Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Đánh giá tác động của xuất khẩu lao động đến đời sống của người dân tại xã an đồng huyện quỳnh phụ tỉnh thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (568.7 KB, 115 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan toàn bộ nội dung, các số liệu và kết quả thu được là
do tôi trực tiếp theo dõi và thu thập với một thái độ khách quan, trung thực tại
địa phương cùng với việc tham khảo các bài viết trên sách, báo, tạp chí, các
luận văn thạc sỹ, một số luận văn tốt nghiệp của trường Đại học Nông nghiệp
Hà Nội và một số trường khác trong nước. Các tài liệu đã trích dẫn của các tác
giả đều được liệt kê đầy đủ, không sao chép bất cứ tài liệu nào mà không có
trích dẫn.
Tôi xin cam đoan các số liệu được sử dụng trong luận văn tốt nghiệp đại
học của tôi là đúng sự thật và chưa được sử dụng cho một công trình nghiên cứu
nào khác.

Hà Nội, ngày

tháng năm 2010

Sinh viên

Nguyễn Thị Vân Anh


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài tốt nghiệp của mình tôi đã nhận được
sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình của các thầy giáo, cô giáo trong trường và tập
thể lãnh đạo UBND xã An Đồng cùng các hộ nông dân trong xã, đến nay tôi
đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp đại học của mình.
Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo trong khoa Kinh
tế và PTNT cũng như các thầy cô trong trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội
đã dạy dỗ, dìu dắt tôi đến ngày hôm nay.
Sau nữa, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới thầy giáo PGS.TS.
Nguyễn Tuấn Sơn, giảng viên khoa Kinh tế và PTNT đã tận tình hướng dẫn


tôi thực hiện và hoàn thành tốt đề tài này.
Tôi xin cảm ơn tập thể lãnh đạo xã An Đồng cùng các hộ nông dân
trong xã đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình tôi thực tập tại địa
phương.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè và những người
thân đã luôn động viên, giúp đỡ tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong
suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài của mình.
Do điều kiện về thời gian và trình độ chuyên môn còn nhiều hạn chế
nên đề tài của tôi không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong được sự
đóng góp ý kiến của các thầy giáo, cô giáo và toàn thể các bạn sinh viên để đề
tài được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2010

Sinh viên

Nguyễn Thị Vân Anh

2


TÓM TẮT
Nghiên cứu này chúng tôi tiến hành đánh giá tác động của xuất khẩu lao
động đến đời sống của người dân tại xã An Đồng - huyện Quỳnh Phụ - tỉnh Thái
Bình, qua đó đưa ra một số giải pháp mang tính bền vững để khắc phục những
mặt tiêu cực đồng thời phát huy những mặt tích cực. Trên cơ sở phân tích số liệu

đã thu thập được của 60 hộ gia đình đã, đang và chưa tham gia xuất khẩu lao
động, từ đó so sánh tác động của xuất khẩu lao động đến đời sống của các hộ gia
đình nhằm đạt một số các mục tiêu sau: i) Đánh giá thực trạng xuất khẩu lao
động ở xã An Đồng huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình trong thời gian qua
(2005 – 2009); ii) Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc ra quyết định đi
xuất khẩu lao động của người dân địa phương; iii) Phân tích những tác động
do xuất khẩu lao động mang lại cho người dân của xã An Đồng trong thời
gian qua; iv) Đề xuất các giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế
những tác động tiêu cực do xuất khẩu lao động mang lại đối với người dân tại
địa phương.
Kết quả nghiên cứu cho thấy thực trạng về số lượng xuất khẩu lao
động tại xã An Đồng huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình là không đông so với
các xã khác trong huyện, bình quân cứ 11 hộ gia đình thì có 1 hộ gia đình có
lao động đi xuất khẩu tương ứng với cứ 43 khẩu thì có 1 khẩu đi xuất khẩu
lao động. Số lượng lao động đi xuất khẩu của xã tăng qua các năm tuy nhiên
tốc độ tăng không đồng đều giữa các năm. Lượng người đi xuất khẩu lao
động của xã trong giai đoạn 2005 – 2009 chiếm 24,18% tổng số lao động
xuất khẩu của toàn huyện. Thực trạng về chất lượng lao động đi xuất khẩu
nước ngoài cũng không khác gì tình trạng chung của các địa phương khác,
lao động đi xuất khẩu đều là lao động phổ thông chưa qua đào tạo, trình độ
chuyên môn chưa cao, tay nghề thấp, tác phong chậm chạp, tinh thần trách
nhiệm chưa cao, chủ yếu mới qua đào tạo sơ đẳng. Thực trạng về độ tuổi và
giới tính thì phần lớn là lao động nam giới tham gia xuất khẩu chiếm
53,22% tổng số. Độ tuổi tham gia xuất khẩu lao động chiếm đa số ở lứa tuổi
3


từ 26 – 30 tuổi, chiếm 49,49%. Thực trạng về ngành nghề công việc chủ yếu
là làm việc thủ công, ít hoặc không sử dụng công nghệ kỹ thuật cao như xây
dựng, may mặc, giúp việc gia đình, điện tử… thị trường lao động tham gia

xuất khẩu không nằm ngoài những thị trường truyền thống của Việt Nam,
chủ yếu vẫn là những thị trường như Malaysia, Đài Loan, Hàn Quốc,…
Qua điều tra 60 hộ gia đình chia làm 3 nhóm đối tượng khác nhau:
Nhóm 1 là những đối tượng đang đi xuất khẩu lao động chưa về nước;
Nhóm 2 là những đối tượng đi xuất khẩu lao động đã về nước; Nhóm 3 là
những đối tượng không tham gia xuất khẩu lao động. Chúng tôi sử dụng ma
trận SWOT để phân tích các mặt mạnh, mặt yếu, cơ hội và thách thức để tìm
ra những mặt lợi thế của lao động địa phương trong quá trình tham gia
XKLĐ làm cơ sở cho việc định hướng và đưa ra các giải pháp cho địa bàn.
Đồng thời chúng tôi tiến hành tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến việc ra
quyết định đi XKLĐ của các hộ gia đình. Kết quả điều tra cho thấy có 18
yếu tố được chia làm 3 nhóm: nhóm yếu tố kinh tế, nhóm yếu tố xã hội và
nhóm yếu tố chính sách có ảnh hưởng đến việc ra quyết định đi XKLĐ của
hộ gia đình.
Tiến hành so sánh giữa 3 đối tượng và nhận thấy tác động của xuất
khẩu lao động đến đời sống của người dân nơi đây là rất lớn và rõ rệt. Phân tích
mặt tích cực chúng tôi nhận thấy XKLĐ góp phần giải quyết việc làm cho người
lao động xã An Đồng, đồng thời tăng thu nhập và nâng cao mức sống cho người
dân nơi đây. Sau khi tham gia XKLĐ về nước hầu như các lao động đều có trình
độ tay nghề nhất định đáp ứng được nhu cầu của nhà tuyển dụng trong nước nên
phần lớn lao động khi về nước đều được nhận ngay vào làm việc ở các khu công
nghiệp, số ít do quá tuổi nên tiếp tục tham gia sản xuất nông nghiệp chăm sóc
gia đình. Và khoản tiền mà lao động đi XKLĐ ở nhóm 1 và nhóm 2 thu được
cao hơn rất nhiều so với lao động nhóm 3. Ngoại tệ thu được từ nước ngoài các
hộ chủ yếu sử dụng vào việc sửa sang hoặc xây mới nhà cửa và mua sắm đồ
dùng sinh hoạt gia đình.
4


Ngoài ra, XKLĐ đã và đang bộc lộ những ảnh hưởng tiêu cực đối với

người lao động nói riêng và đối với cộng đồng nói chung. Phần lớn các hộ được
điều tra đều cho rằng sau khi đi XKLĐ về nước những người ở nhà đều có
những biến đổi nhất định, gia đình bất hòa, gia đình, con cái thiếu người chăm
sóc, tính bền vững của gia đình bị giảm sút. Người đi XKLĐ đặc biệt là đối với
lao động nữ đồng nghĩa với việc con cái ở nhà không ai chăm sóc, cha mẹ già
không ai phụng dưỡng. Cũng chính từ đó mà gây mất trật tự an ninh xã hội và tỷ
lệ thất nghiệp tự nguyện ngày một gia tăng. Thêm vào đó, XKLĐ còn làm cho
người lao động chán ruộng không muốn lam lũ như trước nữa.
Cuối cùng nghiên cứu của chúng tôi đưa ra một số định hướng và giải
pháp nhằm khắc phục những tác động tiêu cực, phát huy những tác động tích
cực nhằm đẩy mạnh công tác XKLĐ góp phần vào công cuộc CNH - HĐH
đất nước.

5


MỤC LỤC
Lời cam đoan ............................................................................................................... i
Lời cảm ơn ..................................................................................................................................
ii
Mục lục .......................................................................................................................................
iii
Danh mục bảng............................................................................................................................
ix
Danh mục sơ đồ và bảng biểu.....................................................................................................
x
Danh mục các từ viết tắt..............................................................................................................
xi

DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC BIỂU ĐỒ VÀ SƠ ĐỒ

6


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

7


AHI
AHM
AHTB
BQ
CC

CNH - HĐH
DV
ĐT
ĐVT
FDI
GATS
KAH
KT – XH

LĐXH
NN
SEV
SL

TBXH
TTCN – CN
THCS
THPPT
TNBQ
TN
Tr.đ
UBND
VL
XĐGN
XH
XKLĐ
WTO

Ảnh hưởng ít
Ảnh hưởng mạnh
Ảnh hưởng trung bình
Bình quân
Cơ cấu
Cao đẳng
Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
Dịch vụ
Đào tạo
Đơn vị tính
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ
Không ảnh hưởng
Kinh tế - xã hội
Lao động
Lao động xã hội

Nông nghiệp
Hội đồng tương trợ kinh tế
Số lượng
Thương binh xã hội
Tiểu thủ công nghiệp – Công nghiệp
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông
Thu nhập bình quân
Thuần nông
Triệu đồng
Ủy ban nhân dân
Việc làm
Xóa đói giảm nghèo
Xã hội
Xuất khẩu lao động
Tổ chức thương mại thế giới

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
8


Trong quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế như hiện nay việc người lao
động ra nước ngoài làm việc theo một tổ chức hay cá nhân tự tìm kiếm việc
làm là một hiện tượng phổ biến như một tất yếu của xã hội. Giải quyết việc
làm thông qua xuất khẩu lao động đã trở thành một lĩnh vực hoạt động đem
lại lợi ích kinh tế - xã hội quan trọng cho nhiều quốc gia. Đặc biệt là trong
giai đoạn hiện nay khi giải quyết việc làm và thất nghiệp đang là một bài toán
hóc búa đối với các nền kinh tế. Việc tìm kiếm mọi biện pháp nhằm giải
quyết vấn đề việc làm nói chung và xuất khẩu lao động nói riêng đang được

nhiều nước chú trọng đặc biệt là đối với các nước đang phát triển.
Ở Việt Nam với dân số hơn 85 triệu người, trong đó lực lượng lao động
chiếm 60%, tỷ lệ thất nghiệp khoảng 6,3% thì sức ép của tình trạng thiếu việc
làm là một vấn đề vô cùng cấp thiết. Trước tình hình đó, xuất khẩu lao động là
một hướng đi quan trọng trong việc giải quyết việc làm cho người lao động
trong nước, giúp họ nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống gia đình. Mặt khác,
xuất khẩu lao động còn góp phần giải quyết các mục tiêu kinh tế, mục tiêu xã
hội, mang lại nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia và tạo sự ổn định cho xã hội [5].
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề xuất khẩu lao động trong
việc giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân, Đảng và Nhà
nước ta đã và đang có những chủ trương chính sách nhằm tạo điều kiện cho
lao động trong nước ra nước ngoài làm việc. Xuất phát từ chủ trương chính
sách đó, Đảng uỷ - Ủy ban nhân dân xã An Đồng đã và đang dành sự quan
tâm đặc biệt cho vấn đề lao động, việc làm nói chung và xuất khẩu lao động
nói riêng nhằm giải quyết việc làm cho lao động tại địa phương.
An Đồng là một xã nằm ở phía Đông Bắc của huyện Quỳnh Phụ tỉnh
Thái Bình – quê hương của chị Hai năm tấn, nổi tiếng với nghề trồng lúa
nước truyền thống. Người dân nơi đây chủ yếu kiếm sống dựa vào làm nông
nghiệp là chính, tuy nhiên trong thời gian gần đây do sự khủng hoảng của nền
kinh tế, giá cả leo thang làm cho cuộc sống của người dân gặp nhiều khó khăn khi
chỉ dựa vào mấy sào ruộng. Thêm vào đó trong quá trình hội nhập của nền kinh tế,
9


xuất khẩu lao động đã phần nào tác động vào cuộc sống của người dân nơi đây.
Từ năm 2005 cho đến nay xã đã có gần 700 người đi lao động ở một số nước
như Đài Loan, Hàn Quốc, Ucraina, Nhật Bản… [21] và khoản tiền mà mọi
người mang về hằng năm là không nhỏ. Tuy nhiên những vấn đề bất cập phát
sinh từ xuất khẩu lao động cũng là điều đáng được xem xét. Vấn đề đặt ra là xuất
khẩu lao động ở đây đã và đang diễn ra như thế nào và những tác động của nó

đến đời sống của người dân nơi đây ra sao thì chưa có một nghiên cứu nào bàn
về nó. Chính vì những lí do trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh
giá tác động của xuất khẩu lao động đến đời sống của người dân tại xã An
Đồng - huyện Quỳnh Phụ - tỉnh Thái Bình”.
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở tìm hiểu, đánh giá thực trạng hiện tượng xuất khẩu lao động
và những tác động đến người dân tại địa phương, từ đó đề ra một số giải pháp
nhằm giải quyết những vấn đề phát sinh trong việc đi xuất khẩu lao động tại
địa phương.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá thực trạng xuất khẩu lao động ở xã An Đồng huyện Quỳnh
Phụ tỉnh Thái Bình trong thời gian qua (2005 – 2009).
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc ra quyết định đi xuất khẩu
lao động của người dân địa phương.
- Phân tích những tác động do xuất khẩu lao động mang lại cho người
dân của xã An Đồng trong thời gian qua.
- Đề xuất các giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế
những tác động tiêu cực do xuất khẩu lao động mang lại đối với người dân
tại địa phương.
1.3 CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu vấn đề này nhằm trả lời những câu hỏi sau:
10


- Xuất khẩu lao động của xã An Đồng có từ bao giờ và diễn ra như thế nào?
- Những vấn đề đặt ra cho người dân địa phương đối với vấn đề xuất khẩu
lao động là gì?
- Những yếu tố nào ảnh hưởng đến quyết định đi xuất khẩu lao động
của người dân địa phương?

- Tác động của xuất khẩu lao động đến đời sống của người dân như thế
nào? Được thể hiện qua những mặt nào?
1.4 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu gián tiếp là các vấn đề kinh tế - xã hội liên quan
đến hiện tượng xuất khẩu lao động ở địa phương.
- Đối tượng nghiên cứu trực tiếp là các hộ gia đình đã và đang có người
tham gia xuất khẩu lao động ở nước ngoài trên địa bàn xã.
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Những tác động của xuất khẩu lao động đến hộ
gia đình và địa phương trên các mặt về kinh tế và xã hội của xã.
- Phạm vi về thời gian: Đề tài nghiên cứu tình hình xuất khẩu lao động
tại địa phương từ năm 2005 – 2009.
- Phạm vi về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu các hộ gia đình
đã và đang có người tham gia xuất khẩu lao động tại xã.

PHẦN II: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
2.1 MỘT SỐ KHÁI NIỆM
11


2.1.1 Khái niệm về xuất khẩu
Quốc gia cũng như cá nhân không thể sống một cách riêng rẽ mà có
được đầy đủ mọi thứ hàng hoá. Việc bán hàng hoá, dịch vụ của quốc gia này
cho quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền để thanh toán được gọi là xuất khẩu.
Mục đích của xuất khẩu là khai thác được lợi thế của từng quốc gia
trong phân công lao động quốc tế. Dựa trên cơ sở là sự phát triển hoạt động
mua bán hàng hoá trong nước, hơn bao giờ hết xuất khẩu đã và đang diễn ra
mạnh mẽ cả về chiều rộng lẫn chiều sâu trong tất cả các ngành, các lĩnh vực,
dưới mọi hình thức đa dạng và phong phú cả về hàng hoá hữu hình và hàng

hoá vô hình với mục tiêu nhằm đem lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia.
Có hai hình thức xuất khẩu chủ yếu là xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu gián
tiếp. Xuất khẩu trực tiếp là việc nhà sản xuất trực tiếp tiến hành các giao
dịch với khách hàng nước ngoài thông qua các tổ chức của mình. Xuất khẩu
gián tiếp là việc nhà sản xuất thông qua các dịch vụ của các tổ chức độc lập
đặt ngay tại các nước xuất khẩu để tiến hành xuất khẩu các hàng hoá dịch vụ
của mình ra nước ngoài. Ngoài ra còn có một số hình thức xuất khẩu khác
như xuất khẩu tại chỗ, xuất khẩu theo nghị định thư (xuất khẩu trả nợ), gia
công quốc tế, tái xuất khẩu… [6]
2.1.2 Khái niệm về lao động
Theo từ điển Tiếng Việt, lao động là hoạt động có mục đích của con
người nhằm tạo ra những của cải vật chất, tinh thần cho xã hội. [19]
Theo giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin, lao động là hoạt động có
mục đích, có ý thức của con người nhằm thay đổi những vật thể tự nhiên cho
phù hợp với nhu cầu của con người. [4]
Như vậy, lao động chính là hoạt động có mục đích, có ý thức của con
người nhằm thay đổi những vật thể tự nhiên, biến đổi tự nhiên để phù hợp với
mục đích nhất định của mình. Lao động là sự vận động của sức lao động, là
quá trình kết hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất tạo ra của cải vật chất
cho xã hội, lao động là yếu tố chủ yếu của hoạt động sản xuất kinh doanh.[11]

12


2.1.3 Khái niệm về xuất khẩu lao động
Xuất khẩu lao động (XKLĐ) là một trong những chính sách lớn của
Nhà nước ta. Trong những năm gần đây Nhà nước ta luôn tạo điều kiện thuận
lợi để công dân Việt Nam có đủ điểu kiện đi làm việc ở nước ngoài, Nhà nước
luôn bảo hộ quyền lợi và lợi ích hợp pháp cho những người lao động, các tổ
chức sự nghiệp, những doanh nghiệp đi làm việc ở nước ngoài. XKLĐ vừa là

một chính sách vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội giữ vai trò quan
trọng không chỉ đối với người lao động, các doanh nghiệp mà còn đối với
Nhà nước và xã hội. Hiện nay chưa có một khái niệm chuẩn nào về XKLĐ.
Đây là một trong những thuật ngữ được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác
nhau.
Hiểu theo nghĩa rộng, XKLĐ là việc đưa người lao động sang làm việc
tại nước ngoài. Theo nghĩa hẹp XKLĐ được hiểu là hoạt động trao đổi, mua
bán hay thuê mướn hàng hoá sức lao động giữa chính phủ một quốc gia hay tổ
chức, cá nhân cung ứng sức lao động của nước đó với chính phủ, tổ chức, cá
nhân sử dụng sức lao động nước ngoài trên cơ sở hiệp định hay hợp đồng cung
ứng lao động. Khi hoạt động XKLĐ được thực hiện sẽ có sự di chuyển lao động
có thời hạn và có kế hoạch từ một nước sang một nước khác. Trong hành vi trao
đổi này, nước đưa lao động đi được coi là nước XKLĐ, nước tiếp nhận sức lao
động được coi là nước nhập khẩu lao động. Trên thực tế có trường hợp xuất hiện
vai trò của nước thứ ba làm nhiệm vụ trung gian, môi giới hoặc kinh doanh. [6]
Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì XKLĐ là hoạt động kinh tế
của một quốc gia thực hiện việc cung ứng lao động cho một quốc gia khác
trên cơ sở những hiệp định hoặc hợp đồng có tính chất pháp quy được thống
nhất giữa các quốc gia đưa và nhận lao động. Trong nền kinh tế thị trường,
XKLĐ là một hoạt động kinh tế đối ngoại, mang đặc thù của xuất khẩu nói
chung. Thực chất XKLĐ là một hình thức di cư quốc tế. Tuy nhiên, đây chỉ là
sự di cư tạm thời và hợp pháp. [6]

13


Theo chỉ thị số 41 – CT/TW ngày 29/09/1998 của Bộ chính trị cho rằng
XKLĐ được hiểu là việc đưa lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời
hạn ở nước ngoài. Đây là một hoạt động kinh tế – xã hội của Nhà nước nhằm góp
phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tăng thu nhập và nâng cao trình

độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu nhập ngoại tệ cho đất nước, đồng
thời tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa nước ta với các nước trên thế giới. [7]
Như vậy, có thể nói rằng XKLĐ là hoạt động xuất khẩu đặc biệt trong đó
hàng hoá được được bán là sức lao động của con người, chính vì vậy Nhà nước,
doanh nghiệp XKLĐ cũng như chính bản thân người lao động cần hết sức chú ý
đến hoạt động này, nó không chỉ mang lại thu nhập cho người lao động mà còn
đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển của mỗi quốc gia.
2.2 NGUYÊN NHÂN HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA
XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
2.2.1 Nguyên nhân hình thành và phát triển của xuất khẩu lao động
Trong tác phẩm “Phép biện chứng tự nhiên”, F.Ăng - ghen đã viết:
“Con người sống lan rộng ra tất cả những nơi nào có thể được và con người là
loại động vật duy nhất làm được điều đó một cách độc lập và tự chủ”. Ngay từ
buổi bình minh của loài người đã xuất hiện sự di chuyển của nguồn lao động
đến những miền đất tốt đẹp hơn [4]. Như vậy, sự di chuyển lao động quốc tế
từ nước này sang nước khác thể hiện tính tất yếu và tác dụng tiến bộ của lịch
sử. Chính sự phân bố không đồng đều về dân cư, về điều kiện tự nhiên (tài
nguyên, khí hậu) và sự bùng nổ dân số trên thế giới đã hình thành luồng di
chuyển lao động ở những nước kinh tế chậm phát triển đến những nước có
đời sống kinh tế khá hơn, lao động ở nước nghèo tài nguyên di chuyển đến
những nước có điều kiện thiên nhiên thuận lợi, dân cư ở nước có mật độ cao
di chuyển đến những nước có mật độ dân cư thấp. Như vậy, việc di chuyển
lao động trước hết là một hiện tượng khách quan trong quá trình làm việc của
bản thân người lao động.

14


Ngoài ra, XKLĐ còn bị chi phối bởi các yếu tố chủ quan khác như:
chính sách của quốc gia, ý chí của Nhà nước, của các tổ chức cung ứng

và tiếp nhận lao động...
Phân tích cụ thể, ta thấy những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự hình
thành và phát triển XKLĐ là do:
Thứ nhất, do có sự mất cân đối về số lượng lao động, khi nguồn lao
động một nước không đáp ứng đủ hoặc vượt quá nhu cầu sử dụng trong nước.
Sự dư thừa lao động, vượt quá nhu cầu sử dụng trong nước của một nước có
thể là do nước đó có tỷ lệ phát triển dân số cao nền sản xuất trong nước lạc
hậu, kém phát triển nên nhu cầu sử dụng lao động thấp hoặc do nước đó có sự
chuyển đổi cơ chế kinh tế mà trong giai đọan chuyển tiếp nền kinh tế chưa thể
phù hợp ngay với cơ chế mới nên đã giảm sút nghiêm trọng, sản xuất bấp
bênh, số lao động dư thừa tăng nhanh. Trong khi đó, nhiều nước có nền kinh
tế phát triển nhanh, nhu cầu sử dụng lao động lớn trong khi tốc độ tăng dân số
lại quá thấp nên đã xảy ra hiện tượng thiếu lao động.
Thứ hai, do có sự mất cân đối về cơ cấu ngành nghề nhất định mà
trong nước không có hoặc không đủ. Ví dụ: ở một số nước phát triển rất
thiếu lao động trong các ngành nặng nhọc, độc hại còn ở nước nghèo lại
thiếu các chuyên gia, cán bộ kỹ thuật có trình độ cao. Trong khi trình độ
phát triển kinh tế và tiến bộ khoa học kỹ thuật của mỗi quốc gia không thể
giải quyết hết sự mất cân bằng này, đòi hỏi phải có sự trao đổi lao động
với các quốc gia khác. Hành vi trao đổi này dẫn đến sự ra đời và phát
triển của XKLĐ.
Thứ ba, do có sự chênh lệch giá cả sức lao động trong nước và sức lao
động nước ngoài. Nhiều nước mặc dù không dư thừa lao động cũng tiến hành
XKLĐ vì có lợi cho cán cân thanh toán do họ có được những hợp đồng
XKLĐ có giá cao và bù lại họ nhập khẩu lao động từ những nước có giá cả
thấp hơn. Điều này lý giải vì sao có những nước vừa nhập khẩu lại vừa
XKLĐ như: Cuba, Malaysia, Bungari...

15



Thứ tư, do có sự chênh lệch về mức thu nhập và mức sống giữa người
lao động trong nước và người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Vì lý do này
mà nhiều người dù không thuộc đội quân thất nghiệp nhưng vẫn muốn đi
XKLĐ để tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống cho bản thân và gia đình.
Thứ năm, do xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, lực lượng sản xuất
phát triển, nền sản xuất lớn không thể bó hẹp trong phạm vi biên giới quốc gia
mà mở rộng ra nhiều nước, việc sử dụng lao động mang tính quốc tế. Hơn
nữa, việc tăng cường xuất khẩu công nghệ, bao thầu công trình quốc tế sẽ tất
yếu kèm theo việc phát triển XKLĐ
2.2.2 Đặc điểm của xuất khẩu lao động
Không như xuất khẩu các loại hàng hoá khác, XKLĐ là một hoạt
động xuất khẩu hàng hoá đặc biệt vì hàng hoá xuất khẩu là sức lao động
của con người, mà sức lao động gắn liền với con người là chủ thể mọi hoạt
động sản xuất, có tư duy và khả năng làm chủ bản thân. Cho nên trong hiệp
định hay hợp đồng cung ứng lao động, ngoài những điều khoản chung còn
phải đề cập đến đời sống chính trị, văn hoá, tinh thần, sinh hoạt của người
lao động. Những điều này bị chi phối bởi phong tục, tập quán, tôn giáo, văn
hoá của các quốc gia tham gia vào lĩnh vực này. Do đó, xuất nhập khẩu lao
động có một số đặc điểm đặc biệt sau:
* XKLĐ mang tính tất yếu khách quan
XKLĐ diễn ra chủ yếu là do giữa các nước trên thế giới có sự chênh lệch
về kinh tế - xã hội. Những nước giàu có nền kinh tế phát triển mạnh thường có
nhiều lao động có tay nghề cao, nhiều chuyên gia giỏi có trình độ cao mà lại
thiếu những lao động phổ thông, lao động cho những công việc vất vả, nặng
nhọc, độc hại hoặc những công việc có thu nhập thấp so với thu nhập chung
của xã hội. Điều ngược lại lại diễn ra tại những quốc gia nghèo đang phát triển,
nơi mà dân số đông nên rất dồi dào về lao động song do nền kinh tế chậm phát
triển nên trình độ lao động còn thấp chủ yếu là lao động đơn giản thủ công là
chính cộng thêm với thu nhập thấp, thiếu việc làm, thiếu hụt những chuyên gia


16


giỏi có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Và do đó, lao động từ chỗ dư thừa sẽ
chảy về chỗ thiếu hụt như một quy luật tất yếu. Sự di chuyển lao động này
cũng tuân theo quy luật cung - cầu của nền kinh tế thị trường.
* XKLĐ là một hoạt động xuất khẩu đặc biệt
Trong hoạt động XKLĐ, người lao động sẽ đem bán sức lao động của
mình cho chủ sử dụng lao động ở nước ngoài và nhận về một khoản tiền công
là tiền lương được trả. Chính vì sức lao động là một hàng hoá đặc biệt nên
tính chất của XKLĐ không chỉ đơn thuần như hoạt động xuất khẩu hàng hoá
thông thường, tranh chấp về những hàng hoá xuất khẩu giữa các nước đã khó
giải quyết bao nhiêu thì tranh chấp và những vi phạm trong việc XKLĐ giữa
các nước lại càng khó giải quyết và khó xử lý hơn rất nhiều.
* XKLĐ là một hoạt động kinh tế mang tính lợi ích cao
Ở nhiều nước trên thế giới, XKLĐ là một trong những giải pháp quan
trọng thu hút lực lượng lao động đang tăng lên của nước họ và thu ngoại tệ bằng
hình thức chuyển tiền về nước của người lao động và các lợi ích khác. Những lợi
ích này đã buộc các nước xuất khẩu phải chiếm lĩnh ở mức cao nhất thị trường
lao động ở nước ngoài, mà việc chiếm lĩnh được hay không lại dựa trên quan hệ
cung cầu sức lao động - nó chịu sự điều tiết, sự tác động của các quy luật của
kinh tế thị trường. Bên cung phải tính toán mọi hoạt động của mình làm sao để
bù đắp được chi phí và có phần lãi vì vậy cần phải có cơ chế thích hợp để tăng
khả năng tối đa về cung lao động. Bên cầu cũng phải tính toán kỹ lưỡng hiệu quả
của việc nhập khẩu lao động. Như vậy, việc quản lý Nhà nước, sự điều chỉnh
pháp luật luôn luôn bám sát đặc điểm này của hoạt động XKLĐ làm sao để mục
tiêu kinh tế phải là mục số một của mọi chính sách pháp luật về XKLĐ.
XKLĐ mang lại một khoản thu cho ngân sách Nhà nước nhờ khoản
thuế thu từ hoạt động của các công ty, doanh nghiệp XKLĐ.

Đối với các doanh nghiệp, công ty XKLĐ hoạt động XKLĐ mang lại
lợi nhuận trước hết cho nhân viên của doanh nghiệp nhờ vào các khoản thu từ
chi phí đưa người đi lao động đi làm việc ở nước ngoài như phí môi giới, phí

17


đào tạo… sau đó là mang lại lợi ích cho chủ doanh nghiệp nhờ khoản lợi
nhuận thu được từ hoạt động của doanh nghiệp.
Đối với người đi XKLĐ và người thân của họ khoản lợi ích mà họ nhận
được chính là khoản tiền lương mà họ nhận được và gửi về nước cho người
thân. Một lợi ích nữa là mà họ nhận được từ việc đi XKLĐ là được nâng cao
trình độ tay nghề, ý thức lao động, kỷ luật cho bản thân họ điều mà khi ở
trong nước họ không thể có được.
Không chỉ mang lại lợi ích lớn cho các quốc gia đưa lao động đi xuất khẩu
mà đối với các nước tiếp nhận hoạt động này cũng mang lại những lợi ích không
nhỏ. Trước tiên là nó bù đắp được một khối lượng lao động đang bị thiếu hụt ở
những nước này. Kế đến là khoản tiền lương phải trả cho lao động nước ngoài
cũng thấp hơn so với lao động trong nước nên tiết kiệm được một khoản chi phí.
* XKLĐ là một hoạt động thể hiện rõ tính chất xã hội
Thực chất, XKLĐ không tách rời khỏi người lao động. Do vậy, mọi
chính sách pháp luật trong lĩnh vực XKLĐ phải kết hợp với các chính sách xã
hội. Phải đảm bảo làm sao để người lao động ở nước ngoài được lao động như
cam kết trong hợp đồng lao động, cũng như đảm bảo các hoạt động công
đoàn… hơn nữa, người lao động xuất khẩu dẫu sao cũng chỉ có thời hạn, do
vậy, cần phải có những chế độ tiếp nhận và sử dụng người lao động sau khi
họ hoàn thành hợp đồng lao động ở nước ngoài và trở về nước.
Bên cạnh đó, việc XKLĐ giúp cho các quốc gia giải quyết được phần nào
hạn chế của thị trường lao động như giải quyết việc làm cho những lao động dư
thừa, giảm thiểu thất nghiệp ở những quốc gia đưa lao động đi xuất khẩu và giải

quyết được tình trạng thiếu hụt lao động ở những nước tiếp nhận. Hoạt động XKLĐ
không chỉ đơn giản là đem sức lao động của người lao động từ nước này sang nước
khác, biên giới giữa các quốc gia không chỉ là mốc ngăn cách các quốc gia với nhau
mà còn ngăn cách cả nền văn hoá, lối sống, tín ngưỡng, phong tục, tập quán… của
các quốc gia đó. Chính vì lẽ đó hoạt động XKLĐ cũng kèm theo nó là một loạt
những xáo trộn về xã hội của nước XKLĐ và nơi tiếp nhận lao động xuất khẩu.

18


XKLĐ cũng góp phần cải thiện đời sống của nhân dân thông qua khoản
thu nhập mà người lao động gửi tiền về cho gia đình và người thân. Đây cũng
là một trong những biện pháp hiệu quả để thực hiện chương trình xoá đói
giảm nghèo cho nhân dân của Đảng và Nhà nước ta.
* XKLĐ diễn ra trong một môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt
Cũng như mọi hoạt động kinh tế khác, hoạt động XKLĐ cũng đặt
trong môi trường cạnh tranh gay gắt. Sự cạnh tranh gay gắt trước hết là từ
phía những người lao động với nhau. Bởi số lượng người lao động được
chọn đi xuất khẩu sang các nước là có hạn trong khi số lượng người lao
động muốn đi xuất khẩu lại lớn. Bên cạnh đó, sự cạnh tranh gay gắt này còn
diễn ra giữa những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực XKLĐ để sao cho
thu được nhiều lợi nhuận nhất, hoạt động sao cho có hiệu quả nhất. Họ phải
cạnh tranh nhau khi cùng xuất khẩu vào một thị trường, cùng hoạt động trên
một địa bàn. Sự cạnh tranh nhau còn diễn ra trên toàn thế giới chứ không
hạn hẹp trong phạm vi của một quốc gia khi mà nhiều nước trên thế giới
cùng cố gắng thúc đẩy hoạt động XKLĐ.
Tính gay gắt trong cạnh tranh của XKLĐ xuất phát từ hai nguyên
nhân chủ yếu. Một là, XKLĐ mang lại lợi ích kinh tế khá lớn cho các nước
đang có khó khăn về giải quyết việc làm. Do vậy, đã buộc các nước XKLĐ
phải cố gắng tối đa để chiếm lĩnh thị trường ngoài nước. Nghĩa là, họ phải

đầu tư nhiều cho chương trình marketing, cho chương trình đào tạo, tập
huấn nhằm tăng giá trị sử dụng của sức lao động. Hai là, XKLĐ đang diễn
ra trong môi trường suy giảm kinh tế trong khu vực. Nhiều nước trước đây
thu nhận nhiều lao động nước ngoài như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan và
một số thị trường các nước Châu Phi…cũng đang phải đối đầu với tỷ lệ
thất nghiệp ngày càng gia tăng. Mặt khác các thị trường trọng điểm nhập
nhiều lao động đã bị các nước khác chiếm lĩnh từ nhiều năm trước. Điều
này hạn chế rất lớn đến việc tiếp nhận lao động nước ngoài trong thời gian
từ 5 - 10 năm đầu của thế kỷ XXI.

19


Như vậy, các chính sách và pháp luật của Nhà nước cần phải lường
trước được tính chất gay gắt trong cạnh tranh XKLĐ để có chương trình dài
hạn cho marketing, đào tạo nguồn lao động chất lượng cao để xuất khẩu.
* XKLĐ là một hoạt động đầy biến đổi
Sự biến đổi này được thể hiện trước hết là hoạt động xuất khẩu phụ thuộc
vào nước có nhu cầu nhập khẩu lao động và nước XKLĐ. Chỉ có những nước có
nền kinh tế cao và thiếu lao động thì mới có khả năng nhập khẩu lao động, đồng
thời chỉ có những nước đã chuẩn bị được đội ngũ lao động có tay nghề thích hợp
mới có điều kiện thuận lợi trong việc chiếm lĩnh thị trường lao động ở nước ngoài.
Bên cạnh đó, XKLĐ còn biến đổi theo các chính sách phát triển của
mỗi quốc gia. XKLĐ là một hoạt động có liên quan đến mối quan hệ hợp tác
giữa các quốc gia với nhau bởi thế chính sách của mỗi quốc gia thay đổi có
tác động trực tiếp đến hoạt động này. Chính sách, pháp luật của quốc gia đưa
lao động đi xuất khẩu và nước tiếp nhận xuất khẩu quyết định đến sự khuyến
khích hay hạn chế XKLĐ. Ví dụ một quốc gia đưa ra chính sách hạn chế
lượng người nước ngoài nhập cư thì ngay lập tức sẽ hạn chế hoạt động xuất
khẩu của những nước có lao động đi làm việc tại nước này và ngược lại [10].

2.3 VAI TRÒ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI XUẤT KHẨU LAO
ĐỘNG
2.3.1 Vai trò của xuất khẩu lao động
XKLĐ đóng vai trò hết sức quan trọng trong tiến trình phát triển của mỗi
quốc gia đặc biệt là những nước có nền kinh tế chậm và đang phát triển như Việt
Nam. Với ý nghĩa đó trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010
Đảng ta đã xác định: “ Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân
tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, nhằm làm lành mạnh hoá văn hoá xã
hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân”… “ Đẩy
mạnh XKLĐ, xây dựng và thực hiện đồng bộ chặt chẽ cơ chế chính sách về đào
tạo nguồn lao động, đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài và tăng cường bảo vệ

20


quyền lợi, uy tín của người lao động Việt Nam ở nước ngoài” [11]. Trong đó,
Đảng và Nhà nước đã xác định rõ vai trò to lớn của việc XKLĐ. Cụ thể như sau:
Trước hết, về mặt xã hội XKLĐ có vai trò đặc biệt trong việc giải quyết
việc làm và ổn định thị trường lao động. Đối với các quốc gia có nền kinh tế
chưa phát triển khối lượng việc làm tạo ra trong xã hội là rất hạn chế so với
khối lượng lao động trong độ tuổi rất dồi dào của họ bởi vậy thất nghiệp và
giải quyết việc làm luôn là vấn đề đau đầu của các nhà lãnh đạo quốc gia.
Ở Việt Nam, hiện nay có gần 700.000 lao động và chuyên gia làm việc
tại trên 40 quốc gia có nền kinh tế và vùng lãnh thổ với nhiều nhóm ngành
nghề khác nhau. Theo cục Quản lý lao động ngoài nước và Bộ Lao động
thương binh – Xã hội, năm 2007 Việt Nam đã đưa được 85.000 lao động đi
xuất khẩu ở các nước trên thế giới, năm 2008 con số xuất khẩu lao động đã
tăng lên đến 87.000 người trong khi đó kế hoạch đề ra là 85.000 người vượt
so với kế hoạch là 2,35% có thể nói đây là năm thành công nhất của xuất khẩu
lao động Việt Nam, đến năm 2009 do khủng hoảng của nền kinh tế toàn cầu

con số này đã giảm xuống rất nhiều, Việt Nam chỉ xuất khẩu được 75.000 lao
động sang các nước trong khi chỉ tiêu đặt ra là 90.000 lao động [3]. Tuy
nhiên, với những con số ấn tượng như trên chúng ta có thể thấy rằng XKLĐ
đã giải quyết được việc làm cho khối lượng lớn lao động, tỷ lệ lao động được
xuất khẩu trong tổng số lao động được giải quyết việc làm trong giai đoạn
2001 – 2005 khoảng 3,5% và giai đoạn 2006 – 2009 là 4,97%.
Tuy chưa phải là một con số cao song chỉ vậy thôi cũng cho thấy rằng
XKLĐ đã góp phần đáng kể vào việc giải quyết việc làm cho nước ta trong
thời gian qua. Còn đối với các quốc gia nhập khẩu lao động thì việc nhận
thêm lao động sẽ giúp họ giải quyết được tình trạng thiếu hụt lao động trong
những ngành nghề mà lao động trong nước không muốn làm hoặc không đáp
ứng được nhu cầu về lao động do nguồn lao động trong nước ít.
Không chỉ đơn thuần mang tính chất giải quyết việc làm cho số lao động
dư thừa mà XKLĐ còn đóng góp phần lớn vào công cuộc xoá đói giảm nghèo

21


của đất nước nhờ có khoản thu nhập cao hơn rất nhiều mức lương trong nước,
điển hình như thu nhập bình quân của lao động tại Malaysia là 2 – 3 triệu
đồng/tháng, tại Đài Loan là 300 – 500 USD/tháng, tại Hàn Quốc là 900 – 1000
USD/tháng [5].
XKLĐ là một chính sách mà Nhà nước dùng làm kênh hạn chế các vấn đề
nảy sinh trong xã hội có thể xảy ra như thất nghiệp, các tai tệ nạn xã hội… Hoạt
động XKLĐ cũng là cầu nối để các quốc gia tăng cường quan hệ hợp tác về mọi
mặt, giúp cho sự giao lưu giữa các nền văn hoá trên thế giới ngày càng được mở
rộng, thắt chặt mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và các nước trên thế giới.
Quan trọng hơn cả XKLĐ có vai trò đặc biệt trong phát triển kinh tế.
Với con số ngoại tệ gửi về nước mỗi năm lên đến 1.5 tỷ USD [6] XKLĐ ở
Việt Nam đã trở thành một trong những ngành nghề mang lại nguồn thu ngoại

tệ cao cho quốc gia. Không dừng lại ở đó, XKLĐ còn góp phần làm tăng thu
ngân sách Nhà nước nhờ những khoản thuế thu từ hoạt động của các doanh
nghiệp XKLĐ và từ khoản ngoại tệ lao động gửi về nước. Đồng thời, XKLĐ
còn giúp các doanh nghiệp làm XKLĐ thu được một khoản lợi nhuận đáng kể
để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. XKLĐ còn là một
trong những công cụ hữu hiệu cho việc chuyển giao công nghệ tiên tiến hiện
đại của nước ngoài thông qua quá trình đào tạo và làm việc ở nước ngoài của
người lao động. Thông qua đó quốc gia có lao động đi xuất khẩu sẽ có được
đội ngũ lao động có tay nghề và trình độ cao, có tác phong công việc và ý
thức kỷ luật cao. Bên cạnh đó đời sống của người lao động và người thân
trong gia đình họ cũng được cải thiện rõ rệt. Như vậy, XKLĐ vừa trực tiếp lại
vừa gián tiếp góp phần thúc đẩy sự phát triển và ổn định xã hội.
2.3.2 Những vấn đề đặt ra đối với xuất khẩu lao động
Một trong những thành tựu lớn của các cuộc đàm phán phương mại đa
phương của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) là đã đưa được dịch vụ vào hệ
thống thương mại thế giới trong vòng đàm phán Urugoay (1986 - 1993) thông
qua Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS), có hiệu lực từ ngày
01/01/1995 và đã đạt được các cam kết đầu tiên thông qua các cuộc đàm phán
22


mở rộng giữa các nước thành viên WTO. Sự ra đời của GATS không chỉ có tác
động thúc đẩy tự do hóa thương mại toàn cầu mà còn có ảnh hưởng lớn tới lĩnh
vực lao động - việc làm của các quốc gia, trong đó có vấn đề di chuyển quốc tế
của người lao động. Sự liên quan trực tiếp của GATS tới sự tự do di chuyển của
người lao động giữa các quốc gia là qui định về “tự do hóa sự di chuyển của con
người để cung cấp dịch vụ giữa các thành viên WTO” của GATS [17].
Với tư cách là thành viên WTO, Việt Nam chịu tác động, ảnh hưởng của
các quy định chung được áp dụng cho hoạt động thương mại toàn cầu của WTO.
Việt Nam đã thực hiện đưa người lao động ra nước ngoài làm việc từ những năm

1980 nhưng vấn đề di chuyển con người để cung cấp dịch vụ vẫn còn rất mới,
được đề cập đến trong thời gian gần đây gắn với quá trình gia nhập WTO của
Việt Nam. Chính vì vậy mà đến nay, cũng như nhiều nước trên thế giới, Việt
Nam cũng chưa có sự phân biệt chính thức, rõ giữa nhà cung cấp dịch vụ và
người lao động xuất khẩu. Các văn bản pháp luật thời gian qua cũng chỉ điều
chỉnh chung hoạt động đưa người lao động và chuyên gia Việt Nam ra nước
ngoài làm việc. Người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo các công việc,
ngành nghề, lĩnh vực khác nhau, trong đó được gọi chung là lao động hay
chuyên gia xuất khẩu. Thực tế đó đã gây khó khăn cho việc xác định trường hợp
nào người thuộc diện di chuyển con người để cung cấp dịch vụ và trường hợp
nào thuộc diện xuất khẩu lao động [17].
Từ tình hình nêu trên, theo chúng tôi một số vấn đề sau đây cần được
quan tâm, nghiên cứu trong quá trình xây dựng chính sách quản lý và điều tiết
hoạt động thương mại quốc tế cũng như lĩnh vực lao động và việc làm, trong
đó có hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam thời gian tới như sau:
Thứ nhất, phân biệt rõ hai hình thức xuất khẩu lao động và di chuyển con
người để cung cấp dịch vụ trong hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài hiện nay. Trên cơ sở đó, sớm đầu tư nghiên cứu xây dựng các
quy định riêng rẽ cho từng hình thức, tránh tạo ra những rào cản không cần thiết
trong quan hệ thương mại cũng như hợp tác lao động của Việt Nam với các
nước. Trước mắt, trong khi thực hiện Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc
ở nước ngoài theo hợp đồng cần hướng tới việc quy định, phân tách riêng hai
nhóm đối tượng chính là lao động thuộc diện di chuyển con người để cung cấp
dịch vụ theo GATS. Về lâu dài, nghiên cứu xây dựng các văn bản luật điều
chỉnh riêng cho từng nhóm đối tượng này để phù hợp với các quy định trong
23


WTO cũng như tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy hoạt động xuất khẩu lao động
của Việt Nam, phát huy được lợi thế về nguồn lao động dồi dào khi Việt Nam

tham gia mạnh mẽ hơn vào quá trình phân công lao động quốc tế. Song song với
quá trình này, cần cập nhật và thống kê riêng hoạt động của hai nhóm đối tượng
này để tránh sự trùng lặp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu, đánh giá
hiệu quả kinh tế - xã hội của các nhóm lao động này đem lại cho đất nước trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ hai, với tư cách là thành viên WTO, trong các cuộc đàm phán về tự
do hóa thương mại dịch vụ trong WTO, Việt Nam cần tranh thủ sự đồng
thuận của các quốc gia đang phát triển, nhất là các nước đang xuất khẩu lao
động đối với các đề xuất, cam kết của Việt Nam về tự do hóa của GATS,
đồng thời ủng hộ ý kiến của nhóm nước này về yêu cầu các thành viên, nhất
là các nước phát triển dỡ bỏ rào cản đối với quá trình tự do hóa di chuyển của
lao động, nhất là lao động trình độ thấp như yêu cầu về kinh nghiệm, kiểm tra
nhu cầu kinh tế, hạn chế thị thực, hạn chế thời gian lưu trú hoặc công nhận tay
nghề lẫn nhau trong khu vực và của các ngành trên phạm vi toàn cầu để có cơ
hội đưa ra được những quy định, ý kiến có lợi cho Việt Nam với các nước để
tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động Việt Nam dễ dàng tiếp cận thị
trường lao động các nước này cũng như thị trường lao động quốc tế, góp phần
gia tăng lợi ích quốc gia khi tham gia vào quá trình phân công lao động toàn
cầu. Để thực hiện được những điều này, vấn đề cần thiết đặt ra là phải nhanh
chóng đổi mới phương pháp giáo dục hướng nghiệp và đào tạo, dạy nghề hiện
nay ở Việt Nam theo hướng tăng cường thực hành, thực nghiệm, tiếp cận với
hệ thống tiêu chuẩn bằng cấp, trình độ tay nghề của khu vực và thế giới. Do
đó, cần tăng cường sự phối hợp, liên kết, liên doanh giữa các trường học, các
cơ sở đào tạo dạy nghề với các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp, các việc
nghiên cứu, trung tâm ứng dụng khoa học... của Việt Nam và nước ngoài tại
Việt Nam trong giáo dục đào tạo, dạy nghề; đẩy mạnh sự hợp tác quốc tế, liên
kết, liên doanh với các đối tác nước ngoài trong việc đào tạo và dạy nghề,
công nhận trình độ, bằng cấp, chứng chỉ tay nghề cho lao động Việt Nam để
phù hợp với các tiêu chuẩn khu vực và quốc tế.
Thứ ba, nới lỏng hay hạn chế sự di chuyển quốc tế của người lao động

Việt Nam theo các cam kết quốc tế không chỉ có các tác động, ảnh hưởng trực
tiếp đến lợi ích của người lao động mà còn liên quan đến các lĩnh vực chính
24


trị, kinh tế, xã hội, anh ninh... của đất nước. Do đó, cam kết tự do hóa đầy đủ
của GATS hay thực hiện chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu lao động của Việt
Nam cần dựa trên chiến lược phát triển kinh tế - xã hội tổng thể trong từng
giai đoạn, phù hợp với sự phát triển của đất nước trong từng thời kỳ và phải
gắn với các vấn đề kiểm soát sự di chuyển tự do lao động qua biên giới, lợi
ích cộng đồng và an ninh quốc gia. Vì vậy, song song với việc thực hiện cam
kết quốc tế về và đẩy mạnh xuất khẩu lao động, cần có những điều chỉnh hợp
lý, kịp thời các chính sách phát triển kinh tế - xã hội vĩ mô để tạo ra sự cân
bằng cung - cầu trên thị trường lao động trong nước, ảnh hưởng xấu đến môi
trường đầu tư của Việt Nam. Thực hiện chính sách thu hút nhân tài, khuyến
khích người lao động Việt Nam khi ra nước ngoài làm việc chú ý học tập, tiếp
thu các kiến thức khoa học công nghệ tiên tiến của nước ngoài về phục vụ
phát triển kinh tế - xã hội đất nước, có chính sách khuyến khích và sử dụng
hợp lý họ sau khi hết hợp đồng lao động ở nước ngoài về nước nhằm tránh
lãng phí tài nguyên. Song song với đó, quản lý, giám sát chặt chẽ và tăng
cường kiểm tra, thanh tra hoạt động đưa người Việt Nam ra nước ngoài làm
việc, áp dụng các chế tài xử lý nghiêm khắc, công minh đối với các trường
hợp vi phạm pháp luật Việt Nam trong hoạt động này nhằm đảm bảo quyền tự
do di chuyển để tìm việc làm của người lao động, phát huy hiệu quả kinh tế xã hội của việc thực hiện các cam kết tự do của GATS hay đẩy mạnh xuất
khẩu lao động, hạn chế tình trạng chảy máu chất xám của Việt Nam, đảm bảo
an ninh và trật tự xã hội cũng như các lợi ích khác của cộng đồng, nhất là đối
với tầng lớp lao động nghèo, người lao động ở vùng sâu, vùng xa.
2.4 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUYẾT ĐỊNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
2.4.1 Việc làm
Việt Nam là một nước có nền kinh tế nông nghiệp, lực lượng lao động

tập trung chủ yếu ở nông thôn. Vì vậy, vấn đề lao động và việc làm ở nông
thôn vốn tồn tại nhiều khó khăn, nay lại càng trở nên khó khăn hơn do ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Có thể nói rằng khu vực nông
thôn ở Việt Nam đang rất dễ tổn thương trước tác động của toàn cầu hóa.
Thêm vào đó, việc đình đốn sản xuất ở các doanh nghiệp trong nước dẫn đến
tình trạng mất việc làm, trực tiếp thu hẹp quy mô việc làm ở cả nông thôn và
25


×