Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
CHẤT LƯỢNG GIẤC NGỦ Ở NGƯỜI TĂNG HUYẾT ÁP
Trần Kim Trang*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Ngoài việc ngủ ít, giấc ngủ thiếu chất lượng cũng ảnh hưởng đến bệnh lý tăng huyết áp và
ngược lại.
Mục tiêu: Khảo sát chất lượng giấc ngủ ở người tăng huyết áp nước ta.
Phương pháp: Thiết kế cắt ngang mô tả có phân tích trên 211 bệnh nhân tăng huyết áp(BN THA) từ tháng
3‐12/2012. Chất lượng giấc ngủ(CLGN) đánh giá theo thang Pittsburg PSQI.
Kết quả: Tỉ lệ BN THA có giấc ngủ tốt và kém khác biệt không ý nghĩa thống kê.Cũng không khác biệt
CLGN theo tuổi, giới, dạng lao động, chỉ số khối cơ thể, mức THA, bệnh mạn tính kèm theo, ngoại trừ thoái hoá
khớp.
Kết luận: Vẫn cần giảm hơn nữa người THA có giấc ngủ kém bằng cách nâng cao hơn nữa nhận thức của
người bệnh về liên quan giữa THA và CLGN.
Từ khóa: chất lượng giấc ngủ, tăng huyết áp.
ABSTRACT
SLEEP QUALITY IN HYPERTENSIVES
Tran Kim Trang * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 150 ‐ 154
Background: Not only sleep duration but also sleep quality affects high blood pressure and vice versa.
Objective: To aim at sleep quality among Vietnamese hypertensive individuals.
Method: Cross‐sectional observational study was carried out during Mars‐ December 2012 to investigate
211 patients with hypertension by using Pittsburg sleep quality index PSQI.
Results: The incidence of hypertensive patients with and without good sleep is statistically similar. No
difference in sleep quality with age, gender, labor, BMI, hypertensive grade and co‐chronic disease except
arthritis.
Conclusion: It’s necessary to minimize bad sleep hypertensive by advanced perceiving about high blood
pressure and sleep quality interaction.
Keywords: sleep quality, hypertension.
ĐẶT VẤN ĐỀ:
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Bên cạnh thời gian ngủ ngắn, chất lượng
giấc ngủ(CLGN) kém cũng ảnh hưởng xấu đến
tăng huyết áp. Điều này đã được nhiều nghiên
cứu ở nước ngoài công bố nhưng chưa được các
bệnh nhân tăng huyết áp và các bác sĩ điều trị ở
nước ta quan tâm, như đã từng quan tâm đến
con số huyết áp hoặc tác dụng phụ của thuốc
trong quá trình điều trị.
Khảo sát tình trạng chất lượng giấc ngủ ở
người tăng huyết áp.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Tiền cứu, cắt ngang mô tả có phân tích.
Nơi thực hiện
Phòng khám tim mạch BV ĐHYDTPHCM.
*Bộ môn Nội, ĐH Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: PGS.TS.BS Trần Kim Trang ĐT: 0989694263 Email:
150
Chuyên Đề Nội Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Thời gian nghiên cứu: tháng 3‐ 12/2012.
Nghiên cứu Y học
Biến nhị giá có / không.
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân đang điều trị THA, > 18 tuổi.
Cỡ mẫu
N= Z21‐ α/2 P(1‐P)/d2. Trong đó:
Nα : xác suất sai lầm loại 1, chọn α = 0,05 thì Z21‐
α/2 = Z0,975: trị số từ phân phối chuẩn = 1,96.
P= trị số mong muốn từ tỉ lệ = 0,5(Theo Alebiosu
OC(1): 42,4% người tăng HA có CLGN kém).
d : sai số cho phép(độ chính xác mong muốn của
ước lượng)= 0,05.
N : cỡ mẫu tối thiểu cần điều tra để ước lượng tỉ
lệ người tăng HA có CLGN kém =196.
Phương pháp chọn mẫu
Liên tiếp.
Bệnh mạn đang điều trị
Đái tháo đường, viêm khớp, ung thư, bệnh
phổi tắc nghẽn mạn, hen phế quản, trầm cảm,
suy tim, bệnh mạch vành(thiếu máu/ nhồi máu
cơ tim, CABG, cơn đau thắt ngực), viêm dạ dày,
rối lọan lipid máu, bệnh van tim(van 2 lá/ động
mạch chủ), bệnh mạch não(nhồi máu não, suy
tuần hòan não, TIA cơn thóang thiếu máu não),
suy tĩnh mạch chân.
Chất lượng giấc ngủ
Theo thang Pittsburg, ≥ 5 là kém, < 5 là tốt.
Phương pháp phân tích số liệu
Nhập liệu bằng chương trình Epi data
version 3.1.
Xử lý số liệu bằng chương trình SPSS.
Tiêu chuẩn lọai trừ
BN không khả năng giao tiếp chính
xác(người Hoa, Campuchia, giảm thính lực,
bệnh tâm thần.)
Dùng thống kê mô tả và thống kê phân tích.
Khác biệt có ý nghĩa thống kê với p< 0,05.
Phân tích đơn biến:
Phương pháp thu thập số liệu
Trình bày
Theo bảng thu thập số liệu. Bảng phỏng vấn
do người thực hiện nghiên cứu đọc hỏi cho bệnh
nhân trả lời.
Kiểm định
Liệt kê và định nghĩa biến số
Biến định tính
Tỉ lệ %
Biến định lượng
Trung bình +/- độ
lệch chuẩn
Chi bình phương T – test, ANOVA test
hay Fisher test
Phân tích đa biến
Lượng giá đồng thời mối liên quan giữa chất
lượng giấc ngủ với các yếu tố qua mô hình hồi
quy đa biến Poisson.
Tuổi
Biến định tính 4 giá trị 18‐ 44, 45‐59, 60‐ 75, ≥
76 tuổi.
KẾT QUẢ
Giới
Biến nhị giá nam & nữ.
Bảng 1: Vài đặc điểm chung của mẫu nghiên
cứu qua khảo sát 211 bệnh nhân THA
Huyết áp
Bình thường do điều trị hoặc còn cao với 2
mức độ theo JNC VII.
Tuổi
CSKCT
PSQI
Thấp nhất
21
14,8
0
Cao nhất
88
37
17
Trung bình
58,5 ± 12,1
24 ± 3,4
24 ± 3,4
Điều trị tăng huyết áp đều đặn
Bảng 2: Tình trạng giấc ngủ theo các yếu tố khảo sát ở BN THA
Biến số
Nhóm tuổi: 18-44
45-59
60- 75
≥ 76
Tim Mạch
Chung N(%) Ngủ tốt N(% Ngủ kém N(%
theo nhóm) theo nhóm)
25(11,8)
8(32)
17(68)
95(45)
43(45,3)
52(54,7)
65(30,8)
32(49,2)
33(50,8)
26(12,3)
17(65,4)
9(34,6)
Pearson chi2
P = 0,1
151
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Biến số
Giới:
Nam
Nữ
Lao động:
Chân tay
Trí thức
Hưu
Chỉ số khối cơ thể BMI:
Gầy(<18.5)
Trung bình(18.5 – 22.9)
Thừa cân(23 – 24.9)
Béo phì(> 25)
Mức độ tăng HA
Bình thường do điều trị
I
II
Bệnh mạn tính kèm theo
ĐTĐ
Hen PQ
Suy tim
Bệnh khớp(thoái khớp)
Bệnh van tim(hẹp/hở 2 lá/chủ/ ĐMC)
Mạch vành(TMCT,NMCT, stent)
(Bệnh mạch não(RLTHN, nhồi máu não, TIA)
Rối lọan lipid máu(RLLH)
(Suy tĩnh mạch) STM chân
Viêm dạ dày(DD, VTQTN)
Bệnh / Suy thận mạn
Chất lượng giấc ngủ
Chung N(%) Ngủ tốt N(% Ngủ kém N(%
theo nhóm) theo nhóm)
Pearson chi2
P = 0,2*
81(38,4)
130(81,6)
34(42)
66(50,8)
47(58)
64(49.2)
124(58,8)
20(9,5)
67(31,8)
54(25,6)
10(4,7)
36(17,1)
70(33,2)
10(4,7)
31(14,7)
12(5,7)
66(31,3)
50(23,7)
83(39,3)
6(2,8)
36(17,1)
19(9)
39(18,5)
6(2,8)
30(14,2)
31(14,7)
44(20,9)
160(75,8)
47(22,3)
4(1,9)
74(35,1)
24(11,4)
2(0,9)
86(40,8)
23(10,9)
2(0,9)
14(6,6)
2(0,9)
1(0,5)
22(10,4)
22(10,4)
71(33,6)
29(13,7)
32(15,2)
32(15,2)
23(10,9)
8(3,8)
211(100)
9(4,3)
0
1(0,5)
16(7,6)
13(6,2)
38(18)
18(8,5)
14(6,6)
12(5,7)
15(7,1)
4(1,9)
100(47,4)
5(2,4)
2(0,9)
0
6(2,8)
9(4,3)
33(15,6)
11(5,2)
18(8,5)
20(9,5)
8(3,8)
4(1,9)
111(52,6)
P = 0,4
P = 0,3
P = 0,8
So người không bệnh
P= 0,2*
P= 0,5*
P= 0,5*
P= 0,01*
P= 0,3*
P= 0,2*
P= 0,1*
P= 0,7*
P= 0,25*
P= 0,08*
P= 1*
P=0,45
* Hiệu chỉnh Fisherʹs Exact Test 2 đuôi
Khác biệt CLGN có ý nghĩa thống kê chỉ ở BN THA có bệnh thoái hoá khớp kèm theo.
BÀN LUẬN
Tỉ lệ người THA có CLGN kém
Thang chất lượng giấc ngủ Pittsburgh
(PSQI)
Khảo sát của tác giả Lê Việt Thắng (7) trên
200 bệnh nhân suy thận mạn tính lọc máu chu
kỳ, đến 95,5 % bệnh nhân có chất lượng giấc ngủ
kém (PSQI ≥ 5), nhóm bệnh nhân có chỉ số PSQI
trung bình là 10,83 ± 3,38 tăng có ý nghĩa thống
kê so với nhóm chứng 0,73 ± 0,59, (p<0,001). Đặc
biệt là số bệnh nhân tăng huyết áp chiếm 85,5%.
Nhóm bệnh nhân tăng huyết áp có chỉ số PSQI
cao có ý nghĩa hơn nhóm bệnh nhân không tăng
huyết áp.
Là bộ 18 câu hỏi, là một công cụ để đánh giá
quá trình ngủ, sự đình trệ về đêm, giấc ngủ tiềm
tàng, chất lượng giấc ngủ, rối loạn khả năng làm
việc ban ngày, việc sử dụng thuốc và hiệu quả
làm việc trong vòng 1 tháng qua.
Tổng điểm PSQI ≥ 5 có độ nhạy và độ
chuyên theo thứ tự là 89.6 và 86.5 để chẩn đoán
người có chất lượng giấc ngủ (CLGN) kém
(PSQI ≥5) và tốt (PSQI <5).
PSQI đã được sử dụng trong nhiều nghiên
cứu, trong đó có các nghiên cứu đánh giá CLGN
ở người tăng huyết áp (THA).
152
Tác giả
N
Alebiosu (2009)(1)
132
BN có PSQI > 5 PSQI trung
(giấc ngủ kém)
bình
56 (42,4%)
3,10 ± 0,83
Công bố của A. Fiorentini(4) từ đánh giá 250
người bình cân, tăng HA chiếm 87,1% ở người
Chuyên Đề Nội Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
giấc ngủ kém so với 35,1% ở người ngủ ngon.
Như vậy, khác các tác giả trên với nhận định
là BN THA thường có CLGN kém, khảo sát của
chúng tôi mang lại tín hiệu đáng mừng khi các
BN THA với CLGN tốt và kém có tỉ lệ không
khác nhau (52,6% ngủ kém, p = 0,45). Có thể qua
các phương tiện truyền thông, người bệnh đã
nhận thức được sự nguy hiểm của THA cũng
như tác động của giấc ngủ lên THA nên”quẳng
gánh lo đi mà vui sống”, bớt lo nghĩ hơn, hoặc
tích cực dựa vào các biện pháp hổ trợ giấc ngủ
để ngủ tốt hơn.
Theo cảnh báo của bác sĩ Balu Gadhe, một
chuyên gia nội khoa ở CareMore Medical Group
tại Cerritos, Calif: cuộc sống hiện tại của chúng
ta có nhiều tác nhân gây stress, cơ thể phản ứng
lại bằng cách giải phóng những chất, những
hormone… khiến các cơ quan hoạt động khó
khăn hơn. Nếu không có giấc ngủ tốt, các cơ
quan không được nghĩ ngơi và cuối cùng sẽ rối
loạn chức năng. Đã có nhiều đúc kết cho thấy
ngủ dưới 7 giờ/đêm gắn liền với THA ở cả 2
giới(6). Nhưng quan trọng là không chỉ ngủ đủ,
còn cần ngủ ngon.
Như một nghiên cứu trên 103 người với hội
chứng ngưng thở khi ngủ, ông Sasaki(8) phát
hiện có 54 người tăng HA buổi sáng (38 người
tăng HA cả sáng và đêm, 16 người chỉ tăng HA
buổi sáng), những người này có CLGN kém và
xuất độ giấc ngủ sóng chậm thấp hơn hẳn so với
nhóm chứng không bị tăng HA. Từ đó ông nhận
định CLGN kém có vai trò quan trọng trong
bệnh sinh của tăng HA buổi sáng.
Còn đúc kết của Bansil(2) dựa trên khảo sát
10.308 người ở Mỹ từ năm 2005 – 2008: có liên
quan giữa vấn đề giấc ngủ và tăng HA, huyết áp
giảm trung bình 10 mmHg khi vào giấc ngủ sâu
giai đoạn 3. Người ngủ ngon nhất với giấc ngủ
sâu < 2 giờ/ đêm nhưng rất quan trọng để duy
trì huyết áp vừa phải khi thức dậy.
Tương tự, tác giả Fung(5) qua theo dõi 784
người ≥ 65 tuổi với lúc khởi đầu nghiên cứu
chưa bị tăng HA, trung bình 3,4 năm sau đó
đánh giá lại có 243 người tăng HA, khoảng 30%,
Tim Mạch
Nghiên cứu Y học
đã xác định giấc ngủ sóng chậm giai đoạn 3
ngắn đi có liên quan nghịch với tăng HA.
Yếu tố liên quan CLGN kém
Chúng ta biết ngủ kém tác động đến cơ chế
điều chỉnh hormone thèm ăn: tăng ghrelin (thúc
đẩy đói) và giảm leptin (báo cho não biết đã no),
kết quả sẽ ăn nhiều và béo phì. (6)‐ một yếu tố
nguy cơ của THA. Các BN của chúng tôi lại
không có sự khác biệt CLGN theo chỉ số khối cơ
thể, có thể do tình trạng béo phì còn có sự tham
gia của nhiều yếu tố khác nữa.
Nghiên cứu của Bruno(2) trên 234 bệnh nhân
từ một đơn vị điều trị tăng huyết áp ngoại trú
của đại học Pisa (Ý) nhận thấy chất lượng giấc
ngủ kém có tần suất cao ở bệnh nhân tăng huyết
áp kháng trị, 46% ở nữ và 30% ở nam, tăng gấp
đôi nguy cơ tăng HA kháng trị. Qua phân tích
hồi quy đa biến (gồm tuổi, giới, mập phì, đái
tháo đường, các biến cố tim mạch trước đây,
thời gian ngủ, việc sử dụng các thuốc ngủ), chất
lượng giấc ngủ kém có tương quan độc lập với
tăng huyết áp kháng trị (OR = 2,2). Bên cạnh đó,
15% bệnh nhân tăng HA kháng trị có CLGN tệ
hơn các BN không bị tăng HA kháng trị (5,8 so
với 4,1; P=0,03). Theo ông, không thể loại trừ
việc một bệnh lý mạn tính, như tăng huyết áp
kháng trị, đã tác động như một tác nhân gây
stress mạn và phá vỡ giấc ngủ.
Phiên báo cáo khoa học về tăng huyết áp của
AHA năm 2012 cũng đề cập đến việc CLGN
kém làm khả năng tăng HA kháng trị tăng 2 lần.
Khảo sát của chúng tôi lại không có khác biệt
giữa CLGN với mức HA bình thường (160
người), tăng độ I(47 người) – II(4 người); Điều
này mang 2 ý nghĩa: không khác biệt CLGN do
không có BN nào THA kháng trị, mặt khác, các
BN THA độ II(cả 4 người này đều đang được
điều trị) sẽ có nguy cơ cao bị TH kháng trị.
Tác giả Alebiosu(1) khảo sát 132 bệnh nhân
tăng huyết áp ở cận nông thôn Nigeria đã kết
luận không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê
giữa CLGN với tuổi tác (P = 0,653), giới tính (P =
0.710), chỉ số khối cơ thể (P = 0,253), huyết áp
tâm thu (P = 0,145), và huyết áp tâm trương (P =
153
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
0,827). Kết quả đánh giá của chúng tôi cũng
tương tự. Người cao tuổi thường than phiền rối
loạn giấc ngủ, nhưng có thể là do ngủ ít đi
nhưng giấc ngủ sâu vẫn đảm bảo nên kết quả là
không liên quan giữa CLGN và tuổi tác. Chúng
ta biết một tỉ lệ cao hội chứng ngưng thở khi ngủ
ở người thừa cân, béo phì và liên quan đến
THA. Khảo sát của chúng tôi không thấy khác
biệt CLGN theo chỉ số khối cơ thể nhưng lại
chưa xét đến tình trạng ngưng thở khi ngủ.
Chỉ 47/ 127 (37%) BN đang dùng ức chế bêta
có CLGN kém, cho thấy dù thuốc ức chế bêta
được biết là có thể gây ác mộng‐ một thành tố
đánh giá CLGN – nhưng xuất độ ít, mức độ
không đáng kể nên không ảnh hưởng đáng kể
đến tỉ lệ BN CLGN kém.
Duy nhất một tình trạng qua thống kê cho thấy
có liên quan đến CLGN kém ở người THA là
thoái hoá khớp. Điều này được giải thích một
phần do đau khớp.
kém làm nặng hơn tình trạng tăng HA. Giấc
ngủ, và chuyên biệt hơn, là chất lượng giấc
ngủ, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ
sức khoẻ tim mạch.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.
HẠN CHẾ
Là nghiên cứu cắt ngang nên chưa đánh
giá được sự thay đổi CLGN khi mức độ THA
được cải thiện qua điều trị. Mẫu khảo sát lại
không có BN THA kháng trị để đánh giá sự
tương tác với CLGN.
KẾT LUẬN
Với tỉ lệ như nhau giữa người THA có
CLGN kém và tốt, vẫn cần giảm hơn nữa tỉ lệ
người có CLGN kém, cần giúp cho mọi BN
THA ý thức được điều mà nhiều công bố nhìn
nhận: Tăng HA ảnh hưởng CLGN, giấc ngủ
7.
8.
Alebiosu OC, Ogunsemi OO, Familoni OB(2009). Quality of
sleep among hypertensive patients in a semi‐urban Nigerian
community: a prospective study. Postgrad Med.;121(1):166‐
72. doi: 10.3810/pgm.2009.01.1969.
Bansil P(2011). Associations between sleep disorders, sleep
duration, quality of sleep, and hypertension: results from the
National Health and Nutrition Examination Survey, 2005 to
2008. The Journal of Clinical Hypertension.13:739–743.
Bruno RM(2012). Poor Sleep Related to Resistant
Hypertension. Abstract #63. Presented at: the American Heart
Association’s High Blood Pressure Research 2012 Scientific
Sessions; Sept. 19‐22; Washington, D.C.
Fiorentini A(2007). Sleepʹs quality disorders in patients with
hypertension and type 2 diabetes mellitus. International
Journal of Cardiology, Volume 114, Issue 2, Pages E50‐E52.
Fung MM, Peters K, Redline S(2011). Decreased slow wave
sleep increases risk of developing hypertension in elderly
men.
Hypertension.;58(4):596‐603.
doi:
10.1161/HYPERTENSIONAHA.111.174409. Epub 2011 Aug
29.
Gottlieb DJ, Redline S, Nieto FJ, Baldwin CM(2006).
Association of usual sleep duration with hypertension: the
Sleep Heart Health Study. Sleep.;29(8):1009‐14.
Lê Việt Thắng (2012). Ảnh hưởng của tăng huyết áp lên tình
trạng rối loạn giấc ngủ bệnh nhân suy thận mạn tính lọc máu
chu kỳ. Tạp chí y học thực hành. 4/2012
Sasaki N, Ozono R, Yamauchi R(2013). The Relationship
between Morning Hypertension and Sleep Quality in
Patients with Obstructive Sleep Apnea Syndrome. Clin Exp
Hypertens.;35(4):250‐6. doi: 10.3109/10641963.2013.780069.
Epub 2013 Mar 26.
Ngày nhận bài báo:
01/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo:
30/11/2013
Ngày bài báo được đăng:
05/01/2014
154
Chuyên Đề Nội Khoa