự gắn bó, hỗ trợ lẫn nhau. Đây là sự thể hiện của quan
điểm tích hợp trong cấu trúc nội dung môn Toán ở tiểu học.
2) Cấu trúc nội dung chương trình môn Toán ở tiểu học quán triệt các
tư tưởng của Toán học hiện đại và phù hợp với từng giai đoạn phát triển của
học sinh tiểu học

- Các kiến thức của môn Toán ở tiểu học hiện nay về cơ bản vẫn là các
kiến thức Toán học truyền thống. Tuy nhiên, trong chương trình môn Toán
hiện nay các kiến thức truyền thống đó đã được trình bày theo quan điểm
mới, đó là quán triệt tư tưởng toán học hiện đại. Mục đích thể hiện:
+ Coi trọng tính thống nhất của toán học.
+ Trình bày các kiến thức số học theo tinh thần của lý thuyết tập
hợp, cấu trúc đại số và cấu trúc sắp thứ tự.
+ Vận dụng tư tưởng của phương pháp tiên đề khi trình bày các yếu tố
hình học.
- Căn cứ vào trình độ nhận thức và năng lực tư duy của học sinh tiểu
học mà nội dung chương trình môn Toán được cấu trúc phù hợp với từng

giai đoạn phát triển của học sinh.
+ Giai đoạn đầu (các lớp 1, 2, 3): Giai đoạn học tập căn bản.
Học sinh bắt đầu chuyển từ hoạt động chủ đạo là hoạt động chơi sang
hoạt động học. Do đó, học tập ở giai đoạn này là “học mà chơi – chơi mà
học”, học trong hoạt động và bằng hoạt động, nên việc tổ chức hoạt động trò
chơi trong một giờ học toán ở giai đoạn này là hết sức cần thiết. Giáo viên
99


phải đưa học sinh vào các tình huống hoạt động trong một giờ học toán tức là
mọi học sinh đều phải được hoạt động (bằng tư duy, ngôn ngữ và hành vi).
Nhận thức của học sinh ở giai đoạn này chủ yếu là nhận thức cảm tính
dựa vào các đồ vật gắn liền với đời sống hàng ngày của học sinh. Vì vậy,
dạy học ở giai đoạn này nhất thiết phải sử dụng các yếu tố trực quan đồng
thời các yếu tố trực quan càng gần gũi học sinh càng tốt.
+ Giai đoạn cuối (các lớp 4, 5): Giai đoạn học tập sâu.
Hoạt động chủ đạo của học sinh ở giai đoạn này là hoạt động học, ở đây
học sinh học tập thông qua hoạt động thực hành – luyện tập của cá nhân hay
nhóm để từ đó có thể “tự mình” phát hiện ra các kiến thức, kĩ năng mà giáo
viên cần dạy. Do đó, việc tổ chức các hoạt động trò chơi trong một giờ học
toán của học sinh ở giai đoạn này là không bắt buộc, tuy nhiên nên khuyến
khích việc tổ chức các hoạt động trò chơi mang tính trí tuệ, trò chơi xử lí tình
huống trong học tập và trong cuộc sống.
Nhận thức của học sinh ở giai đoạn này bắt đầu chuyển dần sang nhận
thức lí tính trên cơ sở quan sát, phân tích, so sánh các hiện tượng và sự kiện
trong học tập và trong đời sống. Vì vậy, khi dạy học ở giai đoạn này cần
giảm dần về thời lượng sử dụng và mức độ trực quan của các yếu tố trực
quan.
3) Các kiến thức và kĩ năng của môn Toán ở tiểu học được hình thành
chủ yếu bằng con đường quy nạp thông qua thực hành, luyện tập và thường

xuyên được ôn tập, củng cố, phát triển, vận dụng trong học tập và trong đời
sống.

- Thông qua hoạt động thực hành bước đầu giúp học sinh tìm tòi, phát
hiện các khái niệm toán học, các quy tắc tính toán; đồng thời sẽ củng cố các
tri thức mới, rèn luyện các kĩ năng cơ bản, phát triển tư duy.
- Thông qua các hoạt động thực hành, luyện tập học sinh bước đầu làm
quen với cách vận dụng các kiến thức, kĩ năng của môn Toán để giải quyết
những vấn đề nảy sinh trong học tập và trong cuộc sống.
- Thông qua việc thường xuyên ôn tập, củng cố và vận dụng sẽ giúp học
sinh hiểu sâu, nhớ kĩ và vận dụng tốt các kiến thức, kĩ năng đã được học. Đây
cũng là cơ sở để hình thành và phát triển tư duy và điều kiện cần thiết để học
tập tiếp các nội dung mới.
100


1.3. ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN TOÁN Ở TIỂU HỌC
1.3.1. Định hướng chung
Trên cơ sở các quan điểm tiếp cận về đổi mới phương pháp dạy học và
thực tiễn giáo dục nước ta, các nhà giáo dục đã đề xuất những định hướng
làm cơ sở cho việc đổi mới phương pháp dạy học. Định hướng này cũng đã
được thể hiện trong các chủ trương, đường lối phát triển giáo dục đào tạo
của Đảng, Nhà nước và đã được thể chế hoá trong Luật Giáo dục: “Phương
pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo
của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực
hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” (Luật giáo dục 2005, Chương
I, Điều 5). “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, tư duy sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của
từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc
theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động

đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập của học sinh” (Luật giáo
dục 2005, Chương II, Điều 28).
Từ đó, ta có định hướng chung của đổi mới phương pháp dạy học môn
Toán ở tiểu học hiện nay là: phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động và sáng
tạo của học sinh trong suốt quá trình học tập. Nói cách khác, tư tưởng và
cũng là mục đích của quá trình đổi mới phương pháp dạy học môn Toán ở
tiểu học là tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh. Muốn vậy cần phải
thay đổi cách thức dạy của thầy, thay đổi phương pháp học tập của trò,
chuyển từ học tập thụ động sang học tập tích cực, chủ động, sáng tạo, từng
bước chuyển dần phương pháp dạy học theo hướng biến quá trình đào tạo
thành quá trình tự đào tạo, biến quá trình dạy học thành quá trình tự học.

1.3.2. Các giải pháp cụ thể
Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động học
tập của học sinh có nghĩa là cần hướng vào việc tổ chức cho người học, học
tập trong hoạt động và bằng hoạt động tự giác, tích cực và sáng tạo, được
thực hiện độc lập hoặc trong giao lưu, hợp tác.
Những giải pháp cụ thể nhằm đổi mới phương pháp dạy học nói chung
và dạy học Toán ở tiểu học nói riêng là:
1) Xác lập vị trí chủ thể của người học, bảo đảm phát huy tính tự giác,
tích cực, chủ động và sáng tạo của người học trong quá trình học tập

101


Người học là chủ thể kiến tạo kiến thức, rèn luyện kĩ năng, hình thành
thái độ chứ không phải là nhân vật bị động hoàn toàn làm theo mệnh lệnh
của thầy giáo. Với định hướng “tích cực hoá hoạt động của người học”, vai
trò chủ thể của người học được khẳng định trong quá trình học tập trong
hoạt động và bằng hoạt động của bản thân mình.

Trong dạy học Toán ở tiểu học, việc xác lập vị trí chủ thể của người
học, phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh được thực
hiện bằng cách giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh tự phát hiện vấn đề
của bài học rồi giúp các em sử dụng kinh nghiệm bản thân (hoặc kinh
nghiệm của các bạn trong nhóm) để tìm mối quan hệ giữa vấn đề đó với các
kiến thức đã biết, từ đó tự tìm cách giải quyết vấn đề.

Ngay từ lớp 1, khi dạy học “kiến thức mới” giáo viên cần nêu thành
tình huống có vấn đề cần giải quyết, mặc dù “tình huống” đó có thể đơn
giản và tường minh qua các hình vẽ trong sách giáo khoa, nhưng để học
sinh tự nêu lên và tự giải quyết. Ví dụ, khi học về phép trừ, giáo viên có thể
đưa ra tình huống bằng cách hướng dẫn học sinh quan sát hình vẽ (tranh,
ảnh,...) hoặc sử dụng đồ dùng học tập để tự mình nêu ra vấn đề cần giải
quyết, chẳng hạn: “Trên cành cây có ba con chim, sau đó một con đã bay đi.
Còn lại mấy con chim trên cành cây?”, rồi tự học sinh tham gia giải quyết
vấn đề (ba con chim bớt đi một con chim còn hai con chim, phép tính tương
ứng là: 3 – 1 = 2). Thời gian đầu, giáo viên hướng dẫn học sinh nêu và giải
quyết vấn đề. Dần dần yêu cầu học sinh tự nêu và tự giải quyết vấn đề.
2) Xác lập vai trò mới của người thầy với tư cách là người thiết kế, tổ
chức và hướng dẫn quá trình học tập của học sinh

Khi xác lập vị trí chủ thể của người học thường dẫn đến việc ngộ nhận
về sự giảm sút vai trò của người thầy. Cần phải hiểu rằng tích cực hoá hoạt
động của người học, sự xác lập vị trí chủ thể của họ không hề làm suy giảm
mà ngược lại, còn nâng cao vai trò, trách nhiệm của người thầy. Thầy không
phải là nguồn phát tin duy nhất, thầy không phải là người ra lệnh một cách
khiên cưỡng, thầy không phải là người hoạt động chủ yếu trong môi trường
dạy học. Vai trò, trách nhiệm của thầy bây giờ là ở chỗ khác, quan trọng hơn,
nặng nề hơn, nhưng tế nhị hơn, cụ thể là:
- Thiết kế kế hoạch dạy học, chuẩn bị quá trình dạy học cả về mặt mục

tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức;
102


- Tổ chức hoạt động dạy học để biến ý đồ dạy của thầy thành nhiệm vụ
học tập tự nguyện, tự giác của trò, là chuyển giao cho trò không phải những
tri thức dưới dạng có sẵn mà là những tình huống để trò kiến tạo tri thức
thông qua hoạt động tích cực, chủ động và sáng tạo của mình;
- Hướng dẫn, kể cả điều khiển về mặt tâm lí, bao gồm sự động viên,
hướng dẫn trợ giúp và đánh giá kết quả học tập của học sinh;
- Trọng tài, cố vấn, xác nhận những tri thức mà học sinh mới phát
hiện, đồng nhất hoá những kiến thức riêng lẻ mang màu sắc cá nhân, phụ
thuộc vào hoàn cảnh và thời gian... thành tri thức chương trình.
Trong dạy học Toán ở tiểu học, việc xác lập vị trí mới của người thầy
được thực hiện trên cơ sở giáo viên lập kế hoạch, tổ chức và hướng dẫn, hợp
tác với học sinh trong các hoạt động học tập với sự tham gia tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh.

Thầy giáo phải tổ chức, hướng dẫn cho học sinh hoạt động học tập với
sự trợ giúp đúng lúc, đúng mức độ của sách giáo khoa và các đồ dùng dạy
học, để từng học sinh (hay nhóm học sinh) tự phát hiện và tự giải quyết vấn
đề của bài học; tự chiếm lĩnh nội dung học tập rồi thực hành, vận dụng các
nội dung đó theo năng lực của từng cá nhân.
3) Tăng cường dạy cách học, cách tự học thông qua toàn bộ quá trình
dạy học

Mục đích dạy học không phải chỉ ở các kết quả cụ thể của quá trình
học tập, ở những kiến thức và kĩ năng cụ thể, mà điều quan trọng hơn là dạy
cho học sinh con đường, cách thức để chiếm lĩnh những kiến thức và kĩ
năng cụ thể đó; tức là ở chính bản thân việc học, ở cách học, ở khả năng

đảm nhiệm, tổ chức và thực hiện quá trình học tập một cách hiệu quả.
Một vấn đề đặc biệt quan trọng của dạy cách học là dạy tự học. Kho
tàng tri thức của nhân loại là vô tận. Không có nhà trường nào có thể dạy
cho học sinh một cách đầy đủ tất cả những tri thức để người học có thể sống
và hoạt động suốt đời. Để có thể sống và hoạt động suốt đời thì phải học
suốt đời. Để học được suốt đời thì phải có khả năng tự học. Khả năng này
cần được rèn luyện ngay trong khi còn là học sinh ngồi trên ghế nhà trường.
Vì vậy quá trình dạy học phải bao hàm cả dạy tự học. Việc dạy tự học
đương nhiên chỉ có thể thực hiện được trong một cách dạy mà người học là
103


chủ thể, tự họ hoạt động để đáp ứng nhu cầu của xã hội đã chuyển hoá thành
nhu cầu của chính bản thân họ.
Trong dạy học Toán ở tiểu học, việc dạy cách học, cách tự học có thể
được thực hiện bằng nhiều hình thức và biện pháp khác nhau như tổ chức
cho học sinh hoạt động thực hành (cá nhân hay theo nhóm), sử dụng phiếu
học tập, tìm hiểu thực tế ở các nhà máy, xí nghiệp,…

Ví dụ: Khi dạy học bài “Diện tích hình thoi” (Toán 4), sau khi kiểm tra
bài cũ, giáo viên có thể tạo tình huống có vấn đề: Cho hình thoi ABCD có độ
dài hai đường chéo là m, n. Hãy tính diện tích của nó.”
Giáo viên tổ chức cho học sinh hoạt động theo nhóm, bằng cách cắt
ghép hình để đưa hình thoi ABCD về hình chữ nhật ANMC hay hình bình
hành ABEC đã biết cách tính diện tích (hình 1.1). Từ quy tắc tính diện tích
hình chữ nhật và diện tích hình bình hành đã học trước đó, học sinh sẽ “tự
học” được quy tắc tính diện tích hình thoi.
Cách dạy như trên được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ tạo cho học sinh
kinh nghiệm và thói quen để giải quyết những tình huống tương tự, chẳng
hạn cách tính diện tích hình tam giác, hình thang sau này.


Hình 1.1
4) Tăng cường tổ chức hoạt động thực hành, rèn luyện kĩ năng vận
kiến thức để giải quyết vấn đề của thực tiễn đời sống
104


Kết hợp học với hành là một trong những quan điểm giáo dục quan
trọng nhất của Đảng, là truyền thống lâu đời của nhân dân ta và cũng là một
trong những kinh nghiệm quan trọng nhất của loài người trong công tác giáo
dục.
Thật vậy, việc nắm vững lý thuyết chỉ là để biết, để nhận thức bản chất
hiện tượng, sự kiện,... Điều mà chúng ta cần là học sinh biết vận dụng
những hiểu biết đó để cải tạo thực tiễn. Thông qua hoạt động thí nghiệm,
thực hành, giáo viên tổ chức hướng dẫn học sinh kiến tạo tri thức, rèn luyện
kĩ năng theo tinh thần sẵn sàng vận dụng để giải quyết những vấn đề nảy
sinh trong học tập và trong đời sống. Việc tăng cường tổ chức hoạt động
thực hành và vận dụng các kiến thức kĩ năng còn là tiền đề để hình thành
những phẩm chất cần thiết của người lao động mới: tích cực, năng động,
sáng tạo, luôn khát khao vươn tới những đỉnh cao mới.
Trong dạy học Toán ở tiểu học, mục tiêu chung của dạy học các bài
luyện tập, thực hành là củng cố các kiến thức mà học sinh mới chiếm lĩnh
được, hình thành các kĩ năng thực hành, từng bước hệ thống hóa các kiến
thức mới học, góp phần phát triển tư duy và khả năng trình bày, diễn đạt;
bước đầu vận dụng các kiến thức kĩ năng đã học để giải quyết các bài toán
có nội dung thực tế. Các bài tập luyện tập, thực hành thường sắp xếp theo
thứ tự từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ thực hành và luyện tập
trực tiếp đến vận dụng một cách tổng hợp và linh hoạt hơn.
5) Tăng cường khai thác và sử dụng các phương tiện kĩ thuật hiện đại
vào dạy học


Phương tiện dạy học, tài liệu in ấn và những đồ dùng dạy học đơn giản
với các phương tiện kĩ thuật hiện đại như thiết bị nghe nhìn, máy vi tính,
phần mềm, internet,… giúp thiết lập những tình huống có dụng ý sư phạm,
tổ chức hoạt động và giao lưu của thầy và trò.
Việc sử dụng các phương tiện kĩ thuật trong và ngoài nhà trường đang
cần được đẩy mạnh, tiến hành có hệ thống trong sự phối hợp chặt chẽ với nhau
phải được xem là một hướng quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy
học.
Tóm lại, các giải pháp cơ bản về đổi mới phương pháp dạy học hiện
nay là đổi mới cách dạy của thầy, đổi mới cách học của trò, đổi mới mối

105


quan hệ thầy trò trong dạy học, tăng cường tổ chức cho học sinh thực hành,
vận dụng, tăng cường sử dụng các phương tiện kĩ thuật hiện đại vào dạy
học, tăng cường mối quan hệ giữa trí tuệ và tâm hồn, giữa tư duy và cảm
xúc trong dạy học. Cụ thể trước mắt, trong mỗi tiết học cần phải làm cho
học sinh được hoạt động nhiều hơn, thực hành nhiều hơn, thảo luận nhiều
hơn, suy nghĩ nhiều hơn.

1.3.3. Yêu cầu cụ thể về phương pháp dạy học ở mỗi lớp
Yêu cầu cơ bản của đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học là: “Dạy
học dựa trên cơ sở tổ chức các hoạt động học tập của học sinh. Thông qua
hoạt động học tập này, học sinh được phát huy tính tích cực, chủ động trong
học tập; tự trải nghiệm, khám phá, phát hiện vấn đề và tự chiếm lĩnh tri
thức”.
Thực hiện tinh thần đổi mới đó, phương pháp dạy học môn Toán ở
tiểu học có thể được thực hiện như sau:

1.3.3.1. Về phương pháp dạy học Toán 1

1.3.3.1.1. Phương pháp dạy học trong tiết học “bài mới”
a) Giúp học sinh tự phát hiện, tự giải quyết vấn đề của bài học

Phần bài học “kiến thức mới” thường được nêu thành tình huống có
vấn đề để giải quyết (mặc dù “tình huống” đó có thể đơn giản và tường
minh qua các hình vẽ trong sách Toán 1, nhưng để học sinh tự nêu lên và tự
giải quyết). Chẳng hạn, khi học về phép trừ, cũng nêu về hiện tượng có một
số (một, hai) con chim bay khỏi tổ (trong tổ có ba con chim). Giáo viên
hướng dẫn học sinh quan sát hình vẽ (tranh, ảnh,...) trong sách giáo khoa
Toán 1 hoặc sử dụng đồ dùng học tập để học sinh tự nêu ra vấn đề cần giải
quyết (chẳng hạn: Có ba con ong đậu trên bông hoa, một con ong bay ra
khỏi bông hoa. Còn lại mấy con ong đậu trên bông hoa?), rồi tự học sinh
tham gia giải quyết vấn đề (ba con ong bớt một con ong còn hai con ong).
Thời gian đầu, giáo viên hướng dẫn học sinh nêu và giải quyết vấn đề. Dần
dần yêu cầu học sinh tự nêu và tự giải quyết vấn đề.
b) Giúp học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức mới

Có loại bài học, sau khi học sinh đã phát hiện và giải quyết vấn đề,
giáo viên phải hình thành kiến thức mới (chẳng hạn, giáo viên phải giới
106


thiệu: Năm con chim bớt hai con chim còn ba con chim; năm trừ hai còn ba;
ta viết 5 – 2 = 3; đọc là “năm trừ hai bằng ba”; dấu “–” gọi là dấu “trừ”...).
Có loại bài học giáo viên giúp học sinh tự nêu, tự giải quyết vấn đề, tự xây
dựng kiến thức mới (chẳng hạn, bài học về phép cộng trong phạm vi 8, học
sinh quan sát hình vẽ rồi nêu vấn đề: “Có 7 hình vuông (xanh) thêm 1 hình
vuông (đỏ). Hỏi có tất cả mấy hình vuông?” và giải quyết vấn đề: “7 thêm 1

được 8”, sau đó viết 8 vào phép tính: 7 + 1 = 8.
Tất nhiên, trong cả hai loại bài học nêu trên giáo viên phải giúp học
sinh ghi nhớ kiến thức mới (chẳng hạn các công thức tính). Cho dù học sinh
đã học thuộc kiến thức mới thì cũng chỉ là bước đầu chiếm lĩnh được kiến
thức mới đó. Phải qua thực hành, vận dụng kiến thức mới đó để giải quyết
các vấn đề nêu trong phần bài tập thì mới có thể khẳng định học sinh đã tự
chiếm lĩnh kiến thức mới đến mức độ nào. Vì vậy, sau khi đã thuộc bài mới,
học sinh phải làm được các bài tập trong phiếu học.
c) Giúp học sinh cách thức phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức mới

Quá trình dạy học môn Toán phải giúp học sinh từng bước nắm được
cách thức (con đường, phương pháp) phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức mới.
Chẳng hạn, qua các bài học và luyện tập về số và phép tính trong phạm vi
10 của Toán 1 có thể giúp học sinh:
- Từ tình huống có thực trong đời sống (thể hiện trong tranh, hình vẽ,
mô hình, mô tả bằng lời) nêu được vấn đề cần giải quyết (dưới dạng câu hỏi,
bài toán).
- Giải quyết vấn đề đó, góp phần tìm ra kiến thức mới (số mới hoặc
công thức tính mới...).
- Xây dựng rồi ghi nhớ và vận dụng kiến thức mới vào các tình huống
khác nhau trong thực hành để chiếm lĩnh được kiến thức mới.
d) Hướng dẫn học sinh thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức mới và
kiến thức đã học

- Huy động kiến thức đã học và vốn sống để phát hiện và chiếm lĩnh
kiến thức mới.
- Đặt kiến thức mới trong mối quan hệ với kiến thức đã có. Chẳng hạn:
Khi hướng dẫn học sinh nhận biết khái niệm ban đầu về số 6, giáo viên cho
học sinh quan sát tranh vẽ (mô hình) và sử dụng kiến thức đã học để nhận ra
107



(bằng phép đếm) rằng: có 5, đếm thêm 1 được 6. Khi đã giới thiệu 6 cũng là
đại diện cho một lớp các nhóm đối tượng có cùng lực lượng (là 6) như các
số đã học trước, học sinh tự nhận ra (qua phép đếm, qua phân tích số,...) 6
đứng tiếp sau 5 trong dãy số 1, 2, 3, 4, 5, 6; nên 6 > 1; 6 > 2; 6 > 3; 6 > 4; 6
> 5;... Do đó 6 là số lớn nhất trong các số từ 1 đến 6.
e) Giúp học sinh thực hành, rèn luyện cách diễn đạt thông tin bằng lời,
bằng ký hiệu

Trong quá trình dạy học môn Toán, phải quan tâm đúng mức đến rèn
luyện cho học sinh cách diễn đạt ngắn gọn, rõ ràng, vừa đủ nội dung của
một thông tin bằng lời hoặc bằng ký hiệu, sơ đồ.
Hình ảnh
trực quan

Biểu tượng

Ngôn ngữ,
kí hiệu

1.3.3.1.2. Thực hiện đổi mới phương pháp dạy học trong tiết “thực hành,
luyện tập” ở Toán 1

Nhiệm vụ chủ yếu nhất của tiết dạy học “thực hành, luyện tập” là củng
cố, bổ sung và hoàn thiện các kiến thức mà học sinh mới chiếm lĩnh được.
Có thể thực hiện đổi mới phương pháp dạy học trong các tiết “thực hành,
luyện tập” theo các gợi ý sau:
a) Giúp học sinh nhận ra kiến thức mới học trong các dạng bài tập khác
nhau


Khi luyện tập, nếu học sinh nhận ra các kiến thức đã học trong mối
quan hệ mới thì học sinh sẽ làm được bài. Nếu học sinh không tự nhận ra
kiến thức đã học trong các dạng bài tập khác nhau thì giáo viên nên giúp học
sinh (bằng gợi ý, hướng dẫn) nhớ lại kiến thức và cách làm, không nên vội
làm thay học sinh. Chẳng hạn, sau khi học “Phép cộng trong phạm vi 8” nếu
làm các bài tập dạng: 7 + 1 = ..., 5 + 3 = ... thì học sinh dễ dàng nhớ lại và sử
dụng kiến thức đã học, nhưng với dạng bài tập phải so sánh giá trị hai biểu
thức số như 7 + 1 ... 2 + 6 thì học sinh phải nhận ra 7 + 1 và 2 + 6 đã gặp
trong các công thức đã học: 7 + 1 = 8 ; 2 + 6 = 8, do đó phải điền dấu = vào
chỗ chấm: 7 + 1 = 2 + 6.
b) Giúp học sinh tự thực hành, luyện tập theo khả năng của học sinh

108


- Bao giờ cũng yêu cầu học sinh phải làm các bài tập theo thứ tự sắp
xếp trong phiếu (hoặc do giáo viên sắp xếp), không tự ý lướt qua hoặc bỏ
qua bài tập nào, kể cả các bài học sinh cho là dễ.
- Không nên bắt học sinh chờ đợi nhau trong quá trình làm bài. Học
sinh nào đã làm xong và tự kiểm tra (hoặc nhờ giáo viên kiểm tra) được bài
1 thì nên chuyển sang làm bài tiếp sau.
Trong một tiết học phải chấp nhận có học sinh làm được nhiều bài tập
hơn học sinh khác. Giáo viên hãy giúp những học sinh làm bài chậm về
cách làm bài, hay giúp học sinh khá giỏi làm các bài tập của tiết học và tập
khai thác hết nội dung của từng bài tập.
c) Tạo ra sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các đối tượng học sinh

- Khi cần thiết có thể cho học sinh trao đổi ý kiến trong nhóm nhỏ
hoặc trong toàn lớp về cách giải hoặc các cách giải một bài tập. Nên khuyến

khích học sinh bình luận về cách giải của bạn, tự rút kinh nghiệm trong quá
trình trao đổi ý kiến ở nhóm, ở lớp.
- Sự hỗ trợ giữa các học sinh trong nhóm phải góp phần giúp học sinh
tự tin vào khả năng của mình, tự rút kinh nghiệm về cách học của bản thân.
d) Khuyến khích học sinh tự kiểm tra kết quả thực hành, luyện tập

- Tập cho học sinh thói quen làm xong bài nào cũng phải tự kiểm tra
lại xem có làm nhầm, làm sai không.
- Nên hướng dẫn học sinh tự đánh giá bài làm của mình, của bạn bằng
điểm rồi báo điểm cho giáo viên.
- Khuyến khích học sinh tự nói ra những hạn chế của mình, của bạn
sau khi tự kiểm tra, tự đánh giá...
e) Tập cho học sinh thói quen không thỏa mãn với bài làm của mình,
với các cách giải đã có

- Sau mỗi tiết học, tiết luyện tập nên tạo cho học sinh niềm vui vì đã
hoàn thành công việc được giao, niềm tin vào sự tiến bộ của bản thân (bằng
khuyến khích, nêu gương...).
- Tạo cho học sinh mong muốn tìm được giải pháp tốt nhất cho bài
làm của mình. Vì vậy, cho dù đã hoàn thành bài học hoặc bài làm, học sinh
cũng vẫn không thỏa mãn những gì đã đạt được. Học sinh cần tự kiểm tra,
109


tự đánh giá và luôn luôn tìm cách hoàn thiện việc đã làm.
Các “bài tập mở” trong Toán 1 là phương tiện để giáo viên động viên
học sinh tìm nhiều phương án giải quyết một vấn đề và biết tự chọn phương
án hợp lý nhất. Đừng bao giờ “áp đặt” học sinh theo phương án có sẵn, hãy
động viên các em tìm và lựa chọn phương án tốt nhất.
1.3.3.1.3. Cần phối hợp nhiều hình thức tổ chức dạy học mới


Để dạy học Toán 1 theo tinh thần đổi mới và phù hợp với học sinh lớp
1, có thể có nhiều hình thức tổ chức dạy học mới, ở đây xin gợi ý một số
hình thức tổ chức dạy học chủ yếu sau:
a) Dạy học toán trên phiếu học tập

Phiếu học tập nêu lên một hệ thống những công việc mà học sinh phải
tiến hành (với sự hướng dẫn của giáo viên) để có thể tự mình chiếm lĩnh tri
thức mới và hình thành kĩ năng mới.
Như vậy, phiếu học tập cung cấp những tình huống dẫn đến kiến thức,
kĩ năng cơ bản và những bài tập thực hành được sắp xếp theo một thứ tự
nhất định nhằm củng cố các kiến thức, kĩ năng cơ bản đó.
Trong mỗi giờ học Toán, tổ chức hoạt động dạy học trên phiếu học tập
sẽ góp phần đổi mới cách dạy và học, giúp học sinh đạt được mục tiêu của
bài học với hiệu quả cao.
b) Dạy học toán với “Bộ đồ dùng học Toán 1”

Khi triển khai chương trình sách giáo khoa mới, kèm theo bộ sách
Toán 1, mỗi học sinh được trang bị một “Bộ đồ dùng học tập Toán 1” bao
gồm:
- Bộ que tính và thẻ que tính: nhằm giúp học sinh sử dụng để học các
bài tập số và các bài về phép cộng, phép trừ trong phạm vi 10, phạm vi 100.
- Bộ số 0, 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9 và bộ dấu +, –, >, <, =: nhằm giúp học
sinh sử dụng để học đọc số, phân tích số, so sánh số,...
- Bộ hình hình học: gồm 10 hình vuông, 10 hình tròn và 10 hình tam
giác; nhằm giúp học sinh bước đầu có biểu tượng chính xác về các hình hình
học đơn giản.
- Thước có vạch chia xăng-ti-mét: giúp học sinh có biểu tượng ban đầu
về đơn vị đo độ dài, dụng cụ đo và dụng cụ vẽ hình.
110



- Bảng gài số: dùng để ghi số, thực hiện phép tính.
c) Dạy học toán kết hợp các “Trò chơi toán học ”

Đối với học sinh lớp 1, vui chơi cũng là một nhu cầu không thể thiếu
được. Vì vậy, việc sử dụng các trò chơi học tập trong giờ học toán là hết sức
cần thiết và bổ ích. “Trò chơi toán học” là hoạt động được tổ chức có tính
vui chơi, giải trí nhưng có nội dung gắn với hoạt động học tập của học sinh.
Tuy nhiên, “Trò chơi học toán” là một trong các hình thức tổ chức học
tập, chứ không phải là phương pháp dạy học bắt buộc phải có trong mỗi tiết
học Toán. Ở đây giáo viên cần phải căn cứ vào mục tiêu và nội dung bài học
để linh hoạt sử dụng và tổ chức “trò chơi” ở những thời điểm thích hợp của
tiết học nhằm phát huy hiệu quả của “trò chơi” và góp phần vào việc hoàn
thành mục tiêu của bài học.
1.3.3.2. Về phương pháp dạy học Toán 2

Định hướng chung của đổi mới phương pháp dạy học Toán 2 là:
1) Dạy học toán trên cơ sở tự phát hiện, tự giải quyết vấn đề của bài
học để tự chiếm lĩnh kiến thức mới, chủ động vận dụng các kiến thức đã học
trong thực hành theo năng lực của từng cá nhân với sự tổ chức, hướng dẫn,
hợp tác hợp lý của giáo viên, với sự trợ giúp đúng mức của các thiết bị dạy
học và đồ dùng học tập.
2) Giáo viên cần trân trọng mọi cố gắng, các ý kiến của học sinh.
Khuyến khích học sinh tìm ra cái mới trong học và hành (tìm các phương
pháp giải quyết vấn đề là lựa chọn phương pháp hợp lý; phát hiện ưu điểm
hoặc hạn chế trong cách giải của giáo viên và của bạn, của bản thân;...).
Giúp học sinh hứng thú, tự tin, trung thực, cẩn thận, chăm chỉ trong học tập
Toán.
3) Yêu cầu cụ thể đối với giáo viên:

a) Chuẩn bị bài một cách nghiêm túc

- Tham khảo, tìm hiểu, nắm vững những định hướng chung của đổi
mới phương pháp dạy học Toán 2.
- Làm việc có kế hoạch: lập kế hoạch dạy học từng năm học, từng học
kỳ, từng tuần lễ, từng tiết học (kế hoạch thực hiện bài học gọi tắt là kế hoạch
bài học).
111


- Soạn bài (lập kế hoạch bài học) đảm bảo dạy học:
+ Trên cơ sở tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động tích cực, chủ
động, sáng tạo để tự học thành công.
+ Thực hiện đầy đủ mục tiêu bài học.
+ Vừa sức đối với học sinh nhưng phải cá nhân hóa (tránh đồng
loạt, bình quân, không nhất thiết phải yêu cầu mọi học sinh cùng làm hết các
bài thực hành ngay trong tiết học, phát huy cao độ sự phát triển của từng học
sinh).
+ Gắn với cuộc sống thực của học sinh ở địa phương.
+ Có môi trường học tập thuận lợi (sự thân thiện cho giao tiếp,
không khí hợp tác trong lớp học, điều kiện vệ sinh học tập,...).
b) Tích cực, chủ động để thích ứng với nội dung chương trình và
phương pháp dạy học mới

- Đổi mới cách nghĩ về dạy học từ đó có cách làm mới trong hoạt động
dạy và hoạt động học.
- Thích ứng với chương trình, sách giáo khoa, kiểu dạy học mới, tiến
tới nắm chắc và chủ động, sáng tạo khi áp dụng chương trình, sách giáo
khoa,... cho các đối tượng khác nhau.
- Giáo viên phải tự nâng cao trình độ chuyên môn thì mới đủ năng lực

thích ứng với chương trình tiểu học, sách giáo khoa mới..., cụ thể là phải nỗ
lực:
+ Đối với Toán 2 giáo viên cần tìm hiểu cẩn thận về: các nội dung
cơ bản và cách thể hiện, mức độ của các nội dung cơ bản trong sách giáo
khoa; những hướng dẫn chung về cách dạy từng loại bài học và những
hướng dẫn cụ thể về tổ chức, hướng dẫn các hoạt động chủ yếu trong từng
tiết học...
+ Tự thích ứng với phương pháp dạy học kiểu mới (chuyển từ
truyền đạt thông tin có sẵn sang tổ chức, hướng dẫn học sinh tự học thông
qua các hoạt động: tự phát hiện, tự khám phá, tự chiếm lĩnh với sự trợ giúp
của sách giáo khoa, đồ dùng học tập...).
+ Thay đổi dần những thói quen cản trở các hoạt động tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh (không nói thay, làm thay, nghĩ thay... những gì
112


tự học sinh (cá nhân hoặc nhóm) có thể nói được, làm được và nghĩ được.
1.3.3.3. Về phương pháp dạy học Toán 3

1) Định hướng chung của đổi mới phương pháp dạy học trong môn
Toán ở tiểu học nói chung, ở lớp 3 nói riêng là:
- Dạy học trên cơ sở tổ chức và hướng dẫn các hoạt động học tập tích
cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
- Tập trung vào các kiến thức và kĩ năng cơ bản, giảm nhẹ lí luận không
thiết thực để có điều kiện tổ chức các hoạt động thực hành và phát triển trí tuệ
học sinh.
- Coi trọng đúng mức việc sử dụng đồ dùng trực quan (“ngôn ngữ hình
ảnh”) và việc rèn luyện khả năng diễn đạt bằng lời, bằng ký hiệu (ngôn ngữ
nói, viết).
- Giáo viên cần cố gắng: không làm thay, nói thay, nghĩ thay học sinh;

dạy học theo đặc điểm đối tượng; trân trọng và khuyến khích mọi suy nghĩ
của học sinh; chuẩn bị tiềm lực để đáp ứng sự phát triển của học sinh.
- Giáo viên giúp học sinh tự đánh giá kết quả học tập.
2) Gợi ý về phương pháp dạy học:
- Dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên, học sinh tự phát hiện và
giải quyết nhiệm vụ của bài để tự chiếm lĩnh kiến thức mới, đồng thời thiết
lập được mối quan hệ giữa kiến thức mới và kiến thức cũ.
- Vận dụng kiến thức mới trong sự đa dạng và phong phú của các bài
tập thực hành, luyện tập.
- Hướng dẫn học sinh hoạt động.
+ Giáo viên xác định rõ kiến thức, kĩ năng cần hình thành.
+ Chuẩn bị đồ dùng dạy học (đồ vật), mô hình, hình vẽ, ký hiệu...
+ Nêu ra các tình huống có vấn đề, hướng giải quyết vấn đề.
+ Tổ chức cho mỗi học sinh được hoạt động thật sự bằng tay trên
các đồ vật, mô hình, quan sát hình ảnh ký hiệu,... để học sinh tự phát hiện
kiến thức, kĩ năng.
+ Hướng dẫn học sinh mô tả thành lời các hoạt động và kết quả
(kiến thức kĩ năng) thu được.
113


+ Tổ chức cho học sinh vận dụng kiến thức, kĩ năng đã thu được
thực hành luyện tập ở nhiều hình thức khác nhau (các dạng bài tập khác
nhau).
3) Sử dụng sách giáo khoa Toán 3 và sách giáo viên Toán 3
Sách giáo khoa Toán 3, mỗi bài học gồm phần bài học và phần thực
hành:
- Phần bài học nêu các tình huống (bằng hình ảnh) định hướng cho học
sinh hoạt động để tự phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng mới.
- Phần thực hành là các bài tập củng cố được sắp xếp từ dễ đến khó.

+ Các tiết học trên lớp, căn cứ vào trình độ học sinh, giáo viên cho
học sinh làm thực hành các bài tập từ dễ đến khó, không bắt buộc học sinh
phải làm hết (xem sách giáo viên Toán 3).
+ Giáo viên cần khai thác triệt để nội dung sách giáo khoa, sử dụng
sách giáo khoa như là đồ dùng dạy học toán để hướng dẫn học sinh thực
hiện các hoạt động học tập.
Sách giáo viên Toán 3 là tài liệu hướng dẫn giáo viên lập kế hoạch dạy
học từng bài. Đây chỉ là tài liệu tham khảo cần thiết, giáo viên có thể nghiên
cứu sách giáo khoa và căn cứ vào tình hình cụ thể của lớp được phụ trách để
lập kế hoạch bài dạy cho tối ưu.
4) Hướng dẫn đánh giá kết quả học tập của học sinh
- Đánh giá kết quả học tập của học sinh nhằm mục tiêu:

+ Giáo dục toàn diện thể hiện ở đánh giá đầy đủ những kiến thức, kĩ
năng cơ bản của Toán 3 theo chuẩn đã xác định.
+ Khuyến khích học sinh học tập chủ động, tích cực, sáng tạo, theo
năng lực cá nhân; tránh gây căng thẳng, làm mất tính tự tin của học sinh.
- Nội dung đánh giá:

+ Nội dung đánh giá bao gồm chuẩn kiến thức Toán 3 về kiến thức,
kĩ năng cơ bản của số học, đại lượng, hình học, giải toán.
+ Nội dung đánh giá về các mức độ: Nhận biết, hiểu, thực hiện
được, vận dụng về kiến thức và kĩ năng của Toán 3.
+ Số lượng các câu hỏi, bài tập của từng mức độ nội dung, thời
lượng được cân nhắc, lựa chọn cho phù hợp với trình độ chuẩn của Toán 3
114


và trình độ chung của học sinh lớp 3 ở từng trường, từng địa phương, tuyệt
đối không được vượt chuẩn.

+ Các câu hỏi, bài tập được sắp xếp từ dễ đến khó, đủ loại bài đại
diện cho các kiến thức và kĩ năng cơ bản nhất.
- Hình thức đánh giá: Vấn đáp, tự đánh giá của học sinh, kiểm tra viết.
- Kế hoạch đánh giá: Thường xuyên và định kỳ.

+ Kiểm tra thường xuyên diễn ra ở các tiết học. Giáo viên trực tiếp
đứng lớp đề ra nội dung cần kiểm tra, kiểm tra để nắm bắt được kết quả học tập
của học sinh, trên cơ sở ấy điều chỉnh, hoàn thiện cách dạy của giáo viên.
+ Kiểm tra định kỳ giữa học kỳ I, giữa học kỳ II, các phòng Giáo
dục và Đào tạo chỉ đạo các hiệu trưởng trường tiểu học ra đề kiểm tra.
+ Kiểm tra định kỳ cuối kỳ I, cuối kỳ II, Sở Giáo dục và Đào tạo
hướng dẫn Phòng Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo và kiểm tra các hiệu trưởng
ra đề kiểm tra cụ thể theo khung hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
+ Tất cả học sinh theo học đều được kiểm tra đánh giá, xếp loại.
Trường hợp học sinh vắng mặt trong ngày kiểm tra, giáo viên báo cáo với
hiệu trưởng và ra đề khác tương tự cho học sinh làm bài. Những học sinh
chưa đạt yêu cầu cần được giáo viên có kế hoạch hướng dẫn thêm nhằm
“lấp lỗ hổng” kiến thức của các em và tổ chức kiểm tra lại lần 2 sau 1 tuần.
+ Các bài kiểm tra định kỳ được thông báo đến phụ huynh học sinh và
được lưu giữ tại trường cho cả cấp học (như một hồ sơ của học sinh).
1.3.3.4. Về phương pháp dạy học Toán 4

Định hướng chung của phương pháp dạy học Toán 4 là dạy học trên
cơ sở tổ chức và hướng dẫn các hoạt động học tập tích cực, chủ động, sáng
tạo của học sinh.
Cụ thể là giáo viên phải tổ chức, hướng dẫn cho học sinh hoạt động
học tập với sự trợ giúp đúng mức và đúng lúc của sách giáo khoa và của các
đồ dùng dạy học và học toán, để từng học sinh (hoặc từng nhóm học sinh) tự
phát hiện và tự giải quyết vấn đề của bài học, tự chiếm lĩnh nội dung học tập
rồi thực hành, vận dụng các nội dung đó theo năng lực của học sinh.

Toán 4 kế thừa và phát huy các phương pháp dạy học toán đã sử dụng
trong giai đoạn các lớp 1, 2, 3 đồng thời tăng cường sử dụng các phương
115


pháp dạy học giúp học sinh tự nêu các nhận xét, các quy tắc, các công thức ở
dạng khái quát hơn (so với lớp 3). Đây là cơ hội tiếp tục phát triển năng lực
trừu tượng hoá, khái quát hoá trong học tập môn Toán ở đầu giai đoạn các
lớp 4 và 5; tiếp tục phát triển khả năng diễn đạt và tập suy luận của học sinh
theo mục tiêu của môn Toán ở lớp 4.
Dưới đây là giới thiệu chung về sự vận dụng các định hướng nêu trên
trong dạy học các dạng bài cụ thể của sách giáo khoa Toán 4.

1) Phương pháp dạy học bài mới
a) Giúp học sinh tự phát hiện và tự giải quyết vấn đề của bài học

- Giáo viên hướng dẫn học sinh tự phát hiện vấn đề của bài học rồi
giúp học sinh sử dụng kinh nghiệm của bản thân (hoặc kinh nghiệm của các
bạn trong một nhóm nhỏ) để tìm mối quan hệ của vấn đề đó với các kiến
thức đã biết (đã được học ở các lớp 1, 2, 3, hoặc đã tích luỹ trong đời
sống...), từ đó tự tìm cách giải quyết vấn đề.
Ví dụ: Khi dạy bài “So sánh hai phân số khác mẫu số” giáo viên có
thể hướng dẫn học sinh tự phát hiện vấn đề của bài học. Chẳng hạn, giáo
2
3
2
và , hoặc: Trong hai phân số
viên nêu ví dụ: “So sánh hai phân số
3
4

3
3
và , phân số nào lớn hơn?”... Cho học sinh nhận xét đặc điểm của hai
4
2
3

để nhận ra đó là hai phân số khác mẫu số, do đó so sánh
phân số
3
4
2
3

là so sánh hai phân số khác mẫu số. Đây chính là vấn
hai phân số
3
4
đề cần giải quyết.

Để giải quyết vấn đề của bài học, giáo viên có thể cho học sinh trao
đổi trong nhóm và có thể có hai cách giải quyết như sau:
Cách thứ nhất: Lấy hai băng giấy như nhau. Chia băng giấy thứ nhất
2
thành 3 phần bằng nhau, tô màu 2 phần, tức là tô màu
băng giấy. Chia
3
3
băng giấy thứ hai thành 4 phần bằng nhau, tô màu 3 phần, tức là tô màu
4


116


băng giấy. So sánh độ dài của

2
3

2
3
băng giấy và
băng giấy (hình 1.3).
3
4

3
4

Hình 1.2

Dựa vào hình vẽ (hoặc hai băng giấy thực), ta thấy:

2
3
2 3
băng giấy ngắn hơn
băng giấy nên <
3
4

3 4
hoặc

3
2
3 2
băng giấy dài hơn
băng giấy nên > .
4
3
4 3

Cách thứ hai:

• Quy đồng mẫu số hai phân số

2
3
và :
3
4

2 2× 4 8
3 3× 3 9
=
=
=
=

3 3 × 4 12

4 4 × 3 12
• So sánh hai phân số cùng mẫu số:

8
9

12 12

8
9
<
12 12
+ Kết luận:

2
3
<
3
4

Nếu tự học sinh không nêu được cách giải quyết vấn đề của bài học thì
giáo viên có thể nêu nhiệm vụ của từng nhóm, mỗi nhóm được gợi ý để giải
quyết bằng một trong hai cách nêu trên. Sau đó cho các nhóm trình bày cách
làm của nhóm.
Giáo viên nên hướng dẫn để học sinh khi nhận xét về các cách giải
quyết vấn đề thì nhận ra được, chẳng hạn:
Cả hai cách đều đúng:
- Cách thứ nhất có tính trực quan nhưng chưa góp phần nêu được cách
117



×