Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

tiểu luận cao học môn chính trị học phát triển vai trò của trí thức khoa học xã hội với phát triển bền vững ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (568.02 KB, 59 trang )

MỞ ĐẦU.
1.

Lý do chọn đề tài.
Hàng ngàn năm qua, với bao thăng trầm lịch sử, nền văn hiến Việt Nam

vẫn luôn được kế thừa, phát huy và phát triển. Lịch sử xã hội Việt Nam, từ
trong lòng của nền văn hiến ngàn năm ấy đã sản sinh ra biết bao những bậc
anh hùng hào kiệt, các bậc trí thức tài năng của nhiều thời đại, đã đóng góp
công sức và trí tuệ không nhỏ cho sự phát triển của đất nước. Ngàn đời nay
chúng ta luôn tự hào về truyển thống tôn sự trọng đạo, truyền thống hiếu học
của các bậc hiền tài của dân tộc. Cùng với thời gian truyền thống tốt đẹp này
được gìn giữ và phát huy trong mọi điều kiện xã hội.
Với chiều dài ngàn năm lịch sử, nền văn hiến Việt Nam phát triển
không ngừng, trong các giai đoạn thăng trầm của lịch sử khoa bảng Việt Nam
luôn tự hào ghi lênđó những tên người anh hùng, những nhân tài của đất
nước. Những tiến sĩ, những Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt...
những bậc hiền tài đã làm lên trang sử hào hùng của dân tộc. “Hiền tài là
nguyên khí quốc gia” tư tưởng ấy từ bao đời nay luôn được chúng ta phát huy
triệt để, chính điều đó đã giúp đất nước vững vàng vượt qua mọi khó khăn,
phá tan bao cuộc xâm lăng của các kẻ thù hùng mạnh kể cả những đế chế từng
là nỗi khiếp sợ của biết bao quốc gia trên thế giới. Trong công cuộc kháng
chiến cứu nước chúng ta đã đánh tan ách đô hộ của chế độ thực dân, phát xít
hai cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta đã nói lên điều đó. Đã nói
lên vai trò của nhân tài, của trí tuệ Việt trong mọi hoàn cảnh.
Ngày nay nhân loại đang bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên của
những lao động sáng tạo với cuộc cách mạng tri thức bùng nổ trên phạm vi
toàn thế giới. Chưa bao giờ vấn đề tri thức và nguồn lực con người lại được
chú trọng như ngày nay. Thế giới đã và đang từng bước tiến tới phát triển bền
vững, sự thành công hay thất bại của một quốc gia, dân tộc trong cuộc cạnh
tranh khốc liệt của toàn cầu hóa của yêu cầu phát triển bền vững được quyết


định bởi nguồn lực con người. Mỗi quốc gia đều tìm cho mình một chiến lược
1


phát triển phù hợp với những điều kiện nội sinh của quốc gia dân tộc mình,
trong đó nguồn lực con người và lao động trí thức rất được coi trọng.
Trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, con
người và nguồn nhân lực, nhất là đội ngũ trí thức, nhân tài có vai trò hết sức
quan trọng, là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước.
Đất nước ta đang tiến hành đổi mới, phát triển đội ngũ trí thức, đội ngũ
các nhà khoa học nói chung và các nhà khoa học xã hội nói riêng đang là vấn
đề hệ trọng. Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “phấn đấu đến năm 2010, năng lực
khoa học và công nghệ nước ta đạt trình độ của các nước tiên tiến trong khu
vực trên một số lĩnh vực quan trọng.
Phát triển khoa học xã hội, tiếp tục góp phần làm sáng tỏ những nhận
thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, giải
đáp những vấn đề mới của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
bước đi công nghiệp hóa, hiện đại hóa; những nguyên tắc, nội dung cơ bản
của phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; phát triển con người; nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn mới,... Thường xuyên
tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận; dự báo tình hình và xu thế phát triển
của thế giới, khu vực và trong nước; cung cấp luận cứ khoa học cho việc
hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước1.”
Thực tiễn chỉ ra rằng nhiệm vụ của khoa học xã hội ở nước ta rất nặng
nề. Muốn giải quyết được vấn đề đó cần có giải pháp kiện toàn và phát triển
trí thức khoa học xã hội. Đây là vấn đề mang tính then chốt đối với sự phát
triển bền vững ở Việt Nam hiện nay, nhưng đây cũng là vấn đề hết sức khó
khăn, song với giải pháp tốt và sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị và toàn

dân thì nhất định chúng ta sẽ làm được. Tuy thế hiện nay vẫn còn tình trạng
bất cập trong việc sử dụng bố trí và bồi dưỡng nhân tài. Ngoài ra còn phải kể
1

. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lẩn thứ X, 2006, tr. 98, 99.

2


đến tình trạng “chảy máu chất xám” đang diễn ra trên mọi lĩnh vực. Thực
trạng trên cho thấy chúng ta chưa có một chế độ, chính sách hợp lý trong việc
thu hút và sử dụng nhân tài.
Chính những lý do trên, trong tiểu luận này tác giả chọn “vai trò của trí
thức khoa học xã hội với phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay ” làm đề
tài nghiên cứu cho môn Chính trị học phát triển.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài.
Phát huy tiềm năng của trí thức nói chung và trí thức khoa học xã hội

nói riêng đã trở thành một hiện tượng có tính quy luật trong lịch sử phát triển
của mỗi dân tộc. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh yêu cầu phát huy vai trò, trí thức khoa học xã hội ngày càng trở lên
cấp thiết. Phát triển tiềm năng, vai trò của đội ngũ tri thức khoa học xã hội ở
nước ta tỷ lệ thuận với nhu cầu thực tiễn phát triển của đất nước dưới sự lãnh
đạo của Đảng, Nhà nước. Thực tiễn cách mạng và công cuộc xây dựng xã hội
chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ ở nước ta cho thấy khoa học xã hội và chính
trị có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau ngay cả khi giải quyết các vấn đề
tư tưởng riêng biệt. Khoa học xã hội và chính trị, trí thức khoa học xã hội và

quyền lực chính trị, vai trò của họ và những điều kiện chính trị xã hội chuyển
hóa tiềm năng, vai trò của họ thành nguồn lực thực tiễn luôn có mối quan hệ
biện chứng với nhau. Nhận thức rõ điều này, trong thời gian qua trong công
tác lý luận, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nguồn nói riêng và đội ngũ
trí thức khoa học xã hội đã nhận được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo nhất
là ở cấp trung ương. Về vấn đề phát huy vai trò của đội ngũ trí thức khoa học
xã hội trong thời gian qua đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học
với nhiều công trình nghiên cứu kỹ lưỡng và công phu nhằm đưa ra hướng đi,
hướng phát huy, phát triển vai trò của đội ngũ trí thức khoa học xã hội với
thực tiễn xã hội. Trong các công trình nghiên cứu ấy phải kể đến một số công
trình nghiên cứu của một số tác giả sau: “Nhân tài trong chiến lược phát triển
3


quốc gia” của Nguyễn Đắc Hưng và Phan Xuân Dũng; “Trí thức Việt Nam
trước yêu cầu phát triển đất nước” của Nguyễn Đắc Hưng; “Phát huy tiềm
năng trí thức khoa học xã hội Việt Nam” của TS. Nguyễn An Ninh; “Phát
triển nguồn nhân lực bền vững ở nước ta trong bối cảnh hội quốc tế hiện
nay”(1) của TS. Phạm Công Nhất; “Giáo dục với sự phát triển bền vững ở
nước ta hiện nay”(2) của ThS. Phan Thanh Hải; ... Ngoài ra còn có sự đóng
góp rất lớn của các tác giả, các nhà lý luận, các nhà khoa học khác đó là chưa
kể đến những luận văn khoa học, những luận án tiến sĩ về vấn đề này. Song
trong sự giới hạn của thời gian lên tác giả chỉ có thể nêu được một số công
trình nghiên cứu trên đây. Tuy thế, trong khi nghiên cứu vấn đề tác giả nhận
thấy đây vẫn là vấn đề mang tính lý luận cấp thiết đối với công cuộc đổi mới
mà chúng ta đang tiến hành hiện nay. Chính vì vậy trong khuôn khổ của môn
chính trị học phát triển tác giả tiếp tục có những nghiên cứu về vấn đề “vai trò
của trí thức khoa học xã hội với sự phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay”
thông qua đề tài cùng tên.
3.


Mục đích nghiên cứu đề tài.
Hiện nay chúng ta đã và đang đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh, con người và nguồn lực con người nói chung và năng lực, vai
trò của đội ngũ trí thức khoa học xã hội nói riêng luôn là nhân tố quan trọng
hàng đầu, quyết định sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước. Do đó vấn
đề phát huy vai trò của nguồn nhân lực, trí thức khoa học xã hội trở thành vấn
đề cấp thiết, Đảng, Nhà nước ta hết sức chú trọng. Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí
Minh đã từng nói: “cán bộ tốt việc gì cũng xong, “muôn việc thành công hay
thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Trong các văn kiện của mình, Đảng ta
đã khẳng định rõ cán bộ nói chung là khâu then chốt trong công tác xây dựng
1

Chính trị và phát triển bền vững trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế - những vấn đề lý luận và
thực tiễn. (Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế). Nxb. Chính trị - Hành chính, 2009. Tr. 777
2
Chính trị và phát triển bền vững trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế - những vấn đề lý luận và
thực tiễn. (Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế). Nxb. Chính trị - Hành chính, 2009. Tr. 758

4


Đảng, là nhân tố có ý nghĩa quyết định tới toàn bộ sự nghiệp cách mạng mà
nhân dân ta đang tiến hành.
Trên những cơ sở đó, trong tiểu luận này tác giả tiếp tục có những
nghiên cứu về vai trò của trí thức khoa học xã hội (một bộ phận nhỏ trong
công tác cán bộ mà Đảng ta chú trọng) với mục đích:
- Thứ nhất: làm rõ vai trò của đội ngũ trí thức khoa học đối với sự nghiệp

xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ; làm rõ vai trò của trí thức khoa học
xã hội với tư cách là những người hoạch định, tham gia hoạch định chính sách
phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội nhằm đưa nước ta tiến tới phát triển bền
vững trong tương lai gần.
- Thứ hai: chỉ ra một số tồn tại của trí thức khoa học xã hội ở Việt Nam
hiện nay.
- Thứ ba: đưa ra giải pháp nhằm phát triển, phát huy tiềm năng, vai trò
của độ ngũ trí thưc khoa học xã hội hiên nay.
Tiểu luận gồm một số mục đích căn bản đó.
4.

Phương pháp nghiên cứu đề tài.
Để nghiên cứu đề tài trên trong quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng

một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
- Thứ nhất: nhóm các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa Mác –
Lênin bao gồm:
+ Phương pháp duy vật biện chứng: là phương pháp xem xét các vấn đề trong
mối quan hệ hữu cơ của chúng đối với các vấn đề liên quan khác trong nội
hàm và ngoại diên của vấn đề. Trên cơ sở những quy luật phổ biến của sự vận
động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy.
+ Phương pháp duy vật lịch sử: là phương pháp sử dụng hệ thống các quan
điểm duy vật biện chứng về xã hội; vận dụng kết quả của sự vận dụng phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật vào
việc nghiên cứu đời sống xã hội và lịch sử nhân loại.

5


- Thứ hai: nhóm các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành của khoa

học chính trị học như: phương pháp
Thứ ba: nhóm các phương pháp khác: phương pháp nghiên cứu tài liệu;
phương pháp so sánh; phương pháp lịch sử vấn đề.
5.
Phạm vi nghiên cứu đề tài.
Trong tiểu luận này tác giả chỉ tập trung nghiên cứu về vai trò của đội ngũ trí
thức khoa học xã hội đối với sự phát triển bền vững của đất nước hiện nay. Vấn
đề này là rất rộn lớn và phức tạp, song do sự hạn chế về thời gian và lượng kiến
thức của tác giả còn hạn chế, vì thế tác giả chỉ dừng lại ở việc mô phỏng, làm rõ
một số vấn đề cơ bản đã nêu ở phần mục đích nghiên cứu đề tài.
6.

Bố cục của tiểu luận

Ngoài phần mở đầu và kết luận, tiểu luận được chia làm ba phần cơ bản:
- Chương I: Mấy vấn đề lý luận về trí thức khoa học xã hội và phát triển
bền vững.
- Chương II: Vai trò của trí thức khoa học xã hội với phát triển bền vững.
- Chương III: Khái lược về thực trạng trí thức khoa học xã hội ở Việt
Nam và một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của trí thức khoa học xã hội
với việc phát triển bền vững hiện nay.

Chương I: MẤY VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÍ THỨC KHOA HỌC XÃ
HỘI VỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG.
1. Khái niệm cơ bản về trí thức khoa học xã hội.
1.1 Khoa học xã hội.
Thứ nhất, khoa học: là hệ thống những tri thức được hệ thống hóa, khái
quát hóa từ thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm; nó phản ánh dưới dạng
6



lô-gic, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những cấu trúc, những mối
liên hệ bản chất, những quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy; đồng thời
khoa học còn bao gồm hệ thống tri thức về những biện pháp tác động có kế
hoạch đến thế giới xung quanh, đến sự nhận thức và làm biến đổi thế giới đó
phục vụ cho lợi ích của con người.
Thứ hai, khoa học xã hội: khái niệm này thường được dùng theo hai nghĩa:
Theo nghĩa rộng, khoa học xã hội là một nhóm ngành lớn, bao gồm cả
khoa học xã hội và khoa học nhân văn. Theo Từ điển tiếng Việt khoa học xã hội
là “tên gọi chung các khoa học nghiên cứu những quy luật hình thành, hoạt động
và phát triển của xã hội, như chính trị học, kinh tế học, luật học v.v..”1
Quan niệm của các nhà kinh điển mácxít về khoa học xã hội cũng theo
nghĩa rộng. C. Mác và Ăngghen đã phân loại khái quát khoa học xã hội, theo
hai ông, khoa học xã hội nghĩa là toàn bộ những khoa học được gọi là “khoa
học lịch sử” và “khoa học triết học”. Cũng theo các ông “khoa học lịch sử”
dùng để chỉ các khoa học nhằm “nghiên cứu các điều kiện sinh hoạt của loài
người”. Ăngghen chỉ rõ: “từ lịch sử ở đât dùng để chỉ chung những lĩnh vực
chín trị, luật pháp, triết học, thần học tóm lại là những lĩnh vực thuộc về xã
hội chứ không phải chỉ thuộc về tự nhiên”2. Đối tượng nghiên cứu của khoa
học xã hội là: Nghiên cứu những điều kiện sinh hoạt của loài người, những
quan hệ xã hội, những hình thức pháp quyền và nhà nước với kiến trúc
thượng tầng tư tưởng của chúng gồm triết học, tôn giáo, nghệt thuật... Sự ra
đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử - một trong hai phát kiến quan trọng của
Mác, quá trình nghiên cứu về xã hội và con người thực sự đã trở thành khoa
học. Lênin coi chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng nghĩa với khoa học xã hội.
Người còn nhấn mạnh hơn, không có phương pháp này khi nghiên cứu xã hội
“thì không thể có một khoa học xã hội được”3. Có thể nói rằng đây là bước
phát triển mới trong quan niệm về khoa học xã hội hiện đại.
1


. Viện Ngôn ngữ học, Trung tâm từ điển học: Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 2006. Tr 503.
. Mác – Ăngghen: Tuyển tập, Nxb, Sự thật, 1984, t.6, tr. 777.
3
. V.I Lênin: Toàn tập, t. 1, tr. 163.
2

7


Tiếp thu và cải biến chủ nghĩa Mác – Lênin cho phù hợp vơi hoàn cảnh
cụ thêt Việt Nam, nhìn nhận chủ nghĩa duy vật đồng nghĩa với khoa học xã
hôi đã mang lại cách nhìn mới, khoa học trong khi tiếp cận, tìm hiểu vấn đề
này. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng cho rằng, sự hiểu biết về xã hội và con người
cũng là một quá trình lịch sử, điều này cần đến xã hội với những điều kiện
thực tiễn của nó mới có thể khái quát thành tri thức. Người cũng nhấn mạnh,
hiểu biết tranh đấu dân tộc và tranh đâu xã hội đã làm nảy sinh khoa học xã
hội. Tri thức khoa học xã hội cũng cần phải có điều kiện thực tiễn để kiểm
nghiệm mới dẫn đến sự thay đổi về chất, mới trở thành khoa học thực thụ.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là thành quả của nhận thức xã hội ở trình độ cao.
Nghĩa là, sự ra đời và phát triển nhanh chóng của chủ nghĩa tư bản, sự xuất
hiện giai cấp, đối kháng giai cấp và đấu tranh giai cấp đã mang lại cho giai
cấp vô sản sự hiểu biết lịch sử - hiểu biết “sứ mệnh lịch sử” của giai cấp
mình, hay đó chính là sự hiểu biết xã hội sâu sắc, khi đó khoa học xã hội mới
chính thức trở thành một khoa học thực thụ.
Ngày nay, lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được xếp chung
vào hệ thống các khoa học xã hội, giữ vị trí chủ đạo về tư tưởng, lý luận,
phương pháp cho khoa học xã hội và nhân văn, đồng thời là thế giới quan,
phương pháp luận chung của mọi hoạt động nghiên cứu khoa học.
Theo nghĩa hẹp, có sự phân biệt tương đối với khoa học nhân văn.
Có ý kiến cho rằng chỉ nên dùng khái niệm “khoa học xã hội” là đủ vì

mọi môn khoa học ngành và chuyên ngành đều có mặt trong tập hợp lớn này,
nghĩa là chúng đều nghiên cứu về xã hội, về con người. Con người và mọi
hoạt động tinh thần của con người đều không thể tồn tạo bên ngoài xã hội mà
chỉ có thể tồn tại trong xã hội. Mọi hoạt động làm lên lịch sử của con người
và loài người đều diễn ra trong môi trường xã hội. Vì thế nói đến xã hội
đương nhiên bao hàm vấn đề con người, điều này chính là hương đích tới
nhân văn của xã hội. Phát triển xã hội không nhằm mục đích gì khác chính là
hướng tới một xã hội nhân văn trong đó con người được giải phóng triệt để,
8


được tự do, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Do đó đưa thêm khái niệm nhân văn
hay xã hội – nhân văn vào thuật ngữ này là không cần thiết. Thực tế đã chỉ ra rằng,
không một khoa học chân chính nào lại không hướng tới mục tiêu phát triển con
người – nghĩa là mọi khoa học chân chính đều đề cập đến vấn đề nhân văn, coi
nhân văn là nền tảng giá trị của nó. Thực tế cũng cho thấy hệ thống các khoa học
được gọi là khoa học nhân văn cũng nằm ngay trong hệ thống khoa học xã hội và
biểu hiện ra bên ngoài với tư cách là khoa học xã hội.
Về khoa học nhân văn, nhân văn là bản chất là mục tiêu của tất cả các
khoa học, đặc biệt là khoa học nghiển cứu về xã hội và con người. Nhân văn
bao hàm cả những giá trị nhân bản và nhân đạo, tất cả đều xoay quanh phạm
trù “người”. C.Mác gọi con người là một thực thể song trùng: vừa là một
thực thể tự nhiên, vừa là một thực thể xã hội. Tron đó, xã hội là mặt cơ bản
quyết định bản chất “người”. Vì theo C.Mác, “trong tính hiện thực của nó,
bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Khái niệm nhân văn
có sức biểu đạt cao nhất những giá trị của con người và xã hội. Mọi nghiên
cứu về con người và xã hội với tư cách là nghiên cứu khoa học xét một cách
thực chất chính là khoa học xã hội.
Trong quá trình nghiên cứu, một số tác giả lại nhấn mạnh đến đối tượng
của khoa học nhân văn khi đi tìm định nghĩa cho nó. Theo họ, đối tượng

nghiên cứu của khoa học này chú trọng nhiều hơn tới những giá trị tinh thần
và hoạt động tinh thần của con người. Có người quan niệm, khoa học nhân
văn là một nhóm đồng thời là một hệ thống các môn khoa học về con người,
và những hoạt động của con người gắn liền với các hoạt động sáng tạo ra lịch
sử, các giá trị văn hóa, tinh thần...
Hiện nay, ở Việt Nam giữa khoa học xã hội và khoa học nhân văn tuy
có sự phân biệt song hai ngành khoa học này được xếp vào cùng một nhóm
ngành với tên chung là khoa học xã hội và nhân văn. Trong thực tiễn cũng
như trong lý luận đã có không ít trường hợp khoa học nhân văn làm cho trở
lên mờ nhạt khi mà khái niệm khoa học xã hội được dùng với nghĩa bao hàm
9


cả khoa học nhân văn. Tình trạng trên xảy ra là do giữa khoa học xã hội và
khoa học nhân văn có sự gần gũi về mục đích thực tiễn, đối tượng nghiên cứu,
và đôi khi là cả phương pháp nghiên cứu, chính điều này đã làm cho khoa học
xã hội và khoa học nhân văn có sự liên hợp. Thực tế đã chỉ ra rằng, trong
nhiều trường hợp có sự gắn bó, liên hợp ngay trong một khoa học, như triết
học, vốn triết học thuộc về khoa học xã hội nhưng triết học được đặt lên trên
mọi khoa học, trên cả khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và khoa học xã
hội. Lại có những khoa học nặng về nhân văn như sử học, ngôn ngữ học, văn
học... Lại có những khoa học thuộc về khoa học liên ngành nó bao hàm cả
khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và khoa học tự nhiên như khảo cổ học,
dân tộc học, địa lý học. Do đó, sự phân loại chỉ mang ý nghĩa tương đối. Đây
là cách nhìn nhận phù hợp với thực tế nghiên cứu khoa học hiện nay.
Nghiên cứu về xã hội và các quy luật vận động của xã hội, khoa học xã
hội bao giờ cũng hướng đến đích nhân văn, tạo điều kiện cho con người phát
triển tự do và toàn diện. Sự hiểu biết về con người, dân tộc, lịch sử,... và
những giá trị tinh thần của con người mang lại cho khoa học xã hội một cái
nhìn cụ thể - lịch sử. Mặt khác, những giá trị tinh thần của con người bao giờ

cũng lấy một bối cảnh xã hội cụ thể để thể hiện và phát triển. Giữa xã hội và
con người, giữa vật chất và ý thức luôn có mối liên hệ phổ biến, luôn gắn kết
với nhau trong mối quan hệ biện chứng. Chính mối quan hệ không thể tách
rời đó làm cho sự phân biệt khoa học xã hội với khoa học nhân văn không thể
rạch ròi quá mức. Sự phân biệt này chỉ mang nghĩa tương đối. Với cách nhìn
nhận này, việc phát huy vai trò của trí thức nói chung và trí thức khoa học xã
hội nói riêng không chỉ là quá trình một chiều – sự tác động của xã hội vào trí
thức mà đây còn là một quá trình mang tính nhân văn cao cả. Xét về bản chất
đây là quá trình tác động hai mặt, một mặt trí thức khoa học xã hội với những
đặc thù của mình tác động vào xã hội thông qua thượng tầng kiến trúc, mặt
khác xã hội có những tác động ngược trở lại với trí thức khoa học xã hội vì trí

10


thức khoa học xã hội là một bộ phận của xã hội do đó cũng chịu sự chi phối
của các quy luật tự nhiên của xã hội.
Ở đây trong khi nghiên cứu vấn đề này, chúng tôi nghiên cứu khoa học
theo nghĩa rộng của nó, tức là bao gồm cả khoa học xã hội và khoa học nhân
văn. Do đó, với nghĩa như vậy, có thể hiểu khoa học xã hội là một nhóm
ngành khoa học nghiên cứu về xã hội và con người, trên cơ sở đó rút ra quy
luật hình thành, hoạt động và phát triển qua đó nâng cao nhận thức và giúp
cho xã hội phát triển nhanh tiến tới phát triển bền vững theo định hương và
mục tiêu xây dựng đất nước trong giai đoạn quá độ hiện nay. Quá trình
nghiên cứu và kết quả nghiên cứu của khoa học xã hội góp phần tích cực vào
việc phát huy, giải phóng những nguồn sức mạnh tiềm năng trong con người,
cũng như giúp phát huy vai trò của các nguồn lực trong đó có vai trò của trí
thức khoa học xã hội với công cuộc xây dựng đất nước.
1.2. Trí thức khoa học xã hội.
Về trí thức nói chung:việc xác định chính xác và đầy đủ nội hàm khái

niệm trí thức quả thật không hề đơn giản, do sự xuất hiện của trí thức và giới
trí thức rất phức tạp và đa dạng trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử. Do
đó, việc nắm bắt bản chất của trí thức và giới trí thức còn có nhiều ý kiến
khác nhau. Mỗi người có thể xuất phát từ cách nhìn khác nhau thông qua lăng
kính chủ quan của mình để đưa ra cách tiếp cận về trí thức và tầng lớp trí thức
trong xã hội. Nhưng chưa một khái niệm, một quan điểm nào về trí thức và
tầng lớp trí thức được coi là hoàn chỉnh, mang tính đại diện chung.Có thể nói
rằng: “Trí thức Việt Nam là những người có trình độ học vấn từ Đại học trở
lên, có năng lực sáng tạo, tư duy độc lập, yêu nước, tinh thần phát triển xã hội
và nhân cách. Đặc điểm của trí thức Việt Nam là yêu nước và có nhân cách
Việt Nam ".Thế nhưng trong thực tế cuộc sống, người có học vấn cao không
phải lúc nào cũng là người có nhân cách văn hóa. Cũng tương tự như vậy, họ
không nhất thiết là người quan tâm và có chính kiến trước những vấn đề nóng
bỏng của thời cuộc, có năng lực đề xuất và phản biện các chính sách về các
11


vấn đề của xã hội, có khả năng tạo ra và hướng dẫn dư luận xã hội; mà thiếu
những phẩm tính này, dù ở mức độ thấp hay cao, đều khó lòng có thể được
coi là trí thức với quan niệm thông thường, phổ quát của thế giới hiện đại.
Trước kia, do chính sách ngu dân, việc học tập khó khăn nên chỉ một số
ít người được đi học. Vì vậy đa số những người học được đại học là những
người có ý chí, có nghị lực và có đủ kiến thức để trở thành trí thức. Trong thời
đại hiện nay việc học đại học trở nên đơn giản và đa số các trường đại học
cũng chỉ đặt mục tiêu đào tạo ra những người làm việc có trình độ. Để trở
thành trí thức, những người đó còn phải phấn đấu tự học và rèn luyện rất
nhiều. Do vậy, định nghĩa trên không phân biệt người công nhân lao động
được đào tạo và người trí thức thực sự. Đồng thời cũng loại bỏ hoàn toàn
những người tự học để có thể đóng góp cho xã hội. Tinh thần yêu nước thì bất
kỳ người dân Việt Nam nào cũng có, nhân cách cũng vậy, đa số người dân

Việt nam đều có nhân cách Việt nam nên nếu chỉ quy cho trí thức đặc điểm
đó là bất công với các giai cấp và tầng lớp khác.
Do đó vấn đề khái niệm trí thức có thể được phát biểu như sau: Trí
thức là những người có kiến thức về tự nhiên hoặc xã hội, có khả năng vận
dụng kiến thức đó để sáng tạo ra những sản phẩm tư duy trí tuệ nhằm đóng
góp vào quá trình phát triển của khoa học tự nhiên hoặc tiến bộ xã hội. Trí
thức Việt Nam là những trí thức có nguồn gốc là người Việt Nam, có những
sản phẩm tư duy trí tuệ đóng góp cho sự tiến bộ của khoa học tự nhiên hoặc
xã hội Việt Nam.
Điều này có thể hiểu là: trước hết phân biệt rõ trí thức là người phải có
kiến thức, khả năng sáng tạo để tạo ra những sản phẩm tư duy trí tuệ, nó cho
phép loại bỏ những người có kiến thức có khả năng sáng tạo nhưng không có
sản phẩm sáng tạo cụ thể. Sản phẩm tư duy trí tuệ ở đây là ý tưởng, mệnh đề,
quy luật và cuối cùng là sản phẩm ứng dụng của tư duy trí tuệ bao gồm các
phương hướng, đường lối, chính sách cải tạo tự nhiên và xã hội đã được áp
dụng.
12


Theo Từ điển Tiếng Việt, trí thức là “người chuyên làm việc lao động
trí óc và có tri thức chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp của
mình”1. Định nghĩa này theo nhiều nhà khoa học thì nó vẫn chưa thực sự thấu
đáo, vì theo đó trí thức chỉ là những người chuyên làm việc, lao động trí óc.
Nhưng định nghĩa này chưa làm rõ thế nào là lao động trí óc. Nếu chỉ nhìn
vào hiện tượng thì một nghệ sĩ dương cầm, một nhà điêu khắc hay một bác sĩ
phẫu thuật sử dụng cơ bắp không kém gì người lao động chân tay; sáng tạo
của một họa sĩ thoạt nhìn cũng không khác hoạt động của người chép tranh
hay người vẽ truyền thần; công việc của một nhà giáo ở trung học hay đại học
cũng thuộc phạm trù giáo dục như công việc của cô bảo mẫu. Điểm phân biệt
giữa những người này là ở tầm mức của công việc và trình độ chuyên môn

trong thực hiện công việc ấy. Ví dụ, khác với y tá hay hộ lý, bác sĩ phẫu thuật
thực hiện một công việc phức tạp và hệ trọng, quan hệ đến sức khỏe và tính
mạng con người; và để có thể thực hiện công việc đó, người bác sĩ phải được
đào tạo chu đáo về lý luận và thực tiễn; ca phẫu thuật càng phức tạp, trình độ
càng phải cao. Tương tự, người thợ đục đá đục theo khuôn mẫu đã có sẵn, cho
ra lò hàng loạt sản phẩm giống hệt nhau; còn đối với nhà điêu khắc thì mỗi
tác phẩm là một sáng tạo duy nhất, thể hiện tư tưởng và phong cách nghệ
thuật nhất định. Tóm lại, người trí thức thực hiện những công việc có tầm
quan trọng, đòi hỏi trình độ chuyên môn cao hơn, sự huy động nỗ lực trí óc
nhiều hơn.
Nói tóm lại, trí thức là những người lao động trí óc, có hiểu biết sâu
rộng về một hoặc một số lĩnh vực khoa học - công nghệ, văn hóa - nghệ thuật,
quản lý kinh tế - xã hội, thường xuyên vận dụng những hiểu biết đó để phát
hiện và giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn nảy sinh trong lĩnh vực
hoạt động của mình vì lợi ích chung của cộng đồng và nhu cầu nhận thức của
bản thân.

1

. Viện ngôn ngữ học, Trung tâm Từ điển học. Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2006. Tr. 1034.

13


Theo cách hiểu trên thì tầng lớp trí thức là một tập hợp mở và đa dạng,
không giống bất kỳ một tập hợp nào khác trong xã hội như nông dân, công
nhân, thợ thủ công, quân nhân, thương nhân hay người buôn bán nhỏ. Trí thức
có thể là bất kỳ ai trong các tập hợp trên, miễn là có hiểu biết sâu rộng và
tham gia lao động trí óc. Tuy nhiên, bộ phận hạt nhân của tầng lớp trí thức là
các nhà nghiên cứu; các giảng viên đại học; các bác sĩ, dược sĩ cao cấp; các

nhà văn, nhà thơ, nhà điêu khắc, nhạc sĩ, họa sĩ, nhà báo; các nhà quản lý và
công chức, viên chức trong bộ máy tham mưu cho nhà quản lý.
Về trí thức khoa học xã hội:trí thức khoa học xã hội là một bộ phận của
đội ngũ trí thức. Họ là những người lao động trí óc sáng tạo trong lĩnh vực
khoa học xã hội. Đối tượng nghiên cứu; tác động thực tiễn; giá trị đóng góp
cho xã hội; đặc thù của lao động sáng tạo; những yêu cầu riêng của hoạt động
chuyên môn ... đã làm cho trí thức khoa học xã hội bên cạnh những cái chung
của đội ngũ trí thức còn mang những nét riêng đặc thù.
Khoa học xã hội phân biệt với các nhóm ngành khoa học khác ở chỗ nó
lấy con người và những quan hệ xã hội làm đối tượng nghiên cứu. Tuy thế,
cũng có một số ngành lấy con người làm đối tượng nghiên cứu như sinh vật
học, y học, nhân chủng học... Song các ngành trên chú ý nhiều hơn tới cấu
trúc vật chất của con người mà ít chú ý đến vấn đề xã hội của con người.
Khoa học xã hội không bỏ qua yếu tố cấu trúc, hình thể của con người, song
điều mà khoa học xã hội chú ý nhiều hơn cả là con người - xã hội. Do đó con
người – xã hội là đối tượng nghiên cứu đặc thù của khoa học xã hội. Nghiên
cứu con người xã hội, hay chính xác hơn là khoa học xã hội nghiên cứu các
vấn đề phát sinh trong mối quan hệ giữa người với người trong xã hội;
nghiên cứu các yếu tố thuộc thượng tâng kiến trúc: các quy luật xã hội,
kinh tế - xã hội...
Tri thức là công cụ phục vụ cho quá trình nghiên cứu của bất kỳ khoa
học nào, trong khoa học xã hội tri thức lại mang những nét đặc thù riêng biệt.
Người trí thức khoa học xã hội được chuẩn bị một hệ thống lý thuyết phản
14


ánh tính đặc thù khoa học mà mình nghiên cứu. Hệ thống lý thuyết này tạo ra
chiều sâu tri thức cho người trí thức khoa học xã hội. Chính điều này đòi hỏi
người trí thức khoa học xã hội phải có sư hiểu biết sâu sắc lĩnh vực chuyên
môn của mình. Bên cạnh đó, trí thức khoa học xã hội còn phải có sự am hiểu

sâu rộng về các lĩnh vực liên đới với lĩnh vực của mình hoặc các lĩnh vực gần
với chuyên môn của mình.
Tư duy trong hoạt động sáng tạo của tri thức khoa học xã hội cũng
mang những nét đặc thù. Trong đó tư duy trừu tượng và tư duy biện chứng xã
hội là nỗi trội hơn cả. Tư duy trừu tượng trong nghiên cứu khoa học xã hội sẽ
giúp nhà khoa học tòm hiểu được cái phổ biến, cái bản chất từ đó đưa ra được
tính quy luật và quy luật của các hiện tượng xã hội. Với nhà khoa học tự
nhiên việc rút ra chân lý phải thông qua hàng nghìn thí nghiệm với sự hỗ trợ
của các công cụ tinh vi. Còn nhà khoa học xã hội: “khi phân tích những hình
thái kinh tế người ta không dùng kính hiển vi hay những phản ứng hóa học
được, sức trừu tượng hóa phải thay thế cho cả hai cái đó”1. Ăngghen đã từng
nhấn mạnh hơn rằng, phương pháp nghiên cứu lô-gic là phương pháp thích
hợp duy nhất trong khoa học xã hội. Tư duy biện chứng trong phản ánh xã
hội và con người thống nhất trong sự đa dạng, trong những mối quan hệ
khách quan, phổ biến và luôn phát triển, dựa trên các quy luật ấy nhà khoa
học xã hội rút ra được các quy luật, tính quy luật, các đặc điểm, xu hướng vận
động phát triển của xã hội. Cũng do luôn chú ý đến cái phổ biến, cái bản chất
nên tư duy của trí thức khoa học xã hội dễ thấy được những cái mới nảy sinh,
những xu hướng phát triển tạo điều kiện cho xã hội chủ động và hoạt động
tích cực.
Về phương pháp nghiên của khoa học xã hội: phương pháp luận đặc
thù của khoa học xã hội hiện đại là phương pháp duy vật lịch sử. Đây là
phương pháp phát huy cao độ hiệu quả trong quá trình nghiên cứu xã hội.
Lịch sử phát triển của khoa học xã hội chỉ ra rằng loại bỏ phương pháp duy
1

Mác – Ăngghen: Tuyển tập, t. 3, tr. 198

15



tâm, chủ nghĩa duy tâm trong nghiên cứu khoa học là một chiến thắng vĩ đại
của chủ nghĩa duy vật nói riêng và chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung
Đặc thù của khoa học xã hôi là luôn mang tính giai cấp do đó sản phẩm
của khoa học xã hội mang tính khuynh hướng sâu sắc, hay chính là tính giai
cấp, tính nhân dân. Đặc thù này càng rõ nét với sản phẩm của khoa học xã hội
ở Việt Nam và các nước theo chủ nghĩa cộng sản khác trên thế giới. Điều này
được quy định bởi tính xuất phát điểm của nó và mục tiêu chính trị - xã hội.
Quá trình nghiên cứu, sáng tạo của khoa học xã hội là một quá trình có tính
định hướng chính trị. Điều này được lý giải như sau: tron xã hội có giai cấp
và đấu tranh giai cấp người trí thức khoa học xã hội và những sản phẩm xã
hội của họ bao giờ cũng thuộc về một giai cấp, một cộng đồng nhất định.
Với khoa học xã hội mác-xít, sự thống nhất giữa tính Đảng và tính khoa
học được coi là một nguyên tắc cơ bản khi nghiên cứu. Trong cấu trúc của
nó, khoa học xã hội mác – xít còn thể hiện tính khoa học vốn có của mình. Đó
là hệ thống nhận thức luận, phương pháp luận mác-xít cùng các nguyên lý,
quy luật, phạm trù... Khoa học xã hội mác-xít phản ánh quy luật của xã hội
trong phát triển, nó nhận thức xã hội và con người thông qua các cặp phạm trù
cơ bản như lượng – chất; thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập... Do
đó khoa học xã hội mác-xít được Lê-nin khẳng định là “đỉnh cao nhất của
khoa học xã hội”1.
Giá trị thực tiễn, hiệu quả xã hội của lao động trí tuệ của người trí thức
khoa học xã hội không được biểu hiện trực tiếp như các khoa học tự nhiên.
Giá trị thực tiễn của công trình khoa học xã hội thường biểu hiện gián tiếp.
Bên cạnh đó tác động xã hội của khoa học xã hội cũng thường phải thông qua
một cơ chế chính trị xã hội đặc thù. Kết quả nghiên cứu của khoa học xã hội
sau khi được thẩm tra, kiểm tra tính đúng đắn và tính khả thi sẽ trở thành một
trong những luận cứ của việc hoạch đình đường lối chính sách phát triển đất
nước của giai cấp thống trị xã hội. Hoặc thông qua hoạt động tuyên truyền
1


V.I. Lênin: Toàn tập, t. 1, tr. 421.

16


của chính Đảng đại diện để đi sâu vào đời sống xã hội. Khi đó, giá trị thực
tiễn của khoa học xã hội mới vượt qua giai đoạn nhận thức thế giới và đi vào
cải tạo thế giới. Cũng cần phải khẳng định thêm rằng không vì tác động gián
tiếp mà hiệu quả của khoa học xã hội kém phần quan trọng đối với quá trình
phát triển của lịch sử.
Nhìn chung, có thể nói rằng trí thức khoa học xã hội là một bộ phận của
đội ngũ trí thức. Họ là những người lao động trí óc trong lĩnh vực sáng tạo và
truyền bá tri thức khoa học xã hội và những giá trị nhân văn. Họ là những người
có kiến thức sâu rộng về con người và xã hội. Họ là những người có chuyên môn
trong tững lĩnh vực hoặc nhiều lĩnh vực của khoa học xã hội. Trí thức khoa học
xã hội là những người, thông qua lao động sáng tạo của mình tham gia vào đời
sống chính trị - xã hội, họ giúp cho hệ tư tưởng của giai cấp thống trị trở thành
hệ tư tưởng thống trị trong xã hội. Trí thức khoa học xã hội là bộ phận quan trọng
của nguồn lực trí tuệ giúp xã hội phát triển. Việc phát huy vai trò của trí thức khoa
học xã hội sẽ giải phóng hơn nữa tiềm năng của con người, đây chính là đầu mối
của quá trình phát huy tiềm năng con người.
1.

Khái niệm phát triển bền vững.
Phát triển bền vữnglà một khái niệm nhằm định nghĩa về sự phát triển

về mọi mặt trong hiện tại mà vẫn phải bảo đảm sự tiếp tục phát triển trong
tương lai xa. Khái niệm này hiện đang là mục tiêu hướng tới nhiều quốc gia
trên thế giới, mỗi quốc gia sẽ dựa theo đặc thù kinh tế, xã hội, chính trị, địa lý,

văn hóa... riêng để hoạch định chiến lược phù hợp nhất với quốc gia đó. (1)
Thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980
trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn
Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn
giản: "Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh
1

/>
17


tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến
môi trường sinh thái học".
Khái niệm này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ báo cáo
Brundtland (còn gọi là Báo cáo Our Common Future) của Ủy ban Môi trường
và Phát triển Thế giới - WCED (nay là Ủy ban Brundtland). Báo cáo này ghi
rõ: Phát triển bền vững là "sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu
hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu
của các thế hệ tương lai...". Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm
có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo
vệ, gìn giữ. Để đạt được điều này, tất cả các thành phần kinh tế - xã hội, nhà
cầm quyền, các tổ chức xã hội... phải bắt tay nhau thực hiện nhằm mục đích
dung hòa 3 lĩnh vực chính: kinh tế - xã hội – môi trường.
Ngoài ra cũng có một số ý kiến cho rằng phát triển bền vững không nên
chỉ được tiếp cận từ góc độ kinh tế hay bảo vệ môi trường sinh thái, mà nó
còn phải được nhìn nhận từ góc độ xã hội và văn hóa, vì phát triển kinh tế và
văn hóa, xã hội có mối liên hệ hữu cơ. Kinh tế chỉ phát triển bền vững trong
sự phát triển bền vững hài hòa về văn hóa, xã hội.
Gần đây, trong quá trình tiếp cận khái niệm phát triển bền vững đã xuất
hiện một hướng nghiên cứu khác, đó là tìm hiểu và xây dựng các mô hình và

cơ chế cho sự phát triển bền vững, tronh đó chủ yếu nhằm vào ba yếu tố căn
bản là Nhà nước, xã hội công dân và thị trường. Nhiều học giả coi đây là trụ
cột của xã hội hiện đại. Sự phát triển và tương tác của chúng có ảnh hưởng
chi phối đến đời sống xã hội hiện đại ở mức độ khác nhau, góp phần đảm bảo
cho xa hội phát triển ổn định, bền vững, hài hòa. Nhiệm vụ chủ yếu và nghệ
thuật lãnh đạo, quản lý của các chính phủ cũng như vai trò của các tổ chức
quốc tế là đảm bảo cho sự phát triển đồng bộ, tương thích, hài hòa của ba trụ
cột chính đó. Cũng có những ý kiến cho rằng, ngoài ba trụ cột trên còn cần trụ
cột thứ tư là giới tự nhiên, sinh thái. Nó vừa là giới hạn, vừa là điều kiện cho

18


sự vận động và phát triển, tương tác lẫn nhau của cả ba trụ cột kia, tạo thành
“cỗ xe tứ mã” trên con đường đưa nhân loại phát triển một cách bền vững.
Như vậy, đã có một bước tiến khá dài trong quan niệm về phát triển
bền vững. Thay vì chỉ nhấn mạnh đến khía cạnh kinh tế và môi trường tự
nhiên, giờ đây người ta đã chú ý nhiều hơn đến sự phát triển đồng bộ, của tất
cả các lĩnh vực, các yếu tố, các bộ phận cấu thành đời sống xã hội, từ kinh tế
đến chính trị, văn hóa, xã hội, từ cơ sở hạ tầng đến kiến trúc thượng tầng. Vấn
đề đặt ra đối với trí thức khoa học xã hội là, từ góc độ tiếp cận của mình cần
làm rõ nội dung phát triển trong từng lĩnh vực cụ thể.
Như vậy, chúng ta thấy rõ một điều rằng, tuy có nhiều quan niệm, nhiều
định nghĩa khác nhau về phát triển bền vững. Nhìn chung các cách tiếp cận
đều chỉ ra các yếu tố của phát triển bền vững trong đó vấn đề cốt lõi đó là việc
đảm bảo sự phát triển của xã hội hôm nay khồn làm ảnh hưởng đến nhu cầu
của thế hệ tương lai. Trong các cách tiếp cận cũng chỉ ra yếu tố cơ bản đảm
bảo cho quá trình phát triển bền vững chính là yếu tố chính trị; các chính sách
phát triển của một quốc gia trên con đường phát triển của mình. Trước những
yêu cầu đó vai trò của trí thức khoa học xã hội mà cụ thể hơn là vai trò nghiên

cứu, dự báo xu thế của thời đại, xu thế quốc tế và xu thế khu vực, qua đó cung
cấp cho chủ thể chính trị cái nhìn đúng đắn giúp đưa ra các quyết sách ảnh
hưởng trực tiếp tới quá trình phát triển và phát triển bền vững của quốc gia.
2.

Mối quan hệ giữa trí thức khoa học xã hội với phát triển bền vững.
Như đã bàn tới ở trên, vai trò to lớn của khoa học xã hội trong quá trình

phát triển của nhân loại đã và đang được khẳng định. Vai trò đó không chỉ bị
quy định bởi “tính người” trong phát triển mà còn bị quy định bởi trình độ của
xã hội hóa sản xuất. Khoa học xã hội đang được huy động và có điều kiện
tham gia ngày càng rộng hơn vào thực tiễn. Nó chẳng những tạo ra cơ sở cho
sự phát triển nhân bản và bền vững mà còn góp phần tạo ra tốc độ và chất
lượng của quá trình này. Nhu cầu thực tiễn đối với khoa học xã hội và tiềm
năng của nó đang hứa hẹn những bước phát triển mới của nhóm ngành này.
19


Đã có dự báo, một phần tư thế kỷ sắp tới, những sự kiện có ý nghĩa lớn nhất
sẽ xảy ra không phải trong lĩnh vực khoa học tự nhiên mà là trong lĩnh vực
khoa học xã hội.
Trình độ xã hội hóa cao của nền sản xuất hiện đại, sự tham gia của trí
tuệ con người vào trong các quá trình xã hội và cả những kinh nghiệm lịch sử
mà con người có được thông qua lao động và đấu tranh là những yếu tố quy
đinh vai trò to lớn của khoa học xã hội. Thêm vào đó, những vấn đề đặt ra
trong phát triển và phát triển bền vững cũng đòi hỏi phải đẩy mạnh việc sự
dụng vai trò của trí thức khoa học xã hội. Nguy cơ sinh thái đòi hỏi con
người phải tự điểu chỉnh để có thái độ đúng mực với thiên nhiên. Nguy cơ
dân số bùng nổ buộc con người phải hiểu được bản chất xã hội của quá trình
tăng trưởng dân số để tự điều chỉnh theo hướng bền vững và hài hòa... Nguy

cơ về nhân tài được thể hiện qua hai nghịch lý: vừa thiếu nhân tài vừa lãng
phí trong sử dụng nhân tài. Các vấn đề đó đòi hỏi nhân loại phải vừa phát
triển, vừa sử dụng tốt nhất tài nguyên chất xám hiện có. Nguyên lý tiết kiệm:
hãy tìm cách sử dụng tốt nhất những gì mà chúng ta có, tỏ ra khá phù hợp.
Chủ thể của những tri thức ấy – người trí thức khoa học xã hội, đang có điều
kiện để phát huy tiềm năng và đang được huy động mọi tiềm năng để cùng
nhân loại bước vào chặng phát triển mới – phát triển bền vững.
Thực tế của giai đoạn đầu phát triển kinh tế tri thức đã khẳng định rằng,
tri thực nếu tách rời khỏi mục tiêu xã hội và nhân văn thì nó sẽ là khởi đầu
của một quá trình “tự hủy diệt”. Rõ hơn, những phát kiến của khoa học tự
nhiên và công nghệ nếu không đặt trên những lập trường tiến bộ, không được
dẫn đường bởi những nhận thức đúng đắn, nhân bản của khoa học xã hội, thì
những phát kiến kia rất dễ phản tác dụng. Như thế, vai trò của các môn khoa
học xã hội là rất quan trọng trong việc phân tích những chuyển dịch xã hội
gắn với thành tựu của khoa học và công nghệ. Trong việc tìm kiếm giải pháp
cho những vấn đề đang nảy sinh, các nhà khoa học là người chịu trách
nhiệm đặc biệt trong việc ngăn chặn việc sử dụng các thành quả khoa học
20


một cách không hợp lý, không thể chấp nhận được về mặt đạo đức và gây
hậu quả có hại.
Vai trò của trí thức khoa học xã hội với phát triển bền vững thể hiện
trong mối quan hệ biện chứng vốn có của nó. Với đặc thù về vai trò, cũng như
tính nhân bản của mình khoa học xã hội đóng một vai trò to lớn trong việc
đưa ra những dự báo về xu hướng phát triển của thời đại, của quốc tế và của
khu vực, từ đó trực tiếp tác động đến chính trị giúp chủ thể chính trị đưa ra
các phán quyết, những chính sách hợp lý thúc đẩy quá trình phát triển của
quốc gia mình. Trong quá trình đó sự tham gia của những nhà khoa học xã
hội – trí thức khoa học xã hội là rất lớn. Ngài ra, trí thức khoa học xã hội còn

tham gia trực tiếp vào các vấn đề mang tính định hướng hoặc lên án việc áp
dụng thành quả của khoa học công nghệ vào cuộc sống khi các phát kiến của
khoa học công nghệ bị sử dụng sai mục đích gây hậu quả nghiêm trọng cho xã
hội. Chẳng hạn, với khả năng dự báo của mình các trí thức khoa học xã hội sẽ
đưa ra các dự báo chính xác về hậu quả xã hội của chiến tranh, của việc chạy
đua vũ trang, phổ biến vũ khí hạt nhân với các quốc gia,... Từ đó, chúng ta
thấy rõ hơn vai trò của trí thức khoa học xã hội với phát triển bên vững.
Ở Việt Nam, mối quan hệ giữa trí thức khoa học xã hội với sự phát
triển bền vững được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau. Trước hết, mối
quan hệ biện chứng này được thể hiên thông qua sự định hướng phát triển của
đât nước. Sẽ không có gì là quá đáng khi nói rằng trí thức khoa học xã hội họ
là những người trực tiếp nghiên cứu, tiếp tục hoàn thiện chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh tạo cơ sở lý luận, trang bị lý luận cho hoạt động
lãnh đạo của Đảng và Nhà nước bởi lẽ đại đã số những nhà nghiên cứu lý
luận, những cán bộ trong Hội đồng Lý luận Trung ương đều là những trí thức
khoa học xã hội trưởng thành từ các viện nghiên cứu, các trường lý luận hàng
đầu Việt Nam. Tiếp theo, do đặc điểm nhanh nhạy với thời cuộc, và tình yêu
khoa học, tính hướng đích nhân văn cao cả mà những trí thức khoa học xã hội
là những người phản biện tích cực các chính sách phát triển kinh tế - văn hóa
21


– xã hội – chính trị của Đảng và Nhà nước, chính điều này đã giúp cho hệ
thống chính trị có cái nhìn thực tiễn và đúng đắn về các chính sách phát triển
quốc gia trong từng giai đoạn – tiến tới phát triển bền vững.
CHƯƠNG II. MỘT SỐ VAI TRÒ CƠ BẢN CỦA TRÍ THỨC KHOA
HỌC XÃ HỘI VỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY.
1.

Tiếp tục hoàn thiện chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh


trang bị cơ sở lý luận cho sư nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hướng
tới phát triển bền vững.
Thế kỷ XXI đặt ra nội dung và yêu cầu mới cho mục tiêu phát triển. Đó
là sự phát triển trong hòa bình và tự do; phát triển hài hòa giữa vật chất và
tinh thần; phát triển trong công bằng và dân chủ; phát triển bền vững và nhân
văn; sự phát triển của mỗi con người, mỗi nhóm xã hội, mỗi giai cấp mỗi tập
đoàn, mỗi quốc gia, dân tộc phải là điều kiện tích cực cho sự phát triển của
những người khác và toàn bộ loài người. Để đạt được mục tiêu này, khuôn
khổ phát triển này không thể phù hợp với giới hạn chật hẹp của hình thái kinh
tế - xã hội của chủ nghĩa tư bản - hình thái chỉ có thể tồn tại và vận động
được nhờ bóc lột lao động, nhờ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày
càng phình to, nhờ đầu cơ tài chính và chiến tranh chia lại thị trường thế
giới... Do đó, mục tiêu của phát triển bền vững tự nó đặt ra yêu cầu phải tiếp
tục giải phóng triệt để con người và tiêu diệt tận gốc chế độ chiếm hữu tư bản
chủ nghĩa dưới mọi biến thể khác nhau của chúng.
Hiện nay, chủ nghĩa tư bản đang có nhiều biến đổi, quá trình này cho
thấy chủ nghĩa tư bản đang “tự phê bình” nhằm phát tránh khỏi tình trạng bị
diệt vong trong khoảng thời giai không xa nữa – những biến đổi cuối cùng
của “tên phù thủy đã không trị nổi những âm binh do chính y triệu lên”. Nhận
xét về chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta nhận định: “chủ
nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp
22


bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư
bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng
sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không
giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị,
xã hội vẫn tiếp tục xảy ra. Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó

và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ
nghĩa tư bản.” 1
Chủ nghĩa tư bản hiện nay đang đẩy mạnh quá trình tự biến đổi với
những biến tướng khó lường. Trên thế giới xuất hiện ngày càng nhiều trào lưu
xã hội mới một trong số đó là trào lưu xã hội dân chủ, trào lưu này được nhiều
học giả phương Tây đánh giá cao, điều này cho thấy trào lưu xã hội dân chủ
có thể thắng thế ở nhiều nơi (Bắc Âu, Tây Âu, Đông Âu, Mỹ La Tinh..) sẽ có
thêm nhiều lực lượng, quốc gia tham gia, trong đó có một số quốc gia xã hội
củ nghĩa cũ và không loại trừ khả năng có cả một số lực lượng cộng sản hiện
thời ngả theo. Tính từ thời điểm Quốc tế II sụp đổ (đầu thế kỷ XX) đến nay,
trào lưu xã hội dân chủ đã có lịch sử tồn tại một thế kỷ. Dù đã từng bị đẩy vào
không ít hoàn cảnh khó khẵn, nhưng chủ nghĩa xã hội dân chủ cũng đã
khẳng định sự hiện diện của mình trong thế giới đương đại, cả trên phương
diện một trào lưu tư tưởng và chế độ kinh tế - xã hội ở hàng chục quốc gia
cũng như một lực lượng chính trị quốc tế mạnh mẽ. Ngay từ rất sớm, Mác,
Ăngghen và Lênin đã phân tích các cơ sở kinh tế - xã hội và cơ sở giai cấp
của trào lưu tư tưởng lợi hại này. Đó là: các cuộc cải cách kinh tế - xã hội của
chủ nghĩa tư bản, sự phát triển của giai cấp tiểu tư sản, tầng lớp trung lưu và
đội ngũ công nhân quý tộc trong lòng chủ nghĩa tư bản hiện đại... Ngày nay,
các cơ sở đó chẳng những vẫn tồn tại mà còn có những biểu hiện gia tăng,
tiếp tục tạo ra mảnh đất cho trào lưu xã hội dân chủ phát sinh. Thêm vào đó,
sự thất bại của nhiều mô hình phát triển kinh tế - xã hội của cả chủ nghĩa tư
bản và chủ nghĩa xã hội trong mấy thập kỷ vừa qua đã trở thành chất xúc tác
1

Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI.

23



tình thế cho bước thăng hoa nhất định của chủ nghĩa xã hội dân chủ vốn từ
trước tới nay vừa phê phán chủ nghĩa tư bản, vừa chống phá chủ nghĩa xã hội
và hô hào cho con đường xây dụng chủ nghĩa xã hội bằng cách canh tân chế độ
tư bản chủ nghĩa. Trào lưu xã hội dân chủ rất có thể có cơ hội lây lan trong bối
cảnh kinh tế nhiều thành phần, cơ chế thị trường, nhà nước pháp quyền, xã hội
công dân... Đang trở thành những tham số chung của cả chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa tư bản, mặc dù ở mỗi nơi chúng chứa đựng bản chất khác nhau.
Trong bối cảnh này,C. Mác tiếp tục được suy tôn nhà tư tưởng của thế
kỷ XXI và một nhà tư tưởng rất khó vượt qua. Trên thế giới ngày càng có
nhiều quá trình đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chống độc quyền tư bản,
vì hòa bình, độc lập, dân chủ, hợp tác và tiến bộ xã hội trên thế giới tìm thấy ở
chủ nghĩa Mác – Lênin cơ sở lý luận, kim chỉ nam cho mọi hành động từ nhận
thức đến hành động của mình. Cao trào cánh tả và chủ nghĩa xã hội thế kỷ
XXI ở Mỹ Latinh, nhiều diễn đàn của các phong trào yêu nước, phong trào
không liên kết là những minh chứng sống động hiện nay.
Điều này cho thấy hiện tại chủ nghĩa tư bản đang rơi vào thoái trào,
song chúng vẫn có sực hút nhất định với các nước chậm, kém phát triển. Thật
ra sức sống còn lại của chủ nghĩa tư bản mà đôi khi có người choáng ngợp,
một phần do nó vốn chưa thật cạn kiệt, còn một phần rất quan trọng là do
những yếu kém, sai lầm dẫn đến sụp đổ cay đắng một mảng lớn chủ nghĩa xã
hội hiện thực. Một sự thật nữa rất đáng lưu ý là tâm trạng hoan hỉ của phương
Tây trước sự sụp đổ của Liên Xô chỉ được nhất thời; sau đó, khi không còn
địch thủ đáng gờm nhất phải đối mặt, thì những đầu óc ít nhiều tỉnh táo, sáng
suốt trong các học giả và chính khách phương Tây bình tĩnh quay về nhìn lại
bản thân chủ nghĩa tư bản, đã kịp thời cảnh báo: Coi chừng nguy cơ đe dọa
vận mệnh chủ nghĩa tư bản vốn ra không phải từ phía chủ nghĩa xã hội, từ
Liên Xô, mà chính từ ngay trong lòng chủ nghĩa tư bản. Rõ ràng chủ nghĩa tư
bản đang "tự phản tỉnh", "tự phê phán", đang thấy khó mà tự duy trì nếu
không có phép gì mầu nhiệm hơn những phép đã dùng gần như cạn kiệt để tự
24



điều chỉnh, thích nghi. Những khái niệm "xã hội hậu tư bản", hay "chủ nghĩa
tư bản mới", "chủ nghĩa tư bản nhân dân", hay "chủ nghĩa tư bản của những
người lao động", v.v. mà một số học giả phương Tây ưa dùng nói lên hai mặt:
nó vừa là một sự ngụy biện rằng, chủ nghĩa tư bản đã không còn là chủ nghĩa
tư bản nữa vì nó không còn bóc lột; vừa là - về khách quan - mặc nhiên thừa
nhận chế độ tư bản đích thực, truyền thống như bản thân nó, đã hết lý do tồn
tại, đã hết khả năng tự biện minh; có nghĩa, ngay các nhà tư tưởng tư sản cũng
đã mất niềm tin ở chính chủ nghĩa tư bản, đã mặc nhiên và gián tiếp phải nói
đến một chế độ mới đang gõ cửa chủ nghĩa tư bản.
Do đó để tránh bị diệt vong một cách đáng tiếc, hiện nay chủ nghĩa tư
bản đang có những điều chỉnh mạnh mẽ. Các học giả phương trí thức khoa
học xã hội phương Tây – những người nhanh nhạy với thời cuộc – họ đã hiểu
được kết cục vốn có của chế độ mình đang theo. Chính vì thế, họ đã đưa ra rất
nhiều học thuyết về giá trị về vấn đề xã hội nhằm làm giảm bớt căng thẳng
đang âm ỉ cháy trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa. Các học thuyết họ đưa ra
đã làm không ít người phải mơ ước, phải thán phục, trong số đó thậm chí có
cả những học giả, những nhà khoa học vô sản chủ nghĩa bị lung lay – mô hình
xã hội dân chủ ở các nước Bắc Mỹ, Bắc Âu... đã làm cho họ siêu lòng trong
nhất thời mà không nhận ra bản chất thối nát ẩn chứa sâu thẳm bên trong nó.
Một cách điều chỉnh nữa của chủ nghĩa tư bản hiện nay là chúng không ngừng
rêu rao về tính “ưu việt”!? của chủ nghĩa tư bản. Bằng mọi cách chúng làm
cho giai cấp công nhân, những người lao động nghèo khổ không còn nhận ra
bản chất bóc lột thâm độc của chúng. Với những chính sách phúc lợi xã hội
tương đối tốt ở bề ngoài chúng đã làm cho những người lao động mất dần tính
chiến đấu, mất dần sức chiến đấu với chủ nghĩa tư bản...
Hiện nay, trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới. Nền kinh tế Việt
Nam đã và đang từng bước tham gia sâu rộng vào sân chơi này. Hội nhập vừa
là cơ hội để phát triển nhưng đồng thời hội nhập cũng là con đường ngắn nhất

để chúng ta tự đánh mất mình, hoặc bị các thế lực phản động tiến hành lật đổ
25


×