Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Tư tưởng của v i lênin về các thành phần kinh tế trong tác phẩm “bàn về thuế lương thực”, quá trình nhận thức và vận dụng của đảng ta về vấn đề này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.71 KB, 37 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Lý luận của V.I.Lênin về các thành phần kinh tế là một trong những
nội dung cơ bản trong tác phẩm “Bàn về thuế lương thực”(Lênin: toàn
tập - tập 43, từ trang 244 đến trang 296). Trong tác phẩm, Lênin đã đưa
ra tư tưởng của mình về sự tồn tại của các hình thức sở hữu cũng như các
thành phần kinh tế. Qua thực tiễn ba năm thực hiện chính sách Cộng sản
thời chiến, Lênin nhận thấy rằng: Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội không thể xóa bỏ ngay chế độ sở hữu tư bản tư nhân, cùng các hình
thức khác được.
Lênin cho rằng, sự tồn tại của các hình thức sở hữu và các thành
phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan, vì nó đem lại
mọi tiềm năng của đất nước, giải quyết việc làm, làm ra nhiều của cải,
từng bước cải thiện đời sống cho nhân dân.
Trong tác phẩm này, Lênin khẳng định các thành phần kinh tế tồn tại
trong lòng nước Nga lúc bấy giờ, đồng thời, ông phân tích, làm rõ đặc
điểm, vai trò, tác dụng của từng thành phần kinh tế đối với quá trình phát
triển kinh tế - xã hội ở nước Nga trong thời kì quá độ.
Trên cơ sở lấy tư tưởng của Lênin về các thành phần kinh tế làm cơ
sở, Đảng và nhà nước ta đã có những nhận thức nhất định về vấn đề này.
Qua các kì Đại hội Đảng, sự biến chuyển của các thành phần kinh tế đã
làm cho hệ thống các thành phần kinh tế trong nước ngày một ổn định và
phát huy hiệu quả một cách rõ rệt.
Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề “Tư tưởng của V.I.Lênin về các
thành phần kinh tế trong tác phẩm “Bàn về thuế lương thực”, quá trình
nhận thức và vận dụng của Đảng ta về vấn đề này” và việc ứng dụng nó
một cách phù hợp vào tình hình nước ta hiện nay sẽ là động lực thúc đẩy
nền kinh tế phát triển, tạo tiền đề cho sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.

1



PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: SƠ LƯỢC TIỂU SỬ V.I.LÊNIN VÀ TÁC PHẨM
“BÀN VỀ THUẾ LƯƠNG THỰC”.
< Lênin: Toàn tập - Tập 43 - NXB Tiến bộ Matxcơva 1978
Trang 244 -296>
I. SƠ LƯỢC TIỂU SỬ V.I.LÊNIN
V.I. Lênin sinh ngày 22- 4- 1870 tại nước Nga, Ông sinh ra và lớn
lên trong một gia đình trí thức tiến bộ. Thuở nhỏ, Lênin là một cậu bé rất
thông minh, lanh lợi và hiếu học. Thời niên thiếu, Lênin đã bắt đầu nghiên
cứu chủ nghĩa Mác và bước vào con đường đấu tranh cách mạng chống
chế độ chuyên chế Nga Sa hoàng và bị đuổi ra khỏi trường Đại học. Năm
1890, Lênin được học ngoại trú tại trường đại học Peterbourg. Chỉ trong
vòng một năm, Ông đã học hết chương trình và thi đỗ loại ưu. Năm 23
tuổi, Lênin trở thành nhà Mácxit thực thụ.
Cuộc đời và sự nghiệp của Lênin trải qua nhiều gian truân, sóng
gió. Năm 1897, Lênin bị đày 3 năm ở Xiberi. Kể từ đó trở đi ông còn bị tù
đày rất nhiều lần và phải sống lưu vong ở nước ngoài.
Đến ngày 28-1-1924, Lênin qua đời. Lênin đã sống và cống hiến
suốt cuộc đời mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và sự
nghiệp cách mạng tháng 10 Nga diễn ra và giành thắng lợi đã đánh dấu
một bước ngoặt của lịch sử loài người, mở ra cho nhân loại một thời đại
mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Có thể nói, Lênin là một học trò trung thành và triệt để nhất của
C.Mác và Ph. Ăngghen. Ông đã bảo vệ thành công Chủ nghĩa Mác trước
sự đã kích chống phá của bọn phản động và các trường phái tư sản. Đồng
thời Lênin còn là người kế thừa và phát triển Chủ nghĩa Mác, nâng Chủ
2



nghĩa Mác lên một tầm cao mới với những phát minh vĩ đại trong thời đại
mới.
II. TÁC PHẨM “BÀN VỀ THUẾ LƯƠNG THỰC”:
1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm:
1.1. Một số sự kiện quan trọng sau cách mạng tháng Mười năm 1917:
1.1.1. Nội chiến và sự can thiệp của 14 nước đế quốc:
Cách mạng tháng Mười năm 1917 ở Nga đã đưa tới sự xuất hiện của
nhà nước Xô Viết đầu tiên trên thế giới, mở đầu một thời đại mới, thời đại
quá độ từ CNTB lên chủ nghĩa xã hội.
Trước bối cảnh đó, giai cấp tư sản ở Nga mới bị đánh bại, nhưng
chưa bị tiêu diệt. Do đó nó không chịu khoanh tay đầu hàng, mà tìm mọi
cách chống lại nhà nước Xô Viết để giành lại thiên đường đã mất. Nên giai
cấp tư sản ở Nga đã cấu kết với 14 nước đế quốc do Anh, Pháp cầm đầu
hòng bóp chết nhà nước Xô Viết non trẻ.
1.1.2. Thực hiện chính sách cộng sản thời chiến:
Nội dung của Chính sách cộng sản thời chiến bao gồm các vấn đề
sau:
- Một là tiến hành xóa bỏ chế độ sở hữu tư bản tư nhân về tư liệu sản
xuất:
Việc tiến hành xóa bỏ chế độ sở hữu tư bản tư nhân về tư liệu sản
xuất bằng con đường quốc hữu hóa chứ không phải bằng con đường
“chuộc lại” hòa bình. Bởi vì giai cấp tư sản không tuân thủ theo đường lối
của Đảng cộng sản Nga và nhà nước Xô Viết. Ngược lại chúng còn chống
lại một cách điên cuồng và đẩy nhà nước Xô Viết vào một cuộc đấu tranh
ác liệt.

3


Lênin viết: “Sách lược của giai cấp tư sản là đẩy chúng ta vào một

cuộc đấu tranh sống mái và ác liệt, buộc chúng ta phải đập tan các quan
hệ cũ một cách dữ dội nhiều hơn mức chúng ta dự định.” <tập 43- tr 211>.
- Hai là thực hiện trưng thu lương thực thừa.
Do nhu cầu cung cấp lương thực cho quân đội ngoài mặt trận và cho
công nhân trong các nhà máy, hầm mỏ nên nhà nước Xô viết phải tiến
hành trưng thu lương thực thừa của nông dân. Việc trưng thu lương thực
thừa không phải chỉ lấy đi tất ca lương thực thừa mà thậm chí còn trưng
thu cả một phần lương thực tối thiểu của nông dân. Như vậy với chính
sách trưng thu lương thực, Nhà nước đã độc quyền về lương thực, nghiêm
cấm việc trao đổi lương thực thực hiện trên thị trường và trên thực tế, nhà
nước đã xóa bỏ quan hệ hàng hóa - tiền tệ.
- Ba là tiến hành quân sự hóa nền kinh tế.
Do tình hình chiến sự ngày một căng thẳng và do bị các nước đế quốc
bao vây và can thiệp, cho nên ngoài việc thiếu thốn về lương thực, còn có
một khó khăn nữa là phải cung cấp vũ khí, quân dụng, quân trang cho
chiến trương.
Trước bối cảnh đó, nhà nước buộc phải tiến hành quân sự hóa nền
kinh tế. Nghĩa là chuyển việc sản xuất hàng tiêu dùng sang sản xuất hàng
cho quân đội bao gồm: vũ khí, quân trang, quân dụng.
Tóm lại, trong điều kiện đấu tranh giai cấp quyết liệt, để chiến thắng
thù trong giặc ngoài, Chính sách cộng sản thời chiến với những biện pháp
cụ thể đã góp phần đưa đến thắng lợi và giữ vững được chính quyền Xô
viết. Đó là vai trò lịch sử lớn nhất của chính sách cộng sản thời chiến.
Lênin viết: “Chính sách đó đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của nó,
nó đã cứu vãn nền chuyên chính vô sản trong một nước bị tàn phá và lạc
hậu.”

4



1.2. Tình hình kinh tế - xã hội nước Nga sau nội chiến:
- Về kinh tế, nước Nga lâm vào khủng hoảng trầm trọng, đông tiền bị
mất giá, do lạm phát phi mã, nạn đói tràn lan khắp đất nước.
- Về chính trị - xã hội:
+ Đối với giai cấp tư sản: Sau 3 năm phản kích điên cuồng, giai
cấp tư sản bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn, chúng còn một lực
lượng khá đông khoảng 2 triệu người chạy ra nước ngoài, chúng lập ra 50
tờ báo nhằm bôi nhọ Đảng và nhà nước Xô Viết, kích động giai cấp nông
dân và các tổ chức phản động đứng dậy đấu tranh.
+ Đối với giai cấp nông dân: Sau nội chiến, giai cấp nông dân tỏ
ra bất bình với chính sách cộng sản thời chiến, nhiều nơi nông dân đã
đứng lên biểu tình...
Trước bối cảnh đó buộc Đảng cộng sản Nga và nhà nước Xô viết
không thể duy trì mãi Chính sách cộng sản thời chiến, vì nó không còn
phù hợp nữa. Do những yêu cầu đó, Chính sách kinh tế mới - NEP ra đời.
2. Những nội dung chính được trình bày trong tác phẩm:
Tác phẩm gồm 3 phần (từ trang 244 - 296):


Phần 1: Tình hình kinh tế hiện nay của nước Nga
(tr244 - 262).

Phần này Lênin giới thiệu lại lý luận về chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Trong phần này, Lênin đã phân tích tính chất quá độ từ CNTB lên CNXH ở
Nga lúc đó. Tính chất quá độ đó thể hiện ở chỗ, hiện nay có những thành
phần, những bộ phận, những mảng của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã
hội.

5



Từ sự phân tích tính chất quá độ, “Tình trạng vô chính phủ của những
kẻ tiểu tư hữu”, Lênin vạch rõ 3 điểm chủ yếu:
- Chủ nghĩa tư bản nhà nước là một bước tiến, lớn hơn kinh tế tư bản
chủ nghĩa tư nhân và kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ.
- Vì sao nước Nga phải thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước?. Lênin
khẳng định, đối với tình hình kinh tế của nước Nga lúc đó thì tốt nhất là
thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước để lên chủ nghĩa xã hội.
- Chuyển sở hữu chủ ngĩa tư bản nhà nước lên sở hữu XHCN như thế
nào?.
Phần 2: Về thuế lương thực, tự do buôn bán và vấn đề tô nhượng (tr 262 -



286):
- Về thuế lương thực: Trước hết, Lênin giải thích vì sao phải thay
chính sách trưng thu lương thực thừa bằng thuế lương thực, tác dụng của
nó như thế nào, chủ trương ra sao. Lênin phê phán những nhận thức sai lầm
và giải thích vì sao nước Nga phải sử dụng chính sách cộng sản thời chiến,
thời kì hòa bình xây dựng, phải áp dụng NEP như thế nào là phù hợp.
- Về tự do buôn bán: Cho tự do buôn bán sẽ dẫn đến sự sống lại tính
tự phát tiểu tư sản. Theo Lênin “Không tìm cách ngăn cấm hay chặn đứng
sự phát triển của chủ nghĩa tư bản mà tìm cách hướng nó vào chủ nghĩa tư
bản nhà nước.”
- Những hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước: Lênin trình bày cặn
kẽ chế độ tô nhượng. Đó là hình thức đơn giản nhất, rõ ràng nhất, sáng tỏ
nhất. Lênin cho rằng: “Các hình thức hợp tác xã cũng là hình thức của chủ
nghĩa tư bản nhà nước. Các hình thức khác của chủ nghĩa tư bản nhà nước,
nhà nước vô sản sử dụng nhà tư bản như thế nào, nhà nước cho các nhà tư
bản thuê những cơ sở sản xuất nào?

6




Phần 3: Tổng kết và kết luận chính trị (tr 286 - 294).
Trong phần này, sau khi phân tích một cách sơ lược cục diện chính trị,
Lênin đề cập đến sự cần thiết thắt chặt hơn nữa mối liên hệ giữa Đảng cộng
sản với quần chúng lao động ngoài đảng hoặc đứng ngoài chính trị bằng
cách đưa quần chúng tham gia vào công tác của nhà nước, mà trước hết là
vào các công tác kinh tế.
- Kết luận: (tr 294 - 296).
CHƯƠNG II: TƯ TƯỞNG CỦA V.I.LÊNIN VỀ CÁC THÀNH PHẦN
KINH TẾ.
Một trong những nội dung quan trọng của Chính sách cộng sản thời
chiến là tiến hành xóa bỏ các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế
phi xã hội chủ nghĩa để xác lập chế độ công hữu.
Nhưng qua thực tiễn 3 năm thực hiện Chính sách cộng sản thời chiến,
Lênin nhận thấy rằng: Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội không thể
xóa bỏ ngay chế độ sở hữu tư bản tư nhân cũng các hình thức sở hữu khác
được. Sự tồn tại của các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế phi xã
hội chủ nghĩa là một tất yếu vì nó còn mang lại nhiều lợi ích cho công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội như: khai thác tối đa mọi tiềm năng của
đất nước, giải quyết việc làm, làm ra nhiều của cải, từng bước cải thiện đời
sống cho nhân dân.
Cho nên trong tác phẩm “ Bàn về thuế lương thực”, Lênin khẳng
định, trong nền kinh tế ở nước Nga lúc bấy giờ còn tồn tại 5 thành phần
kinh tế đó là:
- Nông dân kiểu gia trưởng.
- Sản xuất hàng hóa nhỏ.

7


- Chủ nghĩa tư bản tư nhân.
- Chủ nghĩa tư bản nhà nước.
- Chủ nghĩa xã hội.
Lênin đi vào phân tích đặc điểm và vai trò , tác dụng của từng thành
phần kinh tế đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở nước Nga trong
thời kì quá độ:

I. NÔNG DÂN KIỂU GIA TRƯỞNG:
Nông dân kiểu gia trưởng là thành phần kinh tế tiền tư bản, nó là kinh
tế tự nhiên, tự cấp, tự túc. Vì ở đây không có phân công lao động xã hội,
mà phân công mang tính chất tự nhiên theo giới tính và tuổi tác. Một đặc
điểm quan trọng khác là sản xuất chủ yếu phụ thuộc vào tự nhiên, cuộc
sống phần lớn dựa vào hái lượm, săn bắt, du canh, du cư nay đây mai đó.
Thành phần kinh tế này chiếm 1 tỷ trọng rất nhỏ trong nền kinh tế, nó
tồn tại ở các vùng núi cao thuộc các dân tộc ít người.
Đối với thành phần kinh tế này, nhà nước phải đặc biệt quan tâm,
giúp đỡ mọi mặt để họ định canh, định cư, từng bước cải thiện đời sống
cho học và đưa họ đi lên chủ nghĩa xã hội.
II. SẢN XUẤT HÀNG HÓA NHỎ:
Sản xuất hàng hóa nhỏ là thành phần kinh tế bao gồm đại đa số
những người tiểu nông ở nông thôn và những người tiểu thủ công nghiệp ở
thành thị. Theo Lênin, trong điều kiện nước Nga lúc bấy giờ thành phần
kinh tế này chiếm tuyệt đại đa số.
Lênin viết: “ Thử hỏi thành phần kinh tế nào chiếm ưu thế, rất rõ
ràng, trong một nước tiểu nông thì tính tự phát tiểu tư sản chiếm ưu thế và
8



không thể không chiếm ưu thế số đông, thậm chí là đại đa số nông dân
đều là những người sản xuất hàng hóa nhỏ.”
Sản xuất hàng hóa nhỏ có đặc điểm là dựa trên sở hữu tư nhân theo
từng hộ gia đình, với công cụ thủ công, năng suất thấp với đặt điểm nổi bật
là người lao động mang tính chất hai mặt: tính tư hữu và tính cách mạng.
Do tính chất hai mặt nên những người sản xuất hàng hóa nhỏ, lúc thì theo
giai cấp tư sản, lúc thì theo giai cấp vô sản. Theo Lênin, đây là thành phần
kinh tế không định hình nhất, không cố định nhất, không tự giác nhất.
Cho nên đối với thành phần kinh tế này, nhà nước phải động viên tinh
thành lao động của họ, phải có chính sách hỗ trợ, giúp đỡ họ về tiền vốn
và kĩ thuật để phát triển sản xuất. Đồng thời phải hướng họ vào làm ăn tập
thể, vì đây là con đường giản đơn nhất, dễ dàng nhất, dễ tiếp thu nhất đối
với nông dân. Nhưng phải bằng con đường tự nguyện, không được gò ép.
Cưỡng chế họ.
Mặt khác, Lênin còn chỉ ra rằng, con đường làm ăn tập thể (hợp tác
xã) còn là phương tiện duy nhất để khôi phục lại nền kinh tế bị chiến tranh
tàn phá đồng thời là phương tiện duy nhất để thoát khỏi tình trạng tối tăm,
đần độn mà chủ nghĩa tư bản đem lại cho người dân ở nông thôn.
III. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN TƯ NHÂN:
Chủ nghĩa tư bản tư nhân là thành phần kinh tế đối lập với chủ nghĩa
xã hội. Song, nó không còn nguyên vẹn như trước đây, vì những xĩ nghiệp
lớn trong những ngành then chốt đã bị quốc hữu hóa, chỉ còn lại những xí
nghiệp vừa và nhỏ. Nên nó không còn giữ vị trí chủ đạo và thống trị toàn
xã hội, mà trở thành thành phần kinh tế phụ thuộc và chịu sự kiểm soát của
nhà nước Xô Viết.

9



Tuy vậy, thành phần kinh tế này vẫn còn khá mạnh về tiền vốn, kĩ
thuật, trình độ tổ chức quản lí, có năng suất lao động cao và đặc biệt là có
mối quan hệ với sản xuất hàng hóa nhỏ, với tư bản quốc tế.
Do vậy, theo Lênin, đối với nước tiểu nông muốn đi lên chủ nghĩa xã
hội phải duy trì, sử dụng chủ nghĩa tư bản tư nhân. Vì nó có những tác
dụng rất to lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, cụ thể:
- Một là chống lại tình trạng phân tán và bệnh quan liêu do sản xuất
nhỏ sinh ra.
- Hai là, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế.
Như vậy không nên máy móc cho rằng: CNTB là xấu, mà phải thấy
vai trò tác dụng to lớn của nó. Nên nếu so với chủ nghĩa xã hội thì xấu,
nhưng so với thời kì trung cổ thì tốt đẹp hơn rất nhiều.
Lênin viết : “Chủ nghĩa tư bản là xấu so với chủ nghĩa xã hội. Chủ
nghĩa tư bản lại rất tốt so với thời kì trung cổ, với nền tiểu sản xuất, với
chủ nghĩa quan liêu do tình trạng phân tán của những người tiểu sản xuất
tạo nên.”
IV. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN NHÀ NƯỚC:
“Chủ nghĩa tư bản nhà nước là một thứ chủ nghĩa tư bản mà chúng
ta có thế hạn chế, có thể quy định giới hạn, Chủ nghĩa tư bản mà nhà
nước đó gắn liền với nhà nước, mà nhà nước chính là công nhân, chính là
bộ phận tiên tiến của công nhân, là đội tiên phong, là chúng ta.”
“ Chủ nghĩa tư bản nhà nước là sự giám sát của nhà nước đối với chủ
doanh nghiệp và thương nhân, những người hoạt động trong hợp tác xã tư
sản.”
Theo Lênin: “Chủ nghĩa tư bản là xấu so với Chủ nghĩa xã hội. Chủ
nghĩa tư bản lại rất tốt so với thời kì trung cổ, với nền tiểu sản xuất, với
10


chủ nghĩa quan liêu do tình trạng phân tán của những người tiểu sản xuất

tạo nên. Vì chúng ta chưa có điều kiện để chuyển trực tiếp từ nền sản xuất
tiểu tư sản lên chủ nghĩa xã hội, bởi vậy, trong một mức độ nào đó, CNTB
là không thể tránh khỏi, nó là sản vật tự nhiên của nền tiểu sản xuất và
trao đổi, bởi vậy chúng ta phải lợi dụng CNTB (nhất là bằng cách hướng
nó vào con đường Chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích trung gian
giữa nền tiểu sản xuất và Chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường,
phương pháp, phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên.”
Chủ nghĩa tư bản nhà nước hiện đại hơn rất nhiều so với nền kinh tế
của các nước tiểu nông đang trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
Lênin khẳng định rằng: “CNTB nhà nước dưới quyền lãnh đạo của giai
cấp vô sản và chính đảng của nó là ngưỡng cửa chủ nghĩa xã hội, là điều
kiện thắng lợi chắc chắn của chủ nghĩa xã hội.”
Như vậy, chủ nghĩa tư bản nhà nước mà Lênin đề cập đến là một kiểu
tư bản có nghĩa vụ thực hiện các mục tiêu của giai cấp vô sản đề ra, là
công cụ để nhà nước vô sản thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, chuẩn bị
tiền đề vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Lênin phân tích bản chất của Chủ
nghĩa xã hội.
Lênin phân tích bản chất của chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới chế độ
Xô Viết là sự kết hợp giữa kĩ thuật hiện đại của chủ nghĩa tư bản với nhà
nước vô sản, từ đó đi lên Chủ nghĩa xã hội. Nhà nước vô sản không đại
diện cho giai cấp tư sản, mà đại diện cho giai cấp vô sản, giai cấp công
nhân, là đại biểu cho lực lượng sản xuất tiến bộ.
Nhà nước Xô viết là nhà nước Chuyên chính vô sản, đại biểu cho lợi
ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của giai
cấp công nhân, nó khác về bản chất so với nhà nước chuyên chính tư sản.
Trong các nước tư bản, nhà nước là của giai cấp tư sản, do đó, sở hữu nhà
nước trong xã hội tư bản chính là sở hữu của giai cấp tư sản. Còn trong
11



nhà nước XHCN, nhà nước là sở hữu công cộng, tập thể, của nhân dân lao
động. Chính vì vậy, chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước Nga Xô Viết so với
các nước tư bản chủ nghĩa: Chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước Nga phản
ánh mối quan hệ của giai cấp công nhân với các nhà tư bản, chịu sự lãnh
đạo của giai cấp công nhân.
Lênin khẳng định: “Chủ nghĩa tư bản nhà nước là sự giám sát của
nhà nước đối với chủ xí nghiệp và thương nhân, những người hoạt động
trong hợp tác xã sản xuất.”
Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ở một đất nước mà giai
cấp vô sản nắm chính quyền thì chủ nghĩa tư bản nhà nước là thứ chủ
nghĩa tư bản chịu sự kiểm kê, kiểm soat của nhà nước vô sản, là hệ thống
các quan hệ kinh tế khách quan giữa nhà nước vô sản với các nhà nước tư
bản trong và ngoài nước. Nó là chủ nghĩa tư bản được dung nạp, được
phát triển trong một giai đoạn nhất định. Giới hạn đó do nhà nước vô sản
ấn định và được điều chỉnh theo những mục tiêu của nhà nước vô sản, phù
hợp với từng giai đoạn phát triển.
Lênin đã chỉ ra rằng, những hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước
là tô nhượng, hợp tác xã, đại lý là hình thức cho thuê. Đây là những
phương pháp đúng đắn, đảm bảo cho sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản
nhà nước lên chủ nghĩa xã hội.
1. Hình thức tô nhượng:
Tô nhượng là một giao kèo, một sự liên kết, một liên minh giữa chính
quyền và nhà nước Xô viết, nghĩa là nhà nước vô sản, với chủ nghĩa tư bản
nhà nước, chống lại thế lực tự phát tiểu tư hữu (có tính chất gia trưởng và
tiểu tư sản).
Tô nhượng là hợp đồng giữa nhà nước và một nhà tư bản, người này
cam kết tổ chức hoặc hoàn thiện sản xuất, chẳng hạn như đẵn và chở gỗ,
12



khai thác than, dầu lửa,khoáng sản,... trả cho nhà nước một phần sản phẩm
sản xuất ra, và nhận một phần khác với danh nghĩa là lãi. Có nghĩa là
chính quyền nhà nước xã hội chủ nghĩa giao cho nhà tư bản tư liệu sản
xuất của mình như nhà máy, vật liệu, hầm mỏ, nhà tư bản tiến hành kinh
doanh với tư cách là một bên kí kết, là người thuê tư liệu sản xuất xã hội
chủ nghĩa và thu được lợi nhuận do tư bản mà mình bỏ ra, rồi nộp cho nhà
nước xã hội chủ nghĩa một phần sản phẩm.
“ Người nhận tô nhượng là nhà tư bản, họ kinh doanh theo phương
thức tư bản đê lấy lợi nhuận, họ đồng ý thỏa thuận với chính quyền vô sản
để cốt thu lợi nhuận bất thường, lợi nhuận siêu ngạch hoặc để có được loại
nguyên liệu mà họ không thể tìm được hoặc khó tìm bằng cách khác.
Chính quyền Xô viết cũng có lợi, lực lượng sản xuất phát triển, sản lượng
sản phẩm tăng lên ngay hoặc trong một thời gian ngắn nhất.”
“ So với những hình thức khác của chủ nghĩa tư bản nhà nước trong
lòng chế độ Xô viết thì chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới hình thức tô
nhượng, có lẽ là hình thức đơn giản nhất, rành mạch nhất, sáng tỏ nhất, có
hình thù rõ rệt nhất.”
“Với việc ban hành thuế lương thực thì nhiệm vụ quan trọng nhất của
tất cả các cán bộ của Đảng và của các cơ quan Xô viết là phải biết áp dụng
những nguyên tắc, những nguyên lí, những cơ sở chính sách tô nhượng,
tức là giống như chủ nghĩa tư bản nhà nước trong lĩnh vực tô nhượng, vào
những hình thái khác nhau của chủ nghĩa tư bản, của tự do buôn bán, của
sự trao đổi địa phương..”
Tô nhượng là một loại hợp đồng cho thuê, người tư bản trở thành
người đi thuê một phần tài sản của nhà nước, theo một hợp đồng và trong
một thời gian nhất đinh, nhưng nhà tư bản đi thuê không thể trở thành
người sở hữu được. Quyền sở hữu vẫn là của nhà nước. Mức độ và điều
kiện trong đó tô nhượng sẽ có lợi và không nguy hại cho nhà nước xã hội
13



chủ nghĩa, tùy thuộc vào sự so sánh lực lượng của nhà nước đó và giai cấp
tư sản. Tô nhượng cũng là một hình thức đấu tranh, là sự tiếp tục của đấu
tranh giai cấp dưới một hình thức khác, chứ tuyệt nhiên không phải là sự
thay thế đấu tranh giai cấp bằng hòa bình.
Chủ nghĩa tư bản dưới hình thức tô nhượng, chính quyền Xô viết tăng
cường được nền đại sản xuất, tăng thêm số lượng sản phẩm một cách
nhanh chóng, củng cố được quan hệ kinh tế do nhà nước điều chỉnh, nó
giúp cải thiện nhanh chóng tình trạng sản xuất, đời sống của công nhân và
nông dân.
Khi chính sách tô nhượng thắng lợi, sẽ đưa lại một số ít xí nghiệp lớn
kiểu mẫu ngang trình độ của chủ nghĩa tư bản tiên tiến, hiện đại, mấy chục
năm nữa, những xí nghiệp ấy sẽ hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của nhà
nước Xô viết. Dưới hình thức tô nhượng - hình thức cao nhất của chủ
nghĩa tư bản nhà nước, hình thức để chuyển nền sản xuất lớn tư bản chủ
nghĩa sang sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân có thể học
tập quản lí nền đại công nghiệp, cơ khí hóa và xã hội hóa. Lênin nhấn
mạnh “ tô nhượng là không đáng sợ, nếu chúng ta chỉ giao cho những
người được tô nhượng một vài nhà máy, còn đa số nhà máy vẫ giữ
lại...Chừng nào mà chúng ta nắm trong tay tất cả các xí nghiệp quốc doanh
và chừng nào chúng ta cân nhắc một cách chính xác và nghiêm túc xem
chúng ta có thể tiền hành tô nhượng những gì, với điều kiện như thế nào
và mức độ ra sao.”
Chủ nghĩa tư bản ở đây hoàn toàn bị kiểm soát, nó chỉ hoạt động
nhằm làm cho những tư liệu sản xuất được sử dụng một cách hiệu quả
hơn, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2. Hình thức hợp tác xã:
Lênin chỉ ra hai loại hình hợp tác xã. Đó là hợp tác xã tiêu dùng và
hợp tác xã sản xuất.
14



Hợp tác xã tiêu dùng là sự tập hợp công nhân và nông dân, nhằm mục
đích cung cấp và phân phối những sản phẩm cần thiết cho họ.
Hợp tác xã sản xuất là sự tập hợp những người tiểu nông hoặc thợ thủ
công, nhằm mục đích sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm vừa nông nghiệp
(chẳng hạn như rau, sản phẩm sữa....), vừa phi nông nghiệp ( sản phẩm
công nghiệp đủ mọi loại, đồ bằng gỗ, bằng sắt, bằng da,...).
Theo Lênin : “ Các hợp tác xã cũng là một hình thức của chủ nghĩa
tư bản nhà nước nhưng ít đơn gian hơn, có hình thù rõ rệt hơn, phức tạp
hơn.”
Các hợp tác xã của những người sản xuất nhỏ nhất định sẽ sản sinh ra
những quan hệ tư bản, tiểu tư sản, góp phần phát triển những quan hệ ấy,
đẩy những nhà tư bản nhỏ lên hàng đầu, mang lại cho họ những lợi ích lớn
nhất. Do đó, tự do và quyền lợi của hợp tác xã có nghĩa là tự do và quyền
lợi cho Chủ nghĩa tư bản.
Song, dưới chính quyền Xô viết, hợp tác xã là một hình thái của chủ
nghĩa tư bản nhà nước, cho nên trong một mức độ nào đó nó có lợi và có
ích.
Lênin viết: “Chủ nghĩa tư bản hợp tác xã giống chủ nghĩa tư bản nhà
nước ở chỗ nó tạo điều kiện thuận lợi cho sự kiểm kê, kiểm soát, theo dõi,
cho những quan hệ đã ghi trong hợp đồng giữa nhà nước ( ở đây là nhà
nước Xô viết) với nhà tư bản, mặt khác, nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc
liên hợp và tổ chức hàng triệu người, sau đó toàn thể dân chúng, và tình
hình ấy là là một điều lợi rất lớn cho bước quá độ tương lai từ chủ nghĩa
tư bản nhà nước lên chủ nghĩa xã hội.”
 So sánh hai hình thức : Tô nhượng và hợp tác xã

Chúng ta sẽ thấy rõ hình thức tô nhượng dựa trên cơ sở đại công
nghiệp cơ khí, hợp đồng của nó chỉ quan hệ đến một nhà tư bản hay một

15


hãng, một xanh - đi - ca, các - ten hay tờ - rớt và có thời gian chính xác.
Việc giám sát của nhà nước đối với người nhận tô nhượng dễ dàng hơn,
việc chuyển từ tô nhượng lên chủ nghĩa xã hội là chuyển từ hình thức đại
sản xuất này sang một hình thức đại sản xuất khác.
Còn chế độ hợp tác xã thì lại dựa trên cơ sở tiểu thủ công nghiệp. Nó
bao gồm hàng ngàn, hàng triệu tiểu nghiệp chủ. Mặt khác, hợp tác xã
không có hợp đồng và cũng không có thời hạn chính xác, việc giám sát các
xã viên khó khăn hơn, chuyển từ hợp tác xã của người sản xuất nhỏ lên
chủ nghĩa xã hội là chuyển từ tiểu sản xuất sang đại sản xuất, thủ tiêu một
đạo luật về hợp tác xã dê hơn nhiều so với việc bãi bỏ một hợp đồng tô
nhượng, nhưng bãi bỏ hợp đồng tô nhượng có nghĩa là lập tức và đơn giản
cắt đứt ngay những quan hệ thực tế của sự liên minh kinh tế hay của sự
“chung sống” về mặt kinh tế với nhà tư bản, trái lại, không có sự thủ tiêu
một đạo luật bào về hợp tác xã và không một đạo luật nào nói chung có thể
cắt đứt ngay được, chẳng những sự “chung sống” thực tế của chính quyền
xô viết với các nhà tư bản nhỏ, mà nói chung, còn không thể cắt đứt được
các mối quan hệ hiện có.
Đây là một bước quá độ phức tạp hơn. Nhưng nếu thành công, lại có
thể bao gồm được những khối quần chúng nhân dân đông đảo hơn, sẽ nhổ
được tận gốc rễ sâu xa hơn, dai dẳng hơn của quan hệ cũ tiền xã hội chủ
nghĩa, thầm chí tiền tư bản.
Nhận thức được vai trò của hợp tác xã, Lênin đã chỉ đạo: “ Các nhà
chức trách Xô viết chỉ cần kiểm tra hoạt động của các hợp tác xã để tránh
sự gian lận, việc giấu giếm nhà nước hoặc sự lạm quyền, bất luận thế nào
cũng không được hạn chế sự phát triển của hợp tác xã mà trái lại phải
bằng đủ mọi cách giúp đỡ hợp tác xã.”


16


3. Hình thức đại lí:
Đây là một trong những hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Ở
đây, “ nhà nước lôi cuốn nhà tư bản với tư cách là một nhà buôn, trả cho
họ một số tiền hoa hồng đê họ bán sản phẩm của nhà nước và mua sản
phẩm của người sản xuất nhỏ.”
Trước đây nước Nga xô viết đã tiến hành quốc hữu hóa rất nhanh
nhưng đến đây, Lênin thấy rằng phải sử dụng tư bản thương nghiệp làm
đại lý để tiêu thụ sản phẩm và cung cấp đầu vào cho các xí nghiệp của nhà
nước. Đây là một tư tưởng rất mới.

4. Hình thức cho thuê:
Hình thức cho thuê là hình thức nhà nước cho một nhà tư bản thuê
một xí nghiệp hoặc vùng mỏ, hoặc khu rừng, khu đất,..Ở đây, hợp đồng cho
thuê giống hợp đồng tô nhượng hơn cả.
Trên cơ sở phân tích các hình thức có bản của chủ nghĩa tư bản nhà
nước, Lênin chỉ ra rằng, chủ nghĩa tư bản nhà nước là thành phần kinh tế
đặt trưng nhất, nổi bật nhất. Do vậy, Lênin đánh giá rất cao vai trò tác dụng
của thành phần kinh tế này đối với việc cải thiện đời sống cho toàn bộ xã
hội và đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga lúc bấy
giờ. Bởi lẽ, ở nước Nga khi đó, không phải đang chuyển từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội mà đang chuyển từ chế độ gia trưởng, từ tình
trạng nửa dã man lên chủ nghĩa xã hội, nên phải có những bậc thang quá
độ, những mắt xích trung gian đó là chủ nghĩa tư bản nhà nước, nhằm:
- Thứ nhất, phát huy ưu thế của sản xuất lớn, hiện đại.
Thông qua chủ nghĩa tư bản nhà nước để tạo điều kiện kêu gọi vốn từ
bên ngoài, đi liền với vốn là du nhập được khoa học, công nghệ tiên tiến,
17



hiện đại. Trên cơ sở đó phát huy khoa học, công nghệ truyền thống. Đồng
thời tạo ra một đội ngũ công nhân mới và các chuyên gia giỏi.
- Thứ hai, khắc phục tính tản mạn của sản xuất nhỏ và bệnh quan liêu
do nó sinh ra.
- Thứ ba, tạo điều kiện xây dựng một cơ cấu kinh tế mới hợp lí, hiện
đại. Từ đó tạo điều kiện để mở rộng quá trình hợp tác và phân công quốc
tế.
- Thứ tư, đảm bảo cho sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
Lênin viết: “ Chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới chính quyền xô viết là
ngưỡng cửa của chủ nghĩa xã hội, là điều kiện cho thắng lợi chắc chắn của
chủ nghĩa xã hội.”
Lênin viết: “ chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới chính quyền xô viết là
ngưỡng cửa của chủ nghĩa xã hội, là điều kiện cho thắng lợi chắc chắn của
chủ nghĩa xã hội.”
Tuy chủ nghĩa tư bản nhà nước là một bước tiến, song nó chưa phải là
chủ nghĩa xã hội, vì vậy đến đây không phải là thủ tiêu đấu tranh giai cấp
mà là tiếp tục đấu tranh giai cấp dưới hình thức mới và phương pháp mới.
Lênin viết: “Tô nhượng là một hình thức đấu tranh,là sự tiếp tục đấu
tranh giai cấp dưới một hình thức khác, chứ tuyệt nhiên không phải là sự
thay thế đấu tranh giai cấp bằng hòa bình. Thực tiễn chỉ rõ những phương
thức đấu tranh.”
V. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI:
Chủ nghĩa xã hội là thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu xã
hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức: Sở hữu toàn dân và sở
18


hữu tập thể. Lúc đó ở Nga chưa có hình thức sở hữu tập thể vì chưa trải qua

công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với người nông dân và thợ thủ công,
nên chưa tập thể hóa tư liệu sản xuất. Kinh tế xã hội chủ nghĩa thuộc sở
hữu toàn dân là do quá trình quốc hữu hóa tài sản của giai cấp tư sản trong
quá trình thực hiện Chính sách công sản thời chiến đem lại. Cho nên thành
phần kinh tế này chưa phải là thành phần kinh tế chiếm ưu thế, hay đặc
trưng, mà là thành phần kinh tế mới hình thành và non yếu, đang gặp khó
khăn về nguyên liệu, nhiên liệu và nhiều mặt khác. Tuy vậy, nó đã nắm các
ngành, các lĩnh vực quan trọng, then chốt, làm nền tảng cho nhà nước Xô
viết để định hướng xã hội chủ nghĩa.
VI. TÍNH THỐNG NHẤT VÀ MÂU THUẪN GIỮA CÁC THÀNH
PHẦN KINH TẾ:
Các thành phần kinh tế trong thời kì quá độ tồn tại một cách khách
quan, mỗi thành phần kinh tế có đặc trưng riêng vốn có về trình độ và tính
chất xã hội hóa lao động. Trong đó quan hệ sở hữu là yếu tố quan trọng
nhất, quyết định bản chất và xu hướng vận động của mỗi thành phần kinh
tế. Trong hoạt động thực tiên, các thành phần kinh tế không biệt lập mà có
mỗi quan hệ với nhau với tư cách là một hệ thống vừa thống nhất, lại vừa
mâu thuẫn với nhau.
Lênin viết: “ Ở đây không phải chủ nghĩa tư bản nhà nước đấu tranh
với chủ nghĩa xã hội, mà là giai cấp tiểu tư sản cộng với chủ nghĩa tư bản
tư nhân cùng nhau đấu tranh chống lại cả chủ nghĩa tư bản nhà nước lẫn
chủ nghĩa xã hội.”
Tính thống nhất thể hiện ở chỗ, mỗi thành phần kinh tế là một bộ phận
của nền kinh tế quốc dân thống nhất, đều nằm trong hệ thống phân công lao
động xã hội, có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Trong hoạt động thực
tiễn, các thành phần kinh tế không có sự ngăn cách mà có sự kết hợp, đan
19


xen với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng. Các thành phần kinh

tế cùng chung sự quản lí thống nhất của Nhà nước, sự chi phối và tác động
của hệ quy luật kinh tế đang hoạt động trong thời kì quá độ. Bởi vậy, các
thành phần kinh tế không còn nguyên dạng mà biến đổi tùy theo mối tương
quan giữa các thành phần kinh tế đó.
Mẫu thuẫn giữa các thành phần kinh tế biểu hiện ở chỗ: mâu thuẫn
giữa công hữu với tư hữu, giữa tư nhân với tập thể và nhà nước, giữa xu
hướng phát triển tư bản chủ nghĩa với xã hội chủ nghĩa,...Mỗi thành phần
kinh tế còn có bản chất riêng và còn chịu sự chi phối của quy luật kinh tế
như: kinh tế tư bản tư nhân bản chất là tư hữu, là bóc lột, quy luật chi phối
nó chủ yếu là quy luật giá trị thặng dư, cho nên mâu thuẫn với kinh tế hợp
tác và kinh tế nhà nước, chúng luôn có sự cạnh tranh, đấu tranh lẫn nhau và
mâu thuẫn về mặt lợi ích giữa các thành phần kinh tế, về xu hướng chính trị
và tư tưởng,...
Tuy nhiên không thể giải quyết các mẫu thuẫn trên bằng cách xóa bỏ
thành phần kinh tế này hay thành phần kinh tế khác, mà phải có biện pháp
thích hợp để sử dụng chúng một cách có hiệu quả, bảo đảm định hướng xã
hội chủ nghĩa.

CHƯƠNG III: QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG CỦA
ĐẢNG TA TỪ TƯ TƯỞNG CỦA LÊNIN VỀ CÁC THÀNH PHẦN
KINH TỂ.
I. NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG TA VỀ CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ
QUA CÁC KÌ ĐẠI HÔI:

20


Sự hình thành, phát triển quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
các thành phần kinh tế được thể hiện thông qua Văn kiện tại các kỳ Đại hội
Đảng toàn quốc trong thời kỳ Đổi Mới.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986). Xuất phát từ tư tưởng của
Lênin về nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa
xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã phê phán những tư tưởng nóng vội
trong cải tạo Xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh việc xây dựng những cơ sở kinh tế mới cho Chủ nghĩa xã
hội, cần phải coi trọng cải tạo và sử dụng các cơ sở kinh tế sẵn có bằng
những hình thức và bước đi thích hợp. Tuy nhiên, "chúng ta chưa xác định
rõ ràng, nhất quán những quan điểm, chủ trương và chính sách chỉ đạo
công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Đã có những biểu hiện nóng vội muốn
xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến
kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh. Đối với kinh tế tiểu sản xuất
hàng hoá, ít chú ý những đặc điểm về tính chất của từng ngành, từng nghề,
để lựa chọn hình thức tổ chức thích hợp, có xu hướng muốn tổ chức ngay
các hợp tác xã quy mô lớn, không tính đến khả năng trang bị kỹ thuật, trình
độ quản lý và năng lực của cán bộ. Về nội dung cải tạo, thường nhấn mạnh
việc thay đổi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất mà không coi trọng giải
quyết các vấn đề tổ chức quản lý và chế độ phân phối".
Đảng Cộng sản Việt Nam còn đưa ra định hướng giải quyết quan hệ
giữa thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa với các thành phần kinh tế khác.
"Củng cố thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm cả khu vực quốc
doanh và khu vực tập thể một cách toàn diện, cả về chế độ sở hữu, chế độ
quản lý, chế độ phân phối, làm cho thành phần kinh tế này giữ vai trò chi
phối trong nền kinh tế quốc dân, thể hiện tính ưu việt về năng suất lao
động, chất lượng sản phẩm, thu nhập của người lao động và tích luỹ cho sự
nghiệp công nghiệp hoá. Bằng những biện pháp thích hợp, sử dụng mọi khả
năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ và dưới sự
chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa" .
21



Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương: cần có chính sách sử dụng và
cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác. Chính sách đó cho phép sử
dụng nhiều hình thức kinh tế với quy mô và trình độ kỹ thuật thích hợp
trong từng khâu của quá trình sản xuất và lưu thông nhằm khai thác mọi
khả năng của các thành phần kinh tế liên kết với nhau, trong đó kinh tế
quốc doanh giữ vai trò chủ đạo.
Đó là một giải pháp có ý nghĩa chiến lược, góp phần giải phóng và
khai thác mọi nguồn lực để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ cấu
kinh tế hợp lý. Giải pháp đó xuất phát từ thực tế của nước ta và là sự vận
dụng quan điểm của Lênin coi “nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là
một đặc trưng của thời kỳ quá độ”.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991). Tiếp tục tư tưởng của Đại
hội lần thứ VI, Đại hội lần thứ VII đưa ra quan điểm rõ ràng hơn về vai trò
của nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần. Cơ chế vận hành nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thông qua pháp luật, kế hoạch,
chính sách và các công cụ khác.
Nhà nước quản lý nền kinh tế nhằm định hướng, dẫn dắt các thành
phần kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất,
kinh doanh theo cơ chế thị trường, kiểm soát chặt chẽ và xử lý các vi phạm
pháp luật trong hoạt động kinh tế, bảo đảm sự hài hoà giữa phát triển kinh
tế và phát triển xã hội. Khẩn trương sắp xếp lại và đổi mới quản lý kinh tế
quốc doanh, bảo đảm kinh tế quốc doanh phát triển có hiệu quả, nắm vững
những lĩnh vực và ngành then chốt để phát huy vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế.
Tập trung lực lượng củng cố và phát triển những cơ sở kinh tế trọng
điểm, những cơ sở làm ăn có hiệu quả và có ý nghĩa lớn đối với nền kinh tế
quốc dân . Tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam về các thành phần kinh
tế được tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa hơn nữa trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (1991): Phát triển

22


một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không
ngừng được củng cố và mở rộng. Kinh tế cá thể còn có phạm vi tương đối
lớn, từng bước đi vào con đường làm ăn hợp tác trên nguyên tắc tự nguyện,
dân chủ và cùng có lợi.
Tư bản tư nhân được kinh doanh trong những ngành có lợi cho quốc
kế dân sinh do luật pháp quy định. Phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới
nhiều hình thức. Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển mạnh,
nhưng không phải là một thành phần kinh tế độc lập. Các hình thức sở hữu
hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng. Các tổ
chức kinh tế tự chủ và liên kết, hợp tác và cạnh tranh trong sản xuất và kinh
doanh .
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996). Sau một thời kỳ phát
triển kinh tế nhiều thành phần, mặt trái của vấn đề đã bộc lộ. Đảng Cộng
sản Việt Nam đã có định hướng khắc phục mặt trái đang tồn tại. Theo đó,
"để phát triển sức sản xuất, cần phát huy khả nǎng của mọi thành phần kinh
tế, thừa nhận trên thực tế còn có bóc lột và sự phân hoá giàu nghèo nhất
định trong xã hội, nhưng phải luôn quan tâm bảo vệ lợi ích của người lao
động, vừa khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp, vừa
coi trọng xoá đói, giảm nghèo, từng bước thực hiện công bằng xã hội, tiến
tới làm cho mọi người, mọi nhà đều khá giả".
Khắc phục mặt trái của nền kinh tế nhiều thành phần còn được thực
hiện bằng "Đổi mới cǎn bản tổ chức, quản lý và nâng cao hiệu quả khu vực
doanh nghiệp nhà nước. Đổi mới và phát triển đa dạng các hình thức kinh
tế hợp tác từ thấp đến cao, mà nòng cốt là các hợp tác xã. Phát triển các
hình thức liên doanh, liên kết trực tiếp giữa các doanh nghiệp nhà nước với
nhau, giữa kinh tế nhà nước với kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản tư nhân, cá

thể và các công ty nước ngoài".
Trên cơ sở lý luận của Lênin về kinh tế nhiều thành phần và tình hình
thực tiễn Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: "Thực hiện nhất
23


quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong
và bên ngoài cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế
và xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong
việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và hình thức tổ chức
kinh doanh".
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001). Đảng CSVN khẳng định
lại tư tưởng về nền kinh tế nhiều thành phần đã được nêu ra trong các Đại
hội trước.
"Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất,
nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng cơ
cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi nhiều cùng
với những biến đổi to lớn về kinh tế, xã hội".
Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính
sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN; đó chính
là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đây là bước phát triển mới về
lý luận kinh tế thị trường, về sở hữu và các thành phần kinh tế trong quá
trình xây dựng CNXH.
Đại hội lần thứ IX còn chỉ rõ con đường, cách thức xây dựng chế độ
sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất. Chế độ đó "...từng bước
được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được xây
dựng xong về cơ bản. Xây dựng chế độ đó là một quá trình phát triển kinh
tế - xã hội lâu dài qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến cao. Phải từ

thực tiễn tìm tòi, thử nghiệm để xây dựng chế độ sở hữu công cộng nói
riêng và quan hệ sản xuất mới nói chung với bước đi vững chắc. Tiêu
chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định
hướng XHCN là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống
nhân dân, thực hiện công bằng xã hội".
24


Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X(2006). Đại hội xác định nền kinh tế
nước ta có 5 thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư
nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật,
đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh.
Đồng thời, Đảng CSVN đã xác định vị trí và định hướng phát triển
các thành phần kinh tế chủ yếu. Trong đó, "kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết
nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế
cùng phát triển.
Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan
trọng, là mộttrong những động lực của nền kinh tế. Doanh nghiệp cổ phần
ngày càng phát triển, trở thành hình thức tổ chức kinh tế phổ biến, thúc đẩy
xã hội hoá sản xuất kinh doanh và sở hữu. Xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử
theo hình thức sở hữu; Nhà nước chỉ thực hiện sự ưu đãi hoặc hỗ trợ phát
triển đối với một số ngành, lĩnh vực, sản phẩm; một số mục tiêu như xuất
khẩu, tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, khắc phục rủi ro; một số địa bàn,
các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Thực hiện Chiến lược quốc gia về phát triển doanh nghiệp. Xây dựng

một hệ thống doanh nghiệp Việt Nam nhiều về số lượng, có sức cạnh tranh
cao, có thương hiệu uy tín, trong đó chủ lực là một số tập đoàn kinh tế lớn
dựa trên hình thức cổ phần. Nhà nước định hướng, tạo môi trường để phát
triển có hiệu quả các doanh nghiệp theo cơ chế thị trường; bồi dưỡng, đào
tạo và tôn vinh các doanh nhân có tài, có đức và thành đạt.
Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà
nước. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để các doanh nghiệp nhà nước thực sự
hoạt động trong môi trường cạnh tranh, công khai, minh bạch, nâng cao
25


×