Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT - SỰ THỐNG NHẤT GIỮA THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN BIỆN CHỨNG TRONG TRIẾT HỌC MÁC - Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.59 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1.

Mối quan hệ giữa thế gới quan duy vật và
phương pháp luận biện chứng trong lịch sử triết

1.1.
1.2.
2.

học trước Mác
Chủ nghĩa duy vật tách rời phép biện chứng
Phép biện chứng tách rời chủ nghĩa duy vật
Triết học Mác là sự thống nhất giữa thế giới

2.1.

quan duy vật và phương pháp luận biện chứng
Chủ nghĩa duy vật gắn với phép biện chứng trở

2.2.

thành chủ nghĩa duy vật biện chứng
Phép biện chứng gắn với chủ nghĩa duy vật trở

3.

thành phép biện chứng duy vật
Ý nghĩa đối với vấn đề bảo vệ, phát triển triết


học Mác – Lênin hiện nay

KẾT
LUẬN

MỞ ĐẦU
Triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX đã được thừa
nhận là một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học nhân loại. Cuộc cách mạng


đó đã đưa triết học nhân loại chuyển sang một thời kỳ mới về chất, từ thời kỳ
chủ yếu là “giải thích thế giới” sang thời kỳ không chỉ “giải thích thế giới”,
mà còn “cải tạo thế giới”.
Thực chất của cuộc cách mạng trong lịch sử triết học do C.Mác thực hiện
được biểu hiện ở nhiều nội dung như: sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử;
đưa triết học trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới; thiết lập mối liên
minh giữa triết học và các khoa học cụ thể… Trong đó, sự thống nhất giữa thế
giới quan duy vật và phương pháp biện chứng để tạo nên sự thống nhất hữu
cơ giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng là một trong những nội
dung quan trọng nhất của cuộc cách mạng.
Vì vậy, nghiên cứu, làm rõ vấn đề: “Sự thống nhất giữa thế giới quan
duy vật và phương pháp luận biện chứng trong triết học Mác. Ý nghĩa đối
với vấn đề bảo vệ, phát triển triết học Mác – Lênin hiện nay” có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc khẳng định bản chất khoa học, cách mạng, sức sống
trường tồn và sự cần thiết phải bảo vệ, phát triển triết học Mác-Lênin trong
thực tiễn lịch sử hiện nay.

NỘI DUNG
1. Mối quan hệ giữa thế gới quan duy vật và phương pháp luận biện
chứng trong lịch sử triết học trước Mác



1.1. Chủ nghĩa duy vật tách rời phép biện chứng
Chủ nghĩa duy vật cổ đại còn gọi là chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây
thơ, xuất hiện trong chế độ chiếm hữu nô lệ như ở Ấn Độ, Trung Hoa, Hy
Lạp. Về thế giới quan là duy vật có ý nghĩa chống lại những tư tưởng sai lầm
của triết học duy tâm và tôn giáo; nhưng về mặt phương pháp luận thì chưa có
cơ sở khoa học, bởi nó mang tính trực quan, cảm tính chủ yếu dựa vào tri thức
kinh nghiệm của chính bản thân các nhà triết học hơn là những khái quát khoa
học của bản thân tri thức triết học. Vì, quan niệm về thế giới là vũ trụ, là vạn
vật, vật chất là vật thể cụ thể hoặc thuộc tính của vật thể cụ thể, v.v… còn ý
thức là linh hồn, là cảm giác nhưng nó phụ thuộc vào vật chất.
Ăngghen viết: “Quan niệm về thế giới một cách nguyên thủy, ngây thơ,
nhưng căn bản là đúng ấy, là quan niệm của các nhà triết học Hy Lạp thời cổ,
và nguời đầu tiên diễn đạt được rõ ràng quan niệm ấy là Hêraclít: mọi vật đều
tồn tại nhưng đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đều trôi đi, mọi vật đều
không ngừng thay đổi, mọi vật đều luôn ở trong quá trình xuất hiện và biến
đi”.1
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật thời kỳ này nói chung là đúng đắn
nhưng mang tính ngây thơ chất phác vì chủ yếu dựa vào quan sát trực tiếp,
chưa dựa vào các thành tựu của các bộ môn khoa học chuyên ngành vì lúc đó
chưa phát triển. Chủ nghĩa duy vật chất phác cổ đại về cơ bản là đúng vì nó đã
lấy giới tự nhiên để giải thích về giới tự nhiên, không viện đến thần linh hay
Thượng đế. Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà
triết học duy vật cổ đại. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này thừa nhận tính thứ
nhất của vật chất và đã đồng nhất vật chất với một số dạng vật chất cụ thể
hoặc thuộc tính của nó. Chủ nghĩa duy vật cổ đại còn được gọi là triết học tự
nhiên. Nó khái quát những tư tưởng của khoa học cụ thể và cùng khoa học cụ
thể giải quyết những vấn đề của khoa học lý thuyết.
1


Ph.Ăngghen, Chống Đuyrinh, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1984, tr32


Tuy nhiên, do hạn chế trong sự phát triển khoa học, đồng thời sự tác
động trong hệ tư tưởng của triết học mà những kết luận của chủ nghĩa duy vật
cổ đại còn mang nặng tính trực quan, ngây thơ, chất phác, cảm tính, dự báo,
định hướng chứ không có cơ sở khoa học khi giải thích về nguồn gốc hoặc
bản chất của thế giới vật chất và vai trò của con người. Chủ nghĩa duy vật cổ
đại thể hiện đồng nhất vật chất vào thực thể được coi là bản nguyên của thế
giới vật chất. Vì thế, chủ nghĩa duy vật chưa gắn chặt với phép biện chứng.
Chủ nghĩa duy vật phục hưng và cận đại (duy vật siêu hình)
Siêu hình là thuật ngữ triết học phản ánh khuynh hướng phát triển của
triết học duy vật từ thời kỳ phục hưng đến thời cận đại, còn được gọi là triết
học tự nhiên. Xét về mặt thế giới quan là duy vật, nhưng về phương pháp luận
lại ảnh hưởng bởi phương pháp nghiên cứu của khoa học tự nhiên (phương
pháp thực nghiệm) của thời kỳ này, nhất là khoa học vật lý.
Thế giới quan triết học đối lập với chủ nghĩa duy vật biện chứng, phát
triển mạnh ở Châu Âu vào các thế kỉ XVI - XVIII. Thời kỳ này, triết học gắn
liền với khoa học tự nhiên, các nhà triết học đồng thời là những nhà khoa học
tự nhiên. Họ đã chủ trương giải thích tự nhiên từ bản thân nó. Nhờ các
phương pháp phân tích, mổ xẻ giới tự nhiên thành những bộ phận tách biệt
nhau mà khoa học tự nhiên đã đạt được những bước tiến khổng lồ. Chính
cách xem xét đó đã được Bêcơn và Lôckơ áp dụng vào triết học, đem lại cho
triết học một hình thức mới – chủ nghĩa duy vật siêu hình. Đặc trưng cơ bản
của chủ nghĩa duy vật siêu hình: Xem xét sự vật một cách hoàn toàn cô lập,
tách rời với các sự vật khác; Xem xét sự vật trong trạng thái tĩnh tại không
vận động, không biến đổi, vĩnh viễn cố định; Quá trình phát triển được xem
như là sự tăng trưởng đơn thuần về mặt số lượng chứ không có sự thay đổi về
chất lượng; Tìm nguồn gốc của sự vận động và phát triển ở bên ngoài sự vật

(ở Thượng đế, ở cái hích đầu tiên, vv.), chứ không tìm trong sự đấu tranh giữa
các mặt đối lập ở ngay trong lòng sự vật; Có quan điểm cứng nhắc chỉ dựa


trên những phản đề tuyệt đối không thể dung hợp được; nói có là có, không là
không, cái gì vượt ra ngoài phạm vi đó chẳng có giá trị gì hết.
Đối với những người theo chủ nghĩa duy vật siêu hình thì một sự vật
hoặc tồn tại, hoặc không tồn tại; một sự vật không thể vừa là chính nó, lại vừa
là cái khác, cái khẳng định và cái phủ định tuyệt đối bài trừ lẫn nhau, nguyên
nhân và kết quả cũng đối lập nhau một cách cứng nhắc như vậy. Chủ nghĩa
duy vật biện chứng khẳng định chủ nghĩa duy vật siêu hình là một giai đoạn
tất yếu trong sự phát triển của triết học. Nó có vai trò nhất định trong việc bảo
vệ và phát triển quan điểm duy vật, nhưng tất yếu bị thay thế bằng chủ nghĩa
duy vật biện chứng.
Triết học duy vật thời kỳ này đại diện cho những tư tưởng của giai cấp tư
sản tiến bộ, họ đã tiến hành đấu tranh chống chủ nghĩa kinh viện, nhà thờ
trung cổ. Trong số các đại biểu cơ bản của triết học duy vật thời kỳ này là triết
học duy vật Pháp với những quan điểm của Metri, Điđơrô, Hônbách, chiếm
một vị trí đặc biệt quan trọng. Chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII-XVIII
khẳng định vai trò của vật lý học cổ điển trong lịch sử phát triển của khoa
học, vì vậy phương pháp của khoa học, vật lý học cổ điển không chỉ ảnh
hưởng đối với các khoa học khác mà còn ảnh hưởng đối với triết học, đó là
ảnh hưởng của chủ nghĩa duy vật trong thời kì này tạo ra phương pháp tư duy
siêu hình ở trong triết học nên nó được xem là triết học tự nhiên.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII - XVIII do ảnh hưởng của cơ
học cổ điển nên chủ nghĩa duy vật thời kỳ này chịu sự tác động mạnh mẽ của
phương pháp tư duy siêu hình, máy móc phương pháp nhìn nhận thế giới
trong trạng thái biệt lập, tĩnh tại. Vì vậy, triết học thời kỳ này chủ nghĩa duy
vật tách rời phép biện chứng.
Chủ nghĩa duy vật của Lút Vích Phoiơbắc (1807 - 1872): Phoiơbắc là

một nhà nhân vật kiệt suất trước Mác, là nhà tư tưởng của giai cấp tư sản dân
chủ. Có công lớn trong phê phán chủ nghĩa duy tâm công Hêghen nói riêng và


chủ nghĩa duy tâm nói chung phê phán tôn giáo, khôi phục chủ nghĩa duy vật
cổ đại.
Phoiơbắc cho rằng thế giới vật chất không do ai sáng tạo ra, tồn tại khách
quan không phụ thuộc vào ý thức của con người. Giới tự nhiên vận động biến
đổi do những nguyên nhân bên trong của nó. Ông cho rằng ý thức là sản
phẩm của con người. Nếu vật chất chưa tiến hoá đến con người thì chưa có ý
thức. Phoiơbắc giải quyết vấn đề nhận thức trên quan điểm duy vật và không
có gì con người không nhận thức được, chỉ có cái chưa nhận thức được mà
thôi.
Tuy nhiên, khi khẳng định nhận thức của con người, Phoiơbắc nhấn
mạnh mặt quan sát chứ không quan tâm đến mặt quan trọng tạo nên nhận thức
là hoạt động thực tiễn. Ông coi thường thực tiễn, hạ thấp vai trò thực tiễn.
Đồng thời con người mà Phoiơbắc nghiên cứu là con người thuần tuý động
vật. Tức ông chỉ quan tâm đến mặt sinh học mà không quan tâm đến mặt xã
hội. Vì vậy, con người của Phoiơbắc là con người trừu tượng, chủ nghĩa duy
vật của Phoiơbắc là chủ nghĩa duy vật nhưng không gắn với phương pháp
biện chứng mà gắn với phương pháp siêu hình.
1.2. Phép biện chứng tách rời chủ nghĩa duy vật
Trong lịch sử triết học, phép biện chứng phát triển qua ba hình thức cơ
bản: phép biện chứng chất phác thời cổ đại, phép biện chứng duy tâm cổ điển
Đức và phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Phép biện chứng chất phác thời cổ đại: Phép biện chứng chất phác thời
cổ đại là hình thức đầu tiên của phép biện chứng trong lịch sử triết học, là nội
dung cơ bản trong nhiều hệ thống triết học của Trung Quốc, Ấn Độ và Hy
Lạp cổ đại. Tiêu biểu như: Tư tưởng biện chứng của triết học Trung Quốc là
“biến dịch luận” (học thuyết về những nguyên lý, quy luật biến đổi phổ biến

trong vũ trụ); “ngũ hành luận” (học thuyết về những nguyên tắc tương tác,
biến đổi của các tố chất bản thể trong vũ trụ) của Âm dương gia.


Trong triết học Ấn Độ biểu hiện rõ nét nhất của tư tưởng biện chứng là
triết học Phật giáo với các phạm trù như: “vô ngã”, “vô thường”, “nhân
duyên”.
Thời cổ đại Hy Lạp, một số nhà triết học duy tâm (Platon) coi phép biện
chứng là nghệ thuật tranh luận để tìm ra chân lý. Arixtôt đồng nhất phép biện
chứng với lôgíc học. Một số nhà triết học duy vật có tư tưởng biện chứng về
sự vật (biện chứng khách quan). Hêraclit coi sự biến đổi của thế giới như một
dòng chảy. Ông nói: “Mọi vật đều trôi đi, mọi vật đều biến đổi”. “Người ta
không thể tắm được hai lần trong cùng một dòng sông”.
Phép biện chứng chất phác thời cổ đại có đặc điểm là: Nhận thức đúng
về tính biện chứng của thế giới nhưng không phải dựa trên thành tựu của khoa
học mà bằng trực kiến thiên tài, bằng trực quan chất phác, là kết quả của sự
quan sát trực tiếp. Do đó, chưa đạt tới trình độ phân tích giới tự nhiên, chưa
chứng minh được mối liên hệ phổ biến nội tại của giới tự nhiên. Vì vậy, phép
biện chứng trong triết học thời kỳ này chưa gắn với chủ nghĩa duy vật.
Từ nửa cuối thế kỷ XV, khoa học tự nhiên bắt đầu phát triển mạnh, đi
vào nghiên cứu từng yếu tố riêng biệt của giới tự nhiên dẫn đến sự ra đời của
phương pháp siêu hình và phương pháp này trở thành thống trị trong tư duy
triết học và nghiên cứu khoa học vào thế kỷ XVIII.
Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức được khởi đầu từ Cantơ và hoàn
thiện ở hệ tthống triết học của G.Hêghen.
Phép biện chứng duy tâm xuất hiện trong triết học cổ điển Đức cuối thế
kỉ XVIII, nửa đầu thế kỉ XIX. Thời kì này, khoa học đã đạt được những thành
tựu xuất sắc trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Những thành tựu khoa học đó là
cơ sở để đi tới những khái quát mới về nội dung phép biện chứng.
Đại diện tiêu biểu cho phép biện chứng duy tâm là Hêghen. Ông là người

đầu tiên xây dựng hoàn chỉnh phép biện chứng duy tâm với một hệ thống khái
niệm, phạm trù và quy luật cơ bản. Tính chất duy tâm trong phép biện chứng


của Hêghen thể hiện ở chỗ : Ông coi “ý niệm tuyệt đối” là cái có trước, và
trong quá trình vận động phát triển, “ý niệm tuyệt đối” tha hóa thành giới tự
nhiên và xã hội; cuối cùng lại trở về với chính mình trong tinh thần tuyệt đối.
Sai lầm của phép biện chứng duy tâm khách quan của Hêghen là ở chỗ ông
cho rằng biện chứng của ý niệm sản sinh ra biện chứng của sự vật. Đó là phép
biện chứng duy tâm khách quan, thiếu triệt để, thiếu khoa học.
Như vậy, Hêghen là người xây dựng phép biện chứng tương đối hoàn
chỉnh với một hệ thống khái niệm, phạm trù, quy luật. Tuy nhiên, phép biện
chứng Hêghen là phép biện chứng duy tâm, là phép biện chứng ngược đầu;
ông coi biện chứng của ý niệm sinh ra biện chứng của sự vật, chứ không phải
ngược lại. Ph.Ăngghen nhận xét rằng: “Tính chất thần bí mà phép biện chứng
đã mắc phải ở trong tay Hêghen tuyệt nhiên không ngăn cản Hêghen trở thành
người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức những hình thái vận
động chung của phép biện chứng. Ở Hêghen, phép biện chứng bị lộn ngược
đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái hạt nhân hợp lý
của nó ở đằng sau cái vỏ thần bí của nó”.
Có thể khẳng định rằng, lịch sử triết học nhân loại từ thời cổ đại cho đến
triết học cổ điển Đức, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng luôn có sự tách
rời nhau. Sự tách rời đó được gắn liền với các hình thức lịch sử phát triển của
chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng qua các thời kỳ từ cổ đại đến triết học
cổ điển Đức.
2. Triết học Mác là sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và
phương pháp luận biện chứng
2.1. Chủ nghĩa duy vật gắn với phép biện chứng trở thành chủ nghĩa
duy vật biện chứng
Quá trình nghiên cứa, bảo vệ, phát triển chủ nhĩa Mác, Lênin đã nhận

xét: cái hạt nhân làm nên tính khoa học và bản chất cách mạng của học
thuyết Mác, chủ nghĩa Mác chính là thế giới quan duy vật biện chứng của


C.Mác - cái thế giới quan mà với nó, ông đã cùng với Ph.Ăngghen xây
dựng nên học thuyết triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện
chứng thống nhất với nhau một cách hữu cơ thành một hệ thống chỉnh thể
- chủ nghĩa duy vật biện chứng, một hình thức mới, một giai đoạn phát
triển cao của chủ nghĩa duy vật triết học.
Khi xây dựng hệ thống triết học của mình với tư cách "linh hồn sống"
của một học thuyết cách mạng triệt để và khoa học thật sự, C.Mác không
chỉ kế thừa một cách có chọn lọc và phê phán những thành tựu của tư duy
nhân loại, những thành quả sáng tạo lý luận của các nhà triết học trong lịch
sử triết học nhân loại, trực tiếp nhất là phép biện chứng của Hêghen và chủ
nghĩa duy vật của Phoiơbắc, mà còn khái quát hóa những thành tựu mới
nhất của khoa học đương thời, cũng như thực tiễn lịch sử nhân loại mà
trước hết, là thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản toàn thế
giới. Do vậy, có thể nói, sự ra đời của triết học Mác là một tất yếu lịch
sử không những vì nó là sự phản ánh khách quan thực tiễn xã hội, mà còn
là sự phát triển hợp lôgíc của lịch sử tư tưởng nhân loại, đúng như Lênin đã
khẳng định, "lịch sử triết học và lịch sử khoa học xã hội" đã chứng tỏ một
cách hết sức rõ ràng rằng, chủ nghĩa Mác nói chung, triết học của ông nói
riêng "không có gì giống "chủ nghĩa bè phái" hiểu theo nghĩa một học
thuyết đóng kín và cứng nhắc, nảy sinh ở ngoài con đường phát triển vĩ đại
của văn minh thế giới" 1.
Triết học Mác ra đời đã khắc phục được sự tách rời thế giới quan duy
vật và phép biện chứng. Song, nó không phải là sự "lắp ghép" đơn thuần
phép biện chứng với đỉnh cao là phép biện chứng của Hêghen và chủ nghĩa
duy vật với đỉnh cao là chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc. Để xây dựng triết
học duy vật biện chứng, C.Mác đã phải tiến hành phê phán và cải tạo triệt

để phép biện chứng duy tâm của Hêghen và chủ nghĩa duy vật siêu hình
của Phoiơbắc, tạo ra một phương pháp tư duy biện chứng "không những
1

V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tập 23, tr 49


khác phương pháp của Hêghen về cơ bản, mà còn đối lập hẳn với phương
pháp ấy"1 và giải thoát chủ nghĩa duy vật khỏi tính hạn chế siêu hình vốn
có, tính hạn chế "đặc thù" của nó, làm cho nó trở nên "hoàn bị" và được mở
rộng "từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài
người", sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử với tư cách "thành tựu vĩ đại
nhất của tư tưởng khoa học" 2.
Chủ nghĩa duy vật khoa học, hoàn bị được thể hiện ở quan điểm duy
vật về thế giới và duy vật về xã hội. Đây là nội dung rất quan trọng để
khẳng định tính khoa học và hoàn bị của triết học Mác so với các hình thức
triết học trước đây trong lịch sử. Các loại hình triết học trước đây duy vật
trong lĩnh vực tự nhiên nhưng lại duy tâm khi nghiên cứu xã hội lịch sử.
Triết học Mác ra đời không chỉ duy vật trong lĩnh vực tự nhiên mà còn duy
vật khi nghiên cứu xã hội. Đó là cở sở để khẳng định tính chất duy vật triệt
để của triết học Mác. Quan niệm duy vật về thế giới được thể hiện thông
qua khẳng định thế giới này là thế giới vật chất, thế giới này thống nhất ở
tính vật chất, vật chất là thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý thức,
quyết định ý thức và được ý thức phản ánh. Như Mác-Ăngghen đã khẳng
định: “bản chất vật chất và tính thống nhất vật chất của thế giới được
chứng minh không phải bằng vài ba lời lẽ khéo léo của kẻ làm trò ảo thuật,
mà bằng một sự phát triển lâu dài, khó khăn của triết học và khoa học tự
nhiên”3.
Quá trình hình thành quan điểm duy vật về xã hội và cơ sở để hình thành
quan điểm duy vật về xã hội, Lênin viết: “Trong khi nghiên cứu sâu và phát

triển chủ nghĩa duy vật triết học, Mác đã đưa học thuyết đó tới chỗ hoàn bị và
mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã
hội loài người”4; “C.Mác và Ph.Ăngghen nhận thấy rằng, cũng như mọi hiện
1

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập 23, tr35
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tập 23, tr 53
3
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1994, tập 20, tr67
4
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tập 23, tr 53
2


tượng trong giới tự nhiên đều có nguyên nhân vật chất, sự phát triển của xã
hội loài người cũng do sự phát triển của lực lượng vật chất quyết định” 1. Vận
dụng quan điểm duy vật vào lĩnh vực xã hội, chủ nghĩa duy vật biện chứng
khẳng định xã hội là một bộ phận đặc thù của giới tự nhiên. Xã hội là sản
phẩm phát triển cao nhất và là một bộ phận đặc thù của giới tự nhiên. Sản
xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội; phương thức sản xuất quyết định
quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung; tồn tại xã hội
quyết định ý thức xã hội. Triết học Mác khẳng định, chỗ khác nhau căn bản
giữa con người với động vật là con người không chỉ dựa vào những cái đã có
sẵn trong tự nhiên mà bằng lao động sản xuất, tác đọng tích cực vào tự nhiên,
cải tạo tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất cho đời sống của mình.
Sản xuất vật chất trong từng giai đoạn lịch sử lại được tiến hành bằng
một phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất ấy quyết định sinh
hoạt xã hội, chính trị và tinh thần. Sự thay đổi phương thức sản xuất sớm
muộn sẽ làm thay đổi các mặt khác của đời sống xã hội. Trong quá trình tồn
tại và phát triển, con người không chỉ gắn liền với một phương thức sản xuất

nhất định, mà còn gắn với điều kiện tự nhiên, dân số và những điều kiện sinh
hoạt khác.
Tính triệt để và hoàn bị của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong triết học
Mác còn được thể hiện ở quan niệm sự phát triển của các hình thái kinh tế xã
hội là một quá trình lịch sử tự nhiên, ở vai trò của quần chúng nhân dân là chủ
thể chân chính sáng tạo ra lịch sử.
Trên cơ sở giải quyết một cách đúng đắn, thực sự khoa học "vấn đề cơ
bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại" - vấn đề quan
hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa vật chất và ý thức, C.Mác đã không chỉ xây
dựng nên một hệ thống triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật biện
chứng thống nhất với phép biện chứng duy vật thành một chỉnh thể, mà còn
1

V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, tập 2, tr 6


đưa ra tuyên ngôn của một nền triết học hành động, triết học thực tiễn, khi
khẳng định hoạt động của con người là "hoạt động khách quan", hoạt động
thực tiễn và "vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân
lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là
một vấn đề thực tiễn" và "chính trong thực tiễn mà con người phải chứng
minh chân lý, nghĩa là chứng minh tính hiện thực và sức mạnh, tính trần
tục của tư duy của mình" 1. Rằng, triết học phải lấy sinh khí của mình và tự
tạo ra sinh khí đó từ thực tiễn và do vậy vai trò xã hội của nó, vị trí không
thể thay thế của nó trong hệ thống tri thức khoa học, cũng như sứ mệnh lịch
sử lớn lao của nó trong đời sống nhân loại không phải là ở chỗ "giải
thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, mà là ở chỗ "cải tạo thế giới"
bằng cách mạng" 2.
2.2. Phép biện chứng gắn với chủ nghĩa duy vật trở thành phép biện
chứng duy vật

Kế thừa có chọn lọc những thành tựu của các nhà khoa học trước đó, dựa
trên cơ sở khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học thời ấy và thực
tiễn lịch sử loài cũng như thực tiễn xã hội, vào giữa thế kỉ XIX, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã sáng lập chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng
duy vật, về sau được Lênin phát triển vào đầu thế kỉ XX, đem lại cho phép
biện chứng một hình thức mới về chất. Đó là phép biện chứng duy vật.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy
vật và phương pháp luận biện chứng. Chính vì vậy, nó đã khắc phục được
những hạn chế của phép biện chứng chất phác thời cổ đại và những thiếu sót
của phép biện chứng duy tâm khách quan thời cận đại. Nó đã khái quát đúng
đắn những quy luật cơ bản chung nhất của sự vận động và phát triển của thế
giới. Phép biện chứng duy vật trở thành một khoa học.

1
2

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập 3, tr9-10
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập 3, tr12


Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những
nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh đúng
đắn hiện thực. Trong hệ thống đó, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và
nguyên lý về sự phát triển là hai nguyên lý khái quát nhất. Vì thế Ph.Ăngghen
đã định nghĩa: “phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những
quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội
loài người và của tư duy”.
Ở Hêghen, “phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất", C.Mác đã
"dựng nó lại" và bằng cách này, ông đã "phát hiện được cái hạt nhân hợp lý
của nó ở đằng sau lớp vỏ thần bí". Và, "dưới dạng hợp lý của nó", phép

biện chứng của C.Mác đã "đem lại sự giận dữ và kinh hoàng cho giai cấp
tư sản và bọn tư tưởng gia giáo điều của chúng", bởi "trong quan niệm tích
cực về cái hiện đang tồn tại", phép biện chứng ấy cũng đồng thời "bao hàm
cả quan niệm về sự phủ định cái hiện đang tồn tại đó, về sự diệt vong tất
yếu của nó"; bởi "mỗi hình thái đã hình thành" đều được nó xem xét "trong
sự vận động, tức là xét cả mặt nhất thời của hình thái đó"; và bởi, với phép
biện chứng ấy, không một cái gì khiến nó phải "khuất phục" và, "về thực
chất", nó mang "tính chất phê phán và cách mạng" 1.
Trên cơ sở khái quát những thành quả mới nhất của khoa học đương
thời và xác định đúng đắn những quy luật vận động và phát triển chung
nhất của thế giới, đồng thời phân định rõ và tìm ra sự thống nhất về cơ bản
giữa biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan, C.Mác không chỉ cải
tạo triệt để phép biện chứng duy tâm khách quan mà đỉnh cao là ở Hêghen,
mà còn khắc phục được những hạn chế vốn có của phép biện chứng tự phát
thời cổ đại mà Hêraclít là người sáng lập, làm cho phép biện chứng duy
vật trở thành một khoa học. Khoa học đó, như Ph.Ăngghen đã khẳng định,

1

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập 23, tr35-36


là "khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển
của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy" 2.
Khoa học triết học này không chỉ là thế giới quan khoa học của giai
cấp công nhân và nhân loại tiến bộ trong thời đại ngày nay, mà còn trở
thành một sự cần thiết tuyệt đối, thành "hình thức tư duy quan trọng nhất",
cao nhất, thích hợp nhất đối với sự phát triển của khoa học hiện đại. Nó
đem lại cho các khoa học hiện đại những chức năng có ý nghĩa phương
pháp luận trong việc xem xét, lý giải bản thân sự phát triển của mình. Không

chỉ thế, với bản chất cách mạng và khoa học, nó còn đem lại một cơ sở đúng
đắn cho việc luận chứng và giải thích những hiện tượng của đời sống xã hội,
nhất là cho việc "cải tạo thế giới" hiện thực. Nó cũng đem lại cho chúng ta
không chỉ quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển trong nhận thức, trong
hoạt động thực tiễn, mà cả quan điểm lịch sử - cụ thể khi xem xét, giải quyết
mọi vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa
duy vật, do Mác – Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau
đó được Lênin phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học
trước đó và vận dụng triệt để thành tựu của khoa học đương thời, chủ nghĩa
duy vật biện chứng, ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được những hạn chế
của chủ nghĩa duy vật chất phác cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ
XVII – XVIII và nó đã thể hiện được sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật
khoa học và phương pháp nhận thức khoa học. Chủ nghĩa duy vật biện chứng
không chỉ phản ánh đúng đắn hiện thực mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp
các lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực đó.
Triết học Mác kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của
tư duy nhân loại, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc xem xét
tự nhiên cũng như đời sống xã hội và tư duy con người. Trong triết học Mác,
lý luận duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng duy vật thống nhất
2

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập 20, tr201


hữu cơ với nhau. Sự thống nhất đó làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để
và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học. Nhờ đó, triết học Mác có khả
năng nhận thức đúng đắn tự nhiên, xã hội và tư duy. Phép biện chứng duy vật
không chỉ là lý luận về phương pháp mà còn là lý luận về thế giới quan. Hệ
thống quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng trở thành nhân tố định

hướng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn, trở thành những nguyên tắc xuất
phát điểm của phương pháp luận.
Triết học Mác còn được coi là hệ thống các nguyên lý, phạm trù, qui luật
cơ bản của phép biện chứng và sự vận dụng nó trong việc nghiên cứu lịch sử
và nghiên cứu con người. Cho nên triết học Mác còn được gọi là chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Sự hình thành và phát triển của phép biện chứng duy vật Mác đã bao
hàm sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận khoa học.
Sự hình thành những quan điểm duy vật lịch sử của triết học Mác được coi là
cơ sở lí luận về mặt thế giới quan duy vật và phương pháp luận khoa học để
nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu con người.
Như vậy, trong triết học Mác, thế giới quan duy vật và phương pháp luận
biện chứng thống nhất hữu cơ với nhau, làm cho triết học Mác trở thành chủ
nghĩa duy vật hoàn bị, một "công cụ nhận thức vĩ đại".
3. Ý nghĩa đối với vấn đề bảo vệ, phát triển triết học Mác – Lênin
hiện nay
Triết học Mác là một hệ thống mở và phát triển, chứ không phải là cái gì
đó nhất thành bất biến và do vậy, trong nó còn có những hạn chế nào đó cần
phải khắc phục, bổ sung, phát triển thêm thì đó cũng là lẽ tất yếu. C.Mác là
một nhà bác học vĩ đại, nhà tư tưởng thiên tài, nhưng ông cũng là “sản phẩm
của thời đại của mình” và do vậy, ông vẫn bị quy định bởi chính những điều
kiện lịch sử của thời đại mình nên không thể tránh khỏi những hạn chế nhất
định. Những hạn chế nào đó trong triết học Mác là do lịch sử thời đại quy


định, song chúng tuyệt nhiên không làm giảm giá trị thế giới quan và phương
pháp luận, giá trị gợi mở và định hướng cũng như bản chất cách mạng và tính
khoa học của nó.
Đặc điểm của thời đại hiện nay là sự tương tác giữa hai quá trình cách
mạng - cách mạng khoa học công nghệ và cách mạng xã hội, đã tạo nên sự

biến đổi rất năng động của đời sống xã hội. Trong điều kiện đó, quá trình tạo
ra những tiền đề của chủ nghĩa xã hội diễn ra trong các nước tư bản phát triển
được đẩy mạnh như một xu hướng khách quan. Sự ra đời của công ty cổ phần
từ cuối thế kỷ trước đã được Mác xem là "hình thái quá độ từ phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa" sang "phương thức sản xuất tập thể". Song, hiện
thực khách quan đó đã vượt khỏi giới hạn nhận thức chật hẹp của chủ nghĩa
giáo điều tồn tại trong một số người. Tính biện chứng của sự tiến hóa xã hội
diễn ra trong những mâu thuẫn và thông qua các mâu thuẫn của chủ nghĩa tư
bản cũng là một trong những nguồn gốc nảy sinh những khuynh hướng sai
lầm khác nhau, thậm chí đi tới "xét lại" trong phong trào cộng sản và công
nhân thế giới. Điều này đã được Lênin phân tích, chỉ rõ: Do không nắm vững
phép biện chứng duy vật, có những cá nhân hay nhóm người luôn phóng đại
khi thì đặc điểm này, khi thì đặc điểm nọ của sự phát triển tư bản chủ nghĩa;
khi thì "bài học" này, khi thì "bài học" nọ của sự phát triển ấy, thành lý thuyết
phiến diện, thành một hệ thống sách lược phiến diện.
Sự khủng khoảng của chủ nghĩa xã hội làm cho yêu cầu phát triển triết
học Mác - Lênin càng trở nên cấp bách. Thực tiễn cuộc đấu tranh bảo vệ
thành quả mà chủ nghĩa xã hội đã giành được, nhất là cuộc đấu tranh bảo vệ
đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội vượt qua thách thức to lớn hiện nay
và tiếp tục tiến lên, đòi hỏi các Đảng cộng sản phải nắm vững lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng. Trước hết
phải thấm nhuần thế giới quan duy vật và phép biện chứng khoa học của nó.


Hiện nay, ở các nước do Đảng cộng sản nắm quyền lãnh đạo đang thực
hiện quá trình đổi mới đã tạo ra một số thành công và gặp không ít thất bại.
Cả sự thành công và thất bại đó đều đòi hỏi phải kiên quyết đấu tranh chống
chủ nghĩa xét lại, khắc phục bệnh giáo điều trong việc vận dụng lý luận. Phải
biết tổng kết những thành tựu của khoa học hiện đại, khái quát sự phát triển
của lịch sử xã hội, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn qua công cuộc đổi mới để

bổ sung, hoàn thiện triết học Mác - Lênin. Chúng ta không thể đổi mới thành
công nếu xa rời lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, rơi vào chủ nghĩa xét
lại.
Như vậy, phát triển lý luận triết học Mác - Lênin và đổi mới chủ nghĩa xã
hội trong thực tiễn là một quá trình thống nhất, bởi vì "Thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin".
Sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện
chứng trong triết học Mác vẫn còn nguyên giá trị đối với việc bảo vệ, phát
triển triết học Mác – Lênin gắn liền với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
hiện nay. Bởi nó trang bị cho những người mácxít chân chính một thế giới
quan và phương pháp luận khoa học trong xem xét, đánh giá lịch sử một cách
trung thực và khoa học. Cách xem xét, đánh giá đó là cơ sở cho chúng ta nhận
định triết học Mác – Lênin ra đời là một tất yếu khách quan, phù hợp với quy
luật phát triển của lịch sử tư tưởng triết học nhân loại và là đỉnh cao của triết
học nhân loại với tính cách mạng, khoa học, sáng tạo, hoàn bị và triệt để nhất.
Đồng thời là cơ sở để chúng ta khẳng định bảo vệ, phát triển triết học Mác –
Lênin là một tất yếu khách quan hiện nay.
Bảo vệ, phát triển triết học Mác- Lênin là yêu cầu khách quan của phép
biện chứng duy vật và đòi hỏi bức thiết của thời đại. Đó không phải là xét lại,
phủ nhận triết học Mác- Lênin, mà là quá trình bổ sung, phát triển, làm sâu
sắc hơn, cao hơn và sống động hơn bản chất khoa học và cách mạng của nó.


Bảo vệ triết học Mác –Lênin phải đứng trên lập trường duy vật biện
chứng và sử dụng phương pháp biện chứng duy vật để xác định cần khẳng
định cái gì, bổ sung cái gì và phát triển cái gì trong triết học Mác-Lênin, đồng
thời, tránh xu hướng giáo điều, cơ hội nhằm lợi dụng đổi mới để di đến bác bỏ
triết học Mác-Lênin. Trên tinh thần đó, phương hướng bảo vệ, phát triển triết
học Mác-Lênin được thể hiện ở những điểm chủ yếu sau:
Một là, nhận thức sâu sắc, phát triển và hoàn thiện hệ thống các khái

niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật của phép biện chứng duy vật. Trong đó,
cần chú trọng quy luật mâu thuẫn nhất là việc phân loại mâu thuẫn trong đời
sống xã hội. Hiện nay, trong các tài liệu triết học còn tồn tại nhiều cách lý giải
rất khác nhau về mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng. Cần
chuẩn xác hoá định nghĩa về các cặp phạm trù, nhất là cặp phạm trù khả năng
và hiện thực. Hiện nay, trong các giáo trình triết học, việc định nghĩa các
phạm trù này cũng khác nhau, thậm chí còn mơ hồ, thiếu chính xác. Không
thể đồng ý với ý kiến cho rằng, khả năng là cái chưa có nhưng nó vẫn tồn tại
và sẽ trở thành hiện thực. Nếu như vậy thì làm sao cái "chưa có” lại tồn tại
được và nó tồn tại như thế nào? Làm thế nào để cái "chưa có" trở thành cái
"có" được? Cách lập luận như trên sẽ gây ra trạng thái mơ hồ trong nhận thức
và rất dễ đi đến chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo.
Hai là, nhận thức lại, bổ sung và phát triển các khái niệm, phạm trù
nguyên lý, quy luật của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời, vận dụng chúng
vào việc phân tích chủ nghĩa tư bản hiện đại và chủ nghĩa xã hội. Trước hết,
cần phải chuẩn xác hoá và làm sâu sắc một loạt vấn đề, như hình thái kinh tế xã hội (chú trọng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất), đấu tranh giai cấp (nhất là đấu tranh giai cấp của giai
cấp công nhân trong điều kiện hiện nay cách mạng xã hội, vấn đề nhà nước
(nhất là phạm trù Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong điều kiện hiện nay). Cần
bổ sung vào chủ nghĩa duy vật lịch sử một số phạm trù quan trọng như lợi


ích" với tư cách vừa là nguồn gốc, vừa là động lực của hoạt động người, “
khoa học và công nghệ, dân chủ hoá, văn hoá"... với tư cách những động lực
của sự phát triển xã hội và phạm trù "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa". Đồng thời, cần nhận thức sâu hơn về bản chất con người và xem xét
một cách toàn diện (các khía cạnh tâm - sinh lý, ý thức, tư tưởng, kinh tế,
chính trị, văn hoá, đạo đức...), vấn đề con người trong xã hội hiện đại.
Ba là, nhận thức lại chủ nghĩa xã hội về phương diện lý luận và về hiện
thực để tổng kết, rút ra những bài học có ý nghĩa lý luận, thực tiễn phục vụ

cho sự nghiệp cải cách, đổi mới chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là để vận dụng và
phát triển sáng tạo học thuyết Mác về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta và dự báo mô hình chủ nghĩa xã hội trong tương lai.
Như vậy, có thể nói bảo vệ, phát triển triết học Mác- Lênin, trước hết cần
phải chuẩn xác hoá các khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật của nó để
trên cơ sở đó, vận dụng và phát triển một cách sáng tạo vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam. Điều đó có nghĩa là làm cho bản chất khoa học và cách
mạng của triết học Mác-Lênin phát triển lên một trình độ cao hơn sâu sắc hơn
và sống động hơn.

KẾT LUẬN
Chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong lịch sử là những kho tàng
quý giá để lại cho thế giới loài người mà sau này Mác và Ăngghen là những
người kế tục hoàn hảo nhất để xây dựng một hệ thống triết học duy vật triệt
để, hoàn bị nhất trong lịch sử triết học nhân loại. Đặc biệt là duy vật Hy Lạp
cổ đại, duy vật Phoiơbắc và phép biện chứng của Hêghen. Hai ông nhiều lần


nói rằng, trong sự phát triển của mình, hai ông chịu ơn nhiều nhà triết học
Đức và là học trò của triết học Hy Lạp cổ đại.
Học tập nghiên cứu sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương
pháp luận biện chứng trong triết học Mác là hết sức cần thiết. Nó giúp ta nắm
vững phép biện chứng duy vật, thấu suốt những phương pháp luận đồng thời
nắm được nguồn gốc ra đời, hình thành, phát triển qua quá trình đấu tranh gay
gắt với chủ nghĩa duy tâm và các quan điểm siêu hình để khẳng định được vị
trí to lớn của nó trong nhận thức và cải tạo thế giới.
Hiện nay đất nước ta đang trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội,
việc nghiên cứu và nắm chắc sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và
phương pháp luận biện chứng trong triết học Mác là nhu cầu bức thiết để đổi
mới tư duy. Nghiên cứu từ lịch sử của nó cũng là một phương pháp biện

chứng trong nghiên cứu triết học. Đảng ta khẳng định nguyên tắc là phải
trung thành với Mác - Lênin, giữ đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, không
che giấu sai lầm và phải vận dụng sáng tạo phương pháp biện chứng Mácxít
để khắc phục những sai lầm xây dựng thành công nhà nước xã hội chủ nghĩa.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập 3
2. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập 20
3. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập 23
4. V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, tập 2
5. V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tập 23


6. Lịch sử triết học, PGS Vũ Ngọc Pha, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2004
7. Giáo trình triết học (Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh
không thuộc chuyên ngành triết học), Nxb Lý Luận Chính Trị, HN. 2006
8. Giới thiệu những vấn đề triết học trong một số tác phẩm của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Nxb QĐND năm 2008



×