Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Đây là luận văn của tôi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.83 KB, 26 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh
lê thị hiền
ngôn ngữ thơ tìn h
ngu yễ n bính
Chuyên ngành: lý luận ngôn ngữ
M số: 60.22.01ã
tóm tắt Luận văn thạc sĩ ngữ văn
Vinh - 2008
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ nổi tiếng những thập niên 30 - 60
của thế kỷ trớc trong văn học hiện đại Việt Nam. Ông có một phong cách thơ đợc nhiều
thế hệ đơng thời mến mộ, đặc biệt có nhiều bài tuy sáng tác trong phong trào Thơ Mới
nhng đậm chất trữ tình dân gian cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện. Di sản thơ
Nguyễn Bính nói chung, thơ tình Nguyễn Bính nói riêng đã đợc nhiều ngời quan tâm
nghiên cứu về mặt nội dung và nghệ thuật. Tuy vậy, cho đến nay phơng diện ngôn ngữ
trong thơ tình của ông vẫn cha nhận đợc sự quan tâm thích đáng. Ngôn ngữ có vai trò
là phơng tiện thứ nhất của văn học, nên chắc chắn việc khảo sát kỹ lỡng hệ thống
ngôn ngữ trong thơ tình Nguyễn Bính sẽ góp phần xác định những điểm độc đáo, đặc
sắc về hình thức biểu hiện, nhất là về cấu trúc, âm điệu, các lớp từ giàu giá trị biểu
nghĩa và các biện pháp tu từ nổi bật. Đề tài luận văn Ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính
chúng tôi đi theo hớng tiếp cận thơ Nguyễn Bính dựa trên quan hệ hữu cơ giữa nội dung
và hình thức cũng nh quan hệ giữa cá tính của nhà thơ và thi phẩm của ông. Mặt khác,
kết quả khảo sát Ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính có thể góp phần lý giải tại sao mảng
thơ này lại có sức cuốn hút nhiều thế hệ ngời Việt đến vậy.
1.2. Là một trong những nhà thơ lớn của phong trào Thơ Mới (1932 - 1945) nói
riêng và văn học Việt Nam hiện đại nói chung, nên khá nhiều bài thơ của Nguyễn Bính đ-
ợc đa vào giảng dạy ở trờng phổ thông. Trong chơng trình đào tạo cử nhân Ngữ văn ở các
trờng đại học và cao đẳng, Nguyễn Bính luôn có vị trí một tác giả lớn. Tuy vậy, phơng diện
ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính nói chung, ngôn ngữ trong những bài thơ của Nguyễn Bính đợc


giảng dạy ở nhà trờng nói riêng cha đợc đề cập, phân tích. Đề tài luận văn Ngôn ngữ thơ
tình Nguyễn Bính chúng tôi lựa chọn và thực hiện với mong muốn tiếp cận mảng thơ tình
của Nguyễn Bính từ góc độ ngôn ngữ, qua đó góp phần nhỏ vào việc dạy học tác giả và
tác phẩm Nguyễn Bính trong nhà trờng hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề
Nhìn chung qua các thời kỳ khác nhau, thơ Nguyễn Bính có những thăng trầm, nh-
ng việc cảm thụ, đánh giá thơ Nguyễn Bính ít có những khác biệt hoặc những mâu
2
thuẫn gay gắt. Về căn bản, những nhận xét đánh giá của giới phê bình về Nguyễn Bính
khá thống nhất. Dù ở giai đoạn nào, Nguyễn Bính vẫn đợc xem là nhà thơ của Chân
quê, Hồn quê, Tình quê.
Trong thời gian dài, thơ Nguyễn Bính đã đợc nghiên cứu xem xét ở nhiều góc độ
từ nội dung đến nghệ thuật, từ t tởng đến phong cách, từ giọng điệu đến kết cấu. Cha có
một tác giả nào trực tiếp nghiên cứu ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính một cách tập trung có
hệ thống.
* Lịch sử nghiên cứu thơ tình Nguyễn Bính
Có thể thấy các nhận định đánh giá của các nhà nghiên cứu về ngôn ngữ thơ tình
Nguyễn Bính đều gặp nhau ở điểm: ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính vừa truyền thống vừa
hiện đại nhng nghiêng về truyền thống, gần gũi với ca dao hơn là sự cách tân, đây cũng là
chỗ đặc sắc hơn ngời của Nguyễn Bính
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích của đề tài
Qua khảo sát bộ phận thơ tình Nguyễn Bính từ góc độ ngôn ngữ, đề tài có mục
đích góp phần nhỏ vào quá trình nghiên cứu thơ Nguyễn Bính, một phong cách thơ có
sự nối kết hiệu quả giữa truyền thống và cách tân trong nền thơ Việt Nam giữa thế kỉ
XX.
3.2. Nhiệm vụ và đối tợng nghiên cứu
a. Nhiệm vụ
Luận văn đi vào giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Khảo sát và miêu tả về cấu trúc và âm điệu trong thơ tình Nguyễn Bính.

- Khảo sát và miêu tả các lớp từ và các biện pháp tu từ nổi bật trong thơ tình
Nguyễn Bính.
b. Đối tợng nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo sát 106 bài thơ tình (đợc sáng tác trớc cách mạng tháng
tám năm 1945) có trong tập thơ: Thơ tình Nguyễn Bính (Nxb Đồng Nai, 1996) và
Tuyển tập Nguyễn Bính (Nxb văn học, Hà Nội 1986).
4. Phơng pháp nghiên cứu
3
Trong khi thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng các phơng pháp nghiên cứu sau
đây:
- Phơng pháp thống kê - phân loại: Đợc dùng khi khảo sát nguồn t liệu theo từng
vấn đề cụ thể.
- Phơng pháp phân tích - tổng hợp: Nhằm làm sáng tỏ từng luận điểm, từ đó khái
quát thành các luận điểm cơ bản.
- Phơng pháp so sánh - đối chiếu: Đợc dùng khi so sánh đối chiếu với nhà thơ
cùng thời về sử dụng ngôn ngữ để làm rõ những đặc điểm riêng về phong cách ngôn
ngữ thơ tình Nguyễn Bính.
5. Cái mới của đề tài
Chúng tôi hy vọng đây là một trong những luận văn đầu tiên cố gắng đi vào tìm
hiểu ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính một cách toàn diện về phơng tiện nội dung và hình
thức góp phần vào việc giảng dạy thơ Nguyễn Bính trong nhà trờng một cách tốt hơn.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung của luận văn gồm ba chơng:
Chơng 1: Một số giới thuyết liên quan đến đề tài.
Chơng 2: Cấu trúc và âm điệu thơ tình Nguyễn Bính.
Chơng 3: Ngữ nghĩa ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính.
4
Chơng 1
Một số giới thUYếT liên quan đến đề tài
1.1. Thơ và ngôn ngữ thơ

1.1.1. Sự khác biệt giữa thơ và văn xuôi
Thơ và văn xuôi là hai kiểu tổ chức ngôn từ nghệ thuật mà sự khác nhau thuần
tuý bề ngoài trớc hết là ở cơ cấu nhịp điệu.
Trong khi văn xuôi thể hiện t tởng, tình cảm của tác giả bằng con đờng tái hiện
một cách khách quan các hiện tợng đời sống thì thơ lại phản ánh đời sống bằng cách
bộc lộ trực tiếp ý thức của con ngời, nghĩa là con ngời tự cảm thấy mình qua những ấn
tợng, ý nghĩa cảm xúc chủ quan của mình đối với thế giới và nhân sinh.
Tác phẩm văn xuôi thờng có cốt truyện và hành động. Gắn liền với cốt truyện là
một hệ thống nhân vật đợc khắc hoạ đầy đủ. Thơ thờng không có cốt truyện, mỗi bài
thơ thể hiện một tâm trạng nên dung lợng của nó thờng ngắn (vì một trạng thái tâm
trạng không thể kéo dài).
Trong thơ, cái tôi trữ tình giữ một vị trí đặc biệt quan trọng, thờng xuất hiện dới
dạng nhân vật trữ tình. Còn ở văn xuôi thì nguyên tắc phản ánh hiện thực trong tính
khách quan đã đặt trần thuật vào vị trí là nhân tố tổ chức ra thế giới nghệ thuật của tác
phẩm, nó đòi hỏi nhà văn phải sáng tạo ra hình tợng ngời trần thuật.
Thơ là tiếng nói bộc bạch làm việc trên trục dọc (trục lựa chọn, thay thế, tơng
đồng, quy chiếu, trục của các ẩn dụ) còn văn xuôi là tiếng nói đối thoại làm việc trên
trục ngang (trục kết hợp, trục tuyến tính).
Không gian trên trang giấy in thơ có nhiều khoảng trắng hơn trang in văn xuôi.
Trong văn xuôi, ngôn từ mang tính miêu tả (tạo hình), nó ít tập trung vào chính
nó, trong khi đó thơ thì không thể tách rời ngôn từ.
Có những hình thức trung gian giữa thơ và văn xuôi: thơ văn xuôi, văn xuôi nhịp
điệu. Đôi khi thơ và văn xuôi xuyên thấm lẫn nhau (ví dụ văn xuôi trữ tình) hoặc chứa
đựng trong nhau những mảng văn bản dị loại (tác phẩm thơ có những mảng văn xuôi
hoặc tác phẩm văn xuôi có những đoạn thơ xen kẽ của các nhân vật hoặc của tác giả).
1.1.2. Các đặc trng của ngôn ngữ thơ
Để thấy rõ đặc trng của ngôn ngữ thơ, chúng tôi phân biệt thơ với văn xuôi trên
ba cấp độ: ngữ âm, từ vững, ngữ pháp.
a. Về ngữ âm
5

Đặc điểm nổi bật về ngữ âm để phân biệt thơ với văn xuôi là đặc trng tính nhạc.
b. Về ngữ nghĩa
Ngữ nghĩa của ngôn ngữ thơ nhiều khi không dừng lại ở nghĩa đen, nghĩa biểu
vật mà từ nghĩa ban đầu đó còn có những ý nghĩa mới tinh tế hơn, đa dạng hơn, mới lạ
hơn. Đó là nghĩa bóng hay ý nghĩa biểu trng của ngôn ngữ thơ ca.
c. Về ngữ pháp
Cấu trúc câu trong ngôn ngữ thơ thờng không tuân theo quy tắc bắt buộc và chặt
chẽ nh câu trong văn xuôi và trong ngữ pháp thông dụng. Nhà thơ có thể sử dụng các
kiểu câu khác nhau nh câu đảo ngữ, câu vắt dòng, câu trùng điệp mà không làm ảnh h-
ởng đến việc tiếp nhận văn bản của ngời đọc. Ngợc lại những kết hợp tổ chức ngôn ngữ
bất quy tắc lại mở ra những giá trị mới, ý nghĩa mới cho ngôn ngữ thơ ca.
1.1.3. Các lớp từ giàu mầu sắc biểu cảm trong thơ ca Việt Nam
1.1.3.1. Lớp từ láy
Từ láy là những từ đợc cấu tạo bằng cách nhân đôi tiếng gốc theo những quy tắc
nhất định, sao cho giá trị giữa các tiếng trong từ vừa điệp vừa đối hài hoà với nhau về
âm và về nghĩa có giá trị tơng đơng hoá.
1.1.3.2. Lớp từ tình thái
Tình thái là những từ biểu thị sắc thái tình cảm, cảm xúc của ngời nói.
1.1.4. Các biện pháp tu từ thờng dùng trong thơ ca
1.1.4.1. ẩn dụ
ẩn dụ là phơng thức tu từ trên cơ sở đồng nhất hai hiện tợng tơng tự, thể hiện
cái này qua cái kia mà bản thân cái đợc nói tới thì giấu đi một cách kín đáo.
1.1.4.2. So sánh (tỉ dụ)
So sánh là phơng thức biểu đạt bằng ngôn từ một cách hình tợng dựa trên cơ sở
đối chiếu hai hiện tợng có dấu hiệu tơng đồng nhằm làm nổi bật đặc điểm thuộc tính
của hiện tợng này qua đặc điểm thuộc tính của hiện tợng kia.
1.1.4.3. Đối (đối ngẫu)
Đối là một phơng thức tổ chức lời văn bằng cách điệp ngữ pháp nhằm tạo ra hai
vế, mỗi vế là một câu tơng đối hoàn chỉnh đợc viết thành hai dòng cân xứng, sóng đôi
với nhau.

1.1.4.4. Điệp ngữ
6
Điệp ngữ là một hình thức tu từ có đặc điểm: một từ, cụm từ, câu hoặc đoạn
thơ văn đợc lặp lại với dụng ý nhấn mạnh hoặc gây ấn tợng cho ngời đọc, ngời
nghe.
1.2. Nguyễn Bính - cuộc đời và thơ
1.2.1. Cuộc đời và tác phẩm
Nguyễn Bính tên khai sinh là Nguyễn Trọng Bính. Nhà thơ sinh vào cuối xuân
đầu hạ năm Mậu Ngọ (1918) trong một gia đình nhà nho nghèo tại xóm Trạm, thôn
Thiện Vịnh, xã Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Thuở bé Nguyễn Bính không đợc đi học ở trờng mà mà chỉ học ở nhà với cha là
ông đồ Nguyễn Đạo Bình, sau đợc cậu ruột là ông Bùi Trình Khiêm nuôi dạy. Năm
1932 Nguyễn Bính rời quê ra Hà Nội và từ đây bắt đầu nổi tiếng trong sự nghiệp sáng
tác văn học. Ông đợc giải khuyến khích của tự lực văn đoàn với tập thơ Tâm hồn tôi
(1940). Năm 1943 Nguyễn Bính đợc giải nhất văn học Nam Xuyên ở Sài Gòn với
truyện thơ Cây đàn tỳ bà.
Năm 1947 Nguyễn Bính tham gia kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ. Nhà thơ
hăng hái tham gia mọi công tác và đợc giữ những trách nhiệm trọng yếu. Thời gian này
Nguyễn Bính sáng tác khá kịp thời và đều đặn, cổ động tinh thần yêu nớc quyết chiến
quyết thắng giết giặc lập công.
Tháng 11-1954 Nguyễn Bính tập kết ra Bắc, ông công tác ở hội nhà văn Việt
Nam. Năm 1956, ông làm chủ bút tuần báo Trăm hoa
Năm 1958 Nguyễn Bính về c trú tại Nam Định, ông công tác tại ty văn hoá thông
tin Nam Định.
Mùa thu năm 1965, ông theo cơ quan văn hoá Nam Định sơ tán vào huyện Lý
Nhân.
Nguyễn Bính mất đột ngột vào sáng 30 tết năm ất Tỵ (20-1-1966) lúc đến thăm
một ngời bạn ỏ xã Hoà Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Nam Định, khi ông cha kịp sang tuổi
49.
Trong hơn 30 năm sáng tác với nhiều thế loại khác nhau (Thơ, truyện thơ, kịch

thơ, kịch bản chèo, lý luận sáng tác). Hoạt động văn nghệ của ông phong phú đa dạng
song thành tựu xuất sắc nhất đợc độc giả a chuộng là thơ bởi thơ là mảng sáng tác kết tụ
7
tài năng và tâm huyết của cuộc đời ông. Riêng về thơ có thể nói rằng ông là cây bút
sung sức nhất của phong trào Thơ Mới. Chỉ trong một thời gian ngắn (1940-1945)
Nguyễn Bính đã cho ra đời những tập thơ có giá trị: Tâm hồn tôi (1940); Lỡ bớc sang
ngang (1940); Hơng cố nhân (1941); Một nghìn cửa sổ (1941); ngời con gái ở lầu hoa
(1942); Mời hai bến nớc (1942); Mây tần (1942); Bóng giai nhân (Kịch thơ - 1942);
Truyện tỳ bà (truyện thơ - 1944).
Sau cách mạng Nguyễn Bính lại cho ra mắt các tập thơ: Ông lão mài gơm
(1947); Đồng tháp mời (1955); Trả ta về (1955); Gửi ngời vợ miền Nam (1955); Trông
bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958); Tình nghĩa đôi ta (1960); Đêm sao
sáng (1962).
Với lối viết giầu chất trữ tình dân gian Nguyễn Bính đã tạo đợc một gơng mặt
riêng trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Năm 2000 Nguyễn Bính đã đợc truy tặng
giải thởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
1.2.2. Thơ tình trong thơ Nguyễn Bính
Trong phong trào Thơ Mới (1932 - 1945), Nguyễn Bính là nhà thơ tình có
phong cách riêng. Ông tự xem mình là Thi sĩ của thơng yêu. Đơng thời, d luận báo
chí nhận xét đọc Hơng cố nhân ta thấy thi sĩ Nguyễn Bính là ngời đa cảm, mảnh hồn
trong trẻo của tuổi thanh niên đã sớm theo luồng gió ái ân mà nên câu tuyệt diệu.
Con tằm đã luỵ ba sinh
Mà em đã luỵ của anh muôn đời.
(Chức nữ Ngu lang)
Trong thơ tình Nguyễn Bính có một tâm hồn luôn khao khát yêu đơng, nhớ
nhung, chia sẻ.
Cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Bính không bình yên ổn định mà luôn ở trạng
thái bất an. Và chính cái bất an ấy làm cho câu thơ sao xuyến không ngừng rất thích
hợp với tâm trạng ngời đang yêu.
Lạ quá ! làm sao tôi cứ buồn?

Làm sao tôi cứ khổ luôn luôn?
Làm sao tôi cứ tơng t mãi
Ngời đã cùng tôi phụ rất tròn?
(Vâng)
8
Thơ tình Nguyễn Bính là tiếng lòng buồn bã, lỡ làng của một trái tim đang thổn
thức yêu đơng và đến với ngời đọc nh một cô gái quê duyên dáng kín đáo.
Thơ tình Nguyễn Bính không đắm đuối ca ngợi tình yêu hởng lạc nh Vũ Hoàng
Chơng, Đinh Hùng. Nguyễn Bính có ý thức không để cho tình yêu làm tha hoá biến
chất, không để những ham muốn trong tình yêu lứa đôi cuốn con ngời vào vòng truỵ
lạc.
Tôi rờn rợn lắm giai nhân ạ
Đành phụ nhau thôi kẻo đến ngày
Thơ tình Nguyễn Bính luôn khao khát một mái ấm gia đình đơn sơ giản dị.
Nhà gianh thì sẵn đấy
Vợ xấu có làm sao
Quốc kêu ngoài bãi sậy
Hoa súng nở đầy ao
(Thanh đạm)
Nguyễn Bính luôn nghĩ tới mối tình thuỷ chung, đến những ngời con gái biết
chung tình với mối tình không dứt, với cuộc sống đoàn viên.
Nh truyện Tơng Nh và Trác Thị
Đa nhau về ở đất Lâm Cùng
Vờn xuân trắng xoá hoa cam rụng
Tôi với em Nhi kết vợ chồng
(Hoa với rợu)
Thơ tình Nguyễn Bính toát lên tình yêu thơng mãnh liệt Nguyễn Bính đã đi
sâu vào thế giới tâm tình của những mảnh đời ngang trái, dở dang, phân cách, bẽ
bàng. Với ngòi bút của thi nhân, Nguyễn Bính tả chân thực đợc nỗi u buồn, trầm
lặng, giải toả đợc những tiếng kêu bi thơng của những tâm hồn mộc mạc. Chính

điều đó đã làm cho hồn thơ Nguyễn Bính đi vào tâm hồn ngời đọc một cách nhẹ
nhàng.
9
Chơng 2
Cấu trúc và âm điệu thơ tình nguyễn bính
Hình thức nghệ thuật trong tác phẩm văn học bao gồm các phơng tiện biểu hiện
nghệ thuật kết hợp hài hoà với hình tợng nghệ thuật nhằm hớng đến phạm trù thẩm mỹ
của tác phẩm, đồng thời nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của nhà văn.
Là một nhà Thơ Mới, Nguyễn Bính vừa kế thừa nhiều hình thức của thơ ca dân
tộc nhng lại là một nhà cách tân, sáng tạo trên cấu trúc và mô hình truyền thống có sẵn.
Đi vào tìm hiểu cấu trúc và âm điệu trong thơ tình Nguyễn Bính cũng chính là tìm hiểu
những cách tân về hình thức nghệ thuật trong thơ tình Nguyễn Bính.
2.1. Các thể thơ tiêu biểu trong thơ tình Nguyễn Bính
2.1.1. Kết quả thống kê phân loại về thể thơ
Bảng 1: Phân loại các thể thơ trong thơ tình Nguyễn Bính
Thể thơ Số lợng (bài) Tỉ lệ (%)
Thơ lục bát 50 47,16
Thơ bảy chữ 48 45,28
Thơ năm chữ 5 4,71
Thơ đờng luật 3 2,83
Tổng 106/106

Qua khảo sát 106 bài thơ tình của Nguyễn Bính trớc cách mạng, một điều chúng
tôi dễ nhận thấy là thơ ông không có sự xuất hiện thơ tự do, thơ văn xuôi nh các nhà
Thơ Mới khác. Nhà thơ sử dụng chủ yếu và tiêu biểu nhất vẫn là thể thơ lục bát với số l-
ợng nhiều nhất 50 bài (47,16%), tiếp đến là thể thơ 7 chữ 48 bài (45,28%). Ngoài ra để
góp phần làm tăng sự phong phú cho thể loại thơ tình, Nguyễn Bính còn sáng tác một
số bài thơ 5 chữ và thơ Đờng luật trong đó thơ Đờng luật chiếm số lợng ít nhất 3 bài
(2,83%) trong tổng số 106 bài thơ tình Nguyễn Bính
2.1.1.1. Thể thơ lục bát

Thơ tình lục bát của Nguyễn Bính là những bài thơ tình hoàn chỉnh, mỗi bài là
một câu chuyện về một cuộc đời, một thân phận, có cảnh ngộ và tâm trạng riêng nh
10

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×