Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Hệ sinh thái rừng đặc trưng ở tây nguyên, vai trò của hệ sinh thái rừng trong đời sống cộng%2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.37 MB, 24 trang )

MỤC LỤC.


Chương I. MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT
Cùng với quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa làm nền kinh tế phát triển thì vấn đề
về sức khỏe con người và môi trường ngày càng được quan tâm hơn. Theo những nghiên
cứu và đánh giá về thực trạng môi trường cho thấy nhiều nguy cơ và thực trạng theo
chiều hướng tiêu cực gây nguy hại đến đời sống sinh vật, mà đối tượng trực tiếp là con
người, như: hiệu ứng nhà kính, thủng tầng ozon, sa mạc hoá, ô nhiễm đất, nước và không
khí hay các hiện tượng bất thường của thời tiết và đặc biệt là sự xuất hiện ngày càng
nhiều của các dịch bệnh lạ. Một trong các tác nhân có thể làm giảm đi trình trạng lo ngại
này là các cánh rừng nguyên sinh và hệ sinh thái rừng. Do đó rừng được xem là lá phổi
xanh của trái đất.
Với đặc điểm bờ biển dài và điều kiện khí hậu nhiệt nới gió mùa nóng ẩm quanh năm
nên đã cho nước ta một tài nguyên rừng phong phú. Rừng là một hệ sinh thái mà quần xã
cây rừng giữ vai trò chủ đạo trong mối quan hệ tương tác giữa sinh vật với môi trường.
Rừng là hơi thở của sự sống, là một nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, nó giữ vai trò và
ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình phát triển và sinh tồn của loài người. Rừng điều
hòa khí hậu, bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường sống. Rừng còn giữ vai trò đặc
biệt quan trọng đối với việc phát triển kinh tế như: cung cấp nguồn gỗ, tre, nứa, đặc sản
rừng, các loại động, thực vật có giá trị trong nước và xuất khẩu,… ngoài ra nó còn mang
ý nghĩa quan trọng về cảnh quan thiên nhiên và an ninh quốc phòng.
Rừng chính là quà tặng mà đấng tạo hóa đã ban cho con người. Rừng đã luôn che chở
và mang lại những sản vật cho đồng bào ta từ thuở khai phá đất đai, lập nên bản làng bình
yên nơi đại ngàn xanh thẳm. Cứ như thế, những cánh rừng nơi miền núi cao đã gắn bó
với con người từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Tuy vậy, hiện nay những tình trạng phá rừng làm kinh tế, khai thác rừng quá mức đặc
biệt là rừng đầu nguồn mà không để ý đến những hậu quả để lại sau này. Để khắc phục
được những tình trạng ô nhiễm hay những vấn đề về môi trường có thể xảy ra thì ta cần
hiểu được những đặc tính của rừng, rừng đầu nguồn và vai trò của rừng trong đời sống


cộng đồng. Vì vậy việc tìm hiểu về “Hệ sinh thái rừng đặc trưng ở khu vực Tây Nguyên
và vai trò của rừng trong đời sống cộng đồng” là mang tính cấp thiết hiện nay.
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Khái niệm và đặc điểm hệ sinh thái rừng ở Tây Nguyên. Những vai trò của Hệ sinh
thái rừng trong đời sống cộng đồng.
1.3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Hệ sinh thái rừng ở Tây Nguyên và Vai trò của rừng trong đời sống cộng đồng.


1.4. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Tìm hiểu về Hệ sinh thái Rừng.
- Các loại rừng đặc trưng ở Tây Nguyên.
- Vai trò của rừng trong đời sống cộng đồng.
- Các Vườn quốc gia trên khu vực Tây Nguyên.
- Hiện trạng rừng hiện nay và một số biện pháp khắc phục.
1.5. Ý NGHĨA ĐỀ TÀI
Việc nghiên cứu rừng ở Tây Nguyên và vai trò của rừng trong đời sống cộng đồng
góp phần hiểu hơn các đặc tính của rừng, những vai trò của rừng trong đời sống và tiếp
cận với những Vườn quốc gia có mặt ở Tây Nguyên. Ngoài ra đề tài còn giúp ta thấy
được hiện trạng rừng hiện nay và đưa ra những biện pháp khắc phục.

Chương II. KHÁI NIỆM VỀ RỪNG, CÁC LOẠI RỪNG ĐẶC TRƯNG VÀ
ĐẶC ĐIỂM RỪNG Ở TÂY NGUYÊN
2.1. KHÁI NIỆM RỪNG
Ngay từ thuở sơ khai, con người đã có những khái niệm cơ bản nhất về rừng. Rừng là
nơi cung cấp mọi thứ phục vụ cuộc sống của họ. Lịch sử càng phát triển, những khái
niệm về rừng được tích lũy, hoàn thiện thành những học thuyết về rừng.
Trong các thành phần cấu thành nên sinh quyển trái đất, rừng là một thành phần quan
trọng không thể thiếu. Ngoài ý nghĩa về tài nguyên sinh vật. Rừng còn là một yếu tố địa
lý không thể thiếu trong tự nhiên. Nó có vai trò cực kì quan trọng trong việc tạo nên cảnh

quan vì có tác động mạnh mẽ đến các yếu tố khí hậu và đất đai.Chính vì vậy, rừng không
chỉ có chức năng trong phát triển kinh tế - xã hội mà còn có ý nghĩa đặc biệt trong việc
bảo vệ môi trường sinh thái.
Rừng là quần xã sinh vật trong đó cây rừng là thành phần chủ yếu. Quần xã sinh vật
phải có diện tích đủ lớn. Giữa quần xã sinh vật và môi trường, các thành phần trong quần
xã sinh vật phải có mối quan hệ mật thiết để đảm bảo khác biệt giữa hoàn cảnh rừng và
các hoàn cảnh khác.


Năm 1930, Morozov đưa ra khái niệm: Rừng là một tổng thể cây gỗ, có mối liên hệ lẫn
nhau, nó chiếm một phạm vi không gian nhất định ở mặt đất và trong khí quyển. Rừng
chiếm phần lớn bề mặt Trái Đất và là một bộ phận của cảnh quan địa lý.
Năm 1952, M.E. Tcachenco phát biểu: Rừng là một bộ phận của cảnh quan địa lý,
trong đó bao gồm một tổng thể các cây gỗ, cây bụi, cây cỏ, động vật và vi sinh vật. Trong
quá trình phát triển của mình chúng có mối quan hệ sinh học và ảnh hưởng lẫn nhau và
với hoàn cảnh bên ngoài.
Năm 1974, I.S. Mê lê khôp cho rằng: Rừng là sự hình thành phức tạp của tự nhiên, là
thành phần cơ bản của sinh quyển địa cầu.
Ngoài ra ta còn nhiều khái niệm khác về rừng mà không được cập nhật tại đây.
2.2. CÁC LOẠI RỪNG VÀ ĐẶC TÍNH RỪNG Ở KHU VỰC TÂY NGUYÊN
2.2.1. Rừng lá kim
Rừng lá kim là những khu rừng rậm lớn nhất thế giới nằm vắt ngang phương bắc
hoặc sát biên cực. Nơi đây mùa đông kéo dài đến 8 tháng nên thực vật chủ yếu là cây lá
kim có khả năng thích nghi cao với điều kiện băng giá.
Điều kiện đất, khí hậu, thổ nhưỡng: Đất có xu hướng trẻ và nghèo chất dinh
dưỡng, đất rừng ở đây thường có tầng nông, khô, chua và xấu, có lượng mưa thấp trong
cả năm (trung bình hằng năm khoảng 200- 750), chủ yếu là do các trận mưa trong các
tháng mùa hè, nhưng tuyết và sương cũng góp một phần đáng kể.
Phân bố: Lâm Đồng, Gia Lai.
Loài phổ biến: chủ yếu là các loài thông, tầng dưới có một số loài cây họ dẻ như

Thông Nhựa, Thông Ba lá, Thông Mã vĩ.
Loài đặc trưng: Tre gai, Luồng, Bương, Mai, Hóp, Lồ ô, Le, Mạnh tông,... và
nhóm mọc tản chủ yếu ở vùng núi phía Bắc như Vầu đắng, Vầu ngọt, Trúc sào, Trúc cần
câu, Sặt,…
2.2.2. Rừng cây thưa lá rộng nhiệt đới (rừng khộp)
Khái niệm: là một kiểu rừng với các loài cây thuộc họ Dầu lá rộng
(Dipterocarpaceae) chiếm ưu thế. Loại rừng này hình như là một kiểu rừng đặc trưng chỉ
có ở Đông Nam Á.
Điều kiện đất khí hậu thổ nhưỡng: Kiểu rừng này hình thành trong vùng khí hậu
khô nóng, thường xảy ra lửa rừng, lượng mưa trung bình hàng năm 600-800mm, nhiệt độ
trung bình 20 - 250C, mùa khô kéo dài 5 - 6 tháng, đất có tầng kết von gây úng về mùa
mưa, thiếu nước nghiêm trọng vào mùa khô.


Phân bố: Đăk Lăk, Đăk Nông.
Loài phổ biến: cây họ Dầu như Dầu trà beng, Dầu đồng, Dầu trai; ngoài ra còn gặp
một số loài cây khác như Cẩm liên, Cà chiếc, Chiêu liêu, Kơ nia, Thành ngạnh, Găng, Le.
2.2.3. Rừng tre nứa
Rừng tre nứa là kiểu rừng có cấu trúc hình thái độc đáo dễ nhận biết từ xa, là kiểu
phụ thứ sinh hình thành trên đất rừng tự nhiên sau khai thác hoặc nương rẫy. Gồm các
loài thuộc phân họ Tre (Bambusoideae), họ Hoà thảo (Poaceae).
Điều kiện đất khí hậu thổ nhưỡng: phân bố rộng từ độ cao gần ngang mực nước
biển tới nơi có độ cao 2000m, hình thành trên đất rừng tự nhiên sau khai thác hoặc nương
rẫy.
Phân bố: Đăk Lăk
Loài phổ biến: nhóm tre mọc cụm như Tre gai, Luồng, Bương, Mai, Hóp, Lồ ô,
Le, Mạnh tông,... và nhóm mọc tản chủ yếu ở vùng núi phía Bắc như Vầu đắng, Vầu
ngọt, Trúc sào, Trúc cần câu, Sặt,...
2.2.4. Rừng nguyên sinh
Khái niệm: là những khu rừng nguyên thủy trong thiên nhiên không bị biến động,

hoặc nếu có thì tác động trực tiếp và gián tiếp của con người rất hạn chế.
Điều kiện đất, khí hậu, thổ nhưỡng: Rừng già thường có những cây cổ thụ to lớn
có tuổi thọ lâu năm cùng những cây non và cây chết, tạo nên tán lá nhiều tầng. Dưới gốc
cây là nhiều lớp rác rưởi thực vật mục ruỗng dầy dặn, giúp tạo màu mỡ đất đai.
Phân bố: Lâm Đồng,
Loài phổ biến: Rừng già thường có những cây cổ thụ to lớn có tuổi thọ lâu năm.
2.2.5. Rừng lá rộng nửa rụng lá nhiệt đới
Khái niệm: Đây là kiểu rừng có diện tích lớn, thường phân bố ở độ cao dưới 700m
ở miền Bắc và dưới 1000m ở miền Nam, Thể hiện rõ nhất là sự rụng lá của 25-75% cá
thể cây rừng, các loài ưu hợp thuộc họ Dầu, họ Bàng, họ Tử vi, họ Dâu tằm, họ Xoan, họ
bồ hòn, họ Đậu, họ Trôm.
Điều kiện đất, khí hậu thổ nhưỡng: thường phân bố ở độ cao dưới 700m ở miền
Bắc và dưới 1000m ở miền Nam. Nhiệt độ trung bình năm 20 - 250C, lượng mưa chỉ đạt
25 - 50 mm/tháng. Ở thời điểm này độ ẩm trung bình thấp, mùa khô và mùa mưa phân
biệt rõ, mùa khô kéo dài khoảng 3 tháng.
Phân bố: Đăk Lăk,
Loài đặc trưng: các loài linh trưởng khỉ đuôi lợn (Macaca leonina), khỉ đuôi dài
(Macaca fascicularis), khỉ mặt đỏ (Macaca acrtoides),….
Loài phổ biến: các loài ưu hợp thuộc họ Dầu, họ Bàng, họ Tử vi, họ Dâu tằm, họ
Xoan, họ bồ hòn, họ Đậu, họ Trôm như Dầu song nàng, Dầu con quay, Gõ đỏ, Săng lẻ,


Chò nhai, Chiêu liêu, Trương vân, Lát khét, Lim xẹt, Xoay, Giáng hương, Lòng mang,
Trôm, Sau sau,…
2.2.6. Rừng lá rộng rụng lá nhiệt đới
Khái niệm: Kiểu rừng này hình thành trong điều kiện giống như kiểu rừng kín lá
rộng nửa rụng lá, gồm các cây như soài, bulô, thích có điểm nổi bậc là rụng lá vào mùa
đông
Điều kiện đất, khí hậu, thổ nhưởng: Kiểu rừng này hình thành trong điều kiện
giống như kiểu rừng kín lá rộng nửa rụng lá, nhưng độ ẩm thấp hơn lượng mưa có thể

xuống tới 1200mm, mùa khô kéo dài 4-6 tháng, trong đó có 1-2 tháng chỉ đạt < 25mm, có
1 tháng không có mưa
Phân bố: đăk lăk,
Loài phổ biến: Các loài điển hình trong họ Dầu, họ Thung, họ Tử vi, họ Đậu như:
Dầu trai, Dầu con quay, Săng lẻ, Dáng hương, Cà te, Gõ đỏ, Trắc, Xoay, Thung, Gạo,
Ban, Dẻ tằm, Dẻ răng cưa, Sau sau.
2.2.7. Rừng lá rộng thường xanh nhiệt đới
Khái niệm: Rừng có cấu trúc 3 - 5 tầng (Tầng vượt tán, tầng tán chính, tầng dưới
tán, tầng cây bụi, tầng cỏ và quyết). Thực vật rừng ở đây gồm phần lớn là các loài cây
nhiệt đới, không có chồi ngủ qua đông, một số loài trên thân mang hoa quả, một số loài
gốc có bạnh vè cao
Điều kiện đất, khí hậu, thổ nhưỡng: nằm trong vành đai nhiệt đới gió mùa, thường
phân bố ở độ cao dưới 700m ở miền Bắc và dưới 1000m ở miền Nam. Nhiệt độ trung
bình năm 20 - 250C, lượng mưa hàng năm 1200 – 1300mm, mùa khô và mùa mưa phân
biệt rõ, mùa khô kéo dài khoảng 3 tháng.
Phân bố: Đăk Lăk, Đăk Nông
Loài phổ biến: như Gội, Sấu, Re, Cà lồ, Vàng anh, Sến mật, Lim xanh, Mỡ, một số
loài trong họ dầu như Sao đen, Chò chỉ, Táu, họ Trám như Trám trắng, Trám đen,…
2.2.8. Rừng kín thường xanh ẩm á nhiệt đới
Khái niệm: Rừng thường có 2 tầng cây gỗ và tầng cỏ quyết. Các loài cây ưu thế
thuộc khu hệ bản địa Bắc Việt Nam – Nam Trung Hoa, trên thân và cành có nhiều rêu và
địa y phụ sinh.
Điều kiện đất, khí hậu, thổ nhưỡng: Kiểu rừng này phân bố ở độ cao trên 700m ở
miền Bắc, trên 1000m ở miền Nam, lượng mưa trung bình năm 1200 - 2500mm, nhiệt độ
trung bình năm 15-200C, tháng lạnh nhất dưới 150C, độ ẩm trên 85%.
Phân bố: Kom Tum, Đak Lak, Đăk Nông, Gia Lai
Loài phổ biến: là nhiều loài cây có chồi ngủ, thuộc họ Re, họ Chè, họ Ngọc lan, họ Sau
sau, họ Nhân sâm, họ Đỗ quyên và nhiều loài địa lan quý.



Loài đặc trưng: nhiều loài cây có chồi ngủ, thuộc họ Re, họ Chè, họ Ngọc lan, họ
Sau sau, họ Nhân sâm, họ Đỗ quyên và nhiều loài địa lan quý.

Chương III. VAI TRÒ HỆ SINH THÁI RỪNG TRONG ĐỜI SỐNG CỘNG
ĐỒNG
3.1 MÔI TRƯỜNG
Rừng có vai trò vô cùng quan trong rất lớn đến đời sống của con người và sinh vật. Cụ
thể hơn chúng ta sẽ xét đến vai trò của rừng trong các lĩnh vực sau:
3.1.1. Khí hậu
Rừng có tác dụng điều hòa khí hậu toàn cầu thông qua làm giảm đáng kể lượng
nhiệt chiếu từ mặt trời xuống bề mặt trái đất do che phủ của tán rừng là rất lớn so với các
loại hình sử dụng đất khác, đặc biệt là vai trò hết sức quan trọng của rừng trong việc duy
trì chu trình carbon trên trái đất mà nhờ đó nó có tác dụng trực tiếp đến sự biến đổi khí
hậu toàn cầu. Phương trình Quang Hợp (điều kiện: có ánh sáng mặt trời):

Người ta tính rằng, hằng năm bằng con đường quang hợp, cây xanh đã tạo ra
khoảng 1011 tấn chất hữu cơ và để thoát ra ngoài khí quyển một lượng oxy tự do tương
đương như thế; trong số nầy cây rừng đảm đương phần lớn. Như vậy rừng là nhân tố chủ
yếu tham gia vào việc giử cán cân oxy trong thành phần của khí quyển.
Các hệ sinh thái rừng có khả năng giữ lại và tích trữ lượng lớn carbon trong khí
quyển. Vì thế sự tồn tại của thực vật và các hệ sinh thái rừng có vai trò đáng kể trong việc
chống lại hiện tượng ấm lên toàn cầu và ổn định khí.
Tán cây rừng có tác dụng giữ hơi nước trong rừng tạo nên độ ẩm cao, có tác dụng
bảo vệ đất, chống lại bức xạ mặt trời. Nếu bức xạ mặt trời không được lọc qua tán lá, nó
sẽ chiếu thẳng xuống đất, làm đất khô hạn, độ ẩm không khí giảm mạnh, mây không
được tạo thành và sẽ dẫn đến hiện tượng không có mưa. Nạn hạn hán sẽ hoành hành.
Hoạt động trồng rừng, tái trồng rừng và quản lý bền vững các hệ sinh thái rừng
được coi là một trong các giải pháp quan trọng trong tiến trình cắt giảm khí nhà kính.



3.1.2. Đất đai
Rừng bảo vệ độ phì nhiêu và bồi dưỡng tiềm năng của đất: rừng chế ngự dòng
chảy, ngăn chặn bào mòn, do đó lớp đất mặt không bị mỏng, duy trì đặc tính hóa lý và vi
sinh vật của đất, làm tăng độ phì nhiêu của đất.
Nếu rừng bị phá hủy, đất bị xói, quá trình đất mất mùn và thoái hóa dễ xảy ra rất
nhanh chóng và mãnh liệt. Ước tính ở nơi rừng bị phá hoang đất trống mỗi năm bị rửa
trôi mất khoảng 10 tấn mùn/ ha. Hiện tượng đất trở nên chua,kết dính lại, trở nên cằn cõi,
sỏi đá, nghèo chất mùn và vi sinh vật. Điều đó làm đất dần suy thoái hơn.
3.1.3. Nguồn nước
Rừng có vai trò điều hòa nguồn nước, giảm dòng chảy bề mặt chuyển nó vào
lượng nước ngấm xuống đất và vào tầng nước ngầm. Khắc phục được xói mòn đất, hạn
chế lắng đọng lòng sông, điều hòa được dòng chảy của các con sông, con suối (tăng
lượng nước sông, nước Suối vào mùa khô, giảm lượng nước sông suối vào mùa mưa).

Hình 1: Rừng giảm bớt lượng xói mòn do con sông tạo ra trong khu bảo tồn sinh vật.
3.1.4. Tài nguyên khác
Rừng có vai trò rất lớn trong việc: chống cát di động ven biển, che chở cho vùng
đất bên trong nội địa, rừng bảo vệ đê biển, cải hóa vùng chua phèn, cung cấp gỗ, lâm sản,
Rừng nơi cư trú của rất nhiều các loài động vật:. Động vật rừng nguồn cung cấp thực
phẩm, dược liệu, nguồn gen quý, da lông, sừng thú là những mặt hàng xuất khẩu có giá
trị.
3.1.5. Đa dạng sinh học
Với đặc trưng về khí hậu, có gió mùa Đông Nam thổi tới, gió lạnh Đông Bắc tràn
về, gió từ cao nguyên Tây Tạng và sườn đông dãy Hymalaya, gió tây nam từ Ấn Độ
Dương đi qua đem các loại hạt giống của các loài cây di cư đến nước ta. Vì vậy, thảm
thực vật nước ta rất phong phú.


Hình 2: Hệ sinh thái rừng nhiệt đới (Ảnh minh họa: tripod.com.).
Với đặc điểm sông ngòi, rừng Việt Nam đã hình thành nên các loài cây đặc hữu

riêng cho từng vùng. Có loài chỉ sống trong bùn lầy, có cây sống vùng nước mặt,… đồng
thời tạo nên các trái cây rừng đặc trưng chỉ có tại vùng đó. Môi trường sống đa dạng và
phong phú là điều kiện để động vật rừng phát triển.

Hình 3: gấu trúc ở khu rừng bảo tồn.
Vì vây, rừng không chỉ là nguồn cung cấp nguyên vật liệu cho xây dựng công
nghiệp, thức ăn cho người, dược liệu, thức ăn chăn nuôi mà còn là nguồn dự trữ các gen
quí hiếm của động thực vật rừng.


Hình 4: Chim Hạt ở vườn quốc gia Tràm Chim.

Hình 5: Khu sinh thái Bù Gia Mập.
3.2. TRONG KINH TẾ
3.2.1. Lâm sản
Là nguồn cung cấp lâm sản lớn cho nhu cầu tiêu dùng và phục vụ đời sống sản
xuất của con người như: lim, trầm hương, gỗ đỏ. Tạo ra hàng trăm mặt hàng đa dạng và


phong phú như trang sức, mĩ nghệ, dụng cụ lao động, thuyền bè truyền thống,.. cho tới
nhà ở hay đồ dùng gia đình hiện đại,…

Hình 6: Đồ gỗ nội thất trong gia đình.
3.2.2. Dược liệu
Rừng là nguồn dược liệu vô giá với nhiều tác dụng đặc biệt như chữa bệnh,bồi bổ sức
khỏe. Ngày nay, nhiều quốc gia đã phát triển ngành khoa học “dược liệu rừng” nhằm
khai thác có hiệu quả hơn nữa nguồn dược liệu vô cùng phong phú của rừng và tìm kiếm
các phương thuốc chữa các bệnh nan y.



Hình 7: Nhân xâm.

Hình 8: Nấm lim xanh (chữa cao huyết áp, nhức mỏi).

Hình 9: Cây xạ đen (chữa ung thư, khối u).


Hình 10: Sâm linh chi (chữa bệnh tim mạch, viêm gan).
3.2.3. Du lịch sinh thái
Du lịch sinh thái là một dịch vụ của rừng cần sử dụng một cách bền vững. Nhiều
dự án phát triển du lịch sinh thái được hình thành gắn liền với các vườn quốc gia, các khu
bảo tồn thiên nhiên, các khu rừng có cảnh quan đặc biệt.
=> Mang lại lợi ích kinh tế lớn, tạo cơ hội việc làm, tăng thu nhập quốc gia.

Hình 11: Cảnh quan du lịch sinh thái
3.3. TRONG XÃ HỘI
3.3.1. Ổn định dân cư
Cùng với rừng, người dân được nhà nước hỗ trợ đất sản xuất rừng, vốn cùng với
các biện pháp kỹ thuật, cơ sở hạ tầng để tạo nguồn thu nhập cho người dân. Giúp dân
thấy được lợi ích của rừng, gắn bó với rừng hơn. Từ đó người dân sẽ ổn định nơi ở, sinh
sống.

Hình 12: Người dân được hướng dẫn phương pháp kỹ thuật trồng rừng.


3.3.2. Tạo nguồn thu nhập
Rừng và sản phẩm từ rừng mang lại thu nhập cho người dân và cho đất nước.
- Cây rừng được dân khai thác làm nguyên vật liệu.
- Hoạt động du lịch được mở rộng là nguồn thu nhập mới cho dân.
- Rừng mang lại thực phẩm, dược liệu tự nhiên có giá trị cho con người.

- Rừng giúp tạo ra nhiều nguồn thu nhập quốc dân.

Chương IV. CÁC VƯỜN QUỐC GIA CHỦ YẾU Ở TÂY NGUYÊN
4.1. VƯỜN QUỐC GIA CHƯ MOM RAY (KOM TUM)
Với tổng diện tích 48.658 ha thuộc huyện Sa Thầy và huyện Ngọc Hồi, cách thị xã
Kon Tum 55km về phía Tây. Vườn quốc gia Chư Mom Ray là nơi bảo tồn đa dạng sinh
học, các loài động, thực vật rừng quý hiếm, các thảm thực vật rừng nguyên sinh, các sinh
cảnh quan trọng. Bảo vệ, phục hồi rừng phòng hộ đầu nguồn thuỷ điện Ya Ly, các con
sông trong vùng, bảo đảm an ninh môi trường và phát triển bền vững kinh tế tự nhiên.
Xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học và bảo
tồn tài nguyên thiên nhiên vùng bắc Tây Nguyên. Chuẩn bị cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng
để phát triển du lịch sinh thái, góp phần nâng cao đời sống cộng đồng. Tham gia hợp tác
quốc tế về bảo tồn tài nguyên thiên nhiên liên biên giới Việt Nam – Lào-Campuchia.
Vườn quốc gia được thành lập năm 2002.


Hình 13: Cảnh đẹp ở vườn quốc gia Chư Mom Ray.
Ngoài sự giàu có về khu hệ động vật, Chư Mom Ray còn được đánh giá là có vốn rừng
vô cùng phon phú và quý giá mà khó có vườn quoovs gia hay khu bảo tồn nào ở nước ta
sánh được. Với tổng diện tích vùng lõi hơn 40.566 ha, trong đó rừng nguyên sinh chiếm
hơn 50%, rừng Chư Mom ray có nhiều loài gỗ rất quý như gụ, cẩm lai, giáng hương, căm
xe…

Hình 14: Hổ ở vườn quốc gia Chư Mom Ray.
4.2. VƯỜN QUỐC GIA KON KA KINH (GIA LAI)
Vườn quốc gia Kon Ka Kinh nằm ở xã Ayun, huyện Mang Yang, phía đông bắc
tỉnh Gia Lai, cách thành phố Pleiku khoảng 50 km về hướng Đông Bắc, phân bố trên diện
tích 41.780 ha. Được thành lập năm 2002. Vườn quốc gia Kon Ka Kinh là 1 trong 4 vườn
quốc gia của Việt Nam (cùng Ba Bể, Chư Mom Ray và Hoàng Liên), đồng thời là 1 trong
27 vườn của khu vực Đông Nam Á được công nhận là vườn di sản ASEAN.



Hình 15: Cảnh đẹp thiên nhiên của vườn quốc gia Kon Ka Kinh ở Gia Lai.
Kết quả điều tra hệ thực vật rừng ở vườn quốc gia Kon Ka Kinh đã thống kê được
687 loài thực vật thuộc 459 chi và 140 họ. Vườn quốc gia Kon Ka Kinh có hệ thực vật rất
phong phú, đa dạng về thành phần loài. Đặc biệt có rất nhiều loài thực vật đặc hữu, quý
hiếm cần phải bảo tồn nguồn gen. Còn về động vật thì Vườn quốc gia Kon Ka Kinh cho
thấy có 428 loài động vật. Trong đó có 223 loài động vật có xương sống sinh sống trên
cạn (34 bộ, 74 họ) và 205 loài động vật không xương sống.

Hình 16: Các loài động vật ở Kon Ka Kinh.
4.3. VƯỜN QUỐC GIA YOK ĐÔN (ĐĂK LĂK)
Vườn quốc gia Yok Đôn nằm trên địa bàn 7 xã thuộc 3 huyện: Xã Krông Na,
huyện Buôn Đôn, xã Ea Bung, Chư M'Lanh huyện Ea Súp (tỉnh Đăk Lăk) và xã Ea Pô


huyện Cư Jút (tỉnh Đăk Nông); vườn cách thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 40 km về
phía tây bắc được thành lập năm 1991 với mục đích bảo vệ 58.200 ha hệ sinh thái rừng
khộp đất thấp.

Nơi đây có 63 loài động vật có vú, 196 loài chim, 40 loài bò sát, 13 loài lưỡng cư,
464 loài thực vật, trong đó có voi rừng, trâu rừng và bò tót khổng lồ.Các kết quả nghiên
cứu cho thấy vườn quốc gia Yok Đôn là một trong những nơi có khu hệ chim phong phú
nhất Đông Dương.

Hình 17: đà điểu trong vườn quốc gia Yok đôn


Vào mùa khô, trong cái nắng gay gắt của Tây Nguyên thì nơi đây vẫn mát lạnh
như ở xứ sương mù Đà Lạt, thoang thoảng mùi hương phong lan quanh năm. Vườn Quốc

gia (VQG) hàng năm đón nhận nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước đến nghiên cứu.
Khi đến tham quan VQG, bạn sẽ được cưỡi voi đi dạo giữa những cánh rừng xanh
mát, hoặc cùng voi vượt sông Xre-pôk, thưởng thức những món ăn truyền thống: cơm
lam, gà nướng... của cư dân bản địa, hoặc quây quần bên ché rượu cần nghe già làng kể
khan, nghe những truyền thuyết, sử thi... Vào mùa đông, các đầm nước trong rừng tiếp
nhận vô số đàn chim từ phương bắc lạnh về cư trú. Vịt trời, ngỗng trời, giang, sếu, le le...
đậu la liệt trên các gò đất và trong các bãi lầy. Bằng nhiều chất giọng khác nhau, chúng
gọi nhau ríu rít, tạo nên một khung cảnh náo nhiệt lạ thường.


Hình 18: Du khách cưỡi voi tham quan.

Hình 19: Sinh hoạt lửa trại với người dân địa phương.
4.4. VƯỜN QUỐC GIA CHU YANG SIN (ĐĂK LĂK)
Vườn quốc gia Chư Yang Sin nằm trên địa bàn thuộc huyện Krông Bông, tỉnh Đăk
Lăk. Tại đây có đỉnh núi Chư Yang Sin (2.442 mét) cao nhất hệ thống núi cao cực Nam
Trung Bộ. Phía Đông: dọc sông Krông Bông đến ngã ba suối Ya Brô đến đường phân
thuỷ sông Krông Ana. Tổng diện tích là: 58.947 ha.Trong đó gồm:Phân khu bảo vệ


nghiêm ngặt: 19.401 ha,Phân khu phục hồi sinh thái: 39.526 ha,Phân khu hành chính,
dịch vụ: 20 ha.

Hình 20: Cảnh rừng của vườn quốc gia Chu Yang Sin.
Có 876 loài thực vật (143 loài đặc hữu Việt Nam, 54 có tên trong sách đỏ Việt
Nam); 203 loài chim; 46 loài thú được ghi nhận có mặt ở đây.

Hình 21: loài bướm đặc trưng ở Chu Yang Sin
4.5. VƯỜN QUỐC GIA BIDOUP NÚI BÀ (LÂM ĐỒNG)
Vườn quốc gia Bidoup Núi Bà nằm trên địa bàn huyện Lạc Dương và huyện Đam

Rông, tỉnh Lâm Đồng, cách thành phố Đà Lạt 50km theo tỉnh lộ 723. Nơi đây hiện đang
được đề nghị UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới. Được thành lập


năm 2004, tổng diện tích: 64.800 ha. Trong đó:Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: 28.731
ha,Phân khu phục hồi sinh thái: 36.059 ha,Phân khu hành chính dịch vụ: 10 ha.

Hình 22: cảnh nhìn từ trên cao của vườn quốc gia bidoup núi bà.
Nơi đây được các nhà khoa học đánh giá là một trong 221 trung tâm chim đặc hữu
của thế giới và là một trong bốn trung tâm đa dạng sinh học của Việt Nam. Trong chương
trình bảo tồn hệ sinh thái dãy Trường Sơn, khu vực Bidoup – Núi Bà được xác định nằm
trong khối núi chính thuộc Nam Trường Sơn và là khu vực ưu tiên số một trong công tác
bảo tồn (khu vực SA3). 91% diện tích 64.800 ha của Vườn Quốc gia Bidoup – Núi Bà là
rừng và đất rừng, trong đó, chủ yếu là rừng nguyên sinh với rất nhiều loài động – thực vật
khác nhau. Có 1933 loài thực vật có mặt ở Vườn Quốc gia Bidoup – Núi Bà, trong đó: 62
loài quý hiếm phân bố trong 29 họ thực vật khác nhau, nằm trong cấp đánh giá về mức độ
quý hiếm của sách đỏ Việt Nam năm 2000 như Thông đỏ, Bách xanh, Pơ mu, Thông 5 lá
Đà Lạt, Thông 2 lá dẹp. Riêng về đặc hữu hẹp, đã thống kê được 91 loài phân bố hẹp ở
Lâm Đồng và các vùng phụ cận. Có 28 loài được la tinh hóa như mẫu chuẩn gồm:
dalatensis có 9 loài, langbianensis có 14 loài, bidoupensis có 5 loài. Động vật có 56 loài
được ghi trong danh mục các loài động vật quý hiếm. Có 47 loài được ghi trong sách Đỏ
Việt Nam 2007. Có 30 loài được ghi trong danh mục sách đỏ IUCN 2010. Vườn quốc gia
Bidoup – Núi Bà còn được đánh giá là vương quốc của các loài lan rừng Việt Nam với
trên 250 loài.



Chương V. HIỆN TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP BẢO VỆ RỪNG Ở TÂY
NGUYÊN
Khu vực tây nguyên là khu vực có diện tích đất được rừng che phủ lớn. Tuy nhiên trong

những năm qua do tác động của nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan nên rừng
của nước ta đã bị suy giảm nghiêm trọng cả về số lượng và chất lượng rừng.
5.1. VỀ TRỮ LƯỢNG (DIỆN TÍCH) RỪNG
Sự suy giảm tài nguyên rừng biểu hiện trước hết và rõ nét thông qua việc suy giam
diện tích. Diện tích rừng bị suy giảm đồng nghĩa với độ che phủ của thảm thực vật rừng
cũng giảm theo. Độ che phủ của thảm thực vật rừng giảm từ 67% năm 1976 đến năm
2012 chỉ còn 50,7%.. Các loại rừng bị mất nhiều nhất là rừng kín lá rộng thường xanh,
rừng lá rộng rụng lá, rừng thông… diện tích rừng có trữ lượng ở Tây Nguyên chỉ có
khoảng 1,8 triệu ha, độ che phủ thực tế chỉ đạt 32,4% (năm 2012).
Trong tổng diện tích rừng thì rừng tự nhiên có xu hướng giảm đi rõ rệt và dần bị
thay thế bởi rừng trồng .Nguyên nhân chính làm mất rừng là do dân số tăng nhanh nạn
đốt rừng làm nưng rẫy tràn lan , khai hoang lấy đất trồng các loại cây công nghiệp như cá
phê, cao su chè… và khai thác gỗ xuất khẩu.
5.2. VỀ CHẤT LƯỢNG
Tuy tỷ lệ che phủ của rừng còn khá cao so với các vùng khác trong cả nước, song
chất lượng rừng đã suy giảm, ngay cả đối với các khu vực có rừng đặc dụng như vườn
quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, rừng phòng hộ chỉ còn lại chủ yếu là rừng nghèo, có
giá trị kinh tế thấp.
Số lượng các loài động vật rừng cũng bị giảm mạnh, đặc biệt là các loại thú quý
hiếm như tê giác, voi, hổ, báo, trăn… hầu như còn rất ít. Các loại chim công, chim trĩ, gà
tiền mặt đỏ… từ lâu ít thấy xuất hiện. Môi trường sinh thái của rừng Tây Nguyên đang
dần trở thành đơn điệu và nghèo nàn.
Sự suy giảm tài nguyên rừng, đất rừng Tây Nguyên là một trong những nguyên
nhân dẫn đến mất cân bằng sinh thái và đe dọa nguy cơ xảy ra các vấn đề môi trường
nghiêm trọng như thiếu nước mùa khô, lũ quét, sạt lở đất trên diện rộng.
Tỷ lệ diện tích rừng gỗ loại giàu chỉ còn 10,4%, loại trung bình là 22,7%, còn lại
67% thuộc loại nghèo kiệt. Tổ thành loài cây trong rừng tự nhiên đã có sự thay đổi mạnh
mẽ, những loài gỗ quí có giá trị thương mại cao còn lại rất hiếm và chỉ có ở những vùng
xa xôi hiểm trở. Nhiều loại thực vật rừng có giá trị như các loại thảo dược ngày càng bị
khai thác cạn kiệt và có nguy cơ tuyệt chủng như sâm Ngọc Linh, nấm linh chi, lá kim

cương…


5.3. BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC
Đây là vấn đề mang tính xã hội cao để giải quyết vấn nạn này cần có những giải
pháp tổng quan, sự kết hợp tham gia của nhiều ngành chức năng và ý thức, tính tự giác
của bản thân mỗi người. Xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng số lượng kiểm lâm đặc biệt là ở
các vùng có diên tích rừng lớn, giao đất giao rừng cho người dân cũng là những biện
pháp có thể thực hiện.
Thực hiên các chính sách hưởng lợi từ rừng cho người dân. Vd: giao đất trắng cho
người dân trồng rừng bằng vốn tự có hoặc hỗ trợ về giống cây… Giúp người dân ổn định
cuộc sống, định canh định cư, tạo việc làm, thực hiện giáo dục truyền thông nâng cao
hiểu biết cho người dân đặc biệt là các dân tộc thiểu số.

Chương VI. KẾT LUẬN
Tóm lại: Rừng là đặc sản của Trái Đất, có rừng Trái Đất mới có sự điều hòa, cân
bằng giữa các thành phần cuộc sống con người và sinh vật. Bước vào thế kỉ XXI, tài
nguyên rừng trở nên vô cùng eo hẹp, thiếu thốn và suy giảm nghiêm trọng do những tác
nhân của con người. Hệ quả tất yếu là áp lực lên tài nguyên rừng hiện có ngày càng tăng,
hiện tượng mất rừng và suy thoái rừng vẫn còn tiếp diễn ở nhiều nơi. Nếu giá trị của rừng
được đánh giá và được lượng hóa một cách đầy đủ (cả giá trị về gỗ, lâm sản ngoài gỗ và
giá trị bảo vệ môi trường …) thì đó sẽ là cơ sở quan trọng để so sánh giữa lợi ích của việc
bảo vệ và phát triển rừng với lợi nhuận thu được từ các hoạt động chuyển đổi rừng sang
các mục đích sử dụng khác. Là mỗi người dân Việt Nam chúng ta cần tích cực trong việc
bảo vệ rừng, đó cũng chính là bảo vệ cuộc sống của chúng ta. Vị cha già kính yêu của
dân tộc ta đã từng nói: “Rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu”. Vì thế chúng ta cần có trách
nhiệm trong việc giữ gìn và phát triển nguồn tài nguyên quý giá đó.




×