Phần 1: Cơ sở lý luận của thúc đẩy xuất khẩu thuỷ
sản sang thị trờng Mỹ.
Việt Nam có hơn 3260 Km bờ biển, 12 của sông với hơn 2 triệu km2 thềm
lục địa, hơn một triệu km2 mặt nớc.Diện tích mặt nớc chiếm tỷ lệ cao trong
diện tích đất tự nhiên , nên ngành thuỷ sản có một thế mạnhvề kinh tế biển hiếm
có đối với nớc ta .Từ năm 1990 đến nay ngành ngh nghiệp đẫ phát triển mạnh.
Hàng năm Việt nam đã đánh bắt từ 1,2 triệu đến 1,7 tấn hải sản trong đó công
suất đánh bắt những loại hải có giá trị cao trên thị trờng nh tôm có thể đạt 50-60
ngàn tấn/năm mực các loại từ 30-40 ngàn tấn, cha kể hơn 100 ngàn tấn các loại
trong đó có nhiều loại có giá trị kinh t ế rất cao.Chính nhờ những lợi thế mà
thuỷ Việt đã trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn và thế mạnh
của nớc ta. Trong những năm qua ngành thuỷ đã đạt đợc tốc độ phát triển cao,
ổn định và mức tăng tổng bình quân hàng năm về tổng sản lợng thuỷ sản trên
4%/năm, giá trị kim ngạch xuất khẩu bình quân chiếm 10-15% trong ttổng kim
ngạch xuẩt khẩu của Việt nam hàng năm, đứng thứ 29 trên thế giới về xuất
khẩu với 1% giá trị xuất khẩu thuỷ sản của thế giới. So với các nớc đông nam á
thì Việt nam đứng hàng thứ t sau Thái Lan, Inđônêsia,Malaisia về đánh bắt và
xuất khẩu thuỷ sản. Xuất khẩu thuỷ sản không ngừng tăng lên từ năm 1990 đến
nay. Mặt hàng xuất khẩu về thuỷ sản khá phong phú về chủng loại . Sản lợng
tôm đông lạnh chiếm từ 80-90% khối lợng hàng thuỷ sản xuất khẩu , về giá
xuất khẩu thì tôm cũng là mặt hàng đợc giá nhất trong ba chủng loại chính xuất
khẩu hàng thuỷ sản Việt nam.
Trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam thì thuỷ sản là ngành có vị trí rất
quan trọng với những phân tích ở trên. Để tăng hơn nữa kim ngạch xuất khẩu
ngành thuỷ sản đòi hỏi chúng ta cần có chiến lợc phát triển ngành đúng đắn
trong nền kinh tế mới. Theo báo của tổng cục hải quan năm 1998, mặt hàng
thuỷ sản Việt nam đã có mặt trên 34 nớc trên thế giới với tổng kim ngạch 856,6
triệu USD.Thị trờng nhập khẩu thuỷ sản của Việt nam là các nớc Châu Âu, 13
1
nớc Châu á và Mỹ, trong đó Mỹ đang là thị trờng mục tiêu mà chúng ta hớng
vào. Nhất là sau khi Hiệp định thơng mại Việt nam-Hoa kỳ đợc thông qua, cơ
hội cho các ngành xuất khẩu của Việt nam đa hàng vào thị trờng Mỹ, trong đó
có thuỷ sản. Thị trờng thuỷ sản Mỹ càng có ý nghĩa hơn đối với Việt nam. Tuy
nhiên Việt nam không phải là đối tác duy nhất của Mỹ,, xuất khẩu thuỷ sang
Mỹ có nhiều đối thủ rất mạnh so với chúng ta nh Canađa, Trung Quốc...Thị
phần thuỷ sản của Việt nam trên thị trờng Mỹ còn rất khiêm tốn. Đó là một đòi
hỏi, thách thức rất lớn đối với nhà hoạch định chiến lợc của Việt nam.
Ngành thuỷ sản Việt nam bắt đàu xuất khẩu sang Mỹ từ năm 1994 với giá
trị ban đầu còn thấp , mới chỉ có 6 triệu USD. Từ đó giá trị thuỷ sản xuất khẩu
của Việt nam sang Mỹ tăng liên tục qua các năm . Năm1998 lên tới 82 triệu
USD và đa Việt Nam lên vị trí thứ 19 trong các nớc xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ.
Năm 1999 Mỹ nhập khẩu từ Việt Nam 130 triệu USD thủy sản các loại, năm
2000 đạt 302,4 triệu USD và trong 6 tháng đầu năm 2001 xuất khẩu thuỷ Việt
Nam vẫn tiếp tục tăng trởng đạt 31 nghìn tấn về khối lợng, với giá trị 210,4 triệu
USD. Hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ chủ yếu là tôm đông
lạnh . Mặt hàng xuất khẩu lớn thứ hai là cá ngừ tơi đạt 6,3 triệu USD trong 2
tháng đầu năm 2001 tăng vợt bậc so với cùng kỳ năm 2000 (chỉ có 1,5 triệu
USD) ,cá biển đông lạnh có giá trị xuất khẩu đứng thứ 3 với giá trị 2,5 triệu
USD trong hai tháng đầu năm 2001.
Nh vậy, qua số liệu trên ta thấy xuât khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang
Mỹ đang tiếp tục tăng nhanh về kim ngạch và giá trị. Tuy nhiên thi trờng tiêu
thụ của Mỹ là rất lớn với 280 triệu dân. Vấn đề đặt ra hiện nay, đẩy mạnh kim
ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ, chiếm lĩnh nhiều hơn nữa thi trờng Mỹ.
Chúng ta phải khai thác triệt về lợi thế tự nhiên sẵn có đẻ phát triển ngành thuỷ
sản theo hớng xuât khẩu là chủ yếu mà thi trờng Mỹ là thị trờng mục tiêu.
2
Phần 2:Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ
qua những năm qua
2.1 Xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ của Việt Nam gặp một số trở ngại và
cơ hội .
Việt nam tuy có lợi thế về nuôi trồng thuỷ hải sản, nhng để hàng thuỷ sản
xuất khẩu ra thị trờng nớc ngoài, đặc biệt là thị trờng Mỹ vẫn còn là vấn đề nan
giải.
Hàng hoá từ nớc ngoài xuất khẩu vào Mỹ sẽ phải trải qua một thủ tục hải
quan khá chặt chẽ . Hệ thống thuế quan của Mỹ (gọi tắt là HTS ) hiện không chỉ
đợc thi hành ở Mỹ, mà hầu hết các quốc gia thơng mại lớn của thế giới đang áp
dụng.. Nhiều loại thuế của Mỹ đánh theo tỷ lệ trên giá trị hàng hoá, tức là mức
thuế đợc xác định dựa trên tỷ lệ phần trăm trên giá trị hàng nhập khẩu, mức
thuế suất biến động từ 1-40%, trong đó mức thông thờng từ 2-7% giá trị hàng
nhập khẩu. Một số hàng hoá khác phải chịu thuế gộp- tức là loại thuế kết hợp cả
mức thuế tỷ lệ trên giá trị và mức thuế theo số lợng. Có những hàng hoá phải
chịu thuế định ngạch-đó là loại thuế suất cao hơn đợc áp dụng đối với hàng
nhập khẩu sau khi một lợng hàng hoá cụ thể thuộc loại đó đã đợc nhập khẩu vào
Mỹ trong cùng năm đó . Hầu hết các đối tác thơng mại của Mỹ đợc hởng quy
chế đối xử thơng mại bình thờng(NTR). Hàng hoá của các nớc thuộc diện NTR
khi xuất khẩu vào Mỹ chỉ phải chịu mức thuế thấp hơn nhiều so với hàng hoá
của các nớc không có NTR của Mỹ. Khi có sự điều chỉnh giảm hay huỷ bỏ một
loại thuế quan nào đó thì sự thay đổi đó sẽ đợc áp dụng bình đẳng đối với tất cả
các nớc đợc hởng NTR của Mỹ. Hiện nay, các nớc tham gia WTO đều đợc h-
ởng NTR của Mỹ. Các nớc đang đợc hởng NTR của mỹ phải đáp ứng hai điều
kiện cơ bản: đã ký hiệp định thơng mại song phơng với Mỹ, phải tuân thủ các
điều kiện Jacson-Vanik trong luật thuơng mại năm 1974 của Mỹ.
3
Việt nam chuyển sang nền kinh tế thị trơng hơn 10 năm qua. Hoạt định
xuất nhập khẩu theo đó cũng mới phát triển. Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam
sang Mỹ bắt đầu từ năm 1994. Bởi vậy chúng còn gặp rất nhiều khó khăn, sức
ép từ thị trờng, đối thủ cạnh tranh. Phải nói rằng chúng ta cha có kinh nghiệm
trên thị trờng quốc tế , đặc biệt thị trờng Hoa Kỳ. Khi xuất khẩu hàng hoá sang
Mỹ, mà ở đây là thuỷ sản vấn đè thị trờng có tác động mạnh nhất đén sự tồnh
tại của hàng Việt nam trên đất Mỹ. Trở ngại lớn nhất là chúng ta đang phải đối
chọi với những đối thủ cạnh tranh mạnh hơn chúng ta rất nhiều. Sức mạnh của
đối thủ cạnh tranh thể hiện ở thâm niên chất lợng sản phẩm và các yếu tố khách
quan khác. Thị trờng Mỹ tuy rộng lớn nhng chúng ta cha mở rộng đợc quy mô,
nguyên nhân ở đây có thể là chúng ta yếu kém về khâu tổ chức bán hàng,
marketing sản phẩm, do chất lợng hàng hoá cha bằng một số đối thủ cạch tranh
ở một khía cạnh nào đó, cũng có thể do nguyên nhân khách quan xuất phát từ
thi trờng Mỹ. Chúng ta thấy rằng để hàng vào thị trờng Mỹ một cách hợp pháp
phải trải qua nhiều khâu kểm tra, kiểm định chất lợng đặc biệt đó là loại hàng
hoá thực phẩm liên quan trực tiếp đến sức khoẻ của công dân Mỹ. Tiêu chuẩn
chất lợng đối với thực phẩm là rất cao đòi hỏi các nhà xuât khẩu phải tuân thủ
một cách nghiêm ngặt. Hàng thuỷ sản của chúng ta từ khâu sản xuất, đóng gói,
bảo quản còn nhiều hạn chế do trình độ công nghệ, kỹ thuật của ta còn yếu, đây
là một khó khăn thách thức lớn đối với Việt nam.
Nh đã phân tích ở trên , việc xuất khẩu hàng thuỷ sản sang Mỹ của Việt
Nam đang gặp nhiều khó khăn không chỉ có khách quan đem lại mà cũng chính
chủ quan của ta gây trở ngại cho ta . Để tồn tại trong nền kinh tế thị trờng có sự
cạnh tranh gay gắt này, đặc là trên thị trờng Mỹ thì vấn đề chất lợng hàng hoá
dợc đặt lên hàng đầu. Hàng thuỷ sản của ta có thể không kém về chất lợng, nh-
ng do dây chuyền công nghệ của ta còn yếu kém. Tuy nhiên từ năm 1986, Việt
nam có 41 nhà máy chế biến thuỷ sẩn với công suất 280 tấn/ngày, năm 1996 số
nhà máy chế biến đã tăng lên đến196 chiếc với cong suât chế biến khoảng 1841
tấn/ngày. Số dây chuyền IQF hiện nay là 21, công suất cấp đông lạnh đạt 100
4
tấn/ngày, kho đông lạnh có sức chứa 25393 tấn, khả năng sản xuất nớc đã đạt
3946 tấn/ngày.
Bên cạch khó khăn chúng ta có nhng thuận lợi :đội ngũ công nhân dồi dào
về số lợng với bản chất cần cù chịu khó không ngại gian khó. Đội ngũ trong
ngành thuỷ sản đã góp phần tạo nên thành công trong hoạt sản xuất-xuất khẩu.
Đội ngũ nhân lực trong ngành không ngừng đợc nâng cao về trình độ kỹ thuật
chuyên môn. Tuy nhiên hiên tại, để đáp ứng việc khai thác chế biến thủy sản
phục vụ cho xuất khẩu chúng ta còn thiếu một lực lợng lao động có trình độ
chuyên môn cao.
Một khó khăn nữa là công nghệ chế biến thuỷ sản nhập từ nớc ngoài vừa
cũ vừa lạc hậu. Do đó không đảm bảo đợc chất lợng sản phẩm phục vụ cho việc
việc xuất khẩu. Việt nam đợc ví nh bãi thải công nghiệp, do đó ngành thuỷ sản
cũng không tránh khỏi sự lạc hậu, sự cũ kỹ về công nghệ. Nh vậy muốn có sản
phẩm chế biến từ thuỷ sản đủ tiêu chuẩn chất lợng cho xuât khẩu, chúng ta phải
có đợc công nghệ tiên tiến , vậy để có công nghệ tiên tiến thì phải có lợng vốn
lớn, khó khăn về vốn có thể là ngọn ngành của mọi vấn đề. Giải quyết về vốn là
bài toán khó đối với mọi quốc gia, đặc biệt là đối với nớc nghèo, nớc đang phát
triển nh Việt nam hiện nay. Vốn có thể đợc huy động từ hai nguồn: Thứ nhất,
huy động trong nớc , chủ yếu là trong dân và ngân sách nhà nớc, nhng trong đó
ngân sách lại có hạn và còn phải chi nhiều cho các lĩnh vực khác, cơ sở hạ tầng
khác. Nguồn vônd t rong dân tuy có đáng kể nhng chúng ta cha có chính sách
khuyến khích đầu t thích đáng để huy động. Nhìn chung trong hoạt động đầu t
nớc ngoài chúng ta còn nhiều hạn chế, thủ tục còn rờm rà, qua nhiều bớc không
cần thiết. Đó là vấn đề mà hiện nay Đảng và Nhà nớc cần xem xét giải quyết tốt
hơn . Khi mà chính sách đầu t của ta còn cứng nhắc, hủ tục thì kỳ vọng thu hút
vốn đầu t nớc ngoài là hạn chế. Nguồn vốn nớc ngoài chảy vào Việt nam phần
lớn dới các hình thức khác nhau.
5
Xuất từ thực tế khách quan thì thị trờng Mỹ quá rộng và lớn, hệ thống luật
của mỹ quá phức tạp. Trong khi đó các doanh nghiệp Việt nam mới tiếp cận thị
trờng này, sự hiểu biết về nó cũng nh kinh nghiệm tiếp cận cha nhiều. Thi trờng
Mỹ quá xa Việt nam nên chi phí vận chuyển và boả hiểm chuyên chở hàng hoá
rất lớn, điều này làm cho chi phí kimh doanh từ Việt nam sang Mỹ tăng lên.
Hơn nữa thời gian vận chuyển dài làm cho hàng tơi sống bị giảm về chất lợng,
tỷ lệ hao hụt tăng-đây cũng là nhân tố khách quan làm giảm tính cạch tranh của
hàng Việt nam xuât khẩu sang Mỹ so với hàng hoá từ các nơc Châu mỹ la tinh.
Tính cạch tranh trên thị trờng Mỹ rất cao, nhiều nớc trên thế giới có lợi thế tơng
tự nh Việt nam cũng đều coi thị trờng mỹ là thị trờng chiến lợc trong hoạt động
xuât khẩu htuỷ sản cũng nh những hàng hoá khác . Ta bớc vào thi trờng Mỹ
chậm hơn so với các đối thủ , khi mà thị trờng đã ổn định về: ngời mua, ngời
bán thói quen sở thích sản phẩm-đây cũng đợc coi là thách đố đối với hoạt động
xuất khẩu hàng hoá nói chung, hàng thuỷ sản nói riêng của Việt nam trên thị tr-
ờng Mỹ.
Nột vấn đề đặt ra là sản phẩm xuất khẩu của Việt nam vào thị trờng đa số
các là các sản phẩm khai thác từ thiên nhiên, đất đai, tài nguyên biển. Thuỷ sản
xuất khẩu chủ yếu đợc chế biến dới dạng mới qua sơ chế nên hiệu quả thấp, giá
cả còn bấp bênh, giá xuất khẩu không ổn định. Tính cạnh tranh sản phẩm xuất
khẩu của Việt nam còn thấp trên cả hai khía cạch giá cả và chất lợng so với sản
phẩm cùng loại có xuất xứ từ các quốc gia khác .
Nhìn lại nhân tố thuận lợi của Việt nam , ta thấy rằng đờng lối đúng đắn
của Đảng và chính phủ đã tạo ra một cơ hội thuận lợi cho mọi doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh xuất
khẩu ra thi trờng thế giới đặc biệt là thi trờng Mỹ mà đặc biệt là hàng thuỷ sản
Việt nam.Hiện nay chính phủ đang thông qua cơ chế điều hành xuất nhập
khẩu của Việt nam giai đoạn 2001-2005. Với cơ chế mới này mọi doanh nghiệp
đều có thể tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu, tiến tới xoá bỏ các rào cản
pháp lý, thủ tục gây trở ngại cho hoạt động xuất nhập khẩu. Khả năng tiếp cận
6
các thị trờng quốc tế trong đó có Mỹ của các doanh nghiệp Việt nam sẽ thuận
lợi hơn. Môi trờng dầu t của Việt nam: môi trờng pháp lý, môi trờng hành
chính, môi trờng tài chính ngân hàng, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực...ngày càng
hoàn thiện, tăng khả năng thu hút vốn đầu t nớc ngoài trong đó có các nhà đầu
t Mỹ vào Việt nam sản xuất hàng xuất khẩu thuỷ sản. Chính sách u đãi đầu t đối
với Việt kiều ngày càng thể hiện tính u việt: thu hút hàng ngàn kiều bào chuyển
vốn về nớc, tạo ra hàng trăm dự án sản xuất linh hoạt trong đó có nhiều dự án
sản xuất hàng xuất khẩu thuỷ sản nhằm tiêu thụ tại thị trờng Mỹ. Có khoảng 1,5
triệu ngời việt kiều sống tại Mỹ đa số họ đều có lòng yêu nớc,hớng về cội
nguồn, nếu có sự kết hợp tốt thì việt kiều ở Mỹ sẽ là cầu nối cho các doanh
nghiệp Việt Nam thâm nhập vào thị trờng Mỹ. Bản thân nội lực của các doanh
nghiệp nói chung và các doanh nghiệp thuộc ngàng thuỷ sản nói riêng của Việt
Nam đã đợc nâng lên đáng kể sau 10 năm thực hiện chính sách mở cửa hội
nhập: trình độ tay nghề công nhân, trang thiết bị, máy móc đã đợc nâng lên
đáng kể, nhiều sản phẩm có chất lợng cao đã đáp ứng đợc yêu cầu thị trờng
trong đó có thị trờng Mỹ.
Nh đã phân tích ở trên thì Việt nam có lợi thế rất lớn về sông, hồ, biển. Hệ
thống sông ngòi đợc phân bố trên cả nớc, bờ biển kéo dài từ bắc vào nam.
Những tiềm năng lớn thế này nếu đợc khai thác triệt để thì khả năng xuất khẩu
thuỷ sản sang Mỹ sẽ đợc gia tăng.
2.2.ảnh hởng của hiệp định thơng mại Việt nam Hoa kỳ
Sự tăng trởng của xuất khẩu thuỷ sản sang thị trờng Mỹ gắn liền với sự tiến
bộ trong quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt nam Hoa kỳ,đặc biệt sau khi hiệp
định thơng mại Việt-Mỹ đợc ký vào ngày 13/7/2000. Sự kiện này mở ra những
cơ hội kinh doanh mới nhất là sau khi hiệp định đợc thông qua bởi hai nhà nớc
Việt nam Hoa kỳ. Đối với Việt Nam và các nớc xuất khẩu thuỷ sản khác, thì
thị trờng Mỹ là thị trờng nhập khẩu thuỷ sản lớn thứ hai trên thế giới và cũng là
thị trờng tiêu thụ đa dạng về mặt hàng, giá trị và chất lợng. Ngay sau khi hiệp
7
định song phơng có hiệu lực, quy chế MFN trong thơng mại hàng hoá đã tạo
điều kiện thuận lợi cho hàng thuỷ sản Việt nam vao thị trờng đầy hấp dẫn này
với sự u đãi về mức thuế nhập khẩu MFN, chẳng hạn đối với thịt cua thuế suất
MFN là 7,5% thì MFN là 15%; ốc: thuế suất tơng ứng là 5% và 20%; cá philê t-
ơi và đông:0%và 0-5,5% cent/kg; cá khô 4-7% và25-30%. Hiệp định thơng mại
việt mỹ khuyến khích việc tổ chức xúc tiến hoạt động thơng mại giữa hai nớc
nh: hội chợ, triển lãm, trao đổi thơng mại tại lãnh thổ hai nớc, cho phép các
công dân,công ty hai nớc quảng cáo sản phẩm ,dịch vụ bằng cách thoả thuận
trực tiếp với các tổ chức thông tin quản cáo bao gồm: truyền hình, phát thanh ,
đơn vị kinh doanh in ấn và bảng hiệu. Mỗi bên cũng cho liên hệ và cho bán trực
tiếp hàng hoá dịch vụ giũa công dân, công ty của bên kia tới ngời sử dụng cuối
cùng. Đây là cơ hội cho cả doanh nghiệp Việt nam và Mỹ có điều kiện tìm hiểu
sâu về thị trờng của nhau để mở rộng buôn bán giữa hai nớc.
Hiệp định thơng mại Việt Mỹ khẳng định cơ chế chính sách mới của
Việt nam, đánh dấu bớc ngoặc trong quan hệ việt nam hoa kỳ. Việc chúng ta
thực hiện các điều khoản của hiệp định là điều kiện ban đầu cho việc gia nhập
WTO sau này.Kể từ khi ký kết đến khi có hiệu lực hiệp định trải một thời gian
thử thách hơn một năm. Nó đợc quốc hội hai nớc phê chuẩn rất kỹ trớc khi
thông qua, có thể nói đó là nỗ lực rất của Đảng và chính phủ ta, cũng nh thợng
hạ viện Hoa kỳ.
Tuy nhiên bên cạch những cơ hội mà hiệp định thơng mại Việt nam Hoa
kỳ mở ra, nó còn đặt ra cho chúng ta những khó khăn, thách thức đồi hỏi sự nỗ
lực của toàn Đảng , toàn dân ta trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nớc, nhất
là trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Thứ nhất việc đợc hởn quy chế MFN cha
phải là điểm quyết định để tăng khả năng cạnh tranh đối với hàng thuỷ sản Việt
nam, vì Mỹ đã áp dụng quy chế MFN với 136 nớc thành viên WTO, ngoài ra
còn có u đãi dặc biệt đối với các nớc chậm phát triển, nhng Việt Nam cha đợc
hởng chế độ này. Mức thuế trung bình là 5%, nhng nếu đợc hởng u đãi thì mức
thuế này tiến tới 0%. Hiện nay có hơn 100 nớc xuất khẩu đủ các mặt hàng thuỷ
8
sản vào Mỹ, trong đó có nhiều nớc có truyền thống lâu đời trong buôn bán thuỷ
sản với Mỹ nh Thái Lan(tôm sú đông, đồ hộp thuỷ sản..),Trung quốc(tôm đông
cá rô phi..),Canađa(tôm hùm, cua...),Inđônêsia(cua ,cá ngừ, cá rô
phi..),Philippin(hộp cá ngừ,cá ngừ tơi đông,tôm đông và rong biển...)..nên sự
cạnh trên thị trờng sẽ ngày càng quyết liệt đặc biệt đối với một số mặt hàng chủ
lực nh tôm, cá philê, cá ngừ. Trong hơn 100 mặt hàng thuỷ sản thực phẩm nhập
khẩu, Mỹ có nhu cấu cao về các mặt hàng đã qua tinh chế( tôm luộc, tôm bao
bột, tôm hùm, cá phi lê, hộp thuỷ sản) trong khi đó hàng xuất khẩu của Việt
nam chủ yếu là sơ chế, tỷ lệ sản phẩm giá trị gia tăng thấp (chỉ chiếm khoảng
30% giá trị xuât khẩu của Việt nam). Cụ thể với mặt hàng cá ngừ, hiện nay Việt
nam mới chỉ xuất khẩu phần lớn cá ngừ tơi hoặc đông vào Mỹ(90% gia trị xuất
khẩu cá ngừ) trong khi cá ngừ đóng hộp là mặt đợc tiêu thụ nhiều ở Mỹ thì giá
trị xuất khẩu của Việt nam không đáng kể(5%). Mỹ coi trọng cả nhập khẩu
thuỷ sản phi thực phẩm bao gồm các sản phẩm hoá học gốc thuỷ sản, ngọc trai,
cá cảnh...(giá trị nhập khẩu năm 2000 đạt 9 tỷ USD, chỉ kém hàng thuỷ sản thực
phẩm 1 tỷ USD) nhng ta chỉ mới trú trọng đến xuất khẩu thuỷ sản thực phẩm.
Vì vậy có thể nói cha có sự phù hợp cao trong việc xuất khẩu hàng thuỷ sản việt
nam với yêu cầu nhập khẩu của thị trờng Mỹ. Thị trờng Mỹ là một thị trờng
khó tính của thế giới. Hàng thuỷ nhập khẩu vàoMỹ phải qua sự kiểm tra chặt
chẽ của cục quản lý thực phẩm và dợc phẩm Hoa kỳ(FDA) theo các tiêu chuẩn
HACCP.vấn đề vệ sinh thực phẩm, ô nhiễm môi trờng, bảo vệ sinh thái..là
những lý do mà Mỹ thờng đa ra để hạn chế nhập khẩu. Mặc dù cơ quan FDA
của Mỹ đã công nhận hệ thống HACCP của VIệt nam, nhng chất lợng sản phẩm
thuỷ sản xuất khẩu của việt nam còn hạn chế do trình độ công nghệ chế biến và
bảo quản còn thấp, chủ yếu là công nghệ đông lạnh. Một khó khăn trong lĩnh
vực tiếp thị là mặc dù đã có trên 50 doanh nghiệp Việt nam đang xuất khẩu thuỷ
sản sang Mỹ nhng hầu nh cha có doanh nghiệp nào mở đợc văn phòng dại diện
tại nớc Mỹ. Do vậy các doanh nghiệp Việt nam ít có cơ hội giao thơng với
những nhà phân phối Mỹ, nhất là tìm hiểu các luật chơi của thị trờng này. Hệ
thống luật của Mỹ khá phức tạp, chặt chẽ và mới lạ đối với các doanh nghiệp
9