Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Một số vấn đề pháp lý về công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (799.2 KB, 56 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ MINH KHUÊ
LQT 12-01

MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ CÔNG NHẬN
VÀ CHO THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH CỦA
TRỌNG TÀI NƢỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

Ngành Luật Quốc tế
Mã số: 52380108

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Hà Nội, 5/2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ MINH KHUÊ
LQT 12-01

MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH
QUYẾT ĐỊNH CỦA TRỌNG TÀI NƢỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

Ngành Luật Quốc tế
Mã số: 52380108


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Ngƣời hƣớng dẫn: CVCC. HOA HỮU LONG

Hà Nội, 5/2016


LỜI CAM ĐOAN

Em xin cam đoan khóa luận là công trình nghiên cứu của riêng
em. Các kết quả nêu trong khóa luận chưa được công bố trong bắt
kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong khóa
luận đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Vậy em viết Lời
cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để em có thể bảo vệ khóa
luận.
Em xin chân thành cảm ơn!

GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN

NGƢỜI CAM ĐOAN

CVCC. Hoa Hữu Long

Nguyễn Thị Minh Khuê


LỜI CẢM ƠN

Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới thầy giáo – CVCC. Hoa Hữu
Long, người đã tận tình hướng dẫn em trong suốt thời gian thực hiện khóa

luận. Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo, cán bộ Viện Đại học
Mở Hà Nội đã tạo điều kiện cho em trong suốt quá trình học tập và nghiên
cứu. Xin bày tỏ lòng biết ơn đối với gia đình, người thân và bạn bè đã động
viên, khích lệ để giúp em có thể hoàn thành tốt Khóa luận tốt nghiệp này.
Hà Nội, ngày 26 tháng 05 năm 2016
Sinh viên

Nguyễn Thị Minh Khuê


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU .........................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài.....................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu ..........................................................................................2
3. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................2
4. Phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................................2
5. Kết cấu của khóa luận ........................................................................................2
PHẦN NỘI DUNG ....................................................................................................3
CHƢƠNG 1................................................................................................................3
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH
QUYẾT ĐỊNH CỦA TRỌNG TÀI NƢỚC NGOÀI. .............................................3
1.1. Khát quát về công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc
ngoài ...........................................................................................................................3
1.1.1.
ngoài


Khái niệm về công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước
....................................................................................................................3

1.1.2. Đặc điểm của việc công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài
nước ngoài...............................................................................................................6
1.2. Ý nghĩa của việc công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài
nƣớc ngoài ..................................................................................................................8
1.2.1.

Về chính trị ................................................................................................8

1.2.2.

Về kinh tế ...................................................................................................8

1.2.3.

Về pháp luật ...............................................................................................9

1.3. Pháp luật quốc tế và pháp luật nƣớc ngoài về công nhận và cho thi hành
quyết định của trọng tài nƣớc ngoài ........................................................................9
1.3.1. Công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài theo
các điều ước quốc tế................................................................................................9
1.3.2. Công nhận và cho thi hành các quyết định của trọng tài nước ngoài tại
một số nước trên thế giới ......................................................................................11
Tiểu kết chƣơng 1: ....................................................................................................12
CHƢƠNG 2 ..............................................................................................................14



CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH
CỦA TRỌNG TÀI NƢỚC NGOÀI THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT
NAM HIỆN HÀNH ..................................................................................................14
2.1. Lƣợc sử hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về công nhận và cho
thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài ............................................................14
2.1.1. Giai đoạn trước khi có Bộ luật Tố tụng Dân sự ..........................................14
2.1.2. Giai đoạn sau khi có Bộ luật Tố tụng Dân sự .............................................16
2.2. Thực trạng pháp luật về công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài
nƣớc ngoài tại Việt Nam ...........................................................................................17
2.2.1. Khái niệm quyết định của trọng tài nước ngoài ..........................................17
2.2.2. Các nguyên tắc cơ bản về công nhận và cho thi hành quyết định của trọng
tài nước ngoài. .......................................................................................................19
2.2.3. Thẩm quyền của tòa án Việt Nam ................................................................21
2.2.4. Quyền yêu cầu công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước
ngoài ......................................................................................................................22
2.2.5. Quyết định của trọng tài nước ngoài được xem xét công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam và những trường hợp không công nhận và cho thi hành quyết
định của trọng tài nước ngoài ...............................................................................23
2.2.5.1. Quyết định của trọng tài nước ngoài được xem xét công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam ...............................................................................................23
2.2.5.2. Những trường hợp không công nhận và cho thi hành quyết định của
trọng tài nước ngoài tại Việt Nam ......................................................................24
2.2.6. Đơn yêu cầu và giấy tờ, tài liệu gửi kèm theo đơn yêu cầu .........................30
2.2.7. Lệ phí công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài .....31
2.2.8. Thụ lý hồ sơ và xét đơn yêu cầu...................................................................32
2.2.9. Kháng cáo, kháng nghị và xét kháng cáo, kháng nghị ................................33
2.2.10. Hiệu lực của quyết định trọng tài nước ngoài được công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam ..................................................................................................33
2.2.11. Một số vấn đề khác ....................................................................................33
Tiểu kết chƣơng 2......................................................................................................34

CHƢƠNG 3 ..............................................................................................................35
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH QUYẾT
ĐỊNH CỦA TRỌNG TÀI NƢỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM ..................................35


3.1. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật về công nhận và cho thi hành quyết định của
trọng tài nƣớc ngoài ..................................................................................................35
3.2. Những yêu cầu đặt ra khi hoàn thiện pháp luật về công nhận và cho thi hành
quyết định của trọng tài nƣớc ngoài ..........................................................................36
3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về công nhận và cho thi hành
quyết định của trọng tài nƣớc ngoài tại Việt Nam ....................................................38
3.3.1. Đối với các quy định của pháp luật trong nước ..........................................38
3.3.2. Đối với các quy định trong các điều ước quốc tế ........................................42
Tiểu kết chƣơng 3: ....................................................................................................44
KẾT LUẬN ...............................................................................................................45
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, trong quá trình hội nhập quốc tế, không một quốc gia nào là có thể
tồn tại và phát triển một cách biệt lập mà không có quan hệ giao lƣu, hợp tác với
các quốc gia khác. Cùng với quá trình mở rộng quan hệ thƣơng mại quốc tế đã làm
phát sinh ngày càng nhiều các tranh chấp có yếu tố nƣớc ngoài. Trên thế giới, có hai
phƣơng thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động thƣơng mại phổ biến nhất
là tòa án và trọng tài. Kinh tế Việt Nam đang từng bƣớc chuyển đổi sang nền kinh
tế thị trƣờng; các quan hệ thƣơng mại ngày càng đa dạng, phức tap; các doanh
nghiệp ngày càng sử dụng nhiều hơn phƣơng thức trọng tài trong việc giải quyết các
tranh chấp phát sinh từ hoạt động thƣơng mại trong nƣớc và quốc tế. Tại Việt Nam,
trọng tài đã đƣợc thừa nhận là phƣơng thức giải quyết tranh chấp thƣơng mại hiệu

quả và đƣợc khuyến khích sử dụng trong Luật Thƣơng mại, Luật Đầu tƣ, Luật
Doanh nghiệp, v.v… Và thực tiễn cho thấy, trong nhiều trƣờng hợp, giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài có những ƣu việt hơn hẳn so với việc giải quyết bằng con
đƣờng tòa án. Nhiều tranh chấp phát sinh giữa thƣơng nhân Việt Nam và nƣớc
ngoài đã đƣợc trọng tài nƣớc ngoài giải quyết đặt ra vấn đề công nhận và cho thi
hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài tại Việt Nam.
Đối với Việt Nam, yêu cầu về công nhận và cho thi hành quyết định của trọng
tài nƣớc ngoài tuy chƣa nhiều nhƣng đặt trong bối cảnh hội nhập quốc tế thì việc
công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài lại trở thành một vấn
đề hết sức quan trọng và cần phải bắt kịp với sự phát triển của nhiều nƣớc trên thế
giới. Tuy nhiên, khung pháp lý về công nhận và cho thi hành quyết định của trọng
tài nƣớc ngoài của Việt Nam còn nhiều hạn chế. Trong khi đó, để tạo ra một môi
trƣờng hợp tác bình đẳng và đảm bảo lợi ích chính đáng của các bên trong quan hệ
quốc tế thì phải xây dựng đƣợc một hệ thống pháp luật thông thoáng và minh bạch.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá đồng thời tìm ra các giải pháp hoàn
hiện những vấn đề pháp lý về “Công nhận và cho thi hành quyết định của trọng
tài nước ngoài tại Việt Nam” cả về mặt lý luận và thực tiễn là một yêu cầu thực sự
cấp thiết nhằm đẩy mạnh tiến trình hội nhập của Việt Nam hiện nay.

1


2. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích làm sáng tỏ hơn các quy định của
pháp luật về vấn đề công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài
tại Việt Nam, đồng thời tìm hiểu về thực trạng vấn đề này, qua đó đề ra những giải
pháp nhằm hoàn hiện các quy định của pháp luật nƣớc ta hiện nay trong lĩnh vực
công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài.
3. Phạm vi nghiên cứu
Vấn đề công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài có rất

nhiều nội dung cần làm rõ. Trong phạm vi của khóa luận này, ngƣời viết chỉ nghiên
cứu xoay quanh vấn đề “Công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc
ngoài tại Việt Nam” trong khuôn khổ những quy định của pháp luật Việt Nam và
các điều ƣớc quốc tế liên quan để hoàn thành đề tài.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Kết hợp sử dụng phƣơng pháp luận theo chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử để tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam.
Trên cơ sở đó, sử dụng thêm phƣơng pháp so sánh để xem xét, đối chiếu với các
quy định của pháp luật quốc gia khác nhằm tìm ra tiêu chí phổ biến trên thế giới về
công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài; sử dụng phƣơng
pháp hệ thống, phân tích và tổng hợp để đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam.
Tất cả đều nhằm mục đích làm sáng tỏ cơ sở lý luận của vấn đề công nhận và cho
thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nƣớc ngoài, từ đó góp phần nâng cao
hiệu quả của hoạt động này trên thực tế.
5. Kết cấu của khóa luận
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Mục lục, Danh mục tài liệu tham khảo, Nội
dung chính của khóa luận gồm 3 chƣơng:
- Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về công nhận và cho thi hành quyết định
của trọng tài nƣớc ngoài.
- Chƣơng 2: Công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài
theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.
- Chƣơng 3: Hoàn thiện pháp luật về công nhận và cho thi hành quyết định của
trọng tài nƣớc ngoài tại Việt Nam.

2


PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH

QUYẾT ĐỊNH CỦA TRỌNG TÀI NƢỚC NGOÀI.
1.1. Khát quát về công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc
ngoài
1.1.1. Khái niệm về công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước
ngoài
Theo quy định của pháp luật hiện hành, quyết định của trọng tài đƣợc chia ra
làm hai loại: quyết định của trọng tài trong nƣớc và quyết định của trọng tài nƣớc
ngoài. Khái niệm quyết định của trọng tài trong nƣớc do pháp luật của từng quốc
gia quy định, và khái niệm này đơn giản hơn nhiều so với khái niệm quyết định của
trọng tài nƣớc ngoài.
Trong các điều ƣớc quốc tế về trọng tài (kể cả Công ƣớc New York năm 1958
về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài) đều không có định
nghĩa cụ thể về khái niệm quyết định của trọng tài nƣớc ngoài. Tuy nhiên, Khoản 1
Điều 1 Công ƣớc New York có quy định: “Công ước này áp dụng đối với việc công
nhận và thi hành các quyết định trọng tài được ban hành tại lãnh thổ của một quốc
gia khác với quốc gia nơi có yêu cầu công nhận và thi hành quyết định của trọng tài
đó, xuất phát từ các tranh chấp giữa các thể nhân hay pháp nhân. Công ước còn
được áp dụng cho những quyết định trọng tài không được coi là quyết định trong
nước tại quốc gia nơi việc công nhận và thi hành chúng được yêu cầu”.
Từ đó, khái niệm quyết định của trọng tài nƣớc ngoài hay phán quyết của
trọng tài nƣớc ngoài có thể đƣợc nhìn nhận qua những yếu tố sau đây:
Lãnh thổ là một yếu tố quan trọng để xác định khái niệm quyết định của trọng
tài. Theo đó, quyết định của trọng tài nƣớc ngoài đƣợc hiểu là quyết định của trọng
tài đƣợc đƣa ra trên lãnh thổ quốc gia không phải quốc gia nơi quyết định cần đƣợc
công nhận và thi hành mà không phân biệt quốc tịch của trọng tài đƣa ra quyết định
đó. Nhƣ vậy, quyết định của trọng tài nƣớc ngoài theo Công ƣớc New York có thể
đƣợc đƣa ra bởi trọng tài nƣớc ngoài ở nƣớc ngoài hay bởi trọng tài của nƣớc sở tại
ở nƣớc ngoài.
Một yếu tố quan trọng khác là yếu tố chủ thể với tƣ cách là các bên tham gia
tranh chấp. Chỉ các tranh chấp giữa các thể nhân hay pháp nhân mới là các tranh

chấp thuộc đối tƣợng của Công ƣớc. Những tranh chấp giữa các bên mà trong đó
một bên không phải là thể nhân hoặc pháp nhân sẽ không phải là tranh chấp thuộc
3


diện xem xét của Công ƣớc. Công ƣớc đã không giải quyết vấn đề công nhận và thi
hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài về tranh chấp giữa một bên là quốc gia
(chủ thể đặc biệt có quyền miễn trừ tƣ pháp) với một bên là thể nhân hoặc pháp
nhân. Điều đó có nghĩa là nếu phát sinh vụ việc nhƣ trên thì các quốc gia sẽ giải
quyết vấn đề công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài trong
các điều ƣớc quốc tế khác hoặc nguồn luật quốc nội của quốc gia. Vấn đề về tƣ cách
chủ thể là thể nhân không gặp những khó khăn nan giải, song vấn đề về tƣ cách chủ
thể là pháp nhân không phải là việc đơn giản. Công ƣớc không quy định rõ những
thực thể nào đƣợc coi là pháp nhân. Do vậy, việc xác định vấn đề ai đƣợc xem là có
tƣ cách pháp nhân phụ thuộc vào pháp luật của quốc gia ký kết.
Về yếu tố pháp luật, quyết định của trọng tài cũng đƣợc xem là quyết định của
trọng tài nƣớc ngoài khi quyết định đó đƣợc đƣa ra tại nơi nó cần đƣợc công nhận
và thi hành (cụ thể là trƣờng hợp trọng tài đƣa ra quyết định đó không đƣợc xem là
trọng tài ở quốc gia nơi có trọng tài ấy). Ví dụ, quyết định của trọng tài khu vực Á –
Phi ở Kua-la-lăm-pơ, Ma-lai-si-a đƣợc coi là quyết định của trọng tài nƣớc ngoài tại
Ma-lai-si-a khi quyết định ấy cần đƣợc công nhận và thi hành ở đó, bởi vì trọng tài
này không phải là trọng tài của Ma-lai-si-a.
Một yếu tố nữa để xác định quyết định của trọng tài nƣớc ngoài đó là lĩnh vực
phát sinh tranh chấp. Theo khoản 3 Điều 1 của Công ƣớc, quốc gia ký kết có thể
tuyên bố chỉ áp dụng Công ƣớc cho các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp
luật trong hợp đồng hay ngoài hợp đồng, đƣợc pháp luật nƣớc họ coi là quan hệ
pháp luật thƣơng mại.
Nhƣ vậy theo Công ƣớc này, việc xác định khái niệm quyết định của trọng tài
nƣớc ngoài bao gồm các yếu tố nhƣ lãnh thổ ra quyết định hoặc cơ sở pháp luật
hình thành trọng tài, tƣ cách chủ thể của các bên tranh chấp và lĩnh vực tranh chấp.

Ngoài ra, khoản 2 Điều 1 Công ƣớc cũng quy định: thuật ngữ “các phán quyết
trọng tài” không chỉ bao gồm những quyết định đƣợc đƣa ra bởi các trọng tài viên
đƣợc chỉ định cho từng vụ việc mà còn bao gồm những quyết định đƣợc đƣa ra bởi
các Hội đồng trọng tài thƣờng trực mà các bên phải phục tùng công bố. Nhƣ vậy,
quyết định của trọng tài ở đây không chỉ là quyết định của trọng tài vụ việc (trọng
tài ad hoc) mà còn bao gồm cả quyết định của trọng tài thƣờng trực (trọng tài thiết
chế). Mặt khác, quyết định trọng tài cũng bao gồm: quyết định từng phần và quyết
định cuối cùng. Trong Luật mẫu cũng cho thấy rằng, ngoài quyết định cuối cùng,
trọng tài còn đƣa ra quyết định khác trong quá trình giải quyết tranh chấp nhƣ:
quyết định về ngày tổ chức phiên họp xét xử; quyết định đình chỉ vụ kiện; quyết

4


định yêu cầu tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời; quyết định về toàn bộ
vụ kiện hoặc quyết định về một phần của vụ kiện…
Từ sự phân tích ở trên có thể thấy rằng, quyết định của trọng tài nƣớc ngoài đã
đƣợc Công ƣớc New York quy định khá rõ ràng và rất linh động. Khái niệm này đã
đƣợc đa số các nƣớc thành viên tham gia Công ƣớc nội luật hóa trong pháp luật của
mình, dẫn đến việc xác định khái niệm “quyết định của trọng tài nƣớc ngoài” ở
pháp luật mỗi quốc gia khác nhau lại có sự khác nhau nhất định.
Nhƣ vậy, có thể khái quát rằng: quyết định của trọng tài nƣớc ngoài là quyết
định đƣợc tuyên ở ngoài lãnh thổ của một quốc gia hoặc tại lãnh thổ quốc gia của
trọng tài nƣớc ngoài do các bên thỏa thuận lựa chọn.
Còn đối với khái niệm công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài
nƣớc ngoài cũng có một số vấn đề cần lƣu ý sau đây:
Hai thuật ngữ “công nhận” và “cho thi hành” quyết định của trọng tài có thể
đƣợc hiểu theo nghĩa tổng thể nhƣng cũng có thể đƣợc hiểu theo nghĩa riêng biệt.
Theo từ điển tiếng Việt thì “công nhận” là sự thừa nhận trƣớc mọi ngƣời một điều
gì đó là phù hợp với sự thật, với lẽ phải hoặc với thể lệ, luật pháp. Còn “thi hành”

hay “cho thi hành” là việc làm cho điều đã đƣợc chính thức quyết định trở thành có
hiệu lực. Theo định nghĩa trong từ điển Luật học thì “công nhận và cho thi hành
quyết định của trọng tài nƣớc ngoài” là thừa nhận giá trị pháp lý và áp dụng các
biện pháp để thực hiện quyết định của trọng tài nƣớc ngoài. Mục đích của hoạt động
công nhận là ngăn ngừa trƣờng hợp một bên tranh chấp tiếp tục khởi kiện về chính
vụ việc đã đƣợc trọng tài nƣớc ngoài giải quyết. Trong khi đó, việc thi hành lại
đóng vai trò nhƣ một công cụ hữu hiệu để buộc bên thua kiện phải thực hiện những
hành vi bất lợi cho mình mà bên đó đã không tự nguyện thi hành. Việc cƣỡng chế
bên phải thực thi quyết định của Trọng tài có thể bằng nhiều cách khác nhau nhƣ
tịch thu tài sản, phong tỏa tài khoản ngân hàng, v.v…
Nhƣ vậy, Công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài là
hành vi của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của một quốc gia thừa nhận giá trị
hiệu lực pháp lý của một quyết định trọng tài nước ngoài và làm cho quyết định đó
có hiệu lực cưỡng chế thi hành trên thực tế trên lãnh thổ quốc gia đó.
“Công nhận” và “cho thi hành” là thƣờng đƣợc sử dụng chung, đi liền với
nhau. Bởi lẽ khi đề cập đến một quyết định của trọng tài nƣớc ngoài thì quyết định
đó không thể đƣợc thi hành nếu nó không đƣợc công nhận trƣớc đó. Việc thi hành
quyết định của trọng tài không chỉ là việc công nhận hiệu lực của quyết định trọng
tài mà còn bao gồm cả việc đƣa quyết định đó vào cuộc sống, đảm bảo thực thi
quyết định trên, kể cả trƣờng hợp phải áp dụng biện pháp cƣỡng chế. Hay nói cách
5


khác, thi hành là một biện pháp cao về mức độ so với công nhận. Do vậy, nếu tòa án
có thẩm quyền đã ra quyết định thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài đồng
nghĩa với việc tòa án đó đã công nhận hiệu lực của quyết định này. Tuy nhiên, việc
tòa án chỉ ra quyết định công nhận thì không có nghĩa bao gồm cả quyết định cho
thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài đó.
Mặc dù hai thuật ngữ trên có sự gắn bó phụ thuộc lẫn nhau chặt chẽ nhƣng
chúng cũng có thể sử dụng riêng rẽ, không đi liền với nhau. Một quyết định của

trọng tài nƣớc ngoài có thể chỉ cần công nhận mà không cần cho thi hành. Đó là khi
bên thắng kiện trong tố tụng trọng tài yêu cầu tòa án công nhận quyết định trọng tài.
Việc công nhận này sẽ là bằng chứng chứng minh rằng tranh chấp đó đã đƣợc giải
quyết bởi trọng tài, tránh tình trạng nó lại đƣợc xem xét lại bằng trọng tài hoặc một
phƣơng thức giải quyết tranh chấp khác, ngăn chặn bên thua kiện có thể đƣa ra bất
kỳ khiếu kiện nào về cùng một vụ tranh chấp. Nhƣ vậy, mục đích của việc công
nhận là một quá trình tự vệ nhằm tạo cơ sở để ngăn bên thua kiện tiếp tục khởi kiện
vụ việc đã đƣợc giải quyết. Trong trƣờng hợp này, tòa án sẽ chỉ công nhận quyết
định trọng tài nƣớc ngoài mà không đƣa ra bất kỳ biện pháp cƣỡng chế nào đối với
bên thua kiện và do đó, công nhận quyết định của trọng tài nƣớc ngoài chỉ đơn
thuần là sự thừa nhận giá trị pháp lý của quyết định trọng tài đó.
Bên cạnh việc hiểu khái niệm công nhận và cho thi hành quyết định của trọng
tài nƣớc ngoài với tính chất là hành vi của cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền nhƣ đã
phân tích ở trên thì trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia, khái niệm này cũng
có thể hiểu với tính chất là một chế định trong hệ thống quy phạm pháp luật, đó là
tổng thể các quy định của pháp luật tố tụng dân sự theo nghĩa rộng liên quan tới
việc công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài.
1.1.2. Đặc điểm của việc công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài
nước ngoài
Công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài là một vấn đề
mang những nét đặc thù riêng. Điều này thể hiện ở những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, sự công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài
chỉ đƣợc đặt ra sau khi quyết định đó có hiệu lực. Một quyết định trọng tài chỉ có
thể đƣợc công nhận và thi hành khi nó có hiệu lực pháp luật theo pháp luật quốc gia
nơi trọng tài ra phán quyết hoặc pháp luật quốc gia mà các bên lựa chọn. Quyết định
của trọng tài không có hiệu lực trong các trƣờng hợp: quyết định còn đang trong
thời gian chƣa có hiệu lực hoặc nó đã hết hiệu lực pháp luật hoặc đã bị hủy bỏ.

6



Thứ hai, công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài không
chỉ đƣợc đặt ra khi bên phải thi hành không tự nguyện thi hành mà còn trong cả
những trƣờng hợp đƣơng sự có yêu cầu không công nhận và cho thi hành quyết
định của trọng tài nƣớc ngoài thì tòa án vẫn can thiệp để xem xét quyết định công
nhận và cho thi hành hay không công nhận và không cho thi hành. Nhƣ vậy, dù
đƣơng sự là ngƣời đƣợc thi hành hay ngƣời phải thi hành quyết định của trọng tài
thì họ vẫn nhận đƣợc sự trợ giúp của tòa án để yêu cầu xem xét việc công nhận và
cho thi hành hay không công nhận và không cho thi hành quyết định đó.
Thứ ba, việc công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài áp
dụng pháp luật tố tụng của quốc gia nơi quyết định của trọng tài cần đƣợc công
nhận và thi hành. Quy định nêu trên thể hiện đặc điểm áp dụng pháp luật tố tụng
của quốc gia nơi quyết định trọng tài cần đƣợc công nhận và thi hành phải dựa trên
nguyên tắc bình đẳng, không có sự phân biệt đối xử giữa các quốc gia. Nói các
khác, nguyên tắc áp dụng pháp luật khi yêu cầu công nhận và cho thi hành quyết
định của trọng tài nƣớc ngoài là nguyên tắc luật quốc gia tòa án. Nguyên tắc này
đƣợc áp dụng không chỉ trong các điều ƣớc quốc tế mà còn áp dụng trong pháp luật
quốc gia về công nhận và thi hành các quyết định của trọng tài nƣớc ngoài.
Thứ tƣ, quyết định của trọng tài nƣớc ngoài với tƣ cách là một văn bản viết,
nếu đƣợc công nhận và cho thi hành tại một quốc gia nào đó thì nó đƣợc coi là một
nguồn chứng cứ, chứng minh. Bởi một quyết định trọng tài đã đƣợc công nhận và
cho thi hành có để đƣợc sử dụng để làm chứng cứ trong một vụ kiện về phá sản hay
thực hiện các biện pháp kê biên tài sản, làm căn cứ thực tế cho vụ kiện đòi thực hiện
nghĩa vụ bảo hiểm đối với tài sản bị đòi lại, v.v…
Thứ năm, đối với yêu cầu công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài
nƣớc ngoài, bên cạnh các thủ tục theo quy định thì điều kiện quan trọng để công
nhận và cho thi hành là phải có thỏa thuận trọng tài thể hiện ý chí của các bên.
Trong khi đó, điều kiện xem xét công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân
sự của tòa án nƣớc ngoài không đòi hỏi có sự thống nhất ý chí của các bên về thỏa
thuận giải quyết tranh chấp tại tòa án. Do đó, một trong những điều kiện để công

nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài tại một quốc gia đó là phải
xác định giá trị pháp lý của thỏa thuận trọng tài.

7


1.2.

Ý nghĩa của việc công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài

nƣớc ngoài
1.2.1. Về chính trị
Thứ nhất, công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài là sự
khẳng định chủ quyền, quyền tài phán độc lập và vị trí quốc gia trong đời sống quốc
tế. Xuất phát từ nguyên tắc chủ quyền quốc gia trong luật quốc tế, quyết định của
trọng tài một nƣớc chỉ có hiệu lực trong phạm vi lãnh thổ nƣớc đó. Tuy nhiên quan
hệ quốc tế đặt ra vấn đề cơ quan tƣ pháp phải công nhận và thi hành quyết định của
trọng tài quốc gia này tại lãnh thổ quốc gia khác. Ngƣợc lại, không một quốc gia
nào có thể ép buộc một quốc gia khác phải công nhận và cho thi hành quyết định
của trọng tài nƣớc mình hay ép buộc tham gia ký kết các điều ƣớc quốc tế về công
nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài.
Thứ hai, việc công nhận và cho thi hành quyết định của trong tài nƣớc ngoài
sẽ góp phần thúc đẩy quan hệ hữu nghị hợp tác giữa các quốc gia dân tộc. Nó không
thuần túy thể hiện sự hợp tác trong lĩnh vực tƣ pháp mà còn thể hiện sự tôn trọng
của cơ quan tài phán này với cơ quan tài phán của nƣớc khác.
Thứ ba, việc này giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp không chỉ của các cá
nhân, pháp nhân của quốc gia nơi công nhận và cho thi hành quyết định của trọng
tài nƣớc ngoài mà còn của các tổ chức, cá nhân nƣớc ngoài. Nếu một quốc gia nào
đó từ chối trong mọi trƣờng hợp việc công nhận và cho thi hành quyết định của
trọng tài nƣớc ngoài thì quyền và lợi ích của cá nhân hay pháp nhân quốc gia đó có

thể không đƣợc bảo vệ khi họ là bên đƣợc thi hành ở các quốc gia khác quyết định
của Trọng tài nƣớc mình vì các nƣớc thƣờng áp dụng nguyên tắc có đi có lại. Từ đó
sẽ gián tiếp ảnh hƣởng tới quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia trên.
1.2.2. Về kinh tế
Công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài sẽ thúc đẩy các
quan hệ kinh tế trong và ngoài nƣớc phát triển. Bởi trong quá trình hợp tác kinh tế,
việc phát sinh các tranh chấp là điều rất dễ xảy ra. Việc pháp luật có những quy
định đầy đủ liên quan đến việc giải quyết các tranh chấp sẽ làm giảm đi tâm lý lo
ngại, hạn chế đầu tƣ, kinh doanh của các thƣơng nhân nƣớc ngoài với các thƣơng
nhân của các quốc gia đó, đồng thời có nhiều cơ hội lựa chọn các phƣơng thức giải
quyết các tranh chấp và sẽ yên tâm hơn khi phát triển quan hệ kinh doanh với đối
tác.
Việc này cũng giúp giảm thiểu chi phí tố tụng và các thủ tục liên quan. Công
nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài là giai đoạn cuối cùng của
8


quá trình giải quyết tranh chấp. nếu giai đoạn này không đƣợc thực hiện hoặc thực
hiện không phù hợp thì sẽ làm cho việc xét xử tranh chấp trƣớc đó trở nên vô nghĩa.
Việc tòa án tiến hành xét xử vụ việc theo cách thông thƣờng sẽ kéo dài thủ tục, tăng
chi phí tố tụng cũng nhƣ gây phiền hà cho các bên đƣơng sự hơn là công nhận và
cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài.
1.2.3. Về pháp luật
Thứ nhất, việc công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài
sẽ tạo một môi trƣờng pháp lý thuận lợi và hiệu quả hơn cho cơ chế giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài.
Thứ hai, quy định pháp luật về công nhận và cho thi hành quyết định của trọng
tài nƣớc ngoài còn là căn cứ pháp luật quan trọng để xác định thẩm quyền giải
quyết của tòa án đối với các yêu cầu giải quyết vụ việc của đƣơng sự vì khi tòa án
có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành thì cũng đồng nghĩa

với việc tòa án của quốc gia đó không có thẩm quyền thụ lý để giải quyết vụ việc đó
theo thủ tục giải quyết vụ án trong pháp luật tố tụng nữa.
Thứ ba, việc công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài sẽ
khắc phục các khiếm khuyết của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ dân sự
có yếu tố nƣớc ngoài. Đảm bảo cho pháp luật có tính hệ thống. Khiếm khuyết thể
hiện ở chỗ pháp luật của nhiều quốc gia cũng nhƣ các điều ƣớc quốc tế đều cho
phép các bên có thể lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp. Nếu không công
nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài thì rõ ràng các quyết định
việc quy định về quyền lựa chọn trọng tài nƣớc ngoài sẽ trở nên vô nghĩa.
1.3. Pháp luật quốc tế và pháp luật nƣớc ngoài về công nhận và cho thi hành
quyết định của trọng tài nƣớc ngoài
1.3.1. Công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài theo các
điều ước quốc tế
Những điều ƣớc quốc tế chính áp dụng trong lĩnh vực này bắt đầu bằng Nghị
định thƣ Geneva năm 1923 và Công ƣớc Geneva năm 1927. Mặc dù những công
ƣớc này đã đƣợc thay thế bằng Công ƣớc New York nhƣng chúng cũng đánh dấu
bƣớc đầu tiên trong việc ý thức tầm quan trọng của trọng tài. Những điểm đặc trƣng
của hai công ƣớc này đều đƣợc kế thừa trong Công ƣớc New York, trong các công
ƣớc dựa vào Công ƣớc New York và Luật mẫu.

9


Hiện nay có hai điều ƣớc đa phƣơng chủ yếu về việc công nhận và thi hành
quyết định của trọng tài nƣớc ngoài, đó là Công ƣớc New York năm 1958 và Công
ƣớc Châu Âu năm 1961.
- Công ƣớc New York về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nƣớc
ngoài đƣợc thông qua tại Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày 10/08/1958 và có hiệu
lực thi hành từ 07/06/1959. Với 16 điều khoản, Công ƣớc đƣa ra các nội dung liên
quan đến vấn đề công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài

nhƣ: xác định khái niệm quyết định của trọng tài thuộc diện điều chỉnh của Công
ƣớc; vấn đề liên quan đến thỏa thuận trọng tài; vấn đề áp dụng pháp luật tố tụng
trong việc công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài; thủ tục yêu
cầu công nhận và thi hành; các điều kiện công nhận và thi hành quyết định; mối
quan hệ giữa Công ƣớc với các điều ƣớc quốc tế khác, với pháp luật quốc gia.
Có thể nói, Công ƣớc New York 1958 chính là một trong những Công ƣớc
quan trọng và thành công nhất của Liên hợp quốc về vấn đề này. Hiện nay đã có
trên 140 quốc gia tham gia Công ƣớc và hầu hết việc công nhận và cho thi hành các
phán quyết của trọng tài nƣớc ngoài, đặc biệt trong thƣơng mại, đều đƣợc thực hiện
theo quy định của Công ƣớc.
- Công ƣớc Châu Âu năm 1961 về trọng tài thƣơng mại quốc tế, đƣợc ký kết
tại Giơnevơ ngày 21/04/19621 và đã đƣợc 18 nƣớc ở Châu Âu phê chuẩn, nhằm bổ
sung cho Công ƣớc New York và tạo thuận lợi hơn cho quan hệ kinh tế - thƣơng
mại Đông – Tây lúc bấy giờ ở Châu Âu.
Về cơ bản. Công ƣớc Châu Âu 1961 có phạm vi điều chỉnh hẹp hơn Công ƣớc
New York 1958 nhƣng về nội dung thì có quy định chặt chẽ hơn. Cụ thể là, khi so
sánh phạm vi áp dụng giữa 2 Công ƣớc này thì có thể rút ra hai điểm khác biệt cần
đề cập đến nhƣ sau:
- Thứ nhất, Công ƣớc Châu Âu đƣợc áp dụng cho tố tụng trọng tài trong
thƣơng mại quốc tế. Mặc dù Công ƣớc New York không quy định giới hạn đối với
những việc mang tính quốc tế, nhƣng trên thực tế thì không có gì khác biệt lắm bởi
vì chƣa có trƣờng hợp nào ghi nhận là giải quyết theo Công ƣớc New York lại chỉ
liên quan đến trọng tài trong nƣớc cả.
- Thứ hai, Công ƣớc Châu Âu quy định rằng các bên đối với thỏa thuận trọng
tài phải đến từ các quốc gia thành viên khác nhau. Lý do ẩn sau yêu cầu này chính
là mục đích của Công ƣớc Châu Âu, tức là trọng tài trong quan hệ Đông – Tây. Yêu
cầu này cũng đƣợc thấy trong các Hiệp ƣớc Geneva 1923 và 1927 nhƣng lại không
có trong Công ƣớc New York.
10



Nhƣ vậy có thể thấy rằng, đối với thỏa thuận trọng tài và quyết định trọng tài
thì phạm vi áp dụng của Công ƣớc New York rộng hơn so với Công ƣớc Châu Âu.
Mặt khác, Công ƣớc Châu Âu lại có những điều khoản mà Công ƣớc New York
không áp dụng, ví dụ nhƣ việc hoạt động và thành lập của Hội đồng trọng tài. Trong
chừng mực này thì Công ƣớc Châu Âu lại rộng hơn Công ƣớc New York.
Bên cạnh các điều ƣớc quốc tế đa phƣơng, các quốc gia còn ký kết với nhau
các điều ƣớc song phƣơng, xuất phát từ nhu cầu hợp tác tƣ pháp giữa các quốc gia.
1.3.2. Công nhận và cho thi hành các quyết định của trọng tài nước ngoài tại
một số nước trên thế giới
Theo pháp luật Cộng hòa Liên bang Đức, phán quyết của trọng tài
không thể thi hành nếu không có tuyên bố cho phép thi hành. Việc thi hành quyết
định của trọng tài đƣợc điều chỉnh bởi Công ƣớc New York 1958, cho dù phán
quyết đó do trọng tài ở một quốc gia không phải là thành viên của Công ƣớc này
đƣa ra, vì Điều 1061 Bộ luật Tố tụng dân sự Đức quy định Công ƣớc này áp dụng
đối với bất kỳ phán quyết trọng tài nƣớc ngoài nào. Việc công nhận và thi hành chỉ
có thể bị từ chối trên cơ sở quy định tại Điều V Công ƣớc này, bao gồm cả chính
sách công cộng của nƣớc mà phán quyết trọng tài đƣợc thi hành. Tuy nhiên, nguyên
tắc có đi có lại hay thẩm quyền xét xử không phải là điều kiện tiên quyết để công
nhận và thi hành quyết định của trọng tài. Chính vì vậy, việc công nhận và thi hành
các phán quyết về tài sản thì dễ dàng hơn, nếu phán quyết đó xuất phát từ tòa án của
một quốc gia thành viên theo Nghị định của Cộng đồng Châu Âu số 44/2001 về
thẩm quyền, công nhận và thi hành các phán quyết về các vấn đề dân sự và thƣơng
mại (Nghị định Brussels I). Chính sách công cộng là một yếu tố thậm chí quan
trọng hơn khi công nhận và thi hành quyết định ngoài EC vì Liên minh Châu Âu có
các nguyên tắc cơ bản về quyền con ngƣời mà các nƣớc khác có thể quy định khác.
Theo pháp luật Cộng hòa Pháp, quyết định của trọng tài nƣớc ngoài sẽ
đƣợc công nhận và cho thi hành tại Pháp bởi một phán quyết của tòa án, với điều
kiện sự tồn tại của quyết định đó đã đƣợc thiết lập bởi bên có quyền theo quyết định
trọng tài và việc công nhận quyết định trọng tài này không trái với trật tự công cộng

quốc tế. Theo Điều 509 Bộ luật Tố tụng dân sự Pháp thì những bản án của tòa án
nƣớc ngoài và những quyết định của cơ quan có thẩm quyền nƣớc ngoài đƣợc thi
hành trên lãnh thổ nƣớc Cộng hòa Pháp theo thể thức và trong những trƣờng hợp do
pháp luật quy định. Bên có quyền phải trình ra đƣợc bản gốc của quyết định trọng
tài cùng với bản gốc thỏa thuận trọng tài, hoặc bản sao của các tài liệu này nhƣng

11


phải thỏa mãn các điều kiện về tính xác thực của các bản sao đó (Điều 1498, 1499
và 1500 Bộ luật Tố tụng dân sự Pháp).
Tại Anh, một quyết định của trọng tài nƣớc ngoài muốn đƣợc công
nhận và cho thi hành thì phải đƣợc tòa án cho phép. Tòa án sẽ không cho phép thi
hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài nếu bên phải thi hành chứng minh đƣợc
rằng trọng tài ra quyết định không có thẩm quyền và bên phải thi hành vẫn chƣa bị
mất quyền phản đối. Pháp luật Anh cũng áp dụng Công ƣớc New York. Theo đó,
một quyết định trọng tài coi là đƣợc tuyên theo Công ƣớc New York nếu nó đƣợc
tuyên về một thỏa thuận trọng tài tại lãnh thổ một quốc gia là thành viên của Công
ƣớc. Quyết định trọng tài sẽ đƣợc xem xét dựa trên nơi mà nó đƣợc tuyên, bất chấp
nó đƣợc ký tại đâu, gửi từ đâu hay đƣợc gửi đến đâu. Một quyết định trọng tài đƣợc
tuyên theo Công ƣớc New York sẽ đƣợc công nhận là có giá trị pháp lý rằng buộc
các bên và sẽ đƣợc thi hành tại Anh theo sự cho phép của tòa án với cách thức nhƣ
một phán quyết hay một bản án của tòa.
Theo pháp luật Liên bang Nga, việc công nhận và cho thi hành quyết
định của trọng tài nƣớc ngoài đƣợc quy định tại chƣơng 45 Bộ luật Tố tụng dân sự
Nga. Bên có yêu cầu công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài
sẽ phải nộp đơn yêu cầu cho tòa. Tòa án sẽ công nhận và cho thi hành quyết định
của trọng tài nƣớc ngoài bằng cách ban hành một Lệnh cƣỡng chế thi hành quyết
định trọng tài. Việc tòa án từ chối việc công nhận và cho thi hành quyết định của
trọng tài nƣớc ngoài đƣợc quy định trong pháp luật nƣớc này khá giống với trƣờng

hợp nêu tại Điều 5 của Công ƣớc New York.

Tóm lại, việc công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài có
một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, có thể hiểu khái niệm “công nhận và cho thi hành quyết định của
trọng tài nƣớc ngoài” là hành vi của cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền của một quốc
gia thừa nhận giá trị hiệu lực pháp lý của một quyết định trọng tài nƣớc ngoài và
làm cho quyết định đó có hiệu lực cƣỡng chế thi hành trên thực tế tại lãnh thổ quốc
gia đó.
Thứ hai, việc công nhận và cho thi hành các quyết định của trọng tài nƣớc
ngoài có ý nghĩa quan trọng cả về mặt chính trị, kinh tế và pháp luật, là việc làm cần
thiết để bảo vệ lợi ích chính đáng của các bên, từ đó thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn
diện trên tất cả các mặt của các quốc gia với nhau.
12


Thứ ba, pháp luật về công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc
ngoài đã ra đời và phát triển từ rất sớm trên thế giới. Các quy định của pháp luật về
lĩnh vực này đƣợc các quốc gia (trong đó có Việt Nam) ghi nhận trong các nguồn
phát luật khác nhau. Mỗi quốc gia lại có một cách nội luật hóa các điều ƣớc quốc tế
riêng của mình, nhƣng nhìn chung vẫn dựa trên một nền tảng chung và khá thống
nhất.

13


CHƢƠNG 2
CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH
CỦA TRỌNG TÀI NƢỚC NGOÀI THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH

2.1. Lƣợc sử hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về công nhận và
cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài
2.1.1. Giai đoạn trước khi có Bộ luật Tố tụng Dân sự
Trong giai đoạn này, Việt Nam đã tiến hành ký kết một số hiệp định về
khuyến khích và bảo hộ đầu tƣ có đề cập đến vấn đề công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam các quyết định của trọng tài thƣơng mại. Trong đó, có hiệp định đƣa ra
các quy định điều chỉnh cụ thể, nhƣng cũng có hiệp định chỉ viện dẫn pháp luật
quốc gia hoặc các điều ƣớc quốc tế đa phƣơng về việc công nhận và cho thi hành
quyết định của trọng tài. Có thể kể đến một số hiệp định sau: Hiệp định về khuyến
khích và bảo hộ đầu tƣ với I-ta-li-a ngày 15/05/1990; Hiệp định về khuyến khích và
bảo hộ đầu tƣ với Liên minh kinh tế Bỉ - Lúc-xăm-bua ngày 24/01/1991; Hiệp định
về khuyến khích và bảo hộ đầu tƣ với Ốt-trây-li-a ngày 05/03/1991; Hiệp định về
khuyến khích và bảo hộ đầu tƣ với Ma-lai-xi-a ngày 21/01/1992; Hiệp định về
khuyến khích và bảo hộ đầu tƣ với Phi-lip-pin ngày 27/02/1992.
Bên cạnh các hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tƣ, trong giai đoạn này,
Việt Nam còn tiến hành ký kết các hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp với một số nƣớc xã
hội chủ nghĩa nhƣ: Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia
đình và hình sự với Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết (ký ngày
10/12/1981); Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp và pháp lý về dân sự và hình sự với Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc, nay là Séc và Xlô-va-kia (ký ngày 12/10/1982);
Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự với Cộng hòa
nhân dân Bun-ga-ry (ký ngày 03/10/1986); Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp về các vấn
đề dân sự và hình sự với Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (ký ngày 19/10/1998); Hiệp
định tƣơng trợ tƣ pháp về dân sự và hình sự với Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
(ký ngày 06/07/1998); Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự,
hình sự với Liêng bang Nga (ký ngày 25/08/1998); Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp và
pháp lý về các vấn đề dân sự, hình sự với U-crai-na (ký ngày 06/04/2000); Hiệp
định tƣơng trợ tƣ pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự với Mông Cổ (ký
ngày 17/04/2000).
14



Các hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp đều có quy định tại một chƣơng riêng về vấn
đề công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài. So với các hiệp
định về khuyến khích và bảo hộ đầu tƣ, các hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp có hai điểm
khác cơ bản, đó là: thứ nhất, chúng điều chỉnh một cách trực tiếp chứ không viện
dẫn hoàn toàn vào nguồn quốc nội của pháp luật các quốc gia ký kết, vì thế sự điều
chỉnh cũng đề cập một cách chi tiết, cụ thể hơn; thứ hai, đối tƣợng điều chỉnh của
chúng là các quyết định của trọng tài nƣớc ngoài nói chung chứ không chỉ các quyết
định của trọng tài về các tranh chấp liên quan đến thƣơng mại.
Trên cơ sở các hiệp định đã ký, Bộ Tƣ pháp đã ban hành Thông tƣ số
163/HTQT ngày 25 tháng 3 năm 1993 về việc thực hiện ủy thác tƣ pháp của tòa án
nƣớc ngoài. Văn bản này tuy không có quy định trực tiếp về công nhận và cho thi
hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài nhƣng đã có những quy định hƣớng dẫn
cho hoạt động ủy thác tƣ pháp nói chung, trong đó có hoạt động ủy thác tƣ pháp liên
quan đến việc công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài.
Ngày 28/07/1995, Chủ tịch nƣớc đã ban hành quyết định số 453/QĐ-CTN về
việc tham gia Công ƣớc về công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc
ngoài (Công ƣớc New York 1958). Việc tham gia Công ƣớc của Việt Nam dựa trên
các nguyên tắc sau đây:
- Việt Nam chỉ công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài
nƣớc ngoài đƣợc tuyên tại lãnh thổ của quốc gia là thành viên của Công ƣớc; đối
với quyết định của trọng tài nƣớc ngoài đƣợc tuyên tại lãnh thổ của quốc gia chƣa
tham gia Công ƣớc thì việc công nhận và thi hành đƣợc thực hiện theo nguyên tắc
có đi có lại.
- Chỉ áp dụng Công ƣớc đối với tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp luật
thƣơng mại.
- Mọi sự giải thích Công ƣớc trƣớc tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác
của Việt Nam phải tuân theo các quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam.
Việc Nhà nƣớc ta áp dụng các nguyên tắc trên là hoàn toàn phù hợp với quy

định về bảo lƣu tại khoản 3 Điều 1 của Công ƣớc New York 1958.
Chỉ sau hơn một tháng ra nhập Công ƣớc New York, ngày 14/09/1995, Uỷ ban
thƣờng vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam
quyết định của trọng tài nƣớc ngoài. Pháp lệnh đã quy định khá đầy đủ về các vấn
đề nhƣ: các quyết định của trọng tài nƣớc ngoài đƣợc công nhận và cho thi hành;
các nguyên tắc công nhận và thi hành; trình tự thủ tục xét đơn yêu cầu công nhận và
cho thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nƣớc ngoài cũng nhƣ yêu cầu
15


không công nhận quyết định của trọng tài nƣớc ngoài không có yêu cầu thi hành tại
Việt Nam; quyền kháng cáo, kháng nghị; về lệ phí; về đảm bảo việc chuyển tiền và
tài sản thi hành quyết định;v.v…
Trong giai đoạn này, bên cạnh các văn bản quy phạm pháp luật quy định trực
tiếp về công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài, Nhà nƣớc ta
còn ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến vấn đề này
nhƣ: Pháp lệnh thi hành án dân sự đƣợc Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội khóa IX thông
qua ngày 14/01/2004; Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại đƣợc Ủy ban thƣờng vụ Quốc
hội thông qua ngày 25/02/2003.
2.1.2. Giai đoạn sau khi có Bộ luật Tố tụng Dân sự
Ngày 15/06/2004, Quốc hội khóa IX đã thông qua Bộ luật Tố tụng Dân sự
(BLTTDS). Trên cơ sở kế thừa và phát triển các quy định trƣớc đây về công nhận
và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài, Bộ luật đã thay thế Pháp lệnh
công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nƣớc ngoài. Vấn đề này
đƣợc quy định tại phần thứ sáu của BLTTDS: “Thủ tục công nhận và cho thi hành
tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của tòa án nƣớc ngoài, quyết định của trọng
tài nƣớc ngoài”. Có thể nói, Bộ luật đã tạo ra một cơ sở pháp lý tƣơng đối đầy đủ để
giải quyết vấn đề công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài
nƣớc ngoài.
Ngoài BLTTDS 2004 thì Luật thi hành án dân sự 2008 có quy định những bản

án, quyết định đƣợc thi hành theo thủ tục này gồm “bản án, quyết định dân sự của
tòa án nƣớc ngoài, quyết định của trọng tài nƣớc ngoài đã đƣợc tòa án Việt Nam
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam” (điểm đ, khoản 2 Điều 2).
Mới đây nhất, Luật Trọng tài thƣơng mại đƣợc Quốc hội khóa XII ban hành,
có hiệu lực từ 01/01/2011 là một văn bản pháp lý quan trọng thay thế Pháp lệnh
trọng tài thƣơng mại 2003. Luật này tuy không trực tiếp quy định về vấn đề công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nƣớc ngoài nhƣng nó đã
đƣa ra hai khái niệm mà Bộ luật Tố tụng Dân sự chƣa làm rõ và gây nhiều tranh cãi,
đó là “trọng tài nƣớc ngoài” và “quyết định của trọng tài nƣớc ngoài”.
Nhƣ vậy có thể thấy rằng, bên cạnh các văn bản pháp luật của quốc gia mới
đƣợc ban hành cùng với những điều ƣớc quốc tế đa phƣơng cũng nhƣ song phƣơng
đã ký kết trƣớc đây về vấn đề công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài
nƣớc ngoài vẫn có hiệu lực thì cho tới nay, về cơ bản, những cơ sở pháp lý về công
nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài tại Việt Nam là tƣơng đối
đầy đủ và hoàn thiện.
16


2.2. Thực trạng pháp luật về công nhận và cho thi hành quyết định của trọng
tài nƣớc ngoài tại Việt Nam
2.2.1. Khái niệm quyết định của trọng tài nước ngoài
Theo quy định pháp luật hiện hành, quyết định trọng tài đƣợc chia làm hai
loại: quyết định của trọng tài nƣớc ngoài và quyết định của trọng tài trong nƣớc.
Việc xác định đúng hai loại quyết định này có ý nghĩa rất quan trọng trong thực tế
bởi lẽ mỗi loại quyết định lại có cơ chế công nhận và cho thi hành riêng.
Khái niệm quyết định của trọng tài nƣớc ngoài đƣợc quy định tại khoản 2 Điều
342 BLTTDS nhƣ sau: “Quyết định của trọng tài nước ngoài là quyết định được
tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam của trọng tài nước
ngoài do các bên thỏa thuận lựa chọn để giải quyết tranh chấp phát sinh từ các
quan hệ pháp luật kinh doanh, thương mại, lao động”. Từ khái niệm này có thể rút

ra hai yếu tố để xác định một quyết định có đƣợc coi là quyết định của trọng tài
nƣớc ngoài theo pháp luật Việt Nam hay không, đó là: (1) quyết định đó đƣợc tuyên
bởi “trọng tài nƣớc ngoài do các bên thỏa thuận lựa chọn để giải quyết tranh chấp”
bất kể rằng quyết định đó đƣợc tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hay trong lãnh thổ
Việt Nam; (2) tranh chấp đƣợc giải quyết bởi quyết định đó phải là tranh chấp “phát
sinh từ các quan hệ pháp luật kinh doanh, thƣơng mại, lao động”.
 Đối với yếu tố thứ nhất – quyết định của trọng tài nƣớc ngoài là “quyết định
được tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam của trọng tài
nước ngoài”, có một số điểm cần lƣu ý nhƣ sau:
Thứ nhất, điều luật đã đƣa ra tiêu chí quốc tịch của trọng tài để xác định thế
nào là quyết định của trọng tài nƣớc ngoài. Luật Trọng tài thƣơng mại năm 2010
cũng đƣa ra một điều khoản tƣơng tự, phù hợp với BLTTDS, đó là: “Phán quyết
của trọng tài nước ngoài là phán quyết do trọng tài nước ngoài tuyên ở ngoài lãnh
thổ Việt Nam hoặc ở trong lãnh thổ Việt Nam để giải quyết tranh chấp do các bên
thỏa thuận lựa chọn” (khoản 12 Điều 3). Tuy nhiên, quy định của BLTTDS lại
chƣa làm rõ việc xác định quốc tịch của trọng tài, hay nói cách khác là làm thế nào
để xác định đƣợc đâu là trọng tài nƣớc ngoài, đâu là trọng tài Việt Nam. Việc xác
định quyết định của trọng tài nƣớc ngoài sẽ dựa trên quốc tịch của chủ thể nào
(trọng tài viên hay Hội đồng trọng tài?). Nếu dựa và quyết định của trọng tài viên,
thì vƣớng mắc sẽ nảy sinh khi trong Hội đồng trọng tài vừa có trọng tài viên là
ngƣời Việt Nam, vừa có trọng tài viên là ngƣời nƣớc ngoài. Còn nếu dựa vào quốc
tịch của cơ quan giải quyết tranh chấp thì rất khó xác định đƣợc quốc tịch của cơ
quan này trong trƣờng hợp trọng tài vụ việc (trọng tài ad hoc).
17


×