Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

tiểu luận cao học những biến đổi tâm lý của phụ nữ trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.23 KB, 24 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ thời đại các vua Hùng đến thời đại Hồ Chí Minh, qua những chặng
đường vô cùng oanh liệt dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, phụ
nữ Việt Nam đã tỏ rõ truyền thống thông minh, sáng tạo, lao động cần cù,
chiến đấu dũng cảm. Trong quá trình phát triển, hình ảnh, tư tưởng, tâm lý
của người phụ nữ Việt Nam từng bước được biến đổi để thích ứng với sự thay
đổi của xã hội.
Nhìn lại chặng đường bốn nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước
của dân tộc ta, phụ nữ Việt nam luôn giữ một vai trò quan trọng trong lịch sử
dân tộc. Từ chiến thắng quân Đông Hán của Hai Bà Trưng đã mở đầu 2000
năm lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, tiếp theo là bà Triệu Thị
Trinh, Thái Hậu Dương Vân Nga, Đô Đốc Bùi Thị Xuân. Dưới chế độ phong
kiến và đế quốc, phụ nữ là lớp người bị áp bức, bóc lột chịu nhiều bất công
nên luôn có yêu cầu được giải phóng và sẵn sàng đi theo cách mạng.
Ngày 3/2/1930 Đảng cộng sản Đông Dương thành lập trong Cương lĩnh
đầu tiên của Đảng đã ghi: "Nam nữ bình quyền". Đảng sớm nhận rõ, phụ nữ là
lực lượng quan trọng của cách mạng và đề ra nhiệm vụ: Đảng phải giải phóng
cho phụ nữ, gắn liền giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp với giải phóng
phụ nữ. Những chiến công oanh liệt của nhân dân ta trong suốt 30 năm đấu
tranh gian khổ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược mãi mãi là
thiên anh hùng ca bất diệt trong hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của
dân tộc. Trong đó có công lao đóng góp to lớn của phụ nữ. Trang sử dân tộc
mãi mãi còn ghi những chiến công vang dội của các đội nữ dân quân du kích,
biệt động nội thành, các đội pháo binh,... giáp mặt với quân thù, linh hoạt
mưu trí giáng cho địch những đòn bất ngờ, bắn rơi máy bay, bắn cháy tàu
chiến Mỹ, các đội dân công hỏa tuyến, các đội nữ thanh niên xung phong
dũng cảm “xẻ dọc trường sơn đi cứu nước”, đã có hàng chục vạn nữ chiến sĩ
1



đã cống hiến cả tuổi thanh xuân cho sự nghiệp kháng chiến cứu nước vĩ đại.
Lịch sử còn ghi những kỳ tích lẫy lừng của hàng triệu các má, các chị ở tuyến
đầu với "Đội quân tóc dài" nổi tiếng trong thế trận 3 mũi giáp công chống phá
ấp chiến lược. Non sông gấm vóc ngàn năm vẫn tô thắm những hình ảnh sáng
ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng của hàng triệu phụ nữ "5 tốt" ở Miền
Nam, "Ba đảm đang" ở Miền Bắc, vừa lao động xây dựng đất nước, vừa chi
viện sức người sức của cho tiền tuyến, gánh vác việc nước, đảm đang việc
nhà để chồng con yên tâm đánh giặc, nhiều bà mẹ đã hiến tặng cả đàn con
thân yêu cho độc lập tự do của Tổ quốc, tất cả sự hy sinh gian khổ đó đã hun
đúc nên những người phụ nữ Việt Nam kiên cường xứng đáng với 8 chữ vàng
Bác Hồ kính yêu trao tặng "Anh hùng bất khuất, trung hậu, đảm đang". Từ
sau khi đất được hoàn toàn độc lập, Bắc nam thống nhất, để đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ mới, phụ nữ Việt Nam đã tham gia nhiều phong trào "Người phụ nữ
mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".
Sau gần 30 năm đổi mới đất nước ta đã đạt được những thành tựu to
lớn. Kinh tế tăng trưởng khá cao và phát triển tương đối toàn diện. Văn hóa
xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt phong trào thi đua "Phụ nữ tích cực học tập,
lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc" gắn với cuộc vận động
"Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Phụ nữ Việt Nam
phát huy truyền thống “Anh hùng - Bất khuất - Trung hậu - Đảm đang”.
Do đặc điểm tâm lý về giới tính, về tính chất lao động và vai trò của
phụ nữ trong gia đình, xã hội mà trong tâm lý của người phụ nữ, bên cạnh
những đặc điểm tâm lý chung của người Việt Nam, vẫn có những đặc điểm
riêng cần lưu ý trong công tác tuyên truyền. Những đặc điểm ấy được biểu
hiện trong hoạt động nhận thức, tình cảm và trong nhân cách của người phụ
nữ Việt Nam.
Nhận thức tầm quan trọng của việc nghiên cứu đặc điểm tâm lý riêng
của người phụ nữ Việt Nam để công tác tuyên truyền đạt hiệu quả, em đã

2



chọn đề tài “Những biến đổi tâm lý của phụ nữ trong giai đoạn hiện nay”
làm đề tài tiểu luận môn học Tâm lý học trong hoạt động tư tưởng.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài này là làm rõ đặc điểm tâm lý chung của người phụ
nữ Việt Nam và những biến đổi tâm lý của người phụ nữ Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay nhằm phục vụ tốt công tác tuyên truyền.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục đich và nhiệm vụ nghiên cứu, Đề tài sử dụng
các phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Đọc và tìm hiểu các tác phẩm về đặc điểm tâm lý, tình cảm phụ nữ
Việt Nam và những biến đổi tâm lý của họ trong giai đoạn hiện nay
- Tổng hợp các nội dung chính của các tác phẩm
4. Cấu trúc của tiểu luận
Ngoài trang bìa chính, bìa phụ, mục lục, tài liệu tham khảo tiểu luận có
cấu trúc như sau: Phần mở đầu; Phần nội dung: Căn cứ vào nhiệm vụ nghiên
cứu, tiểu luận gồm 2 chương:
Chương 1: Những đặc điểm tâm lý cơ bản của phụ nữ Việt Nam
Chương 2: Những biến đổi tâm lý của phụ nữ Việt nam trong giai đoạn
hiện nay.
Kết luận.

3


CHƯƠNG 1:
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ CƠ BẢN CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM
1.1. Đặc điểm về nhận thức của phụ nữ
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, phụ nữ Việt Nam luôn

thể hiện rõ những phẩm chất truyền thống tốt đẹp: lòng yêu nước, tinh thần
quật cường chống giặc ngoại xâm; cần cù, thông minh, sáng tạo trong lao động
sản xuất; có lòng nhân hậu, giàu tình yêu thương và đức hy sinh.
Ngày nay, phụ nữ Việt Nam một mặt tiếp tục kế thừa và phát huy
truyền thống đạo đức quý báu, những giá trị văn hóa, tinh thần vô giá mà các
thế hệ trước đã để lại; mặt khác không ngừng hình thành, phát triển những
phẩm chất tiên tiến phù hợp với các yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước
trong bối cảnh hội nhập quốc tế, từng bước góp phần tạo dựng hình ảnh người
phụ nữ Việt Nam hiện đại.
Tuy nhiên, trước những tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường và
những ảnh hưởng tiêu cực của thời kì mở cửa, hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới, việc gìn giữ, phát huy những phẩm chất, đạo đức tốt đẹp của phụ nữ Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay còn một số tồn tại như:
Trình độ nhận thức của phụ nữ Việt Nam mang nặng dấu ấn của xã hội,
lịch sử. Trình độ nhận thức của phụ nữ chịu sự chi phối của nhiều yếu tố như:
trình độ phát triển văn hóa - xã hội; quan niệm của xã hội về vị trí, vai trò của
phụ nữ trong gia đình, xã hội; Và chính nhận thức của phụ nữ về nghĩa vụ, vị
trí của mình đối với gia đình và xã hội.
Một số giá trị tốt đẹp về phẩm chất, đạo đức của phụ nữ Việt Nam có
phần bị mai một. Quan niệm về các giá trị đạo đức truyền thống đang dần bị
phai mờ trong nhận thức và lối sống của một bộ phận phụ nữ.
Một bộ phận phụ nữ còn hạn chế về mặt nhận thức, quen sống thụ
động, tự ty, an phận, chấp nhận những đối xử bất bình đẳng, chưa biết tự bảo
vệ quyền lợi của mình dẫn đến tình trạng bạo lực gia đình, ảnh hưởng đến sức
khoẻ, tâm lý, thậm chí thiệt hại tính mạng.

4


Nhận thức của một bộ phận phụ nữ còn hạn chế, thiếu thông tin; chưa

chú trọng việc tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức; chưa có ý thức giữ
gìn, phát huy các phẩm chất, đạo đức tốt đẹp của phụ nữ, của dân tộc.
Bên cạnh đó, tình trạng thiếu việc làm, đời sống còn nhiều khó khăn,
các vấn đề xã hội nảy sinh chậm được giải quyết, sự bùng nổ thông tin với
nhiều loại thông tin ngoài luồng khó kiểm soát, sự du nhập văn hóa nước
ngoài với lối sống đề cao sự hưởng thụ đang tác động vào các tầng lớp nhân
dân, trong đó có phụ nữ.
Thực tiễn khách quan trên cho thấy, trong quá trình đổi mới kinh tế - xã
hội theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, những chuẩn mực
phẩm chất đạo đức, tâm lý phụ nữ Việt Nam nói riêng và các giá trị chuẩn
mực của người Việt Nam nói chung đang biến đổi theo một số xu hướng đáng
chú ý sau đây: Một là: xu hướng chuyển trọng tâm các giá trị phẩm chất đạo
đức nặng về tinh thần sang kinh tế. Hai là: xu hướng chuyển phạm vi quyền
lợi từ xã hội và tập thể sang cá nhân và cộng đồng địa phương. Ba là : xu
hướng chuyển mục tiêu từ lâu dài sang ngắn hạn. Bốn là: xu hướng chuyển từ
thụ động chờ đợi sự hỗ trợ nhà nước sang tích cực và chủ động của cá nhân
trong việc đánh giá và thực hiện hành vi, hoạt động đáp ứng nhu cầu của cuộc
sống. Năm là: xu hướng chuyển từ hình thức đánh giá cào bằng, bình quân
chủ nghĩa sang hình thức đánh giá có phân biệt năng suất, chất lượng và hiệu
quả lao động. Các xu hướng biến đổi các giá trị tâm lý và phẩm chất đạo đức
ấy đòi hỏi cần có sự định hướng tiêu chí người phụ nữ Việt Nam phù hợp với
yêu cầu phát triển của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước hiện nay.
Đánh giá về những khó khăn, thách thức, tâm lý đối với phụ nữ trong
giai đoạn hiện nay, Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính
trị về “Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước” đã chỉ rõ: “Phụ nữ gặp nhiều khó khăn thách thức khi thực hiện vai trò
người mẹ, người thầy đầu tiên của con người trong điều kiện xã hội và gia
5



đình Việt Nam có nhiều thay đổi. Phẩm chất đạo đức và một số giá trị truyền
thống tốt đẹp có phần bị mai một, lối sống thực dụng có xu hướng phát triển
trong một bộ phận phụ nữ”.
Bàn về nhận thức của phụ nữ Việt Nam, các nhà nghiên cứu có chung
nhận xét: trình độ nhận thức của phụ nữ nói chung còn thấp hơn nam giới.
Trình độ nhận thức của phụ nữ Việt Nam mang nặng dấu ấn của xã hội, lịch
sử. Trình độ nhận thức của phụ nữ chịu sự chi phối của nhiều yếu tố như:
trình độ phát triển văn hóa - xã hội; quan niệm của xã hội về vị trí, vai trò của
phụ nữ trong gia đình, xã hội; Và chính nhận thức của phụ nữ về nghĩa vụ, vị
trí của mình đối với gia đình và xã hội.
Nhận thức có vai trò rất quan trọng trong hoạt động và trong cuộc
sống của phụ nữ, đó là cơ sở quan trọng cho thái độ và hành vi. Nhận thức
thấp, hoặc nhận thức sai sẽ là nguyên nhân đầu tiên dẫn đến sai lầm trong
hành động. Trước đây, dưới chế độ phong kiến, do quan niệm lạc hậu, phụ nữ
không được học hành đầy đủ lại bị trói buộc bởi lễ giáo phong kiến, bởi quan
niệm khắc nghiệt của xã hội. Phụ nữ không được học hành, không có cơ hội
tham gia hoạt động xã hội, cũng như không có quyền quyết định những vấn
đề có liên quan đến sinh mệnh của mình. Vì thế, nhận thức của phụ nữ vốn đã
hạn hẹp thì nay càng trở nên hạn hẹp hơn. Kể từ sau Cách mạng Tháng Tám
năm 1945, với những chính sách và quan điểm tiến bộ của Đảng và Nhà nước
về giải phóng phụ nữ, thân phận người phụ nữ đã thực sự được giải phóng. Vị
trí, vai trò của họ đã được nâng lên đáng kể. Số phụ nữ tham gia các hoạt
động xã hội, các lĩnh vực quản lý xã hội ngày càng tăng. Cơ hội để phụ nữ
nâng cao hiểu biết và khẳng định vai trò của mình đối với xã hội ngày càng
rộng mở.
Những kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy: nhìn chung trình độ nhận
thức của phụ nữ Việt Nam tăng lên nhanh chóng trong chế độ mới, song vẫn
còn thấp hơn so với nam giới, kể cả khu vực thành thị và nông thôn, những số
liệu cho thấy số phụ nữ chưa bao giờ đến trường là 16,6%, nhiều hơn 2 lần

6


nam giới (7,5%). Do gánh nặng gia đình phụ nữ thường ít có điều kiện tiếp
tục học lên. Vì vậy, tỷ lệ phụ nữ có trình độ đại học cao đẳng trở lên là 1,1%,
chỉ bằng một nửa nam giới (2.1%).
Nguyên nhân đầu tiên dẫn đến nhận thức của phụ nữ thấp hơn nam giới
là do thiếu thời gian. Những nghiên cứu gần đây cho thấy, mặc dù vai trò của
người phụ nữ đã ngày càng quan trọng hơn trong gia đình và xã hội nhưng
những công việc nội trợ, chăm sóc chồng, con, chủ yếu do phụ nữ đảm nhiệm.
Vì thế, thời gian để phụ nữ học tập phấn đấu vươn lên hạn chế hơn so với
nam giới.
Bên cạnh đó, do điều kiện tiếp xúc giao lưu hạn hẹp hơn nam giới, vì đa
số phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ nông thôn còn tâm lý tự ti, thiếu tự tin trong giao
tiếp. Đạo đức phong kiến hàng ngàn năm đã đề cao người đàn ông, coi thường
phụ nữ. Họ cho rằng, phụ nữ chỉ là người tề gia nội trợ, mà không được tham
gia các hoạt động xã hội. Tư tưởng đó còn ảnh hưởng đến quan niệm của
không ít ông chồng, và ngay trong nhận thức của phụ nữ, đó là những nguyên
nhân khiến cho phạm vi nhận thức của phụ nữ hẹp hơn nam giới.
Một lý do nữa khiến nhận thức của phụ nữ còn hạn chế hơn nam giới là
do ảnh hưởng tư tưởng phong kiến vẫn còn khá nặng nề trong các gia đình và
ngoài xã hội như: vợ phải kém chồng mới có hạnh phúc bền lâu… vì thế
nhiều phụ nữ thường nhường nhịn, tạo điều kiện cho chồng, con phấn đấu,
còn họ lại quay về với công việc nội trợ phục vụ chồng con. Đây là sự hy sinh
tự nguyện, hoặc do ảnh hưởng của gia đình, dòng họ hay xã hội đã ảnh hưởng
đến quyết định của phụ nữ.
1.2. Đặc điểm về tình cảm của phụ nữ
Người Việt Nam rất coi trọng tình nghĩa; dù trong lúc khó khăn, nguy
hiểm hay lúc hiển vinh họ đều không quên tình, quên nghĩa. Người Việt Nam
rất trọng tình cảm như: tình cha con, mẹ con, tình vợ chồng, tình anh em, tình

hàng xóm, tình đồng hương... Trong tục ngữ, ca dao Việt Nam chúng ta tìm
thấy rất nhiều chữ tình. Vì thế, các nhà khoa học cho rằng người Việt Nam
7


duy tình. Đặc biệt là người phụ nữ, với chức phận làm mẹ thì tình cảm lại
càng trở nên đậm đà hơn, sâu sắc hơn. Những tình cảm đó thể hiện:
- Tình cảm gia đình, đặc biệt là lòng yêu thương chồng con của người
phụ nữ Việt Nam thể hiện rất rõ nét.
- Tình cảm quê hương ở phụ nữ Việt Nam rất sâu đậm và gắn liền với
tình yêu Tổ quốc. Biết bao nhiêu người mẹ, người chị đã dâng hiến chồng,
con và tuổi thanh xuân của chính mình cho các cuộc chiến tranh giải phóng
dân tộc. Mảnh đất Việt Nam thấm đẫm mồ hôi, cả máu và nước mắt của
những người đi trước. Vì thế, mỗi tấc đất của Tổ quốc đều có máu thịt của
người Việt Nam nói chung và người phụ nữ nói riêng.
1.3. Đặc điểm về hành vi của phụ nữ
Với tư cách là nhân cách, con người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của
hoạt động trong quá trình biến đổi và phát triển của xã hội loài người. Từ khi
bắt đầu công cuộc đổi mới (1986), những chuyển biến của xã hội, đặc biệt về
kinh tế đã tác động mạnh mẽ, làm biến đổi tâm lý người Việt Nam nói chung
và nhân cách người phụ nữ nói riêng.
Nhân cách phụ nữ Việt Nam hình thành và phát triển theo con đường từ
ngoài vào trong nội tâm, từ các quan hệ về thế giới đồ vật do các thế hệ trước
đã tạo ra, với các quan hệ xã hội mà họ gắn bó. Nhân cách phụ nữ là tổ hợp
những thuộc tính tâm lý cá nhân thể hiện bản sắc và giá trị xã hội của phụ nữ.
Nhân cách phụ nữ được hình thành và phát triển trong hoạt động dưới ảnh
hưởng của nhiều yếu tố, song điều kiện kinh tế xã hội có vai trò rất quan trọng.
Nhân cách người phụ nữ Việt Nam có một số phẩm chất đáng chú ý sau:
Cần cù trong lao động, tiết kiệm trong sinh hoạt: Trong lịch sử Việt
Nam, phụ nữ là những người tham gia đông đảo, tích cực vào tất cả những

hoạt động sản xuất. Những ca dao như “Thân em vất vả trăm bề...” hoặc “em
ôm bó mạ xuống đồng”, “Lúa tốt vì bởi có phân, vì tay em lấm, vì chân em
mòn”,… đã phản ánh sự thực lịch sử về vai trò của người phụ nữ Việt Nam
trong lao động. Với tinh thần cần cù sáng tạo người phụ nữ lao động đã chăm
8


lo đến công việc chung một cách tự giác. Lập được những thành tích lao động
ấy hiển nhiên người phụ nữ phải có một đầu óc lo liệu. Chỉ một việc đi cấy
thôi, người phụ nữ cũng phải : “Trông trời, trông đất, trông mây/ Trông mưa,
trông gió, trông ngày, trông đêm”. Trong quá trình làm nông nghiệp đời này
qua đời khác, ý thức lao động dần dần đi vào tình cảm trở thành bản chất tốt
đẹp của người phụ nữ. Lao động kiên trì, nhẫn nại trở thành lẽ sống của phụ
nữ vì chồng con, vì gia đình, vì đất nước. Những cố gắng của phụ nữ được
đền bù. Ngày nay, mặc dù xã hội có nhiều biến đổi, song Phụ nữ Việt Nam
phần lớn là nông dân (80%), còn lại, dù là thành phần xã hội khác, nhưng chủ
yếu họ cũng xuất thân từ nông dân, nên tính cần cù, tiết kiệm chắt chiu, chịu
thương chịu khó vẫn là đặc điểm nổi bật. Sở dĩ người phụ nữ có được phẩm
chất quý giá này là do người Việt phải sống trong những điều kiện tự nhiên
rất khắc nghiệt, kẻ thù luôn tìm cớ thôn tính đất nước ta. Đó luôn là những
mối đe dọa thường xuyên. Trong những điều kiện như vậy, với kỹ thuật canh
tác còn hạn chế, công cụ lao động lại rất thô sơ, cộng với sự gia tăng dân số
nhanh, muốn tồn tại và phát triển mọi người Việt Nam đều phải cần cù, tiết
kiệm, phải “tích cốc, phòng cơ”. Đặc biệt, người phụ nữ với chức năng thiên
bẩm là làm vợ, làm mẹ, luôn gắn với việc nhà, việc đồng áng và công việc nội
trợ thì phẩm chất này càng thể hiện rõ nét. Chính từ sự tham gia 1ao động sản
xuất đã hình thành sức mạnh và vẻ đẹp tinh thần của người phụ nữ
Khiêm tốn và giản dị, lòng vị tha và tinh thần hy sinh vì chồng con:
Người phụ nữ Việt Nam vốn có truyền thống khiêm tốn, giản dị, luôn hy sinh
vì chồng vì con. Việt Nam hiện nay đã đổi mới về nhiều mặt, những thành tựu

của đổi mới là to lớn và rất quan trọng trên tất cả các bình diện kinh tế, chính
trị, văn hóa xã hội. Nhưng nhìn chung thu nhập bình quân đầu người vẫn còn
rất thấp, đa số người dân vẫn còn nghèo. Trong điều kiện kinh tế còn eo hẹp
kéo dài như vậy đã rèn luyện cho người phụ nữ Việt Nam lối sống khiêm tốn,
giản dị, cộng với lòng nhân ái vốn là truyền thống lâu đời của nhân dân ta, đã

9


tạo nên ở người phụ nữ Việt Nam tấm lòng vị tha, tinh thần hy sinh vì người
khác, trước hết là vì chồng vì con.
Kiên trì, chịu đựng: Vì phải sống trong những điều kiện khắc nghiệt,
thiên tai, địch hoạ liên miên, với trách nhiệm chăm sóc chồng con và gánh
nặng gia đình, người phụ nữ Việt Nam luôn phải vượt qua mọi khó khăn thử
thách. Những khó khăn nối tiếp khó khăn đã rèn luyện cho người phụ nữ tinh
thần vượt gian khó và lòng kiên trì chịu đựng gian khổ, nguy nan. Trong tình
hình phải luôn luôn đối phó với thiên tai, địch họa, người phụ nữ càng thông
cảm gắn bó với bà con, xóm giềng thành một cộng đồng nương tựa vào nhau,
giúp đỡ lẫn nhau trong khó khăn hoạn nạn. Đức tính vị tha, khiêm nhường
thủy chung như nhất trở thành một truyền thống “thương người như thể
thương thân”. Đây là phẩm chất rất quý giá của người phụ nữ Việt Nam.

10


CHƯƠNG 2:
NHỮNG BIẾN ĐỔI TÂM LÝ CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. Những biến đổi về nhận thức
Vai trò của phụ nữ Việt Nam trong xã hội truyền thống do những điều

kiện tự nhiên, đặc điểm về kinh tế, xã hội, phụ nữ Việt Nam dù muốn hay
không cũng đã là những người có vai trò to lớn trong nền sản xuất xã hội
cũng như kinh tế gia đình. Những đóng góp quan trọng của họ đối với gia
đình và xã hội đã góp phần tạo nên địa vị cao của họ trong gia đình và ngoài
xã hội, thể hiện qua các truyền thuyết, các phong tục, tập quán, tín ngưỡng…
Tuy nhiên, tư tưởng trọng nam, khinh nữ là quan niệm lạc hậu, cổ hủ điển
hình nhất nhìn theo góc độ bình đẳng giới vẫn đang gây trở ngại lớn cho việc
phát triển tâm lý của người phụ nữ hiện nay. Thuyết Tam tòng, Tứ đức
(phong kiến) đã cột chặt người phụ nữ với gia đình, với người chồng, người
nam giới. Người phụ nữ truyền thống phải lấy đức hạnh, gia đình làm trọng.
Núp dưới bóng chồng con, lo toan gia đình để chồng con thăng tiến được coi
là mẫu mực trong xử sự của phụ nữ truyền thống. Với những quy tắc Nho
giáo phong kiến, người phụ nữ cũng phải xử sự theo địa vị thấp kém và về
tâm lý, họ luôn có mặc cảm thấp kém so với nam giới. Việt Nam đã có hàng
ngàn năm tồn tại dưới chế độ phong kiến, tư tưởng lạc hậu “trọng nam, khinh
nữ” đã ăn sâu vào nếp nghĩ, hành vi, cách ứng xử của cả nam giới và nữ giới.
Hiện nay, không ít nam giới vẫn suy nghĩ về phụ nữ theo tư tưởng Nho
giáo trước đây, coi thường khả năng của phụ nữ, nhất là coi thường khả năng
lãnh đạo và quản lý của phụ nữ. Một bộ phận nam giới có tư tưởng không
phục tùng phụ nữ, không muốn làm việc dưới sự lãnh đạo của cán bộ nữ. Mặt
khác, một bộ phận phụ nữ còn tâm lý tự ti, an phận, chưa chủ động vượt khó
vươn lên. Trong nội bộ phụ nữ còn có tình trạng níu kéo, chưa ủng hộ nhau,
kìm chân nhau. Nhiều phụ nữ, nhất là phụ nữ ở miền núi, vùng nông thôn hẻo
11


lánh, mù chữ, tái mù chữ và học vấn thấp còn nhiều. Phụ nữ còn bị phân biệt
đối xử dưới nhiều hình thức. Phụ nữ còn là nạn nhân của nhiều tệ nạn xã hội
đang có chiều hướng phát triển như: mại dâm, nghiện hút, cờ bạc, mê tín dị
đoan, bạo lực gia đình, ảnh hưởng đến sức khoẻ, tâm lý, thậm chí thiệt hại

tính mạng. Những khó khăn trên đang ảnh hưởng xấu đến sự phát triển tâm lý
của phụ nữ thế hệ tương lai.
Bên cạnh việc gìn giữ giá trị truyền thống văn hóa, người Việt rất coi
trọng gia đình. Gia đình được coi là rường cột của xã hội. Gia đình truyền
thống Việt Nam đề cao nghĩa tình, sự thủy chung chồng vợ, thờ phụng tổ tiên,
biết ơn cha mẹ, chữ hiếu, tôn trọng người già, lễ nghĩa, trật tự kỷ cương… Gia
đình lại gắn chặt với dòng họ, xóm làng, xã hội tạo nên cộng đồng bền chặt từ
trong gia đình ra ngoài xã hội. Những yếu tố văn hóa truyền thống nêu trên
tạo cơ sở nền tảng để phụ nữ Việt Nam tiếp tục phát huy những phẩm chất,
đạo đức truyền thống trong bối cảnh hiện nay. Nhờ có nền tảng truyền thống
vững chắc, nhiều phụ nữ Việt Nam đã vượt qua những cạm bẫy, những cám
dỗ, những khó khăn, vất vả trong công việc xã hội cũng như trong gia đình,
hoàn thành vai trò “kép” của mình một cách xuất sắc. Đồng thời, người phụ
nữ hiện đại ngày càng nhận thức rõ vị trí, vai trò của mình trong gia đình và
trong xã hội nên đã không ngừng học tập, tu dưỡng nâng cao nhận thức bản
thân đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của xã hội.
2.2. Những biến đổi về tình cảm
Lòng yêu nước, yêu quê hương, đồng bào, lý tưởng cuộc sống cao đẹp
cũng như tình cảm gắn bó với gia đình, dòng họ là động lực, là sức mạnh tự
thân giúp người phụ nữ vươn lên, khắc phục mọi khó khăn, trở ngại để có thể
làm giàu kiến thức của mình, có sức khỏe dẻo dai, có lối sống văn hóa, hoàn
thành được nhiệm vụ đặt ra, cả sự nghiệp và gia đình. Rất nhiều phụ nữ làm
ra tiền, có địa vị xã hội nhưng vẫn không quên thiên chức làm vợ, làm mẹ. Họ
biết tận dụng giờ nghỉ, tranh thủ đi chợ, nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa, chăm sóc
con cái, chăm sóc chồng và cả gia đình chồng, lại còn phải tranh thủ đi học để
12


nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Đó mới chính là
hiện thân của phụ nữ trong thời đại mới, hội đủ các yếu tố “ công, dung,

ngôn, hạnh” thời nay. Đã có một thời, nền nếp gia đình truyền thống bị coi là
cổ hủ, là phong kiến, là kìm hãm sự nghiệp giải phóng phụ nữ, và chúng ta đã
dần xóa bỏ cái cũ, cái lạc hậu của mô hình “gia đình phong kiến”. Tuy nhiên,
không phải mọi cái cũ đều lạc hậu mà có thể trong đó chưa đựng những giá trị
tốt đẹp, vì thế không thể xóa bỏ triệt để mà một bộ phận phụ nữ nhận ra và
trân trọng những cái hay, cái đẹp, cái tinh hoa của gia đình truyền thống, cụ
thể là nét văn hóa ứng xử trong quan hệ vợ chồng, quan hệ giữa bố mẹ chồng
và con dâu, quan hệ giữa cha mẹ và con cái.
Trong cơ chế thị trường hiện nay, một bộ phận phụ nữ khác đã không
gìn giữ và phát huy những vốn quý đó nên những giá trị đạo đức rất dễ bị đảo
lộn. Sự dịu dàng, ân cần, khéo léo, sự ngoan ngoãn, tôn trọng người trên và
tình yêu, tình thương của một người con, người vợ, người mẹ không còn là
chìa khóa bảo vệ hạnh phúc gia đình, xây dựng gia đình trở thành tổ ấm thực
sự, góp phần xây dựng một xã hội phát triển lành mạnh. Mô hình người phụ
nữ xưa chỉ là con người “bổn phận và trách nhiệm”, nhằm thỏa mãn những
yêu cầu của gia đình và xã hội của thời bấy giờ đã không còn phù hợp. Gia
đình trong xã hội hiện đại đang cần những người vợ, người mẹ đảm đang,
thông minh, tinh tế, nhân hậu, năng động và sáng tạo. Song họ đang phải chịu
những thách thức của mặt trái nền kinh tế thị trường trong xã hội hiện đại. Do
những biến đổi xã hội, do mặt trái của nền kinh tế thị trường với việc đề cao
giá trị vật chất, tiền bạc mà các tệ nạn xã hội len lỏi vào từng ngõ ngách xã
hội, vào nhiều gia đình... khiến cho vấn đề ly hôn, ngoại tình ngày càng trở
nên bức xúc. Hình ảnh những người phụ nữ trẻ chờ đợi chồng bên mâm cơm
nguội ngắt đã không còn là cá biệt ở thành phố.
Một mặt khác, cám dỗ về những mối tình tay ba, lãng mạng và ngang
trái của những người phụ nữ cũng không còn là việc hiếm gặp. Cho nên, có lẽ
chưa bao giờ vấn đề trách nhiệm của mỗi thành viên trong gia đình lại được
13



đặt ra lớn đến vậy. Việc gìn giữ tình cảm, sự cảm thông, gần gũi về tinh thần
của hai vợ chồng, cũng như vai trò tinh thần của việc thoả mãn quan hệ chăn
gối trong gia đình không thể né tránh một thực tế là quan hệ gia đình ngày
nay đang bị "xã hội hoá" một cách ghê gớm. Những quan hệ ngoài hôn nhân
ngày càng nhiều, thậm chí ngày càng có phần công khai. Mong ước của đại đa
số chị em phụ nữ ngày nay, có lẽ là: một người chồng biết cảm thông (vừa là
bạn vừa là người yêu), một gia đình hoà thuận, những đứa con khoẻ mạnh,
ngoan ngoãn, một công việc thích hợp với khả năng, thu nhập khá, có cơ hội
phát triển tài năng và khẳng định vai trò xã hội của mình. Những mong ước
nói trên không thể thực hiện được nếu thiếu sự giúp đỡ của "phái mạnh", của
gia đình và xã hội. Khi ở vào thời kỳ mới, để khẳng định và phát huy vai trò
của mình, phụ nữ Việt Nam có nhiều mặt thuận lợi do sự phát triển kinh tế
mang lại, nhưng đồng thời với nó là những thử thách họ cần phải vượt qua.
Lòng chung thủy của phụ nữ đứng trước thách thức lớn khi tình cảm gia đình
luôn có nguy cơ phai nhạt.
2.3. Những biến đổi về hành vi
Xu thế đổi mới và hội nhập của đất nước chính là một trong những điều
kiện quan trọng, là động lực giúp người phụ nữ vươn lên, khắc phục mọi khó
khăn, trở ngại để đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra, khẳng định vị thế của mình
trong gia đình và xã hội.
2.3.1 Phụ nữ tham gia hoạt động chính trị
Ngày nay, phụ nữ Việt Nam vẫn tiếp tục giữ các vị trí lãnh đạo chính
trị. Tuy nhiên, so sánh với nam giới tỷ lệ phụ nữ Việt Nam tham chính là rất
hạn chế và thiên lệch. Phụ nữ Việt Nam đã tham gia làm lãnh đạo chính trị và
được bầu làm nữ đại biểu Quốc hội lần đầu tiên vào năm 1976, nhưng tiến
trình tham chính không ổn định. Từ năm 1992 đến 2007, tỷ lệ phụ nữ trong
Quốc hội tăng từ 18,5% lên 27,3%, và trong cuộc bầu cử gần đây, tỷ lệ giảm
xuống còn 25,7%. Trong hội đồng nhân dân các cấp, phụ nữ chiếm 19,5% các

14



chức vụ phó Hội đồng Nhân dân ở cấp xã là 23% và cấp quận là 23% ở cấp
tỉnh/thành phố.
Tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội khóa XIII (2011-2016) đạt 24,4%, đưa
Việt Nam nằm trong nhóm nước có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao ở khu vực
và thế giới (đứng thứ 43/143 nước trên thế giới và thứ 2 trong ASEAN).
Phụ nữ đảm nhiệm nhiều vị trí lãnh đạo chủ chốt của đất nước như Phó Chủ
tịch nước, Phó Chủ tịch Quốc hội, Bộ trưởng; 14/30 Bộ hoặc cơ quan trực
thuộc Chính phủ có Thứ trưởng là nữ. Ở các địa phương, nhiều phụ nữ giữ
vai trò chủ chốt ở các cấp, các ngành, góp phần giải quyết các vấn đề quan
trọng. Nữ doanh nhân là người dân tộc thiểu số tăng, đặc biệt trong lĩnh vực
giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu
số được phát huy.
Phụ nữ có cơ hội thực hiện quyền bình đẳng của mình thông qua việc
tham gia ban hành các quyết định, xây dựng và thực thi pháp luật, chính sách,
đáp ứng nhu cầu và lợi ích giới; được cử đại diện xứng đáng trong các cơ
quan dân cử, cơ quan quản lý nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Trong hơn 20 năm qua, Việt Nam luôn có Phó Chủ tịch nước là phụ nữ.
Trong Quốc hội, tỷ lệ nữ đại biểu trong 3 nhiệm kỳ gần đây đều đạt trên 25%.
Các cơ quan dân cử ở địa phương có tỷ lệ đại biểu nữ tăng từ nhiệm kỳ 1999 2004 đến nhiệm kỳ 2005 - 2011: tỷ lệ nữ tham gia hội đồng nhân dân cấp tỉnh
tăng từ 22,3% lên 23,8%; cấp huyện tăng từ 20,1% lên 23,2%; cấp xã tăng từ
16,6% lên 20,1%. Mặc dù so với yêu cầu thực tiễn, tỷ lệ này chưa cao nhưng
phần nào đã chứng tỏ vai trò quan trọng của phụ nữ trong việc đảm nhận
trọng trách trong cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương.
2.3.2 Phụ nữ tham gia công tác quản lý
Phụ nữ Việt Nam chiếm 51,48% số dân và 48% lực lượng lao động
toàn xã hội, và chiếm khoảng 20% cán bộ làm công tác lãnh đạo và quản lý
nhà nước các cấp từ Trung ương đến cơ sở. Trong đó, số nữ Ủy viên Trung
ương Ðảng khóa VII là 12, khóa VIII tăng lên 18 (tuy vậy khóa IX lại còn

15


12). Ở cấp tỉnh, tỉnh ủy viên là nữ cũng tăng từ 182 ở khóa VII lên 280 trong
khóa VIII. Phụ nữ tham gia các cấp ủy địa phương đạt 10-11%, trong đó bí
thư, phó bí thư, ủy viên thường vụ đạt từ 3% đến 8%. Phần lớn các chị tham
gia thường vụ cấp ủy đều được phân công công tác kiểm tra và dân vận. Về
chính quyền, trong khóa VIII, tỷ lệ nữ Bộ trưởng và tương đương chiếm
13,1%, nữ Thứ trưởng và tương đương chiếm 7,4%; nữ vụ trưởng, vụ phó và
tương đương chiếm 13%. Chủ tịch UBND cấp tỉnh, huyện và xã có khoảng
1,6% là nữ. Phó Chủ tịch UBND là 2 - 4%. Khóa 1999 - 2004, số nữ là đại
biểu HÐND cấp tỉnh chiếm 22,5%, cấp huyện chiếm 20,7%, cấp xã chiếm
17%. Nữ đại biểu QH khóa X là 26,22%, khóa XI là 27,31%. Việt Nam là
nước có tỷ lệ nữ đại biểu QH cao thứ hai trong khu vực châu Á - Thái Bình
Dương (sau New Zealand).
Hiện nay, số cán bộ công chức (CBCC) nữ tham gia công tác quản lý
nhà nước trong hệ thống chính quyền các cấp nhiều hơn so với trước: Một
Phó Chủ tịch nước, ba Bộ trưởng, 26 thứ trưởng và tương đương, hai Chủ tịch
UBND, 22 Phó Chủ tịch UBND tỉnh. Tuy nhiên, tỷ lệ CBCC nữ tham gia
lãnh đạo ở cấp bộ, vụ còn thấp, mới khoảng 8 - 15%, chưa tương xứng lực
lượng lao động và năng lực đóng góp của phụ nữ.
Trong thực tế, phụ nữ Việt Nam đang có mặt ở hầu hết cơ quan quản lý
hành chính, sự nghiệp và doanh nghiệp. Phụ nữ chiếm 50,3% số người làm
công ăn lương và 32,4% các chủ doanh nghiệp.
2.3.3 Phụ nữ trong lĩnh vực kinh tế - lao động
Trong lĩnh vực kinh tế, cơ hội của phụ nữ tiếp cận việc làm có thu nhập
cao và các nguồn lực kinh tế vẫn còn thấp hơn so với nam giới. Một số chỉ
tiêu đặt ra ở Chiến lược quốc gia bình đẳng giới về lao động, đào tạo,… vẫn
chưa đạt được. Theo số liệu của Tổng Cục Thống kê, tỷ lệ lao động nữ nông
thôn dưới 45 tuổi được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật đạt 11,8% năm

2013, bằng gần một nửa so với chỉ tiêu kế hoạch đề ra.
16


Trong thực tế, phụ nữ Việt Nam đang có mặt ở hầu hết cơ quan quản lý
hành chính, sự nghiệp và doanh nghiệp. Phụ nữ chiếm 50,3% số người làm
công ăn lương và 32,4% các chủ doanh nghiệp.
Trong lĩnh vực kinh tế: Trong số hơn 300 nghìn doanh nghiệp hoạt
động theo Luật Doanh nghiệp, có khoảng 15% do phụ nữ đứng đầu hoặc nắm
giữ cương vị chủ chốt. Tỷ lệ phụ nữ làm quản lý doanh nghiệp của một số
ngành: dệt, may mặc, giày dép, thực phẩm, đồ uống... chiếm hơn 50%, ở các
ngành giao thông - vận tải, xây dựng, khai khoáng... có 20% người quản lý
doanh nghiệp là nữ. Trong số 900 nghìn hộ kinh doanh gia đình, có 27% do
phụ nữ điều hành.
Với hơn 50% dân số, phụ nữ tham gia vào hầu hết các ngành nghề,
công việc, kể cả những lĩnh vực trước đây dường như chỉ dành cho nam giới.
Với 50,2% tỷ trọng lao động trong sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp, đội ngũ
cán bộ nữ khoa học, phụ nữ nông dân đã có đóng góp lớn vào thành tựu sản
xuất, phát triển kinh tế. Sự đóng góp của đội ngũ lao động nữ trên lĩnh vực
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, kinh doanh dịch vụ cũng là động lực để
phát triển kinh tế; nhiều chị em đã phấn đấu vươn lên, giữ nhiều cương vị chủ
chốt trong hoạt động quản trị doanh nghiệp. Ngoài ra, quyền của phụ nữ về
kinh tế đã được nâng lên thông qua việc pháp luật quy định phụ nữ cùng đứng
tên với nam giới trong giấy chứng nhận quyền sở hữu đất đai, nhà ở và tài
sản. Cơ hội tiếp cận tín dụng của phụ nữ được cải thiện.
Trong lĩnh vực khoa học - công nghệ: Đội ngũ nữ trí thức Việt Nam
đã có bước trưởng thành cả về số lượng và chất lượng với 36,64% trong khoa
học tự nhiên; 43,42% trong lĩnh vực khoa học nông - lâm - thủy sản; 33%
trong khoa học công nghệ; 38,27% trong khoa học xã hội và nhân văn. Trong
các cơ sở nghiên cứu, đã có 6,3% cán bộ phụ trách là nữ; 10% đề tài nghiên

cứu khoa học cấp nhà nước do phụ nữ làm chủ nhiệm. Nhiều đề tài nghiên
cứu, sáng kiến khoa học của họ đã làm lợi cho đất nước nhiều tỉ đồng. Ngày
càng nhiều tập thể và cá nhân các nhà khoa học nữ có công trình nghiên cứu
17


được nhận giải thưởng VIFOTEC của Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật
Việt Nam, Bằng lao động sáng tạo của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam,
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Giải thưởng Phụ nữ Việt Nam, Giải thưởng
Kô-va-lép-xkai-a... Nhiều nhà khoa học nữ đã lập ra các hội nghề nghiệp, các
câu lạc bộ, trung tâm nghiên cứu, tư vấn để tiếp tục phát huy trí tuệ, tài năng
của mình đóng góp vào sự nghiệp phát triển đất nước.
Trong lĩnh vực giáo dục: Hiện nay, phụ nữ chiếm tỷ lệ 61% những
người có trình độ cao đẳng, 34% những người có trình độ đại học, 30% những
người có trình độ thạc sĩ, 21% những người có trình độ tiến sĩ và 4% những
người là tiến sĩ khoa học. Mặt bằng học vấn này đã giúp phụ nữ tham gia
ngày càng tốt hơn công tác quản lý nhà nước.
Hiện nay, đội ngũ nữ chỉ chiếm 4% giáo sư, 25% tiến sĩ và 9% số
người được trao tặng các giải thưởng về khoa học - công nghệ, chứng tỏ việc
đào tạo nhân lực trong giới nữ chưa tương xứng yêu cầu của sự nghiệp giải
phóng phụ nữ và nguyện vọng chị em. Những năm qua, tuy số lượng phụ nữ
tham gia quản lý nhà nước tăng lên về con số tuyệt đối, song tỷ trọng lại có xu
hướng giảm.
Trong xây dựng gia đình: Phụ nữ Việt Nam tiếp tục có những đóng
góp lớn: góp phần giải quyết hài hòa các mối quan hệ xã hội và gia đình, đảm
đang gánh vác cả việc nước lẫn việc nhà, tiếp tục là lực lượng nòng cốt để bảo
vệ tổ ấm gia đình trong thời kỳ kinh tế thị trường. Đáng chú ý là, chị em đã
thể hiện vai trò rõ nét trong xây dựng gia đình theo chuẩn mực no ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, phòng chống tệ nạn xã hội từ gia đình.
Tất cả những thành tựu này khẳng định vai trò to lớn của phụ nữ Việt

Nam trong thời kỳ hội nhập và phát triển ngày nay, góp phần khẳng định các
giá trị của người phụ nữ hiện đại năng động, tự tin, ngày càng chứng tỏ được
vị thế, vai trò quan trọng của mình trong gia đình và trong xã hội. Đó là
minh chứng cho sự nỗ lực không mệt mỏi, không ngừng nghỉ của phụ nữ
18


Việt Nam trong việc hưởng ứng, thực hiện các chính sách đúng đắn của
Đảng và Nhà nước ta đối với phụ nữ, đưa vị thế xã hội của người phụ nữ lên
một tầm cao mới.
Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, phụ nữ cần tiếp tục nỗ
lực phấn đấu, vượt qua những khó khăn, cản trở như trình độ học vấn, chuyên
môn, nghề nghiệp còn thấp; cơ hội có việc làm khó hơn so với nam giới; ở
những vùng khó khăn, điều kiện sống và làm việc của phụ nữ chưa được bảo
đảm; tâm lý tự ti vẫn còn ăn sâu trong một bộ phận phụ nữ vốn có thói quen
sống an phận; tư tưởng định kiến giới trong xã hội, gia đình vẫn còn tồn tại
dai dẳng, trở thành lực cản đối với sự tiến bộ của nữ giới.
2.4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu những biến đổi tâm lý của phụ nữ
trong hoạt động tuyên truyền giai đoạn hiện nay
Bản chất của hoạt động tuyên truyền là tác động đến nhận thức tình
cảm của con người nhằm làm chuyển biến nhận thức, thái độ và hành vi của
họ. Vì vậy, để công tác tuyên truyền có hiệu quả việc nắm vững những đặc
điểm tâm lý của đối tượng tuyên truyền nói chung và của phụ nữ nói riêng có
ý nghĩa rất quan trọng.
Trên cơ sở nắm được đặc điểm tâm lý cơ bản của phụ nữ, những người
tuyên truyền sẽ hoạt động có hiệu quả nếu làm tốt các mặt sau:
- Lựa chọn nội dung tuyên truyền phù hợp: Do nhận thức của phụ nữ
còn thấp hơn so với nam giới, nên nội dung tuyên truyền với họ phải thật cụ
thể, dễ hiểu, đồng thời nội dung ấy cần phải gắn với công việc cụ thể, gắn với
chồng, con, với gia đình của họ, giúp họ dễ hiểu, dễ nhớ và dễ vận dụng trong

thực tiễn cuộc sống. Để nâng cao hiệu quả tuyên truyền cần có nhiều nội dung
hoạt động cho một chủ đề làm cho nó phong phú, hấp dẫn hơn đối với phụ nữ.
- Lựa chọn phương pháp hợp lý: Việc lựa chọn nội dung tốt là quan
trọng nhưng nếu không có phương pháp phù hợp thì không thể đến với đối
tượng phụ nữ, những người cần những điều cụ thể, thiết thực cho cuộc sống.
Để tuyên truyền cho phụ nữ có hiệu quả cần chú ý phân loại và sử dụng các
19


phương pháp cho phù hợp với từng đối tượng và phù hợp với hoàn cảnh cụ
thể như tuyên truyền bằng lời nói, bằng chữ viết, bằng hình ảnh…
- Lựa chọn và vận dụng hình thức tuyên truyền cho phù hợp và biết
kết hợp tốt các hình thức tuyên truyền.
Các hình thức tuyên truyền cần phong phú và có thể tiến hành cùng
một lúc nhiều hình thức khác nhau như:
+ Tuyên truyền thông qua đài phát thanh và vô tuyến truyền hình,
thông qua các hình thức nói chuyện, qua phim ảnh, qua tổ chức các cuộc thi
theo chủ đề…
+ Tuyên truyền thông qua quá trình tiếp xúc trực tiếp của cán bộ cơ sở
và các tuyên truyền viên tới từng phụ nữ hoặc với nhóm phụ nữ để cùng tham
luận về một chủ đề nào đó.
+ Tuyên truyền qua các hoạt động nghệ thuật như phim, kịch, hội hoạ,
tác phẩm văn học…
+ Cần lưu ý là phụ nữ Việt Nam rất giàu tình cảm, vì thế lấy tình cảm
để cảm hóa trong tuyên truyền, vận động có ý nghĩa quan trọng.
Sử dụng các hình thức tuyên truyền, giáo dục phù hợp với từng đối
tượng, từng địa bàn. Tuỳ theo tình hình, đặc điểm cụ thể của từng đối tượng,
địa bàn, sử dụng linh hoạt các hình thức tuyên truyền, giáo dục phẩm chất,
đạo đức phụ nữ Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước:

- Tổ chức truyền thông trực tiếp:
Mở các chiến dịch truyền thông, các hoạt động truyền thông nhân các
dịp lễ lớn của dân tộc, các ngày truyền thống của ngành, đoàn thể; mở các lớp
tập huấn, nói chuyện chuyên đề, lồng ghép trong các buổi họp, sinh hoạt tập
thể, sinh hoạt câu lạc bộ;
- Tuyên truyền, giáo dục thông qua các phương tiện thông tin đại
chúng: Báo in, báo điện tử, đài phát thanh, truyền hình, mạng lưới truyền
thanh cơ sở, mạng internet...;
20


- Tổ chức thi sáng tác, thi viết, thi tìm hiểu như: xây dựng phim truyền
hình, phim tài liệu, video clip ngắn, tiểu phẩm, kịch ... về tiêu chí phụ nữ Việt
Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

21


KẾT LUẬN
Trong rất nhiều phẩm chất cao đẹp của phụ nữ thì đức tính nhân hậu là
giá trị truyền thống của phụ nữ Việt Nam đã được hình thành và khẳng định
trong suốt quá trình lịch sử của dân tộc. Truyền thống ấy được hun đúc, bồi
đắp nên qua những thăng trầm của lịch sử. Trên cơ sở đó, người phụ nữ hiện
đại đã kế thừa và phát huy giá trị truyền thống cho phù hợp với công cuộc
đổi mới đất nước hôm nay, xứng đáng với lời ngợi khen ‘‘Trung hậu, đảm
đang, tài năng, anh hùng’’.
Như vậy, những người phụ nữ Việt Nam hiện đại mang trong mình
truyền thống được đúc kết qua lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước; tự
giác phát huy truyền thống đó trong hoàn cảnh và điều kiện mới, trên cơ sở
vừa mang phẩm chất chung cho con người, lại vừa mang đặc trưng giới.

Nhân hậu là phẩm chất cao đẹp, tôn lên vẻ đẹp quý báu của phụ nữ Việt
Nam. Lòng nhân hậu của phụ nữ Việt Nam đã góp phần vào chiến thắng của
dân tộc trước đây. Đến nay, những đặc điểm tâm lý và phẩm chất ấy vẫn tỏa
sáng, giúp người phụ nữ vẹn tròn công tác xã hội, công việc gia đình, làm
tròn thiên chức của người vợ, người mẹ, xứng đáng với danh hiệu Giỏi việc
nước, đảm việc nhà. Những phẩm chất ấy có ý nghĩa thiết thực với mọi thời
đại, đặc biệt là trong thời kỳ CNH, HĐH hiện nay. Chính điều đó ngày càng
khẳng định vị thế của người phụ nữ trong xã hội hiện đại. Mặt khác, những
đặc điểm tâm lý, phẩm chất mà người phụ nữ Việt Nam tự hào cũng là
những điều mà thế giới đang quan tâm.

22


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Hà Thị Bình Hòa: Giáo trình tâm lý học tuyên truyền, Nxb. Lao
động - xã hôi, Hà Nội 2013
2. Trần Thị Vân Anh và Lê Ngọc Hùng: Phụ nữ, giới và phát triển,
1996, Nxb Phụ nữ, Hà Nội
3. GS. Lê Thi: Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới ở Việt Nam,
1998 của, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
4. Nguyễn Thị Thanh Hòa: Nâng cao vị thế của phụ nữ Việt Nam trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Tạp chí cộng sản.
5. Lịch sử truyền thống phụ nữ Việt Nam.
6. Tài liệu tuyên truyền giáo dục về phẩm chất đạo đức phụ nữ trong
giai đoạn hiện nay.

23



MỤC LỤC

24



×