Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

tiểu luận cao học VAI TRÒ của mặt TRẬN tổ QUỐC VIỆT NAM TRONG KIỂM SOÁT QUYỀN lực CHÍNH TRỊ ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (434.07 KB, 48 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Cùng với sự xuất hiện giai cấp và sự ra đời của nhà nước quyền lực chính
trị và vấn đề kiểm soát quyền lực đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của mỗi
quốc gia, nhằm duy trì, củng cố và bảo vệ quyền thống trị của giai cấp cầm
quyền trong xã hội. Quyền lực có tính tha hóa – đó là đặc tính tất yếu của quyền
lực khi có sự tập trung thống nhất thành quyền lực nhà nước – tha hóa quyền lực
làm cho nó không còn là nó nữa, quyền lực bị biến chất đôi khi đối lập lại ý
nghĩa ban đầu của nó. Vấn đề này chỉ được khắc phục khi quyền lực được kiểm
soát chặt chẽ, khi ấy quyền lực nhà nước sẽ phát huy được ý nghĩa thực sự của
nó.
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Kiểm soát quyền lực đã và đang trở thành vấn đề quan trọng hàng đầu
trong việc củng cố, bảo vệ và phát huy quyền thống trị của giai cấp cầm quyền ở
tất cả các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới, ở Việt Nam, hơn bao giờ hết vấn
đề kiểm soát quyền lực là vấn đề có vị trí quan trọng trong việc thực thi quyền
lực của nhân dân, đảm bảo mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.
Lịch sử hình thành và phát triển của đất nước, đặc biệt qua hai cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã thực chứng rằng: nhà nước ta, chế
độ ta luôn phấn đấu đảm bảo quyền lực của nhân dân trong lãnh đạo, xây dựng
và phát triển đất nước. Nhân dân là chủ thể của mọi quyền lực nhà nước, nhưng
nhân dân trao quyền của mình cho những đại biểu ưu tú nhằm thực thi quyền lực
ấy. Sự tập trung quyền lực đến một mức độ nào đó sẽ dẫn đến sự lợi dụng quyền
lực của một số đại biểu biến chất không trung thành với lợi ích quốc gia, lợi ích
dân tộc, đi ngược lại lợi ích nhân dân, quyền lực bị tha hóa. Do đó, kiểm soát
quyền lực chính là cơ chế đảm bảo quyền lực của nhân dân trong hệ thống
quyền lực nhà nước. Ngày nay, trong bối cảnh nước ta đã và đang mở rộng cánh
cửa hội nhập vào nền kinh tế thế giới, vấn đề kiểm soát quyền lực càng phải chú
trọng hơn nữa. Mở cửa hội nhập, đồng nghĩa chúng ta phải chấp nhận đương
đầu với không ít khó khăn, với những âm mưu thâm độc của kẻ thù, của các thế
1



lực phản động đang tìm cách chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam, chống phá
nhà nước và công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Lợi dụng
sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự bùng nổ của mạng internet toàn cầu, các
thế lực thù địch đã và đang tìm cách tấn công vào bộ máy quyền lực nước ta,
hòng làm lung lạc ý chí của một số cán bộ, đảng viên không kiên định về tư
tưởng, phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Hơn
bao giờ hết, việc giám sát , kiểm soát quyền lực chính trị ở nước ta hiện
nay trở thành vấn đề bức thiết. Phương châm “ dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra” phải thực sự đi vào cuộc sống, phát huy hơn nữa “ VAI TRÒ CỦA
MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TRONG KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC
CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY ” là vấn đề cấp bách và có ý nghĩa to
lớn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đó cũng chính là đề tài
mà tiểu luận này hướng tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Vấn đề kiểm soát và vai trò kiểm soát quyền lực của Mặt trận Tổ quốc là vấn đề
nhận được nhiều sự quan tâm của Đảng, nhà nước và các đồng chí lãnh đạo cao
cấp của Đảng và nhà nước được thể hiện qua nhiều cuộc nghiên cứu, hội thảo
khoa học trong đó phải kể đến các cuộc hội thảo về “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận dân tộc thống nhất” (Kỷ yếu hội thảo khoa học
– thực tiễn. Lê Quang Đạo, Hoàng Tùng, Nông Quốc Chấn. Nxb chính trị quốc
gia. 1996), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết và mặt trận đoàn kết dân
tộc” (Nguyễn Bích hạnh, Nguyễn Văn Khoan. Nxb Lao Động. 1999). Ngoài ra
phải kể đến nhiều công trình nghiên cứu, nhiều luận văn, luận án tiến sĩ nghiên
cứu về vấn đề này. Gần đây nhất là công trình nghiên cứu của Nguyễn Thọ Ánh
nhan đề “ Thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam hiên nay” (luận án tiến sĩ năm 2010)… Nhìn chung các cuộc hội
thảo, các luận án, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập sâu rộng đến vai trò
giám sát, phản biện xã hội của mặt trận Tổ quốc qua các giai đoạn, các thời kì.
Nhưng xét thấy đây là vấn đề thu hút được sự quan tâm của nhiều ngươi và tính

thời sự của vấn đề vẫn còn nguyên vẹn. Vì thế tiểu luận này tiếp tục đề cập đến
2


vai trò giám sát phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc theo cách tiếp cận mới
phù hợp với yêu cầu của thời kì đổi mới đất nước dưới nhã quan của chủ nghĩa
Mác – Lênin và tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong hệ
thống chịnh trị nước ta.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.
Do tính cấp thiết của đề tài, trong khi nghiên cứu tiểu luận đề ra một số
mục tiêu căn bản sau: làm rõ vai trò giám sát, phản biện xã hội và kiểm soát
quyền lực chính trị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Trên cơ sở đó đề ra một số giải pháp nhằm phát huy vai trò kiểm soát quyền lực
của mặt trận tổ quốc trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Tiểu luận lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam làm cơ sở lý luận trong quá trình nghiên
cứu.
Trong khi nghiên cứu tiểu luân sử dụng một số phương pháp căn bản như:
phương pháp duy vật biện chứng , phương pháp lịch sử vấn đề, phương pháp
lôgic của chủ nghĩa Mác – Lênin, ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp
khác: phương pháp so sánh, phương pháp phân tích tài liệu…
5. Phạm vi nghiên cứu.
Do yêu cầu và thời gian bị giới hạn lên tiểu luận chỉ dừng lại ở việc tìm
hiểu vai trò kiểm soát quyền lực của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay.
KẾT CẤU TIỂU LUẬN.
Tiểu luận gồm 3 phần căn bản được bố cục thành ba chương:
Chương I: Lý luận.
Chương II: Thực trạng.

Chương III: Giải pháp.
Phụ lục.
3


Chương I: LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC.
4


1. Vài nét về kiểm soát quyền lực trong lịch sử.
Ngay từ thời kì cổ đại, tư duy chính trị phương tây đã đề cập đến vấn đề kiểm
soát quyền lực chính trị, mà cơ bản nhất vẫn là thông qua việc kiểm soát quyền
lực nhà nước. Người đâu tiên đưa ra tư tưởng kiểm soát quyền lực trong lịch sử
phải kể đến chính là Arixtot. Ông cho rằng quyền lực nhà nước chỉ có thể được
kiểm soát khi quyền lực nhà nước được phân thành quyền lập pháp, quyền hành
pháp và quyền tư pháp, mà sau này tư tưởng chính trị phương Tây đã tiếp tục
phát triển như cơ chế sơ đẳng để thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước.
John Locke (1632 - 1704), một nhà triết học người Anh, ông là người đầu tiên
khởi thảo ra thành hệ thống lý luận hoàn chỉnh về học thuyết phân quyền, và
được thể hiện trong tác phẩm “Khảo luận về hai Chính quyền.” Về quyền lực
nhà nước, ông cho rằng “chỉ có thể có một quyền lực tối cao, là cơ quan lập
pháp, mà tất cả các quyền lực còn lại là, và phải là, những cái phụ thuộc vào
nó.” Theo đó, có thể thấy Locke đồng nhất quyền lực nhà nước với quyền lập
pháp.
Ông chia quyền lực nhà nước thành các phần: lập pháp, hành pháp và liên minh.
Theo đó, quyền lập pháp là quyền lực cao nhất trong nhà nước, và phải thuộc về
nghị viện; nghị viện phải họp định kỳ thông qua các đạo luật, nhưng không thể
can thiệp vào việc thực hiện chúng. Quyền hành pháp phải thuộc về nhà vua.
Nhà vua lãnh đạo việc thi hành pháp luật, bổ nhiệm các chức vị, chánh án và các
quan chức khác. Hoạt động của nhà vua phụ thuộc vào pháp luật và vua không

có đặc quyền nhất định nào với nghị viện nhằm không cho phép vua thâu tóm
toàn bộ quyền lực về tay mình và xâm phạm vào các quyền tự nhiên của công
dân. Nhà vua thực hiện quyền liên minh, tức là giải quyết các vấn đề chiến
tranh, hòa bình và đối ngoại.
Những luận điểm phân quyền của J. Locke đã được nhà khai sáng người Pháp,
C.L. Montesquieu (1689 – 1775) phát triển. Montesquieu đã phát triển một cách
toàn diện học thuyết phân quyền, và sau này khi nhắc tới thuyết phân quyền
người ta nghĩ ngay đến tên tuổi của ông.
5


Trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật”, Montesquieu đã lập luận tinh tế và chặt
chẽ tính tất yếu của việc tách bạch các nhánh quyền lực và khẳng định: “Trong
bất cứ quốc gia nào đều có ba thứ quyền: quyền lập pháp, quyền thi hành những
điều hợp với quốc tế công pháp và quyền thi hành những điều trong luật dân
sự.” Ta có thể nhận ra sự tiến bộ trong tư tưởng phân quyền của Montesquieu so
với tư tưởng của Locke, khi tách quyền lực xét xử - quyền tư pháp ra độc lập với
các thứ quyền khác.
Từ đó, Montesquieu chủ trương phân quyền để chống lại chế độ chuyên chế,
thanh toán nạn lạm quyền, để chính quyền không thể gây hại cho người bị trị và
đảm bảo quyền tự do cho nhân dân. Montesquieu đã viết: “Khi mà quyền lập
pháp và hành pháp nhập lại trong tay một người hay một Viện Nguyên Lão, thì
sẽ không có gì là tự do nữa, vì người ta sợ rằng chính ông ta hoặc viện ấy chỉ đặt
ra những luật độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng không có gì là tự do
nếu như quyền tư pháp không tách rời quyền lập pháp và hành pháp. Nếu quyền
tư pháp được nhập với quyền lập pháp, thì người ta sẽ độc đoán với quyền sống,
quyền tự do của công dân; quan tòa sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp
nhập lại với quyền hành pháp thì quan tòa sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn áp. Nếu
một người hay một tổ chức của quan chức, hoặc của quý tộc, hoặc của dân
chúng, nắm luôn cả ba thứ quyền lực nói trên thì tất cả sẽ mất hết."

Tư tưởng phân chia quyền lực của Montesquieu đã được Enmanuel Kant, nhà
triết học Đức thế kỉ XVIII tiếp tục kế thừa và bổ sung. Kant không theo hoàn
toàn tư tưởng phân chia quyền lực của Montesquieu mà ông thiết kế cấu trúc
quyền lực nhà nước gồm 3 quyền: lập pháp thể hiện ý nguyện và chủ quyền tập
thể của nhân dân; hành pháp đòi hỏi người cầm quyền theo luật và tuân thủ pháp
luật; tư pháp do quyền lực hành pháp bổ nhiệm. Theo Kant việc phân chia quyền
lực nhà nước theo cách trên có thể ngăn ngừa chuyên chế và đảm bảo sự phồn
vinh cho quốc gia.

6


2. Khái niệm về kiểm soát quyền lực.
2.1 Quyền lực nhà nước dưới góc nhìn của chủ nghĩa Mác Lênin
Trong xã hôi dân chủ, quyền lực công của xã hội được tổ chức và thực hiện dưới
hình thức quyền lực nhà nước. Tuy nhiên trong lịch sử, quyền lực nhà nước
được hình thành và luận giải theo nhiêu cách khác nhau. Song, bất kể do nguồn
gốc, cách thức nào thì các quan niệm về quyền lực nhà nước đều thống nhất rằng
quyền lực nhà nước là yếu tố cần của mọi xã hội.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin quyền lực hình thành trong xã hội là
quền lực công, có nguồn gốc từ quyền lực nhân dân. Quyền lực công là quyền
lực của mỗi người dân trong xã hội nhường lại cho cộng đồng nhằm đảm bảo
các điều kiện cần thiết về an ninh cho toàn xã hội tồn tại và phát triển. Nhưng
đến một lúc nòa đó, khi xã hội có sự phân chia giai cấp, giai cấp nào chiếm được
vị thế trong xã hội ( thông qua đấu tranh giai cấp ) đã dần chiếm giữ quyền lực
này để phục vụ và bảo vệ lợi ích của giai cấp mình. Điều này dẫn đến mâu thuẫn
gay gắt về giai cấp : giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Đến một lúc nào đó
mâu thuẫn này trở lên gay gắt – trở thành vật cản đối với sự phát triển xã hội,
khi ấy nhà nước xuất hiện như là một phương tiện để điều hòa, bao vây mâu
thuẫn này làm cho nó ở tình trạng “chấp nhận được” giữa các giai cấp trong xã

hội, khiến các giai cấp không tiêu diệt nhau và tiêu diệt luôn cả xã hội. Lúc này
quyền lực công đã chuyển hóa thành quyền lực nhà nước.
Trong xã hội, giai cấp nào chiếm được vị trí thống trị về kinh tế sẽ chiếm luôn vị
thế về quyền lực, sử dụng quyền lực nhà nước nhằm phục vụ lợi ích giai cấp,
đồng thời cũng đảm bảo ở mức độ nhất định lợi ích cá nhân và giai cấp khác
trong xã hội. Như vậy từ khi có giai cấp, quyền lực công đã chuyển hóa thành
quyền lực nhà nước, lúc này quyền lực công từ chỗ là quyền lực của nhân dân đã
trở thành quyền lực nhà nước, và trở thành lực lượng đứng trên nhân dân, quay
trở lại thống trị nhân dân. Xét về bản chất có thể coi đây chính là sự tha hóa của
quyền lực chính trị.
Chủ nghĩa Mác – Lênin, mà cái đích cao cả hướng đến chính là mục tiêu giải
phóng con người khỏi mọi áp bức bất công trong xã hội. Đó chính là công cuộc
7


xây dựng một xã hội cộng sản chủ nghĩa mà ở đó “ nhà nước bị tiêu vong”, “nhà
nước nửa nhà nước”. Khi mà nhà nước không còn tồn tại về mặt chính trị nữa
khi ấy tính giai cấp của nhà nước bị tiêu vong, lúc này sự tha hóa của quyền lực
nhà nước không còn nữa. Quyền lực nhà nước trở về đúng nghĩa của nó: là
quyền lực xã hội thực hiện chức năng công quản.
Như vậy có thể nói rằng: quyền lực nhà nước là quyền lực công của xã hội được
chế định bằng pháp luật, do giai cấp thống trị trong xã hội thực hiện nhằm bảo
đảm lợi ích của giai cấp mình trên cơ sở thực hiện ở mức độ nhấ định lợi ích cá
nhân và lợi ích xã hội.
Xét về bản chất quyền lực nhà nước vừa mang bnar chất giai cấp (tính giai cấp)
và vừa mang tính xã hội. Tính giai cấp của quyền lực nhà nước do quyền lực
nhà nước là quyền lực của giai cấp thống trị nhằm thực hiện lợi ích của giai cấp
mình. Quyền lực nhà nước là công cụ, là bạo lực có tổ chức cuả giai cấp thống
trị nhằm chấn áp giai cấp khác trong xã hội. Tính xã hội cảu quyền lực nhà nước
do nguồn gốc của nó quy định. Xét về nguồn gốc sâu xa, quyền lực nhà nước là

quyền lực công của xã hội được thiết lập để thực hiện các chức năng công cộng.
Cũng bởi chức năng này mà nhà nước ra đời và được xã hội chấp nhận, quyền
lực có tính hợp pháp.
2.2 Khái niệm kiểm soát quyền lực chính trị.
Kiểm soát quyền lực nhà nước là một vấn đề phức tạp. Sự phức tạp của kiểm
soát quyền lực nhà nước xuất phát từ những đặc tính của quyền lực nhà nước.
Các đặc tính này làm cho quyền lực nhà nước vừa có thể kiểm soát được nhưng
không kiểm soát được hết toàn bộ quyền lực nhà nước. hơn nữa quyền lực nhà
nước không phải quyền lực cá nhân ủy thác cho cá nhân mà là của tập thể ủy
thác cho cá nhân. Điều này cũng có nghĩa với việc trong tập thể xuất hiện những
“kẻ ăn theo” những kẻ không làm mà vẫn được hưởng lợi, điều này dẫn đến tình
trạng cá nhân không có động lực không mất chi phí kiểm soát mà trông chờ và
hưởng lợi từ sự kiểm soát của người khác. Vì vậy, tập thể kiểm soát những
người được ủy quyền như thế nào cũng là điều nan giải. Do tính chất phức tạp
8


của kiểm soát quyền lực nhà nước nên kiểm soát quyền lực nhà nước phải được
tổ chức thành hệ thống.
Theo cách tiếp cận hệ thống có thể chia kiểm soát quyền lực nhà nước thành:
kiểm soát từ bên ngoài nhà nước và kiểm soát từ bên trong nhà nước. Kiểm soát
từ bên ngoài là kiểm soát từ phía nhân dân và xã hội. Kiểm soát từ bên trong là
sự kiểm soát do nhà nước thực hiện hay còn gọi là sự kiểm soát của nhà nước.
Các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa luôn nhấn mạnh vào tự kiểm soát, tức lấy
giáo dục làm yếu tố chính trong việc giải quyết các vấn đề trong dài hạn. Dù
không phủ nhận kiểm soát bên ngoài bằng thể chế, các nhà tư tưởng vẫn coi đó
là các biện pháp tạm thời và mang tính hình thức. Mặt khác các biện pháp thể
chế cần được coi là công cụ giáo dục hơn là công cụ trừng phạt. Tuy nhiên, việc
giáo dục cơ bản là dài hạn và không có hiệu quả trong ngắn hạn, khi mà các
điều kiện kinh tế xã hội và cũng với đó là nhận thức về trách nhiệm xã hội chưa

đủ chín để chỉ dùng các ràng buộc có tính đạo lý, dựa trên cơ sở tự nhận thức
được các quy luật khách quan. Vì thế, trên thực tế các cơ chế kiểm soát này có
tác dụng bổ sung cho nhau. Tự kiểm soát quyền lực là quan trọng trong dài han,
nhưng trong ngắn hạn khi mà các điều kiện cần thiết chưa đầy đủ để tự kiểm
soát được tiến hành thì kiểm soát bằng thể chế là cần thiết và hiệu quả. Kiểm
soát bằng thể chế có tính ngăn chặn, hạn chế, đông thời cũng mang tính giáo dục
đối tượng kiểm soát góp phần tiến tới tự kiểm soát trong tương lai. Do vậy có
thể thấy rằng kiểm soát quyền lực nhà nước là một hệ thống những cơ chế thực
hiện bởi nhà nước và xã hội nhằm giữ cho việc thực thi quyền lực nhà nước
đúng mục đích và hiệu quả.
2.3 Tính tất yếu của kiểm soát quyền lực nhà nước.
Quyền lực nhà nước về bản chất nó không mang nghĩa tự thân vì nó mà là quyền
lực do nhân dân ủy quyền nhằm đảm bảo tối thiểu các điều kiện xã hội cần thiết
về an ninh, về các điều kiện kinh tế - xã hội khác để xã hội tồn tại và phát triển.
Chính vì nhân dân ủy quyền của mình cho nhà nước vì thế nhân dân có quyền
kiểm soát, xem xét xem quyền lực của mình có được thực hiện như thế nào?
Điều này có nghĩa quyền lực nhà nước là quyền lực được ủy quyền nên sự kiểm
9


soát quyền lực là cần thiết và chính đáng. Cũng cần phải khẳng định rằng: nếu
nhân dân trực tiếp thực hiện quyền lực của mình thì kiểm soát quyền lực trở lên
vô nghĩa, hoặc nếu quyền lực của nhân dân được ủy quyền cho người hoàn toàn
tốt thì vấn đề kiểm soát quyền lực cũng không cần đặt ra.
Nhưng do quyền lực nhà nước có tính ủy quyền, việc thực thi quyền lực nhà
nước được gián tiếp thông qua các đại diện vì thế xảy ra khả năng sai lệch mục
đích, kém hiệu quả do sự thiếu hoặc mất thông tin giữa người chủ thực sự của
quyền lực nhà nước (nhân dân) và người thưc thi quyền lực đó (nhà nước): Khả
năng nhà nước không kịp thời, nhạy bén nắm bắt đúng mục điích, lợi ích của
nhân dân, hay do nhà nước không hiểu đúng nghĩa mục đich; cũng không loại

trừ các đại diện vì lợi ích riêng có thể vượt quyền, lạm quyền làm tổn hại đến
mục tiêu chung của xã hội.
Mặt khác chính các đặ tính khác của quyền lực nhà nước như tính cưỡng chế,
khách quan và chủ quan, trực tiếp và gián tiếp… làm cho việc thực thi quyền lức
trở lên khó khăn và phức tạp. Quá trình này đòi hỏi phải có sự phản hồi, kiểm
soát để điều chình việc thực thi quyền lực đúng mục đích và đạt hiệu quả.
Cũng cần phải khẳng định rằng, chính tính độc đoán và cưỡng chế của quyền lực
nhà nước tạo cho nhà nước sức mạnh hơp pháp và lớn nhất trong xã hội. Song
không phải trong trường hợp nào, mọi sự can thiệp của nhà nước đều mang lại
lợi ích cho xã hôi. Chính sự độc quyền của nhà nước về quyền cưỡng chế một
mặt mang lại cho nhà nước quyền lực can thiệp, điều hành mọi lĩnh vực của đời
sống kinh tế xã hội; mặt khác do “tính bất đối xứng về thông tin” giữa ông chủ
quyền lực (nhân dân) và người làm công (nhà nước) do không phải trong mọi
trường hợp người dân đều hiểu rõ tường tận việc nhà nước làm, điều đó tao ra cơ
hội cho các công chức xúc tiến những lợi ích của riêng họ gây tổn hại đến lợi ích
chung của cộng đồng. Sự áp đặt, cưỡng chế về nguyên tắc mọi người dân trong
xã hôi đều phải tuân theo nhưng sự đảm bảo tính đúng đắn hoàn toàn là không
chắc chắn. Do đó đòi hỏi quyền lực nhà nước phải được kiểm soát.
Trí tuệ của con người là siêu việt, song cũng mang tính hữu han, nghĩa là một
người dù có trí tuệ siêu việt song cũng không tránh khỏi một vài vấp váp sai
10


lầm. Chính sự hữu hạn này là nguyên nhân dẫn đến những hạn chế của con
người trong nhận thức lý tính, nhận thức tính hợp lý, khoa học trong việc tổ
chức và thực thi quyền lực nhà nước. Vì thế khẳ năng sai lệch mục đích trong
việc nhận thức và thực thi quyền lực nhà nước là điều không phải không xảy ra
trong thực tế.
Triết học Mác – Lênin đã chỉ ra rằng, bản chất các lực lượng vật chất là thay đổi
được, con người cũng là một lực lượng vật chất. Sự thay đổi lực lượng vật chất

của con người là khó tránh khỏi. Điều đó khẳng định, không phải bao giở người
được ủy quyền cũng luôn xứng đáng với sự tín nhiệm của cộng đồng. Vì thế
cộng đồng cần có biện pháp, cách thức để kiểm soát người được ủy quyền và có
khả năng thay thế người được ủy quyền không còn xứng đáng với sự tín nhiệm
của nhân dân.
Với những luận giải trên, xã hội cần có thể chế để kiềm chế, kiểm soát quyền
lực nhà nước. Đây chính là tính tất yếu của kiểm soát quyên lực nhà nước.
3.Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về kiểm soát quyền lực chính trị.
Với nhãn quan lãnh tụ cách mạng, Lênin cho rằng toàn bộ vấn đề kiểm soát
chung quy là vấn đề ai là người kiểm soát và ai là người kiểm soát? Lênin cũng
khẳng định rằng dưới chính quyền vô sản việc kiểm soát quyền lực nhà nước
trước hết là nhiệm vụ của giai cấp công nhân sau đó mở rộng ra thành sự kiểm
soát của toàn bộ nhân dân lao động trong xã hội. Chuyên chính vô sản và sự
kiểm soát của toàn dân là công cụ, nhưng hai việc này phải được tiến hành một
cách đồng thời mới đạt được hiệu quả, không được thực hiện cái này mà quên
cái kia. Cũng theo Lênin, đối tượng của kiểm soát bao gồm tất cả các cơ sở kinh
tế, các ngành, các đoàn thể , cá nhân…và mọi cấp chính quyền. Theo đó, nhà
nước vừa là chủ thể vừa là đối tượng của kiểm soát quyền lực.
Nhấn mạnh đến việc xây dựng nền chuyên chế vô sản, đông thời đẩy mạnh việc
kiểm soát quyên lực Lênin xác định nội dung cảu kiểm soát quyền lực bao gồm:
kiểm kê, kiểm soát việc sản xuất và phân phối những sản phẩm chủ yếu; kiểm
soát các hoạt động tai chính và tiền tệ, nhất là hoạt động của ngân hàng, lưu
thông tiền tệ, thu nhập,chi tiêu và nộp thuế của các đơn vị; kiểm tra, kiểm soát
11


việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật của nhà nước, vieech
thi hành các chức trách mà nhà nước giao cho; kiểm tra, kiểm soát các dấu hiệu
tiêu cực.
Là người học trò xuất sắc của chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã kế thừa

vận dụng thành công chủ nghĩa Mác vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Sau
thành công của cách mạng tháng 8/1945 với sự ra đời của nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa đã đánh dấu một bước phát triển mới trong lịch sử nước ta, một
kỷ nguyên độc lập đã mở ra. Bước vào công cuộc xây dựng đất nước việc kiểm
soát quyền lực nhà nước là điều cần thiết để giữ vững và phát triển nhà nước còn
non trẻ. Trong lý luận về kiểm soát quyền lực nhà nước Chủ tịch Hồ Chí Minh
sử dụng thuật ngữ kiểm soát với nghĩa rộng, bao hàm cả xem xét, điều tra, nắm
tình hình,kiểm tra, giám sát…Theo Người, khi đã có đường lối chủ trương,
chính sách đúng, thì việc thành công hay thất bại của nhiệm vụ cách mạng chỉ
còn phụ thuộc vào khâu triển khai thực hiện, trong đó có hoạt động kiểm tra,
giám sát. Người nêu rõ: “Lãnh đạo đúng nghĩa là phải quyết mọi vấn đề cho
đúng. Phải tổ chức thi hành cho đúng. Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm
soát đúng thì cũng cần phải có quần chúng giúp mới được”.
Để việc giám sát, kiểm soát đạt hiệu quả, Người cũng lưu ý phải khéo léo trong hình
thức, phương pháp, linh hoạt uyển chuyển và phải đảm bảo nguyên tắc cơ bản của
Đảng, nhất là nguyên tắ tập trung dân chủ, đảm bảo công khai, dân chủ giữa chủ thể
và đối tượng giám sát. Mặt khác, bản thân người kiểm tra, giám sát phải trong sạch,
tránh quan liêu. Người kiểm tra , giám sát phải đến tận nơi để quan sát tình hình thực
tế xem xét sự việc; cần tiến hành giám sát, kiểm tra một cách có hệ thống và khoa
học; người đi kiểm soát phải là người có năng lực, uy tín.

12


Chương II: NỘI DUNG VAI TRÒ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC CỦA MẶT
TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM HIỆN NAY.
1. Khái lược về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
1.1. Lịch sử hình thành.
Mặt trận Tổ Quốc (MTTQ) được ra đời từ rất sớm, có truyền thống đấu
tranh cách mạng lâu dài gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Ra đời từ

các phong trào yêu nước, phong trào công nhân, là sản phẩm lịch sử của cuộc
đấu tranh của nhân dân lao động bị áp bức nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa dân
tộc Việt Nam và bọn đế quốc xâm lược. Ngày 18/11/1930, ban Thường vụ
Trung ương Đảng ra chỉ thị thành lập Hội phản đế đồng minh Đông Dương giữa
lúc phong trào yêu nước của nhân dân đấu tranh chống ách thống trị nặng nề của
thực dân Pháp lên đỉnh cao.
Hội phản đế đồng minh Đông Dương là tổ chức liên minh của các tổ chức
chính trị - xã hội, hình thức tập hợp quần chúng rộng rãi nhất. Sự liên minh này
là tất yếu khách quan, là cơ sở đảm bảo cho cách mạng thành công. Trong chỉ
thị thành lập hội phản đế đồng minh, Đảng cộng sản Việt nam đã nêu rõ: “Giai
cấp công nhân không đồng minh được với giai cấp nông dân là lực lượng tất yếu
của cách mạng thì không đánh đổ được đế quốc Pháp và phong kiến phản cách
mạng trong nước…không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật
đông, thật kín thì cuộc cách mạng khó thành công”.
Cộng hòa miền Nam Việt Nam với việc thành lập chính phủ lâm thời
cộng hòa miền Nam Việt Nam, Mặt trận được củng cố vững chắc hơn, trở thành
một tổ chức chính trị rộng lớn, tập hợp các tổ chức chính trị - xã hội khác, củng
cố thêm khối đại đoàn kết toàn dân trong cuộc cách mạng ở miền Nam.
Vào giai đoạn từ sau năm 1975 đến nay, Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam hoạt
động trong điều kiện thống nhất nước nhà, cả nước cùng xây dựng chủ nghĩa xã
hội, tháng 1 năm 1977 diễn ra đại hội mặt trận thống nhất lấy tên chung là Mặt
Trận Tổ Quốc Việt Nam.
13


Vào giai đoạn đổi mới (từ năm 1986 đến nay), các tổ chức chính trị - xã
hội đã phát triển với quy mô sâu rộng hơn cùng với quá trình đổi mới đất nước.
Tổ chức bộ máy và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội có nhiều đổi mới
theo hướng khắc phục dần tính hành chính quan liêu, thụ động, tiếp tục phát huy
khối đại đoàn kết toàn dân, tập hợp dông đảo quần chúng nhân dân vào Mặt

trận. Số lượng thành viên trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày càng tăng lên,
đến nay có 44 thành viên được cơ cấu là Ủy viên Ủy ban Mặt trân Tổ quốc Việt
Nam, có đủ 54 dân tộc, 6 tôn giáo và có nhiều cá nhân tiêu biểu trong tầng lớp
nhân dân. Với việc ra đời của luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận và các
tổ chức thành viên đã được nhà nước thể chế hóa về vị trí, vai trò quyền hạn và
trách nhiệm tạo cơ pháp lý cho các hoạt động của mình.
Đến nay Mặt trận Tổ quốc Việt Nam luôn phát huy truyền thống yêu
nước, lòng tự hào tự tôn dân tộc, ý chí tự lực tự cường, đoàn kết…nhằm mục
tiêu giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất chủ quyền quốc gia và toàn vện lãnh
thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiêp hóa, hiện đại hóa đất nước vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, thực hiện
Di Chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “xây dựng một nước Việt Nam hào bình,
thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh”, góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa
bình, độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ trên toàn thế giới.
Để thực hiện mục tiêu trên thì Mặt trân Tổ quốc Việt Nam cần thực hiện
tốt nhiệm vụ “tập hợp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất
trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tuyên truyền, động viên nhân dân
phát huy quyền làm chủ, thực hiện đường lối chủ trương của Đảng,nghiêm chỉnh
thi hành hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại
biểu nhân dân và các cán bộ, công chức tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân
để phản ánh, kiến nghị với Đảng và nhà nước; tham gia
xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân: cùng nhà nước chăm lo và
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; tham gia phát triển tình hữu
nghị, hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân khu vực và trên toàn thế
giới.”
14


1.2. Vị trí và vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính
trị nước ta.

1.2.1. Vị trí.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị
của nước ta hiện nay. Sự qui định này là do yêu cầu khách quan của sự nghiệp
cách mạng, là xuất phát từ thể chế chính trị: nước ta là nước dân chủ, mọi quyền
lực thuộc về nhân dân. Đây là vấn đề lịch sử, vấn đề truyền thống. Vai trò của
Mặt trận không phải tự Mặt trận đặt ra mà là do chính nhân dân, chính lịch sử
thừa nhận.
Từ khi có Đảng là có Mặt trận, ngay sau khi nhân dân giành được chính
quyền, Mặt trận đã trở thành một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị. Tuy
vai trò, vị trí, chức năng và phương thức hoạt động của từng bộ phận cấu thành
trong hệ thống chính trị có khác nhau nhưng đều là công cụ thực hiện và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân nhằm một mục đích chung là: Phấn đấu xây
dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh,
có vị trí xứng đáng trên trường quốc tế. Hiến pháp năm 1992 đã xác định: "Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân..." điều đó
càng khẳng định Mặt trận Tổ quốcViệt nam là một bộ phận không thể thiếu
được của hệ thống chính trị nước ta.
1.2.2. Vai trò.
"Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể thành viên có vai trò rất
quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc..." Đó là củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, tạo nên sự nhất
trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, thắt chặt mật thiết giữa nhân dân với
Đảng và Nhà nước để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, trải qua
nhiều chặng đường và tồn tại lâu dài nhiều thành phần kinh tế. Trong quá trình
đó còn có sự khá nhau giữa các giai cấp, các dân tộc, các tầng lớp xã hội, các tôn
giáo... Những biến đổi về cơ cấu giai cấp và thành phần xã hội đang đặt ra cho
công tác vận động quần chúng nói chung và công tác Mặt trận nói riêng những
15



vấn đề mới. Nhu cầu liên minh, mở rộng việc tập hợp các lực lượng yêu nước
đặt ra một cách bức bách. Mặt khác các thế lực thù địch đang thực hiện chiến
lược diễn biến hoà bình và nhiều âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc,
hòng phá hoại sự nghiệp Cách mạng của nhân dân ta.
Trong bối cảnh đó, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, một
sự nghiệp đầy khó khăn gian khổ, càng đòi hỏi phải tăng cường khối đại đoàn
kết dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Do vậy vai trò của Mặt trận
và các đoàn thể thành viên càng quan trọng. Nâng cao vai trò, tác dụng của Mặt
trận trong hệ thống chính trị và đời sống xã hội là một yêu cầu của công cuộc
đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.3. Nguyên tắc làm việc và mối quan hệ với các thành viên trong hệ thống
chính trị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
1.3.1. Nguyên tắc làm việc.
Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam được tổ chức trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện,
bình đẳng về địa vị và độc lập về tổ chức. Quan hệ giữa các thành viên trong
Mặt trận được thực hiện theo các nguyên tắc:
. Hiệp thương dân chủ
. Hợp tác bình đẳng.
. Đoàn kết chân thành, tôn trọng lẫn nhau trong hoạt động.
. Phối hợp và thống nhất hành động.
Trong sinh hoạt Mặt trận, các thành viên tự do bày tỏ ý kiến của mình,
cùng nhau bàn bạc, hiệp thương dân chủ đề đạt tới sự nhất trí, không mệnh lệnh,
không áp đặt. Nếu có những ý kiến khác trên những vấn đề cụ thể thì cùng nhau
trao đổi, thuyết phục, giúp đỡ nhau giải quyết. Trong hoạt động, các thành viên
thoả thuận với nhau về chương trình hành động chung và có nghĩa vụ giúp đỡ
nhau, phối hợp thống nhất hành động để thực hiện chương trình đã thoả thuận.
Bốn nguyên tắc đó có quan hệ mật thiết với nhau, nhưng nguyên tắc một và bốn
là rất quan trọng.


16


1.3.2. Mối quan hệ của Mặt trận với các thành viên khác trong hệ
thống chính trị.
1.3.2.1. Mối quan hệ giữa Đảng với Mặt trận có một đặc điểm đáng
chú ý: Đảng vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo Mặt trận
Là thành viên, Đảng tham gia Mặt trận bình đẳng và có nghĩa vụ như mọi
hành viên khác. Đại diện cấp uỷ Đảng tham gia uỷ ban Mặt trận có trách nhiệm
sinh hoạt đầy đủ thực hiện hiệp thương dân chủ và phối hợp thống nhất hành
động. Cấp uỷ Đảng phải giáo dục đảng viên gương mẫu thực hiện chương trình
hành động chung đã được các tổ chức thành viên thoả thuậnvà tích cực tham gia
công tácMặt trận tại khu dân cư
Để lãnh đạo Mặt trận, Đảng phải ở trong Mặt trận, Đảng thực hiện vai trò
lãnh đạo bằng cách đề ra đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, đáp ứng
yêu cầu nguyện vọng và lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân: Đảng tiến
hành công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục, tổ chức kiểm tra và bằng sự
gương mẫu của Đảng viên. Thực tiễn lịch sử từ ngày thành lập Mặt trận đến nay
đã chứng tỏ các thành viên tham gia Mặt trận đều tự giác thừa nhận vai trò lãnh
đạo của Đảng.
Đảng lãnh đạo Mặt trận thông qua Đảng đoàn Mặt trận thông qua Đảng
đoàn các tổ chức thành viên của Mặt trận và thông qua đại diện của cấp uỷ Đảng
tham gia Uỷ ban Mặt trận cùng cấp. Đảng chăm lo bồi dưỡng cán bộ và giới
thiệu những Đảng viên có phẩm chất, có tín nhiệm trong các tầng lớp nhân dân,
có năng lực làm công tác Mặt trận, để Mặt trận chọn cử theo đúng điều lệ. Đảng
lãnh đạo sự phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên, sự phối hợp
giữa Mặt trận với chính quyền. Đảng tôn trọng tính độc lập về tổ chức và hoạt
động sáng tạo của Mặt trận; Đảng lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận đối
với sự lãnh đạo của Đảng và đối với cán bộ Đảng viên. Sự lãnh đạo của Đảng
đối với Mặt trận là vấn đề có tính nguyên tắc, đảm bảo cho Mặt trận không

ngừng được củng cố và mở rộng. Mặt trận có nhiệm vụ truyên truyền, giáo dục
chính trị tư tưởng và đạo đức mới, động viên các tầng lớp nhân dân thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mặt trận có trách
17


nhiệm tổ chức, vận động nhân dân thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước,
trong việc xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Vì mối liên hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước là yếu tố cực kỳ
quan trọng bảo đảm sự vững mạnh của chế độ.
1.3.2.2. Mối quan hệ giữa Mặt trận với chính quyền:
Quan hệ giữa Mặt trận với chính quyền là quan hệ hợp tác bình đẳng, tôn
trọng lẫn nhau, phối hợp cùng thực hiện nhiệm vụ chung. Quyền hạn của Mặt
trận đã được Hiến pháp và pháp luật qui định Mặt trận hoạt động theo pháp luật
và qui chế làm việc đã được thoả thuận giữa Mặt trận và chính quyền.
Mặt trận tham gia xây dựng, giám sát và bảo vệ Nhà nước như: vận động các
tầng lớp nhân dân thực hiện quyền làm chủ, bầu ra cơ quan dân cử, giám sát
hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ viên chức Nhà nước;
tham gia xây dựng pháp luật và chính sách; đóng góp ý kiến với cơ quan Nhà
nước các cấp, vận động nhân dân xây dựng các qui ước, qui chế trên địa bàn cư
trú về các vấn dề liên quan đến đời sống nghĩa vụ và lợi ích của công dân phù
hợp với pháp luật. Mặt trận tham gia tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong
nhân dân, đấu tranh chống tệ quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, gây phiền hà
cho dân, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của dân.
Nhà nước dựa vào Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể để phát huy quyền
làm chủ và sức mạnh có tổ chức của nhân dân, tôn trọng và tạo mọi điều kiện để
nhân dân trực tiếp hoặc thông qua đoàn thể của mình tham gia xây dựng, quản lý
và bảo vệ Nhà nước. Đó cũng là sức mạnh của bản thân Nhà nước.
Trong quá trình ra các quyết định về quản lý và điều hành, Nhà nước các cấp
cần lắng nghe những kiến nghị của Mặt trận và các đoàn thể. Nhà nước căn cứ

qui chế tổ chức và cơ chế hoạt động để giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà
nước với Mặt trận. Nhà nước cần tiếp tục thể chế hoá quyền hạn và trách nhiệm
của Mặt trận trong việc tham gia quản lý kinh tế, quản lý xã hội và xây dựng
cuộc sống tự quản của dân.

18


Nhà nước phối hợp với Mặt trận trong việc chăm lo lợi ích chính đánh của
nhân dân, trong việc vận động các tầng lớp nhân dânđẩy mạnh phong trào hành
động thực hiện thắng lợi các chương trình kinh tế xã hội.
Một trong những nội dung quan trọng của cải cách bộ máy Nhà nước hiện
nay là tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Nhà nước với Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân. để Mặt trận làm tròn trách nhiệm là cơ sở chính trịcủa
chính quyền nhân dân, sự phối hợp giữa Mặt trận với Nhà nước phải như nghị
quyết đại hội VIII của Đảng đã khẳng định: " Thực hiện thành nền nếp iệc đảng
và Nhà nước cùng bàn bạc và tham khảo ý kiến của Mặt trận về những quyết
định chủ trương lớn" ngày một chặt chẽ và cụ thể hơn.
2. Nội dung vai trò kiểm soát quyền lực chính trị của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam.
2.1. Khái niệm về giám sát phản biện xã hội.
Để làm sáng tỏ vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam cần phải đi từ khái niệm giám sát, phản biện và phản biện xã hội. Có
nhieeud quan niệm khác nhau về các khía niệm này, xin đưa ra cách hiểu:
Theo từ điển Tiếng Việt định nghĩa: giám sát là theo dõi và kiểm tra xem
có thực hiện đúng quy định không, cũng được hiểu là các quan chức thời xưa,
trông nom, coi sóc một loại công việc nhất định.
Phản biện là “phát hiện, đánh giá một công trình khoa khi công trình
được đưa ra bảo vệ lấy học vị trước hội đồng chấm thi ”
Phản biện còn được hiểu “là quan hệ giữa chủ thể này với chủ thể khác

liên quan tới việc đặt lại, xem xét một đề án, phương án được dựa trên cơ sở lập
luận, phân tích, khách quan khoa học nhằm nhận định rõ cái tốt, cái xấu, cái
đúng với cái xấu, cái được khẳng định với cái phải phủ định, cái được với cái
chưa được, cái hoàn thiện với cái chưa hoàn thiện”.
Phản biện xã hội được hiểu là hoạt động bày tỏ ý kiến chính kiến, đánh
giá, nhận xét, đề xuất và kiến nghị của cộng đồng xã hội, của tập thể, tập đoàn
người (xây dựng trên cơ sở những mối quan hệ nhất định) đối với quá trình
hoạch định và thực thi các chủ trương chính sách của chủ thể thực hiện thực thi
19


quyền lực có liên quan đến lợi ích chung của cộng đồng, tập thể, tập đoàn, người
ấy, trên cơ sở tổng hợp, phân tích, lập luận khách quan, khoa học có tính thuyết
phục nhằm phân định rõ cái tốt với cái xấu, cái đúng với cái sai, cái khẳng định
và cái phủ định, cái được với cái chưa được, cái hoàn thiện với cái cần tiếp tục
hoàn thiện… nhằm đáp ứng tốt hơn những yêu cầu do cuộc sống đặt ra, góp
phần thoả mãn lợi ích chung của cộng đồng, tập thể, tập đoàn cũng như toàn xã
hội.
Trong đời sống chính trị – xã hội, giám sát và phản biện xã hội được hiểu
là người dân trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức chính trị- xã hội của mình để
theo dõi, xem xét, kiểm tra, đánh giá các hoạt động thực thi pháp luật của các tổ
chức, cơ quan trong bộ máy của Đảng, nhà nước, của mọi cán bộ, viên chức,
đảng viên, đồng thời để đóng góp ý kiến đối với việc hoạch định các chủ trương
đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Nói cách khác, giám
sát và phản biện xã hội chỉ là việc phát huy quyền dân chủ của người dân và các
tổ chức của họ, mà thực chất, còn là sự huy động và tập trung trí tuệ của toàn
dân vào giải quyết công việc chung của hệ thống công quyền trong quá trình xây
dựng và phát triển đất nước.
Trong cơ chế kiểm soát, quyền lực của Đảng và Nhà nước, hoạt động và
phản biện xã hội của nhân dân là một khâu vô cùng hệ trọng. Điều 8, Hiến pháp

1992 quy định “ Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước, phải tôn
trọng nhân dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát
của nhân dân…”. Và điều 53 ghi: “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà
nước và xã hội tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương,
kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước trưng cầu dân ý”.
2.2. Quan niệm về vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận
Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị – xã hội, các tổ chức xã hội
và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các
tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
20


Trong điều kiện mới, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có những chức năng cơ
bản sau:
Thứ nhất, chức năng đại diện lợi ích của quần chúng nhân dân, của giai
cấp, tầng lớp, giới phản ánh trung thực tâm tư, nguyện vọng và bảo vệ quyền lợi
hợp pháp và chính đáng của nhân dân.
Thứ hai, chức năng tập hợp lực lượng các giai cấp, các tầng lớp, các giới
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
Thứ ba, chức năng tuyên truyền, thuyết phục, tổ chức và vận động nhân
dân thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Thứ tư, chức năng giám sát đối với các cơ quan và cán bộ của nhà nước
và hệ thống chính trị.
Thứ năm, chức năng phản biện xã hội đối với các chủ trương, chính sách
của Đảng và pháp luật, kế hoạch, biện pháp điều hành các hoạt động của nhà
nước.
Với vị trí là thành viên chiến lược trong hệ thống chính trị, Mặt trận Tổ
quốcViệt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc phát huy sức mạnh về

Tổ chức và hoạt động của Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể trong hệ
thống chính trị. Trong đời sống xã hội, Mặt trận Tổ quốcViệt Nam có vai trò
quan trọng: tham gia bảo vệ và phát triển xã hội, tự chăm lo lợi ích, tự giáo dục,
tham gia điều tiết xã hội bằng ba phương thức, giám sát xã hội phản biện xã hội
và thoả thuận xã hội.
Xuất phát từ chức năng, vị trí và vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
và từ những quan niệm về giám sát và phản biện xã hội nói trên, có thể hiểu
chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là hoạt
động thẩm định đánh giá, nhận xét, bảy tỏ ý kiến, đề xuất và kiến nghị của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam đối với quá trình hoạch định và thực thi chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan đến quyền
và nghĩa vụ cơ bản của người dân; đến tổ chức và cán bộ, đến quyền và nghĩa vụ
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội để khẳng định
tính đúng đắn của chủ trương, đường lối, chính sách đó, đồng thời kiến nghị
21


những điểm còn sơ hở, thiếu sót để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, góp phần
đảm bảo cho các chủ trương, chính sách, pháp luật rất sát thực tiễn, hợp lòng
dân, tạo sự đồng thuận trong xã hội và sớm đi vào cuộc sống.
Từ quan niệm nêu trên về vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, cần thấy:
Thứ nhất, chủ thể giám sát và phản biện xã hội ở đây là Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, bao gồm các tổ chức, các hội đồng tư vấn thuộc Mặt trận Tổ quốc và
các thành viên, các cá nhân tiêu biểu.
Thứ ba, về hình thức, hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam thực hiện thông qua việc động viên nhân dân góp ý giám sát
và phản biện xã hội với Mặt trận Tổ quốc, tổ chức để các hội đồng tư vấn và các
cộng tác viên là các chuyên gia trên các lĩnh vực thực hiện phản biện xã hội,
thông qua hoạt động thực tiễn của mình và tổng hợp ý kiến đóng góp của các

thành viên của Mặt trận để góp ý, kiến nghị với cơ quan, tổ chức cá nhân có
thẩm quyền.
Thứ ba, đối tượng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam.
Giám sát hoạt động của các cấp uỷ đảng, hành vi của cán bộ đảng viên,
của công chức, hoạt động của đại biểu trong việc thực hiện chức trách nhiệm vụ
và quyền hạn của mình.
Phản biện xã hội đối với các đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật
của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ban hành. Cụ thể là chủ trương, đường lối,
đề án của Đảng cũng như tổ chức Đảng của các cấp, chính sách, pháp luật, đề
án chương trình, kế hoạch, biện pháp điều hành của Nhà nước và cơ quan nhà
nước các cấp.
Thứ tư, phạm vi giám sát và phản biện xã hội.
Giám sát việc thực hiện chức trác quản lý xã hội, quản lý nhà nước, việc
thực hiện nhiệm vụ của các cấp uỷ đảng, cán bộ, đảng viên, của các đại biểu dân
cư. Phạm vi phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là các dự thảo, chính
sách, pháp luật liên quan đến quốc dân sinh. Cụ thể là dự thảo đường lối chủ
22


trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước liên quan đến quyền và
nghĩa vụ cơ bản của người dân ; đến tổ chức và cán bộ, đến quyền và trách
nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các tổ chức chính trị –xã hội.
Từ quan niệm và vai trò giám sát và phản biện xã hội có thể thấy Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam đang dần giữ vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị
và là cầu lối, là kênh thông tin giữa người dân với Đảng và Nhà nước.
3. Giám sát, phản biện xã hội – nội dung chính của việc kiểm soát
quyền lực chính trị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp
tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội và

các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn
giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đang dần giữ vai trò quan trọng trong hệ
thống chính trị, và trở thành cầu nối giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Lànơi để nhân dân phát huy tính dân chủ của mình, chức năng giám sát và phản
biện xã hội đã trở thành nội dung quan trọng trong việc phát huy tính dân chủ
của nhân dân.
Chức năng giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được quyđịnh trong
Điều 9. Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (1992) và Điều12, Luật Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam (1999). Tuy nhiên, chủ trương được Đảng ta đặt ra ngay từ
khi bước vào thời kỳ đổi mới 1986). Văn kiện Đại hội lần thứ VI của Đảng nêu
rõ : "Sự kiểm tra và giám sát của nhân dân đối với các cơ quan nhà nước, muốn
đạt kết quả tốt, phải được các đoàn thể quần chúng tổ chức và chỉ đạo”.
Chức năng phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tuy chưa được quy
định trong Hiến pháp và pháp luật, nhưng chủ trương về hoạt động phản biện xã
hội đã được Đảng ta nêu ra những năm gần đây.Văn kiện Đại hội lần thứ X của
Đảng chỉ rõ : " Xây dựng quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị –xã hội".
Chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
là một yêu cầu tất yếu khách quan trong điều kiện hệ thống chính trị ở nước ta
23


có duy nhất một Đảng Cộng sản lãnh đạo, cầm quyền. do chỉ có một đảng duy
nhất cầm quyền trong hệ thống chính trị nên dễ đến độc đoán, áp đặt, chủ quan
duy ý chí trong việc ban hành và thực thi các chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước. Điều đó cho thấy hoạt động giám sát và phản biện xã hội là chức
năng quan trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, góp
phần khắc phục những hạn chế của chế độ chính trị một đảng cầm quyền. Sự tất
yếu khách quan này của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam còn xuất phát từ bản chất

của Nhà nước đều thuộc về nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn
thể nhân dân là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, đại diện cho mọi tầng
lớp nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Vì thế các tổ chức
này phải có quyền, trách nhiệm, trách nhiệm giám sát hoạt động của cấp uỷ
đảng, cán bộ, đảng viên và các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước, phản biện
các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhằm góp phần
xây dựng Đảng, vững mạnh và đáp ứng được quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng của mọi tầng lớp nhân dân.
Xét về tính chất, hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam Việt Nam, mặt trận là mang tính nhân dân, bởi các hoạt động
này của Mặt trận đại diện cho nhân dân, góp ý với Đảng và Nhà nước trên cơ sở
tập hợp các ý kiến, kiến nghị của đông đảo các tầng lớp nhân dân, thực sự dựa
vào dân, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân.
Đối tượng, phạm vi giám sát và phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam bao gồm những vấn đề sau :
- Giám sát hoạt động của cấp uỷ Đảng, hành vi của cán bộ, đảng viên thực
hiện chức trách của mình giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, hành vi của
công chức trong việc thực hiện chứ trách quản lý xã hội, quản lý nhà nước, thực
hiện các nhiệm vụ của mình ; giám sát hoạt động của đại biểu dân cư trong việc
thực hiện nhiệm vụ của người đại biểu dân cư.
Phản biện đối với chủ trương, đường lối của Đảng ở Trung ương và địa
phương có liên quan đến xây dựng Đảng, đến quốc kế dân sinh và xây dựng chế
độ xã hội chủ nghĩa, các văn bản pháp luật, kế hoạch, chương trình, chính sách
24


cụ thể về kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của Nhà nước,
chính quyền địa phương.
Hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
được thực hiện thông qua nhiều hình thức đa dạng, linh hoạt. Tuỳ hoàn cảnh cụ

thể, tại mục 2, Điều12, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có nêu ra hình thức
hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam như sau :
"a, Đảng viên nhân dân thực hiện quyền giám sát ;
b, Tham gia hoạt động giám sát với cơ quan quyền lực nhà nước;
c, Thông qua hoạt động của mình tổng hợp ý kiến của nhân dân và các
thành viên của Mặt trận kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biểu
dương, khen thưởng người tốt, việc tốt, xem xét, giải quyết xử lý những trường
hợp vi phạm pháp luật”.
4. Vai trò của giám sát và phản biện xã hội trong hệ thống chính trị nước ta
hiện nay
Trong điều kiện nước ta, Đảng cộng sản Việt Nam là một Đảng duy nhất
cầm quyền, thì việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực đang là
một yêu cầu đặt ra nhằm hạn chế hiện tượng lộng quyền, lạm quyền, vi phạm
dân chủ. Từ phương diện kiểm soát quyền lực, có thể thấy, giám sát và phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực chất là một trong những
phương thức kiểm soát quyền lực của Mặt trận đối với Đảng, Nhà nước. Điều
này có vai trò rất to lớn góp phần hạn chế sai lầm và tha hoá quyền lực.
Vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được
thể hiện chủ yếu ở:
- Giám sát và phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam góp phần quan
trọng vào công tác xây dựng Đảng, góp phần để đảng mạnh lên, vừa củng cố
vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa góp phần hạn chế những thiếu sót, sai lầm có thể
xảy ra trong điều kiện một Đảng Cộng sản cầm quyền.
Lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương, Nghị quyết, quan điểm là một trong
những nội dung cấu thành những thành phương thức lãnh đạo của Đảng. Đường
lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng định hướng cho hoạt động của hệ thống
25



×