Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

tiểu luận cao học Vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp trong tác phẩm tuyên ngôn của đảng cộng sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.87 KB, 28 trang )

MỞ ĐẦU
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản giữ địa vị đặc biệt quan trọng trong
kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Sự ra đời của tác phẩm vĩ đại
này đánh dấu sự hình thành về cơ bản lý luận của chủ nghĩa Mác bao gồm
ba bộ phận hợp thành: triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa cộng sản
khoa học. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản còn là cương lĩnh chính trị của
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, là kim chỉ nam cho hành động
của toàn bộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản là ngọn cờ dẫn dắt giai cấp công nhân và nhân dân lao
động toàn thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, giải phóng
loài người vĩnh viễn thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột giai cấp, bảo đảm cho
loài người được thực sự sống trong hòa bình, tự do và hạnh phúc.
Sở dĩ Tuyên ngôn có sức sống lâu bền và giá trị to lớn như thế trước
hết là bởi nội dung của nó mang tính cách mạng và khoa học rất sâu sắc. C.
Mác và Ph. Ăng-ghen đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử để luận giải một cách khoa học về quy luật khách quan của sự
phát triển xã hội; về vị trí và ý nghĩa quan trọng của sản xuất vật chất cũng
như vai trò của kiến trúc thượng tầng; về quá trình phát sinh, phát triển và
sự tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản; về vai trò, sứ mệnh lịch sử và
phương hướng đấu tranh của giai cấp công nhân hướng tới xây dựng một
xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh. Đặc biệt là học thuyết về giai cấp và
đấu tranh giai cấp được Mác – Ăng ghen trình bày trong tác phẩm không
chỉ có ý nghĩa trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam
trước đây mà còn cả trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Nhận thức đúng về cuộc đấu tranh giai cấp trong tình hình hiện nay là cơ
sở quan trọng để củng cố lập trường, nâng cao tinh thần cảnh giác cách
mạng, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, bảo vệ
Đảng, bảo vệ Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa của nước ta.
1



Vì vậy, đề tài tiểu luận của tôi là “Vấn đề giai cấp và đấu tranh giai
cấp trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”. Ngoài phần Mở đầu,
Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của tiểu luận gồm:


Bối cảnh ra đời, mục đích và kết cấu của tác phẩm



Vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp trong tác phẩm



Ý nghĩa của tác phẩm

I. Bối cảnh ra đời, mục đích và kết cấu của tác phẩm
1.1. Bối cảnh ra đời
Vào giữa những năm 40 của thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa đã thống trị ở Anh, Pháp, Đức và một số nước châu Âu khác.
Những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản mà trước hết là mâu thuẫn
giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ngày càng trở nên gay gắt. Ở thời kỳ
này, phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản đã phát triển mạnh mẽ và giai
cấp vô sản ngày càng chứng tỏ là một lực lượng xã hội to lớn, đóng một vai
trò quan trọng trong đời sống chính trị - xã hội. Phong trào Hiến chương ở
Anh, khởi nghĩa của công nhân dệt ở thành phố Liông (Pháp), khởi nghĩa
của thợ dệt Xilêdi ở Đức… đã chứng tỏ điều đó. Phong trào đấu tranh của
giai cấp vô sản lúc này chịu ảnh hưởng của các học thuyết xã hội chủ nghĩa
và cộng sản chủ nghĩa không tưởng của các nhà tư tưởng đương thời như
Xanh Ximông, Phuriê, Ôoen, mang tính tự phát, thiếu tổ chức chặt chẽ,
chưa giác ngộ được địa vị của mình trong tiến trình lịch sử. Tuy vậy, các

cuộc đấu tranh đã bắt đầu thể hiện quy mô liên vùng, liên quốc gia. Nhu
cầu đấu tranh của công nhân đòi hỏi bức thiết phải có một tổ chức chặt chẽ
lãnh đạo, phải có một lý luận tiên tiến soi đường, phải có một cương lĩnh
mang đầy đủ tính cách mạng và khoa học, làm kim chỉ nam cho hành động
của quần chúng.

2


Đáp ứng nhu cầu ấy, năm 1846, Các Mác và Ăng ghen đã thành lập
Ủy ban thông tin cộng sản ở Bỉ, sau đó là ở Anh, Pháp, Đức để thống nhất
về tư tưởng, tổ chức của những người xã hội chủ nghĩa và công nhân tiên
tiến của tất cả các nước.
Tháng 6 năm 1847, Ăng ghen tham gia tích cực vào công việc của
Đại hội lần thứ nhất “Liên đoàn những người cộng sản” ở Luân Đôn. “Liên
đoàn những người chính nghĩa” đổi tên thành “Liên đoàn những người
cộng sản” và thay khẩu hiệu “Tất cả mọi người đều là anh em” thành “Vô
sản tất cả các nước, đoàn kết lại!” Tháng 11 năm 1847, Đại hội lần thứ hai
của Liên đoàn đã giao cho Mác và Ăng ghen soạn thảo cương lĩnh của Liên
đoàn dưới hình thức tuyên ngôn. Cuối tháng 1 năm 1848, Mác hoàn thành
việc biên soạn và bản thảo được gửi đi Anh. Cuối tháng 2 năm 1848, Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản được xuất bản lần đầu tiên tại Luân Đôn, sau đó
được tái bản nhiều lần và được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.
1.2. Kết cấu
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản gồm: phần mở đầu, bốn chương và
các lời tựa cho mỗi lần tái bản.
- Lời tựa:
Tuyên ngôn là tài liệu lịch sử mà Mác và Ăng ghen không có quyền
sửa, nên mỗi lần tái bản các ông đều bổ sung cho tác phẩm của mình bằng
Lời tựa. Lời tựa viết cho bản tiếng Đức xuất bản năm 1873 khẳng định: Lý

do viết Tuyên ngôn; Tuyên ngôn không phải như những liều thuốc vạn năng
đã được thầy thuốc bốc sẵn để chỉ có việc đem về uống là chữa được bách
bệnh, mà bất kỳ ở đâu và bất cứ chỗ nào, việc áp dụng những nguyên lý
của Tuyên ngôn cũng phải tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử đương thời. Lời tựa
viết cho bản tiếng Nga xuất bản năm 1882 nói rõ nhiệm vụ của Tuyên ngôn
là tuyên bố sự diệt vong không tránh khỏi và sắp xảy ra của chế độ sở hữu
3


tư sản. Lời tựa viết cho bản tiếng Đức xuất bản năm 1883, lúc này Mác đã
mất, Ăng ghen thay mặt Mác khẳng định lại tư tưởng cơ bản của Tuyên
ngôn. Lời tựa viết bản tiếng Anh xuất bản năm 1888 khẳng định Tuyên
ngôn là cương lĩnh hành động của “Liên đoàn những người công sản”,
đồng thời chỉ ra sự khác nhau căn bản giữa tổ chức và lý luận của “Liên
đoàn những người cộng sản” với những tổ chức, những lý luận mang danh
chủ nghĩa xã hội đương thời.
- Phần mở đầu: khẳng định chủ nghĩa cộng sản không phải là một
bóng ma thần bí, hắc ám mà nó là một thế lực. Dù giai cấp tư sản muốn phủ
nhận, nhưng chính việc liên minh để chống lại nó của tất cả các thế lực
châu Âu đã thừa nhận chủ nghĩa cộng sản là một thế lực và nó mạnh thực
sự. Những người cộng sản tạo nên thế lực ấy không giấu giếm mà công
khai tuyên bố trước toàn thế giới quan điểm, mục đích, ý đồ của mình qua
Tuyên ngôn.
Chương 1: Tư sản và vô sản
Nội dung của chương: tính tất yếu ra đời và diệt vong của chủ
nghĩa tư bản và giai cấp tư sản; vai trò lịch sử của giai cấp vô sản và
cách mạng vô sản.
Chương 2: Những người vô sản và những người cộng sản
Nội dung của chương: Đảng Cộng sản và giai cấp vô sản; nội dung
cách mạng vô sản và hai giai đoạn của nó; bác bỏ những luận điệu xuyên

tạc của giai cấp tư sản về chủ nghĩa cộng sản, qua đó đưa ra những dự kiến
khoa học về xã hội cộng sản tương lai.
Chương 3: Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa
Nội dung của chương: Phê phán những trào lưu tư tưởng phản động
có ảnh hưởng tiêu cực đến phong trào của giai cấp vô sản: trào lưu tư tưởng
4


chủ nghĩa xã hội phản động, chủ nghĩa xã hội tư sản và chủ nghĩa xã hội
không tưởng.
Chương 4: Thái độ của những người cộng sản đối với các đảng đối lập
Nội dung của chương: thể hiện thái độ của những người cộng sản
trong quá trình phân hoá giai cấp. Qua đó thể hiện tinh thần cách mạng triệt
để không ngừng, chính sách liên minh đoàn kết đấu tranh của những người
cộng sản.
Tư tưởng cơ bản của Tuyên ngôn là :


Cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng trong mỗi thời đại do

sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội của thời đại ấy quyết định.


Lịch sử phát triển của xã hội có giai cấp là lịch sử đấu tranh giai cấp.



Giai cấp vô sản chỉ có thể tự giải phóng cho mình nếu đồng thời và

vĩnh viễn giải phóng cho toàn xã hội.

1.3. Mục đích của tác phẩm
Mục đích của tuyên ngôn là: công khai trình bày trước toàn thế giới
những quan điểm, mục đích, ý đồ của những người cộng sản, đập lại câu
chuyện hoang đường về bóng ma cộng sản.
II. Vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp trong tác phẩm
2.1. Vấn đề giai cấp
Lênin khẳng định: “Điểm chủ yếu trong học thuyết Mác là ở chỗ nó
làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã
hội chủ nghĩa”. Thật vậy, đối với Mác và Ăng ghen, các vấn đề về địa vị
của giai cấp vô sản, chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, cách mạng cộng sản
chủ nghĩa, chế độ cộng sản chủ nghĩa được đặt ra và đòi hỏi phải giải đáp
5


lúc này, tựu trung lại, chính là vấn đề sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản.
Do thế, yêu cầu chứng minh cho tính tất yếu của sứ mệnh đó, chỉ rõ nó là
sản phẩm tất yếu của vận động có quy luật của lịch sử nhân loại nói chung,
trở nên rất cấp thiết. Trong Hệ tư tưởng Đức, một trong những vấn đề của
triết học Mác về lịch sử đã được nêu ra là học thuyết về giai cấp. Học
thuyết này thuộc nội dung quan niệm của Mác và Ăng ghen về cơ cấu xã
hội. Đây là học thuyết chiếm vị trí rất quan trọng trong hệ thống quan niệm
duy vật về lịch sử. Tuy nhiên, trong Hệ tư tưởng Đức học thuyết này mới
chỉ được phác hoạ những nét cơ bản, chưa được khái quát thành một lý
luận riêng. Có thể hiểu được là, trong Hệ tư tưởng Đức cũng như trong các
tác phẩm trước đó nữa của quá trình hình thành quan điểm duy vật lịch sử,
các vấn đề cơ bản khác thuộc nội dung của nó, nhất là quan điểm lịch sử cơ
bản, đã được ưu tiên giải quyết, nhằm đối lập với quan điểm duy tâm về
lịch sử. Rõ ràng là, chỉ khi nào những vấn đề này được giải quyết thì mới
có cơ sở khoa học cho việc giải đáp vấn đề giai cấp. Vì thế, khi cuộc đấu
tranh giữa vô sản và tư sản ngày càng phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải luận

chứng khách quan khoa học cho nó về lý luận và thực tiễn, thì nhiệm vụ đặt
ra hết sức khẩn trương cho Mác và Ăng ghen là phải hoàn chỉnh nội dung
học thuyết về giai cấp. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, học thuyết
này đã được trình bày rất rõ ràng và rất toàn diện. Ở đây toàn bộ các nội
dung khác nhau của quan niệm duy vật về lịch sử đã kết tinh trong học
thuyết về giai cấp, được vận dụng vào việc vạch ra, chứng minh quy luật
đấu tranh giai cấp đã tất yếu đưa đến cuộc đấu tranh giữa vô sản và tư sản
trong xã hội tư sản.
Về giai cấp tư sản:
Theo Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, lịch sử đã chứng minh rằng,
sự ra đời và tồn tại của mỗi giai cấp hoàn toàn không phải do giai cấp ấy
quyết định mà do sự vận động của phương thức sản xuất đương thời. Giai
6


cấp tư sản cũng vậy, bản thân nó “cũng là sản phẩm của một quá trình phát
triển lâu dài, của một loạt những cuộc cách mạng trong phương thức sản
xuất và trao đổi”
Thời kỳ đầu, giai cấp tư sản đóng một vai trò hết sức cách mạng
trong lịch sử. Nó đã:
- Xoá bỏ tất cả những tập quán, chuẩn mực hà khắc tồn tại như
những sợi dây vô hình mà xã hội cũ tạo ra để trói buộc con người; “tạo ra
những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của
tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”
- Xoá tình trạng cát cứ phong kiến, xoá bỏ trạng thái ngu muội của
đời sống thôn dã ở một bộ phận lớn dân cư, tạo cho đời sống vật chất và
đời sống tinh thần của con người có tính toàn cầu. Tạo ra được sự tập trung
về dân chủ, kinh tế, chính trị, hình thành nên những dân tộc thống nhất, có
luật pháp thống nhất, có lợi ích thống nhất, có tính chất giai cấp và thuế
quan thống nhất.

Đánh giá khách quan công lao của giai cấp tư sản đối với sự phát
triển của xã hội loài người, Tuyên ngôn cũng vạch ra những khuyết tật
thuộc bản chất của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, vạch ra những
mâu thuẫn không thể giải quyết nổi của phương thức sản xuất này để tất
yếu dẫn đến sự thay thế nó bằng phương thức sản xuất khác. Đồng thời
với việc giải phóng con người khỏi những ràng buộc của xã hội phong
kiến, giai cấp tư sản đã quàng lên họ sợi xích khắc nghiệt hơn – sợi xích
nối liền giữa một bên là máy móc của nhà tư bản với một bên là dạ dày
của người lao động.
+ Sản xuất công nghiệp trong phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa, do tính chất của công việc và tương ứng với nó là mức thu nhập, đã
dẫn đến việc phát triển què quặt của người lao động. Tuyên ngôn chỉ rõ:
“Người công nhân trở thành một vật phụ thuộc giản đơn của máy móc,
7


người ta chỉ đòi hỏi người công nhân làm được một việc đơn giản nhất, đơn
điệu nhất, dễ học nhất mà thôi. Do đó, chi phí cho một công nhân hầu như
chỉ còn là số tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì đời sống và nòi giống của
anh ta mà thôi”
+ Mục đích của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là lợi nhuận
nên tất cả đã trở thành hàng hoá, tất cả đều có thể mua được, bán được.
Phương thức sản xuất này đã “…không để lại giữa người và người một
mối quan hệ nào khác, ngoài lợi ích trần trụi và lối “tiền trao cháo múc”
không tình không nghĩa”.
+ Sự cách mạng hoá công cụ sản xuất làm giai cấp tư sản hoàn toàn
chiến thắng chế độ phong kiến. Nhưng, chính sự phát triển của lực lượng
sản xuất càng ngày càng khoét sâu mâu thuẫn giữa quá trình sản xuất mang
tính xã hội với chế độ sở hữu mang tính tư nhân nên khi nó đạt đến một
mức độ nhất định thì, cũng như đã xảy ra đối với các phương thức sản xuất

trước đây, những quan hệ sản xuất không còn tương ứng với lực lượng sản
xuất đã lớn mạnh nữa. Chúng trở nên cản trở sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Mọi sự đối phó, điều chỉnh trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản
không thể giải quyết được mâu thuẫn này và tất yếu sẽ dẫn đến sự diệt
vong của quan hệ sở hữu tư sản, sự diệt vong của phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa cũng như sự diệt vong đã xảy ra đối với các phương thức sản
xuất trước đó.
Như vậy là, giai cấp tư sản đã làm cho nền sản xuất mang tính chất
xã hội. Nhưng chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa lại mâu thuẫn không thể điều
hoà với tính chất xã hội của nền sản xuất ấy. Sự phát triển của nền sản xuất
tư bản chủ nghĩa đòi hỏi phải thủ tiêu chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa đó và
đã chuẩn bị những tiền đề khách quan cho quá trình đó. Mác và Ăngghen chỉ ra
rằng, quá trình đó không diễn ra một cách tự động. Người đào huyệt chôn chế
độ tư bản chủ nghĩa là giai cấp vô sản do chính xã hội tư bản đẻ ra.
8


Giai cấp vô sản
Giai cấp vô sản, như Ăngghen đã giải thích trong Lời tựa viết cho
lần xuất bản bằng tiếng Anh năm 1888, là giai cấp của những công nhân
làm thuê hiện đại, vì mất các tư liệu sản xuất của bản thân, nên buộc phải
bán sức lao động của mình để sống.
- Quá trình đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản đi
từ lẻ tẻ đến có tổ chức, từ tự phát đến tự giác, từ đấu tranh thuần tuý về
kinh tế đến đấu tranh hướng về một lý tưởng xã hội.
Trong Tuyên ngôn, Mác và Ăngghen đã chỉ ra giai cấp vô sản là lực
lượng có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình vì:
+ Giai cấp vô sản là sản phẩm của nền đại công nghiệp nên trong khi
các giai cấp khác suy tàn và tiêu vong cùng sự phát triển của nền đại công
nghiệp, thì ngược lại, giai cấp vô sản lớn mạnh cùng với sự lớn mạnh của

nền đại công nghiệp. Giai cấp vô sản là đại biểu cho lực lượng sản xuất
tiên tiến trong nền sản xuất xã hội.
+ “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì
chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng”, triệt để cách mạng vì
“những người vô sản chẳng có gì là của mình để bảo vệ cả, họ phải phá huỷ
hết thảy những cái gì, từ trước đến nay, vẫn bảo đảm và bảo vệ chế độ tư
hữu”, còn các giai cấp khác có đấu tranh chống giai cấp tư sản thì chẳng
qua họ đấu tranh với tư cách là những tầng lớp trung gian, nếu họ có thái
độ cách mạng thì chẳng qua họ nhìn thấy nguy cơ họ sẽ rơi vào hàng ngũ
của giai cấp vô sản, “lúc đó, họ bảo vệ lợi ích tương lai của họ, chứ không
phải lợi ích hiện tại của họ”.
+ Tất cả các phong trào trong lịch sử trước kia đều do thiểu số thực
hiện hoặc mưu cầu lợi ích cho thiểu số, còn phong trào đấu tranh của giai
cấp vô sản là phong trào độc lập của đại đa số, mưu cầu lợi ích cho đại đa
số. Đó là lợi ích không chỉ riêng của giai cấp vô sản, mà còn là lợi ích của
9


tất cả các tầng lớp lao động khác trong xã hội. Vì vậy, cuộc đấu tranh này
sẽ được đông đảo quần chúng ủng hộ, tham gia.
+ Là lực lượng hùng hậu, được tuyển chọn, giai cấp vô sản còn cùng
làm việc trong các công xưởng. Điều kiện làm việc và hoàn cảnh sống đã
tạo cho họ không chỉ có ý thức tổ chức, kỷ luật, mà còn có sự cảm thông
sâu sắc với nhau. Đây là nhân tố làm cho giai cấp vô sản đã mạnh mẽ lại
càng mạnh lên nhiều.
+ Tuy chưa thật đầy đủ, nhưng giai cấp vô sản đã có tri thức về cuộc
đấu tranh chính trị, vì:
Khi chống lại quý tộc, chống lại những giai cấp khác có quyền lợi
xung đột với sự tiến bộ của công nghịêp, giai cấp tư sản đã buộc phải kêu
gọi giai cấp vô sản giúp sức, lôi cuốn họ vào phong trào chính trị. Chính

điều này giai cấp tư sản đã cung cấp cho những người vô sản một phần tri
thức của bản thân giai cấp tư sản.
Do phá sản, do không theo kịp sự phát triển của nền đại công nghiệp
nên từng bộ phận trọn vẹn của giai cấp thống tri bị đẩy vào hàng ngũ giai
cấp vô sản. Những bộ phận ấy cũng đem lại cho giai cấp vô sản nhiều tri
thức cần thiết.
Một bộ phận những nhà tư tưởng của giai cấp tư sản do nhận thức
được quá trình vận động của lịch sử đã đứng sang hàng ngũ những người
vô sản. Lực lượng này cũng góp một phần không nhỏ vào hoạt động chính
trị của giai cấp vô sản.
Tuyên ngôn còn chỉ rõ, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản là cuộc
đấu tranh mang tính quốc tế, mặc dù lúc đầu nó mang hình thức dân tộc vì
giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải lật đổ giai cấp tư sản ở ngay trong
nước mình. Cuộc đấu tranh đó sẽ thành một cuộc cách mạng mà giai cấp vô
sản thiết lập sự thống trị của mình bằng cách dùng bạo lực lật đổ giai cấp tư
sản.
10


Từ những tư tưởng cơ bản trên, Tuyên ngôn khẳng định: “Cùng với
sự phát triển của nền đại công nghiệp, chính cái nền tảng trên đó giai cấp tư
sản đã sản xuất và chiếm hữu sản phẩm của nó, đã bị phá sập dưới chân
giai cấp tư sản. Trước hết, giai cấp tư sản sản sinh ra những người đào
huyệt chon chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp
vô sản đều là tất yếu như nhau”.
2.2.Vấn đề đấu tranh giai cấp
Học thuyết về giai cấp chỉ ra rằng, đấu tranh giai cấp bao giờ cũng là
đấu tranh giữa những “kẻ áp bức và những người bị áp bức”. Chúng luôn
luôn đối kháng nhau và tiến hành một cuộc đấu tranh không ngừng, lúc
công khai, lúc ngấm ngầm. Đó là đấu tranh giữa “người tự do và người nô

lệ, quý tộc và bình dân, chúa đất và nông nô, thợ cả và phường hội và thợ
bạn”, giữa vô sản và tư sản.
Đấu tranh giai cấp trải qua những giai đoạn khác nhau và mang
những hình thức khác nhau. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ thì đó là cuộc
đấu tranh giữa nô lệ và người tự do, trong chế độ phong kiến là cuộc đấu
tranh giữa quý tộc và bình dân, giữa chúa đất và nông nô, thợ cả và phường
hội và thợ bạn, trong chế độ tư bản chủ nghĩa, là cuộc đấu tranh giữa vô sản
và tư sản. Nhưng cuộc đấu tranh giai cấp ấy luôn diễn ra trong kết cấu xã
hội xác định. Các giai đoạn của đấu tranh giai cấp có thể được quy lại
thành hai giai đoạn cơ bản với những đặc điểm khác nhau. Một là “trong
những thời đại lịch sử trước, hầu như khắp mọi nơi, chúng ta đều thấy xã
hội hoàn toàn chia thành những đẳng cấp khác nhau, một cái thang chia
thành từng nấc thang địa vị xã hội. Ở La Mã thời cổ, chúng ta thấy có quý
tộc, hiệp sĩ, bình dân, nô lệ; thời Trung cổ thì có lãnh chúa phong kiến, chư
hầu, thợ cả, thợ bạn, nông nô, và hơn nữa, hầu như trong mỗi giai cấp ấy,
lại có những thứ bậc đặc biệt nữa. Hai là “xã hội tư sản hiện đại sinh ra từ
trong lòng xã hội phong kiến đã bị diệt vong, không xoá bỏ được những đối
11


kháng giai cấp. Nó chỉ đem những giai cấp mới, những điều kiện áp bức
mới, những hình thức đấu tranh mới thay thế cho những giai cấp, những
điều kiện áp bức, những hình thức đấu tranh cũ mà thôi”. “Tuy nhiên, đặc
điểm của thời đại chúng ta, thời đại của giai cấp tư sản, là đã đơn giản hoá
những đối kháng giai cấp. Xã hội ngày càng chia thành hai phe lớn thù địch
với nhau, hai giai cấp lớn hoàn toàn đối lập nhau: giai cấp tư sản và giai
cấp vô sản”. Tiếp theo, Mác và Ăng ghen so sánh rõ hơn đặc điểm của hai
giai đoạn nói trên:
“Tất cả những giai cấp trước kia sau khi chiếm được chính quyền,
đều ra sức củng cố địa vị mà họ đã nắm được bằng cách bắt toàn bộ xã hội

phải tuân theo những điều kiện bảo đảm cho phương thức chiếm hữu của
chính chúng. Những người vô sản chỉ có thể giành được những lực lượng
sản xuất xã hội bằng cách xoá bỏ phương thức chiếm hữu hiện nay của
chính mình, và do đấy, xoá bỏ toàn bộ phương thức chiếm hữu nói chung
đã tồn tại từ trước đến nay. Những người vô sản chẳng có gì là của mình để
bảo vệ cả, họ phải phá huỷ hết thảy những gì từ trước đến nay vẫn bảo đảm
và bảo vệ chế độ tư hữu”; “tất cả những phong trào lịch sử, từ trước đến
nay, đều là do thiểu số thực hiện hoặc đều mưu lợi ích cho thiểu số. Phong
trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho đại đa
số. Giai cấp vô sản, tầng lớp ở bên dưới nhất của xã hội hiện tại, không thể
vùng dậy, vươn mình lên nếu không làm nổ tung toàn bộ cái thượng tầng
kiến trúc bao gồm những tầng lớp cấu thành xã hội quan phương”; và “tất
cả những xã hội trước kia, như chúng ta đã thấy, đều dựa trên sự đối kháng
giữa các giai cấp áp bức với các giai cấp bị áp bức”. Nhưng muốn áp bức
một giai cấp nào đó thì cần phải bảo đảm cho giai cấp ấy những điều kiện
sinh sống khiến cho họ, chí ít, cũng có thể sống được trong vòng nô lệ.
Người nông nô trong chế độ nông nô, đã tiến tới chỗ trở nên một thành
viên của công xã, cũng như người tiểu tư sản đã vươn tới địa vị người tư
12


sản, dưới ách của chế độ chuyên chế phong kiến”. Nhưng “người công dân
hiện đại, trái lại, đã không vươn lên được cùng với sự tiến bộ của công
nghiệp, mà còn luôn luôn rơi xuống thấp hơn, dưới cả những điều kiện sinh
sống của chính giai cấp họ. Người lao động trở thành một người nghèo
khổ, và nạn nghèo khổ còn tăng lên nhanh hơn là dân số và của cải. Vậy
hiển nhiên là giai cấp tư sản không có khả năng tiếp tục làm tròn vai trò
giai cấp thống trị của mình trong xã hội và buộc toàn xã hội phải chịu theo
điều kiện sinh sống của giai cấp mình, coi đó là một quy luật chi phối tất
cả. Nó không thể thống trị được nữa”.

Vậy, bằng cách chỉ ra và so sánh đặc điểm của hai giai đoạn lớn của
đấu tranh giai cấp trong lịch sử, Mác và Ăng ghen đã cho thấy sự khác
nhau căn bản, về chất giữa cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai
cấp tư sản và tất cả các cuộc đấu tranh giai cấp trước kia.
Nguyên nhân trực tiếp của đấu tranh giai cấp được Mác và Ăng ghen
chỉ ra là do đối kháng về lợi ích giữa giai cấp áp bức, thống trị và giai cấp
bị áp bức, thống trị. Tất cả những cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong các
xã hội trước kia đều “mưu lợi ích cho thiểu số”, đều nhằm bảo vệ, củng cố,
thực hiện địa vị, lợi ích, “phương thức chiếm hữu” của thiểu số. Còn trong
xã hội tư sản, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư
sản là vì “lợi ích của đại đa số” những người bị áp bức. Tuy nhiên, nguyên
nhân sâu xa của đấu tranh giai cấp là do sự phát triển của lực lượng sản
xuất trong những điều kiện nhất định đã làm thay đổi các mối quan hệ giữa
người và người trong sản xuất, quy định những hình thức khác nhau chế độ
tư hữu. Mác và Ăng ghen đã chứng minh điều này rõ ràng bằng quá trình
phát triển của đấu tranh giai cấp trong quá trình từ xã hội phong kiến sang
xã hội tư bản chủ nghĩa.
Với tất cả các khía cạnh nội dung trên, đấu tranh giai cấp được xem
là động lực, quy luật phát triển của xã hội có giai cấp. Quy luật ấy vạch ra
13


con đường chung, tất yếu của sự phát triển lịch sử, xét về phương diện xã
hội, con người. Mác và Ăng ghen khẳng định: “lịch sử của tất cả các xã hội
tồn tại từ trước đến nay(“tức là toàn bộ lịch sử thành văn cho tới nay”, quá
trình diễn ra sau khi “kết cấu nội bộ của xã hội nguyên thuỷ”, hay “công xã
nguyên thuỷ” tan rã (xem chú thích cùng trang), chỉ là lịch sử đấu tranh giai
cấp”. “Lịch sử của toàn bộ các xã hội từ trước đến nay, đều diễn ra trong
những đối kháng giai cấp”. Và “những đối kháng ấy mang những hình thức
khác nhau tuỳ từng thời đại”, nhưng luôn luôn là một hiện tượng chung của

mọi thời “hiện tượng một bộ phận này của xã hội bóc lột một bộ phận
khác”. Quá trình ấy diễn ra thông qua các kết cấu xã hội nhất định, những
giai đoạn kế tiếp nhau theo xu hướng đi lên, dựa trên sự phát triển không
ngừng của lực lượng sản xuất, phương thức sản xuất và bao giờ cũng kết
thúc bằng một cuộc cải tạo cách mạng toàn bộ xã hội, hoặc bằng sự diệt
vong của hai giai cấp đấu tranh với nhau. Trong toàn bộ quá trình ấy, cuộc
đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là kết quả hợp quy luật,
hợp logic của nó.
Vậy, có thể nói học thuyết về giai cấp trong Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản có nội dung cơ bản là học thuyết về quy luật đấu tranh giai cấp
với tư cách là một trong các quy luật xã hội quan trọng nhất của sự phát
triển lịch sử loài người nói chung. Học thuyết này tổng hợp, kết tinh toàn
bộ nội dung của triết học khoa học về lịch sử. Ở đây đấu tranh giai cấp
được giải thích gắn liền với mỗi giai đoạn phát triển của sản xuất vật chất,
phương thức sản xuất, cụ thể hơn là lực lượng sản xuất và chế độ sở hữu
với sự tác động của các quy luật sản xuất và được đặt trong những kết cấu
xã hội, những chế độ xã hội nhất định trong sự biến đổi của chúng từ thấp
lên cao.

14


III. Ý nghĩa của tác phẩm
3.1. Về lý luận
Đây là một trong những tác phẩm quan trọng nhất trong kho tàng lý
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Việc ra đời Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
đánh dấu sự hình thành cơ bản của chủ nghĩa Mác với tất cả các bộ phận cấu
thành nó: triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học.



Với triết học:
Tác phẩm đã trình bày một cách rõ ràng và sâu sắc một thế giới quan

duy vật triệt để, một phương pháp biện chứng toàn diện với tính cách là học
thuyết khoa học về sự phát triển. Xuyên suốt tác phẩm, khi phân tích sự
biến đổi của toàn xã hội, trong đó “sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng
lợi của giai cấp vô sản đều tất yếu như nhau”, Tuyên ngôn không chỉ nói
đến sự phát triển tự nhiên của sức sản xuất dẫn đến sự sụp đổ của một chế
độ xã hội, mà còn cho thấy đằng sau tính quy định của kinh tế bao giờ cũng
là con người với những hoạt động, nhu cầu, mục đích, lý tưởng, v.v. của họ.
Điều này tất yếu dẫn đến những hành động cách mạng của quần chúng.
Như vậy, quan niệm duy vật về xã hội trong Tuyên ngôn được xây dựng
trên cơ sở tất yếu của sự phát triển những lực lượng vật chất trong xã hội và
của hoạt động tích cực, tự giác của con người nhằm biến đổi các quan hệ xã
hội mà trước hết là quan hệ sở hữu để các quan hệ ấy phù hợp với lực
lượng vật chất của xã hội hiện hành. Quan niệm duy vật về xã hội đã loại
bỏ được hai khuyết điểm căn bản của những lý luận lịch sử trước kia. Một
là: những lý luận này cùng lắm cũng chỉ xem xét những động cơ tư tưởng
của hoạt động lịch sử của con người, mà không nghiên cứu căn nguyên của
những động cơ đó, không phát hiện ra tính quy luật khách quan trong sự
phát triển của hệ thống quan hệ xã hội và không nhận thấy rằng, trình độ
phát triển của sản xuất vật chất là nguồn gốc của những quan hệ ấy. Hai là:
15


những lý luận trước kia đã không nói đến chính ngay hành động của quần
chúng nhân dân, còn chủ nghĩa duy vật lịch sử thì lần đầu tiên, đã giúp ta
nghiên cứu một cách chính xác như khoa lịch sử tự nhiên những điều kiện
xã hội của đời sống quần chúng và những biến đổi của những điều kiện ấy.
Cùng với thế giới quan duy vật triệt để, Tuyên ngôn đã đem lại một

cách nhìn biện chứng về lịch sử: một lịch sử với những thời kỳ cách mạng
và phản động, chiến tranh và hoà bình, ngưng trệ và tiến bộ, phát triển và
suy sụp; một lịch sử với những động lực, những xung đột đầy mâu thuẫn.
Chính trong tình trạng rối tung và hỗn độn bề ngoài ấy, Tuyên ngôn là kim
chỉ nam để tìm ra quy luật, là lý luận về đấu tranh giai cấp. Lý luận này vừa
làm sáng tỏ tính chất phức tạp của hệ thống các quan hệ xã hội, vừa làm
sáng tỏ những giai đoạn quá độ từ giai cấp này đến giai cấp khác, từ quá
khứ đến tương lai.


Với kinh tế chính trị học:
Nghiên cứu những mối quan hệ giữa người với người hình thành

trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng tư liệu sinh hoạt
trong xã hội nhất định của lịch sử là nội dung cơ bản của kinh tế chính trị
học. Trong chủ nghĩa Mác, bộ “Tư bản” là tác phẩm đề cập sâu sắc nhất
những nội dung trên ở xã hội tư bản hiện đại, nhưng ở Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản, việc phân tích phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa từ
khi mới manh nha hình thành đến xu thế tất yếu phải diệt vong đã là cơ sở
có tính định hướng cho việc mổ xẻ nền kinh tế hàng hoá trong “Tư bản”
của Mác sau này.


Với chủ nghĩa xã hội khoa học:
Với tính cách là văn kiện cương lĩnh chính trị đầu tiên của phong

trào vô sản, Tuyên ngôn được coi là mốc đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa
xã hội khoa học. Cho đến ngày toàn thắng, phong trào vô sản còn nhiều
16



bước thăng trầm nhưng trong bất kỳ hoàn cảnh nào, những tư tưởng mà
Tuyên ngôn đưa ra vẫn thể hiện đầy đủ giá trị của một cương lĩnh, đầy khả
năng thuyết phục bởi tính định hướng khoa học của nó. Tính định hướng đó
thể hiện qua những vấn đề cơ bản sau:
Luận chứng về sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản, cũng là
luận chứng về tính tất yếu và tính quy luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa
qua việc phân tích sự thay thế các phương thức sản xuất dẫn đến việc thay
thế các chế độ xã hội trong lịch sử.
Phát hiện và chứng minh về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
trong việc thủ tiêu chế độ tư bản, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa, thực
hiện việc giải phóng mình và giải phóng toàn thể nhân loại. Nhân tố đảm
bảo cho giai cấp vô sản hoàn thành sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của mình
là phải có một đảng cách mạng độc lập của giai cấp vô sản lãnh đạo.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng tất yếu mà giai cấp
vô sản phải thực hiện trong sự nghiệp của mình.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Từ khi ra đời, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã có ảnh hưởng lớn
đến phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Nếu xét ở góc độ lịch sử thì
sau những cuộc cách mạng những năm 1848-1849 ở Đức, Ý, Anh..., Công
xã Pari năm 1871 ở Pháp là sự kiểm nghiệm vĩ đại đối với Tuyên ngôn
Đảng Cộng sản. Mặc dù chỉ tồn tại trong 72 ngày nhưng Công xã đã đánh
dấu bước phát triển mới trong cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản. Tháng 10
năm 1017, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa do chính đảng của giai cấp vô
sản lãnh đạo thắng lợi đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại.
Ở Việt Nam trong những năm 30 của thế kỷ XX, chủ nghĩa Mác Lênin nói chung, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản nói riêng đã được các
17


chiến sĩ cộng sản nghiên cứu và truyền bá trong quần chúng. Sự ra đời

chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp
giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước Việt Nam. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn chứa đầy những biến cố lịch
sử trọng đại, từ phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh (1930-1931) đến nay. Trong
thắng lợi của cách mạng Việt Nam không ai có thể phủ nhận vai trò định
hướng của Tuyên ngôn, cũng không thể phủ nhận sự vận dụng một cách
linh hoạt, đầy trí tuệ và sáng tạo các nguyên lý của Tuyên ngôn do Đảng
Cộng sản Việt Nam đã thực hiện trong quá trình lãnh đạo cách mạng.
Câu hỏi thực tiễn đặt ra cho chúng ta hiện nay là: vậy trên thế giới và
ở Việt Nam hiện nay có còn đấu tranh giai cấp nữa hay không?
Trước xu thế hoà bình - hợp tác, toàn cầu hóa, khu vực hóa và quá
trình hội nhập quốc tế sâu rộng, nhiều người dường như lãng quên vấn đề
giai cấp và đấu tranh giai cấp. Ai nói đến đấu tranh giai cấp liền bị quy là
"bảo thủ", "giáo điều". Ai nhắc nhở phải cảnh giác với âm mưu "diễn biến
hòa bình" thì cho là "thiếu thức thời", "tư duy cũ". Nhất là sau sự sụp đổ
chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô, một lần nữa,
nhiều nhân vật chống cộng và không ít kẻ "ăn theo" càng được thể lu loa đủ
điều, hí hửng rằng: chủ nghĩa xã hội đã chết, lý tưởng cộng sản đã hết thời;
rằng chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã cáo chung! Họ cố tình đồng nhất việc Liên
Xô đổ vỡ với việc chấm dứt chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Tại sao có chuyện rùm beng như thế? Nếu như vấn đề giai cấp không còn
nữa; nếu đấu tranh giai cấp không còn nữa, thì lẽ gì họ phải quá hằn học
với chủ nghĩa xã hội và lý tưởng cộng sản làm vậy? Hóa ra là, vấn đề giai
cấp vẫn còn nguyên đó. Nó tồn tại tới khi nào không còn giai cấp đối kháng
về lợi ích kinh tế và lập trường chính trị. Vấn đề giai cấp thể hiện ra ở tất cả

18



các khía cạnh: kinh tế, chính trị và xã hội; thể hiện trong các cuộc đấu tranh tư
tưởng, trong chính sách và hành động trước các sự kiện diễn ra trên thế giới.
Hiện nay cũng như trước đây, vì lợi ích của bản thân, giai cấp tư sản
luôn dùng mọi thủ đoạn để loại bỏ công cụ soi sáng các biến cố của xã hội
có giai cấp; đó là: lợi ích giai cấp và đấu tranh giai cấp. Quan hệ giai cấp
là yếu tố quan trọng nhất để phân tích một cách khoa học mâu thuẫn và sự
vận động, phát triển của xã hội có giai cấp. Thực tế cho thấy, cuộc đấu
tranh giai cấp vẫn tiếp tục diễn ra theo đúng quy luật phát triển của xã hội
loài người; vẫn là cuộc đấu tranh "ai thắng ai" trên bình diện quốc tế, cũng
như trong điều kiện cụ thể của từng nước. Với tầm nhìn chiến lược, toàn
diện và lâu dài về cuộc đấu tranh giai cấp, bài học về sự sụp đổ chế độ xã
hội ở các nước Đông Âu và Liên Xô trước đây vẫn luôn mới mẻ đối với
người cách mạng. Bất kì ở đâu, bất kể thời điểm nào, khi cố tình coi nhẹ
hoặc không đếm xỉa đến tính phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp trên mặt
trận tư tưởng; trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, tư tưởng và văn
hóa, thì chính lúc đó, cách mạng sẽ phải trả giá đắt. Cho dù sự sụp đổ chế
độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô đã xảy ra, thì những học thuyết
về giai cấp, vai trò của giai cấp lãnh đạo cách mạng vẫn không thay đổi.
Gần 20 năm qua, nhân dân các nước Đông Âu và Liên Xô (trước đây) bắt
đầu nhận ra rằng, họ đã bị mất đi một thể chế xã hội tốt đẹp gắn liền với lợi
ích và hạnh phúc của con người, đó là: chữa bệnh, giáo dục không mất tiền,
lương hưu bảo đảm chắc chắn, xã hội bình đẳng, không có bóc lột, không
có áp bức giai cấp...
Có thể nói, trong thời đại ngày nay, cuộc đấu tranh giai cấp vẫn diễn
ra ở tất cả các chế độ xã hội, biểu hiện ra nhiều mức độ khác nhau. Với chế
độ tư bản chủ nghĩa, đấu tranh giai cấp vẫn tiềm ẩn với sự bất công, phân
cực giàu nghèo ngày càng sâu sắc; thất nghiệp ngày càng đông; tính mạng,
an ninh và trật tự xã hội luôn bị đe dọa; sự phá hủy và suy đồi đạo đức xã
19



hội ngày càng gia tăng vì cơn lốc của lợi nhuận. Nếu đi sâu thêm, ta thấy
rằng, nguồn gốc của sự xung đột giai cấp trong xã hội tư bản là do lô-gích
phát triển trong điều kiện bất bình đẳng, đa số phải phục tùng lợi ích và
quyền lực của thiểu số; đồng thời, đó là sự vận hành trên cơ sở quan hệ bóc
lột và bị bóc lột giữa giai cấp tư sản và người lao động. Ở các nước phương
Tây hiện nay, đi đôi với việc phát triển khoa học - công nghệ và tăng năng
suất lao động, mức độ bóc lột của giai cấp tư sản (thể hiện ở tỷ suất giá trị
thặng dư) vẫn tăng đáng kể. Chẳng hạn ở Mỹ, tỷ suất giá trị thặng dư trong
các ngành sản xuất công nghiệp mấy thập kỷ qua đã tăng như sau: năm
1950: 241%; năm 1960: 247,6%; năm 1970: 255%; năm 1980: 289%;
những năm 1990: khoảng 300%; những năm đầu thế kỷ XXI: khoảng
307%.... Không chỉ ở các nước đang phát triển, mà ngay trong lòng các
nước tư bản chủ nghĩa giàu có nhất, luôn đồng thời tồn tại một thế giới của
những người nghèo khó (số người sống dưới mức nghèo khổ hiện nay ở
Mỹ khoảng 30 triệu, ở Tây Âu khoảng 40 triệu). Mặc dù giai cấp tư sản đã
có sự mềm dẻo nhất định trong việc làm dịu mâu thuẫn giữa tư bản và lao
động, nhưng đấy vẫn chỉ là ở từng nơi, từng lúc, còn về cơ bản, mâu thuẫn
giữa tư bản và lao động vẫn ngày càng gay gắt; thuế khóa, thất nghiệp, các
tệ nạn xã hội luôn đeo đẳng người nghèo. Điều đó, sẽ đẩy những mâu thuẫn
xã hội lên đỉnh điểm, dẫn đến bùng nổ xã hội. Cuộc sống ngày càng chứng
minh dự báo của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin là hoàn toàn
đúng đắn: mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá của lực lượng sản xuất với
hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất sẽ được
giải quyết theo hướng công cộng hóa hình thức sở hữu cho phù hợp với
tính chất xã hội hoá của lực lượng sản xuất, và điều đó không phải cái gì
khác mà chính là chủ nghĩa xã hội. Từ tự do cạnh tranh, chủ nghĩa tư bản
phát triển tới độc quyền, độc quyền nhà nước; trong phạm vi, rồi ra ngoài
phạm vi quốc gia và trở thành chủ nghĩa tư bản toàn cầu. Cùng với quá
trình toàn cầu hóa ngày càng tăng, những biện pháp điều chỉnh các quan hệ

20


kinh tế và sở hữu theo hướng công cộng hóa cũng ngày càng tăng; bảo đảm
cho các cổ đông, các tổ chức công đoàn và người lao động ngày càng trực
tiếp hoặc gián tiếp tham gia quản lý kinh tế - xã hội. Những biến đổi trên,
vô hình trung đã trở thành những tiền đề của chế độ xã hội mới trong lòng
chủ nghĩa tư bản.
Mặc dù các nhà kinh doanh tư sản hiện đại đã biết linh hoạt và đôi
khi ứng phó có hiệu quả trước diễn biến của tình hình kinh tế - xã hội,
nhưng các lực lượng dân chủ, đội ngũ đông đảo những người làm công ăn
lương ở các nước tư bản chủ nghĩa hiện nay cũng đã khác trước. Họ hiểu
biết và có nhiều hình thức đấu tranh linh hoạt hơn, nhưng không kém phần
mạnh mẽ, hiệu quả, tạo ra trong lòng xã hội tư bản những cơ cấu mới và
những quan hệ mới, không mang tính chất tư sản. Cuộc đấu tranh giai cấp
của những người lao động chống bóc lột và bất công ở các nước tư bản chủ
nghĩa hiện nay diễn ra không chỉ trong khuôn khổ cấu trúc thượng tầng mà
cả ở cơ sở hạ tầng, làm thay đổi nền móng xã hội, làm biến dạng chế độ tư
sản. Để có thể thích nghi với thời đại, chủ nghĩa tư bản đã cố gắng tự điều
chỉnh trên mọi lĩnh vực, nhưng cũng chính vì thế đã tự làm nảy sinh những
vấn đề mới, ngoài ý muốn của giai cấp tư sản. Nó sẽ bị hút dần một cách
không tự giác vào một trật tự xã hội; mà ở đó, những mầm mống và yếu tố
mới phát sinh trong lòng xã hội tư bản sẽ là những điều kiện dẫn tới sự thay
thế chế độ tư hữu bằng chế độ công hữu trên cơ sở cuộc đấu tranh giai cấp
diễn ra theo một cách thức mới.
Với các nước trong thế giới thứ ba, cuộc đấu tranh giai cấp cũng diễn
ra không kém phần quyết liệt. Có lẽ trên thế giới, nhiều người vẫn chưa
quên nỗi đau về cái chết của Tổng thống A-gien-đê với chế độ xã hội mà
ông định xây dựng ở Chi-lê; về sự thất bại ở Ni-ca-ra-goa, En Xan-va-đo,
những đảo lộn ở Mô-dăm-bich, Dim-ba-bu-ê, Ăng-gô-la, Xéc-bi, Áp-ga-nixtan,... Người ta cũng không quên những gì đã và đang diễn ra xung quanh

21


việc bao vây, cấm vận đối với nước Cu-ba dũng cảm và kiên cường, cùng
các điểm nóng khác ở một số nước thuộc Liên Xô (cũ)... Tất cả những sự
việc trên cho thấy: cuộc đấu tranh giai cấp ở mọi nơi chưa hề ngưng nghỉ,
kể cả sau chiến tranh lạnh. Cũng vì lẽ đó, mà lịch sử đã diễn ra với nhiều sự
kiện chưa từng thấy ở các nước thế giới thứ ba; phong trào cánh tả Mỹ La
tinh - nơi các dân tộc ngày càng thức tỉnh, không cam phận phụ thuộc vào
Mỹ. Một sự thật mà ai cũng biết là, ở Mỹ, hết đời tổng thống này đến đời
tổng thống khác, chính sách đối ngoại đều có một điểm chung: đối phó với
cuộc đấu tranh giai cấp ở các nước thế giới thứ ba. Và cũng vì thế, trên thế
giới đã xuất hiện những nhân vật nổi tiếng, đại diện cho lương tri của các
dân tộc: A-rơ-ben, Hồ Chí Minh, Lu-mum-ba, Phi-đen Ca-xtơ-rô, A-gienđê... Trên quy mô toàn cầu, các lực lượng chống cộng và chống cách mạng
vẫn tiếp tục các đòn tiến công, không chỉ bằng các vũ khí hủy diệt con
người, mà bằng mọi vũ khí có thể sử dụng, như: kinh tế, tư tưởng, văn hóa,
truyền thông... Điều đó càng chứng tỏ, chủ nghĩa tư bản lo sợ sức mạnh
ngày càng tăng của các dân tộc kiên quyết đấu tranh xoá bỏ xiềng xích nô
lệ, thực hiện bằng được chân lý "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Sức
mạnh của chủ nghĩa tư bản ở cuối thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI đang bị
lung lay, không còn như trong thế kỷ XX.
Các thế lực đế quốc hiếu chiến và các lực lượng thù địch bao giờ
cũng coi sự tồn tại của chủ nghiã xã hội là sự uy hiếp đối với chúng. Vì thế,
chúng không chấp nhận sự hiện diện của chủ nghĩa xã hội và phong trào
đấu tranh vì sự tiến bộ, công bằng xã hội trên thế giới. Âm mưu phá bỏ
Liên Xô, làm tan rã chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Đông Âu, lật đổ lãnh đạo
của các đảng cộng sản, phủ định hình thái ý thức xã hội chủ nghĩa là mục
tiêu nhất quán trong kế hoạch, cũng như trong hành động của chủ nghĩa đế
quốc. Thực hiện hàng loạt chiến lược qua nhiều thập kỷ "chiến tranh lạnh",
mà đặc biệt là cuộc chạy đua vũ trang vô cùng tốn kém làm suy yếu và kiệt

sức Liên Xô, chủ nghĩa đế quốc tới nay vẫn chưa từ bỏ âm mưu làm suy
22


yếu các nước xã hội còn lại. Ở mỗi giai đoạn khác nhau, tùy theo sự phát
triển tình hình của mỗi nước, chúng đều tiến hành điều chỉnh chiến lược
chống phá cách mạng và các lực lượng tiến bộ trên thế giới cho thích hợp.
"Diễn biến hòa bình", tiếp đến là “cách mạng nhung”, “cách mạng
màu”... là những chiến lược tổng thể của chủ nghĩa đế quốc, nhằm thực
hiện mục tiêu nói trên. Thế giới gọi đó là "cuộc chiến tranh không có khói
súng". Đây thực chất là kế sách phá vỡ thành lũy của chủ nghĩa xã hội từ
bên trong, là chiến thuật "mối xông nhà", nhằm phá ruỗng cơ cấu kinh tế chính trị - xã hội của các nước xã hội chủ nghĩa . Các chính trị gia đề xuất
chiến lược "Diễn biến hòa bình" đã tổng kết: muốn xoá bỏ chế độ xã hội
chủ nghĩa, không thể dùng vũ lực tấn công từ bên ngoài. Thực tiễn đã diễn
ra đúng như vậy. Chủ nghĩa đế quốc từng bị thất bại liên tiếp trong những
cuộc xâm lược vũ trang chống các nước xã hội chủ nghĩa, như: đối với
Liên Xô sau Cách mạng Tháng Mười; đối với Cộng hoà Dân chủ nhân dân
Triều Tiên đầu những năm 50; đối với Cu-ba đầu những năm 60; và nổi bật
nhất, đối với Việt Nam từ cuối những năm 40 đến giữa thập kỷ 70 của thế
kỷ XX... Do vậy, họ chuyển hướng sang chống phá các nước xã hội chủ
nghĩa bằng cách làm tan rã các đảng cộng sản cầm quyền - hạt nhân lãnh
đạo ở các nước đó. Để thực hiện điều đó, họ đã tìm mọi thủ đoạn phá hoại
các đảng đó về mặt tư tưởng và tổ chức. Nhằm phá hoại đảng cộng sản cầm
quyền về tư tưởng, họ lấy tư tưởng xã hội - dân chủ thay cho chủ nghĩa
Mác - Lê-nin. Những chuyên gia chống cộng của Mỹ đánh giá rằng: chủ
nghĩa xã hội - dân chủ và nhà nước phúc lợi là biện pháp hữu hiệu để đấu
tranh với sự hấp dẫn của chủ nghĩa cộng sản. Từ đó, họ đưa ra những cách
lựa chọn dân chủ khác nhau cho mô hình cộng sản chủ nghĩa. Đây là cơ sở
phương pháp luận cho việc đa nguyên hóa về tư tưởng, tiến tới thay thế lập
trường tư tưởng của chủ nghĩa Mác bằng ý thức hệ tư sản. Từ việc phá hoại

về tư tưởng, bài bản "diễn biến" tiếp theo là phá hoại đảng cộng sản về mặt
tổ chức: cổ vũ đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập trong chế độ xã hội
chủ nghĩa; đòi huỷ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ, hạ thấp yếu tố "tập
23


trung", nhấn mạnh vai trò của nhân tố "dân chủ", hô hào dân chủ tư sản...
Một khi đã chấp nhận đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập, thì làm sao
tránh khỏi tình trạng trong đảng thì có các "phái", bên ngoài thì có các đảng
khác? Để thực hiện "diễn biến hòa bình" ở các nước không theo con đường
TBCN, các thế lực chống cộng còn dùng thủ đoạn từng bước mua chuộc,
lôi kéo các phần tử dao động, bất mãn, gây dựng các tổ chức chống cộng
ngay trong nội bộ đảng cộng sản và các tổ chức xã hội ở các nước đó.
Thực tế cho thấy, phương Tây không chỉ nuôi dưỡng, mà còn ủng hộ,
thúc đẩy phe đối lập chính trị đoạt quyền lãnh đạo của đảng cộng sản. Để làm
được điều đó, các thế lực chống cộng thường dùng các hình thức sau:
- Vạch kế hoạch gây rối trong xã hội để dễ bề giành quyền lực.
Hoặc, lợi dụng khó khăn về kinh tế, phối hợp bên trong với bên ngoài để
thực hiện âm mưu chính trị.
- Thông qua bầu cử hợp pháp (sau khi bằng nhiều thủ đoạn tinh vi
gây sức ép về kinh tế và chính trị), buộc đảng cộng sản cầm quyền phải
thực hiện đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập trong xã hội.
- Phát động đảo chính quân sự khi đảng cộng sản cầm quyền suy
yếu, mất tín nhiệm và sự ủng hộ trong quần chúng do đường lối, chính sách
sai lầm.
Tất cả những thủ đoạn mà các thế lực đế quốc đã và đang sử dụng đối với
các nước xã hội chủ nghĩa cũng như đối với giai cấp những người lao động trên
toàn thế giới cho thấy, cuộc đấu tranh giai cấp hiện nay so với trước đây không
kém phần gay go, quyết liệt, phức tạp. Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, nó thể
hiện cả trong việc bảo vệ lý tưởng cộng sản, chủ nghĩa Mác - Lê-nin và trong việc

giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện mở cửa và hội nhập với
thế giới, sử dụng công cụ kinh tế của chủ nghĩa tư bản để xây dựng chủ nghĩa xã
hội, đảng cộng sản cầm quyền càng phải đề cao cảnh giác, mài sắc ý chí cách
mạng, kiên định lập trường giai cấp, nhận dạng thật rõ các hành động và âm mưu
thù địch để có biện pháp đấu tranh có hiệu quả.
KẾT LUẬN
24


Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là một tác phẩm có tính chất cương
lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa xã hội khoa học và chủ nghĩa Mác, nó đánh dấu
sự hoàn toàn chín muồi của chủ nghĩa Mác. Tuyên ngôn là ngọn cờ tư
tưởng của giai cấp vô sản cách mạng trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng
mình và giải phóng nhân loại thoát khỏi mọi áp bức bất công, tiến tới một
xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh và tốt đẹp. Tuyên ngôn đã làm sáng tỏ
địa vị kinh tế - xã hội và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, khẳng
định đấu tranh giai cấp là động lực, quy luật phát triển của xã hội có giai
cấp. Nó còn chứng minh một cách khoa học về sự sụp đổ tất yếu của chủ
nghĩa tư bản và sự thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa cộng sản.
Nghiên cứu vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp trong tác phẩm
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản có ý nghĩa to lớn cả trên phương diện lý
luận và thực tiễn. Vận dụng vấn đề này vào bối cảnh thực tiễn Việt Nam
hiện nay, Đảng Cộng sản việt Nam khẳng định: nội dung chủ yếu cuộc đấu
tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục
tình trạng nước nghèo, kém phát triển. Như vậy, để đạt được mục tiêu cách
mạng là dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh thì điều
cơ bản nhất là phải phát triển mạnh mẽ nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Điều này cũng nhắc nhở chúng ta rằng, cuộc đấu tranh

giai cấp ở Việt Nam hiện nay cũng chứa đựng không ít những khó khăn,
thách thức và cần thường xuyên chú ý đến việc chống khuynh hướng tự
phát tư bản chủ nghĩa.
Thực tế cho thấy, cuộc đấu tranh giai cấp chưa bao giờ ngừng, học
thuyết của Mác về giai cấp và đấu tranh giai cấp vẫn giữ nguyên giá trị
trong thời đại ngày nay. Việc Đảng ta xác định nội dung chủ yếu của đấu
tranh giai cấp ở nước ta hiện nay là một sự sáng tạo, đổi mới về nhận thức.
25


×